
Người Thầy ‘Nhạc Trưởng’ (1960)
Trong cuộc đời làm cậu học trò tiểu học, tôi đã chứng kiến cảnh Thầy trò chia ly tràn đầy nước mắt trong cảm động xót xa. Hồi lên lớp Nhì Trường Tiểu học Vạn Ninh, chúng tôi có người Thầy rất đặc biệt, đó là Thầy Hà Thế Xuân người Huế. Thầy có cái đầu dẹp lép ở phía sau ót – có lẽ khi sinh ra Thầy chỉ quen nằm ngửa chăng (?). Cái đặc biệt của ông là mỗi buổi sáng trước khi vào lớp, các học trò đều phải sắp hàng chào cờ trước sân trường và đồng thanh hát bài quốc ca, trong khi đó ông làm một “nhạc trưởng”. Hai cánh tay ông đưa lên đưa xuống, tung ngang tung dọc một cách thật nhịp nhàng và đều đặn theo điệu nhạc cho đến khi bài quốc ca chấm dứt và lá cờ vàng đã vươn tới nóc đỉnh. Không biết Thầy dạy hay như thế nào mà tất cả học trò lớp Nhì đều rất thương Thầy còn hơn cha mẹ nữa!Một hôm nọ, Thầy Xuân được lệnh đổi về dạy ở Ninh Hoà. Thầy trò từ biệt nhau trong nước mắt, ai cũng muốn Thầy ở lại nhưng sau đó Thầy ra đi chẳng để lại dấu vết hay tin tức gì. Lúc đó chúng tôi chỉ mới học lớp Nhì nghĩa là còn nhỏ lắm, ở cái tuổi “hỉ mũi chưa sạch” nhưng không hiểu đứa nào xúi giục, cả lớp tìm ra được địa chỉ của Thầy rồi cuối tuần rủ nhau lập kế hoạch đạp xe đạp từ Vạn Giả vào Ninh Hoà thăm Thầy nhưng không cho Thầy biết. Có phải là gần đâu! Có đến hơn 30 cây số đường bộ men theo Quốc lộ 1 và phải băng qua hai cái đèo trời ạ!
Đèo thứ nhất là Đèo Xuân Tự (hay nói là cái Dốc thì đúng hơn thuộc Thôn Xuân Tự) và đèo thứ hai là Đèo Bánh Ít (ở gần Ninh Hoà). Đèo Xuân Tự thì băng qua cạnh núi Phổ Đà, chỉ cao lên một chút nhưng thẳng băng tương đối dễ đi và dễ tuột dốc, còn đèo Bánh Ít thì cao ơi là cao mà lại dài nữa nên đi lên thì chỉ có nước dắt bộ mà lúc xuống cũng phải coi chừng vì đèo ngoằn ngoèo uốn khúc, xổ dốc không khéo đứt phanh (đứt thắng) thì kể như…. đi đoong. Bữa nọ chúng tôi chuẩn bị cơm nước xong xuôi và vài gói quà biếu Thầy, mỗi đứa kiếm cho được một chiếc xe đạp, sau đó cả bọn ước chừng 30 đứa chuẩn bị đạp xe lên đường!

Từ Giã vào Ninh Hoà phải băng qua các thôn Xuân Tự, Xuân Vinh – Hà Dà, rồi đến Lạc An… Chúng tôi đạp một lèo đến Lạc An, nghỉ xả hơi một chút ăn cơm lót lòng rồi tiếp tục đi qua ngã ba Hòn Khói rồi vượt qua Đèo Bánh Ít để tiến tới thị trấn Ninh Hoà gần đúng ngọ. Sau đó phải tiếp tục đi mon theo quốc lộ 1 khoảng một hai cây số nữa mới cua phải quẹo lên làng Trường Châu, Xã Ninh Quang ở phía bên kia đường xe lửa mới gặp căn nhà nơi Thầy Xuân đang ở trọ để đi dạy học ở đây.Hôm đó may mắn vì cuối tuần nên Thầy Xuân nghỉ dạy ở nhà. Khi chúng tôi gõ cửa, Thầy mở cửa ra thấy một lô học trò cũ của mình từ Vạn Ninh vào một cách bất ngờ không thông báo trước, Thầy ngạc nhiên quá đổi. Cả Thầy lẫn trò cùng ôm nhau khóc, nước mắt ràn rụa, khung cảnh cảm động thật không bút nào tả xiết! Thầy thương trò vì tuổi thơ mà lặn lội đường xa đến thăm Thầy, trò thương Thầy vì cái nghĩa khí quốc gia mỗi buổi sáng chào cờ và những bài dạy thật hay trong lớp. Thầy thương học trò như thương con ruột của mình. Thầy chưa có gia đình nên rất nặng lòng với học trò và tổ quốc.
Bóng chiều đã bắt đầu ngã xuống phía Tây. Chúng tôi trao quà biếu Thầy xong rồi vội vã từ biệt Thầy để đạp xe về lại Giã trước khi màn đêm buông xuống. Vì chúng tôi đến thăm Thầy bất ngờ thiếu chuẩn bị nên Thầy chẳng có quà cáp gì tặng chúng tôi, Thầy đành lì xì cho mỗi đứa ít tiền để uống nước dọc đường. Thật vô cùng cảm động!
Ấy vậy mà trên đường đi về lại Lạc An, chúng tôi còn đứng lại nghỉ ngơi và bứt mấy cọng cỏ dại, mấy cành hoa mắc cở màu tim tím mọc bên đường làm niềm vui trên con đường đạp xe dài như thiên lý… Cả đi lẫn về hơn 60 cây số đường trường. Chúng tôi về tới nhà thì trời đã tối. Mẹ tôi hỏi “Con đi đâu mà về tối quá vậy?” – “Dạ! con đi thăm Thầy”. Bà vui vẻ hỏi han tự sự mới hay thằng con vừa làm một chuyến đi xa tới tận Ninh Hoà. Bà giật mình bảo “Thôi con đi ăn cơm đi kẻo tối”. Ngẫm lại, không hiểu sao ở cái tuổi thơ của chúng tôi thời đó mà lại có thể làm được một viêc quá sức tưởng tượng như vậy!? Hiện giờ Thầy Hà Thế Xuân ở VN còn sống hay chết chúng tôi cũng không biết nữa .
Người Thầy Nhân Trí (1968)
Hồi còn học đệ nhất ở Trường Võ Tánh Nha Trang, tôi rất quý Thầy Bùi Ngoạn Lạc vì Thầy là giáo sư Toán rất nổi tiếng ở miền Trung, dạy rất nhiều thế hệ học trò và đã từng ra sách toán đệ nhất cho các học sinh trung học. Cái may là tôi được học với Thầy (Đệ nhất B2/VT68). Lúc đó tôi chỉ biết có Thầy vì là một trong số học trò Thầy thương nhất và có nhiều kỷ niệm với Thầy nhất.
Hết năm đệ nhất xong Tú Tài 2 thì tôi xa Thầy để đi Saigon học nên không có dịp ở gần Thầy nữa. Về sau, khi tốt nghiệp Học Viện QGHC và được đổi về làm Phụ tá trông coi Ty Thuế Vụ Nha Trang năm 1973, tôi có dịp gặp lại Thầy. Ngày nọ, Thầy có dịp bán nhà nên cần đóng thuế trước bạ. Bất thần tôi gặp Thầy ở Ty Thuế Vụ. Lúc đó trông Thầy xanh xao lắm, đi đứng chậm chạp khó khăn, không còn sắc diện như hồi xưa nữa. Tôi nghĩ chắc Thầy bị bệnh nặng. Tôi cung kính đón Thầy vào văn phòng làm việc của tôi. Sau khi cho nhân viên trước bạ làm xong thủ tục đóng thuế cho Thầy, Thầy vui vẻ ngồi lại nói chuyện với tôi thật lâu và cho biết Thầy vừa trải qua một cơn bệnh thập tử nhất sinh! May có người học trò giỏi đã cứu Thầy!Qua cuộc nói chuyện, tôi thấy Thầy rất tin khoa tử vi và địa lý. Thầy kể cho tôi nghe mấy tháng trước, Thầy còn ở bệnh viện Grall Sài gòn để chữa trị một căn bệnh ngặt nghèo. Qua một thời gian khá lâu nằm tại bệnh viện nổi tiếng này, các bác sĩ nơi đây đành chịu bó tay không chữa nổi căn bệnh của Thầy nên khuyên Thầy về lại quê nhà là Nha Trang để tỉnh duỡng và chờ ngày… “ra đi” chớ không còn cách nào khác. Ngày còn lại Thầy nằm trong bệnh viện với nỗi tuyệt vọng tận cùng, không biết cách nào hơn đành chọn giải pháp về lại quê nhà dù sao cũng có vợ con bên cạnh. Hiền thê của Thầy là Cô BNL – Hiệu trưởng lâu đời của Trường Nữ Trung học Nha Trang yêu quý thân thương của hầu hết các nữ sinh Trung học.
Ngày nọ, đột nhiên Thầy thấy một cậu thanh niên trông rất khôi ngô tuấn tú bước lên cầu thang cạnh giường Thầy nằm để họp mặt với các bác sĩ chi đó, nơi đây anh chưa một lần bước qua. Bỗng dưng cậu thanh niên ấy dừng lại và nhận ra một gương mặt thật đặc biệt dường như anh đã quen ở đâu từ lâu lắm… Anh chợt nhớ ra bước lại gần ngước nhìn bệnh nhân và hỏi:
-Thưa Thầy, Thầy có phải là Thầy Bùi Ngoạn Lạc?
Thầy mệt mỏi gật đầu và hỏi:
-Cậu là ai? Sao lại biết tôi?
Người thanh niên sững sờ nhìn Thầy và nói:
-Thưa Thầy, con là học trò cũ của Thầy đây!
Thầy hỏi:
-Chớ cậu làm gì ở đây?
Người thanh niên đáp:
-Thưa Thầy, con là Hóa – Lê Văn Hóa. Con là học trò cũ của Thầy ở Trường Quốc Học Huế, hiện là bác sĩ du học ở Mỹ về, con giúp các bác sĩ ở đây học hỏi cách chữa trị các căn bệnh hiểm nghèo trong thời gian ngắn trước khi con về lại Mỹ.-Dạ khoảng 2 tuần nữa. Mà Thầy bị bệnh gì mà trông Thầy ốm o xanh xao quá vậy? Xin Thầy cho con biết!
Chính cái duyên may gặp gỡ hiếm có và kỳ diệu này, chỉ thoáng qua trong một tích tắc ngay tại cầu thang bệnh viện đã cứu sống được Thầy. Người học trò bác sĩ ấy sau đó đã tận tâm, chính tay anh chữa trị căn bệnh nan y của Thầy và trước khi từ giã Thầy để về lại Mỹ theo như chương trình dự định, anh đã căn dặn các bác sĩ ở bệnh viện Grall tiếp tục chữa trị cho Thầy đến khi căn bệnh dứt hẳn. Kết quả Thầy BNL đã lành bệnh và xuất viện về lại Nha Trang tiếp tục nghề dạy học. Người học trò đó chính là Bác sĩ Lê Văn Hoá, cựu học sinh Trường Quốc học Huế. Ông có hai bằng Tiến sĩ: Tiến sĩ Y khoa và Specialist. Hiện đã về hưu và sống tại Hoa kỳ.
Trong những dịp du lịch sang Mỹ, mỗi lần ghé San Jose, chúng tôi đều có đến thăm Thầy Cô BNL. Cả hai sống an vui khỏe mạnh với gia đình con cái Thầy và ái nữ của Thầy Cô là Bùi Trâm ở đây. Mỗi lần như vậy, Thầy thường hay nhắc đến câu chuyện này với lòng sung sướng mãn nguyện về người học trò giỏi dang đó. Cũng nhân dịp này, Thầy tặng cho tôi những thi tập Tư Nguyên (bút danh của Thầy lúc làm thơ) với những vần thơ Đường tuyệt tác mà giờ đây chúng tôi vẫn còn lưu giữ và học hỏi rất nhiều về lề luật làm thơ Đường của Thầy cũng như ý tứ. Mấy tháng trước đây, Thầy BNL đã từ giã cõi đời về đất Phật ở tuổi quá cửu tuần trong niềm thương yêu luyến tiếc của tất cả học trò . *
Người Thầy Quê cũ (1973/74)
Một câu chuyện khác cũng khá cảm động về tình Thầy trò trong thời gian tôi về làm việc tại Nha Trang năm 1973/74. Hôm ấy tôi có dịp đi giảng về sắc thuế mới Trị Giá Gia Tăng (Thuế VAT) cho các viên chức xã ấp và Hội đồng xã thuộc tỉnh Khánh Hòa tại Trung Tâm Tu Nghiệp NT. Các học viên hầu hết là những người lớn tuổi nay trở thành các viên chức xã trưởng, thôn trưởng, ấp trưởng, hội đồng xã v.v… từ các nơi trong tỉnh kéo về NT học. Họ chào đón tôi hết sức trịnh trọng như một vị khách quý mặc dù tôi còn khá trẻ! Trong lúc tôi đang thao thao bất tuyệt giảng về sắc thuế này, bỗng dưng đôi mắt tôi dán chặt vào một cụ già ngồi ở cuối bàn. Tự nhiên tôi nhận ngay ra ông Thầy già dạy tôi hồi còn học lớp Nhất ở Trường Tiểu học Vạn Ninh! Tôi giật mình ngưng giảng bài và tiến đến cuối bàn hỏi han mới biết đó đúng là Thầy Phong – người Thầy cũ dạy tôi hồi còn tiểu học. Lúc đó Thầy đã về hưu không còn dạy học nữa nhưng được dân chúng tín nhiệm bầu Thầy làm Hội đồng xã ở ngoài Vạn Ninh. Thầy trò ôm chầm lấy nhau sau mấy chục năm xa cách. Tôi xúc động đến phát khóc và lật đật mời Thầy lên bục giảng để tôi giới thiệu Thầy với tất cả học viên. Ai cũng ngạc nhiên hết, một cuộc trùng phùng kỳ lạ, hi hữu . Tôi hãnh diện có Thầy, Thầy hãnh diện có tôi – người học trò nhỏ đã thành công trên trường đời và nay thì đứng ở bục giảng với vị trí ngược lại. Sau đó tôi bỏ buổi giảng nửa chừng vì quá xúc động nên không thể tiếp tục được nữa, đành hoãn lại giờ sau. Bây giờ chắc Thầy đã qui tiên rồi. Tôi không còn bao giờ có cơ hội gặp lại Thầy nữa!Người Thầy Hoạ sĩ (1973/74)
Những năm dưới mái trường Võ Tánh NT, tôi thích nhất là môn vẽ. Vẽ cảnh thì tôi thích tranh của hoạ sĩ Văn An ở đường Độc Lập, vẽ tài tử xi nê thì tôi thích tranh vẽ quảng cáo ở Rạp Tân Tân và Minh Châu, còn tranh chân dung thì không ai qua mặt Thầy Võ Thành Điểm (thân phụ của hoạ sĩ Vy Vy). Cứ mỗi lần từ quê lên tỉnh học là tôi phải băng ngang nhà Thầy ở đường quốc lộ 1 (cạnh góc đường Trần Quý Cáp) xéo xéo với Ty Thông Tin để coi tranh của Thầy cho bằng được. Căn phòng khách của Thầy chứa đầy tranh ảnh mà tôi thích nhất là những tranh vẽ chân dung Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Đây là những bức chân dung tuyệt tác vẫn được các cơ quan chính phủ mua về treo ở công sở. Đặc biệt ở Ty Thông Tin NT có tấm hình thật to của TT Ngô Đ Diệm treo ở phía trước trông thật uy nghi trang trọng.
Một tối nọ (1973/74) tôi cũng có nhiệm vụ đi giảng thuế VAT cho dân ở khu vực Sinh Trung, Trường Tàu cũng ở quốc lộ 1. Chỗ này rất gần nhà Thầy Điểm. Vừa giảng xong thì cũng đã quá 9 giờ rưỡi tối, trong khi dân chúng ra về thì tôi thấy một người lớn tuổi tiến đến gần ôm chầm lấy tôi mà nói với ‘xếp’ Thuế vụ của tôi lúc bấy giờ là ông Trưởng Ty MXKiếm. Ông nói (xin ghi lại nguyên văn):
-Cậu nhỏ này là ai mà có tài hùng biện và nói năng ngon lành quá vậy? Kiểu này tôi phải nói với (thằng Thiệu) cất nhắc cậu này lên tới nơi tới chốn mới được!
Tôi hoảng hồn nhìn kỹ mới biết đó là Thầy VTĐiểm. Lúc đó Thầy mới cho biết Thầy cũng là Thầy của TT NVThiệu thời ông còn dạy học ở Bá Ninh. Tôi hoảng quá đành phải thú thật với Thầy:
-Dạ, con là học trò cũ của Thầy ở Trường Võ Tánh đây!
Thầy Điểm khoái quá cười ha hả và khoe với ‘xếp’ của tôi:
-Đó anh thấy chưa? Học trò Võ Tánh cậu nào cũng giỏi cả. Rán mà cất nhắc nó lên nhé!Chút tâm tình Thầy trò ngắn ngủi như vậy nhưng tình cảm thật sâu đậm. Thầy luôn nghĩ đến trò, muốn nó được tiến thân . Nay thì Thầy đã qua đời rồi để lại bao luyến tiếc trong lòng học trò cũ
Người Thầy – Kẻ sĩ thời đại (sau 4/1975)
Một trong những vị Thầy mà tôi hằng kính phục và ngưỡng mộ cái cung cách của Thầy như một kẻ sĩ thời đại sau khi đất nước tang hoang năm 1975, đó là Thầy Ngô Đức Diễm. Tôi học Thầy Diễm không chỉ ở Võ Tánh mà còn ở Trường Văn Hoá nữa (1965). Tôi vẫn còn nhớ Thầy có khuôn mặt đẹp trai, cái miệng cười chúm chím trông thật có duyên, tóc chải óng mượt với dáng dấp tầm thước, nước da trắng hồng trông bạch diện thư sinh với chiếc xe Suzuki màu đen là những nét quen thuộc.
Câu chuyện đời Thầy sau 1975 cũng đã nhiều lần chính Thầy nói ra rồi nên chúng tôi xin ghi lại đây như một bài học cho những người sa cơ thất thế mà vẫn còn giữ được tấm lòng trung trinh của một kẻ sĩ đối với đất nước. Trong lúc thời cuộc nhiễu nhương sau cơn quốc nạn 30/04/75 đã làm cho bao giá trị và đạo đức phải gục ngã, trò cũng như Thầy đều thấy mình lạc lõng trên chính đất nước là núm ruột mình, nhưng bị quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh. Ấy vậy mà từ nơi tăm tối, Thầy vẫn hiên ngang đứng lên như một tấm gương sáng cho người học trò mạt vận này noi theo. Thật hào hùng hết chỗ nói!
Một buổi sáng nọ tại bến xe đò Nha Trang/Ninh Hoà cạnh quốc lộ 1 ở phường Sinh Trung, trong khi dáo dác tìm đường về quê xứ Vạn, bỗng dưng trước mắt một hình ảnh lạ lùng đập vào mắt người viết như một tia lửa xẹt: Thầy Diễm đang đứng chất từng gánh hàng cho khách trên một chiếc xe đò chuẩn bị lăn bánh chạy ra Ninh Hoà! Thầy đang đóng vai của một ‘lơ xe’ Trời ạ! Tôi không tin ở mắt mình (!) Có phải là Thầy Diễm đây sao (?). Tôi vội rảo bước đến chiếc xe khác để tránh đôi mắt Thầy bắt gặp mà ngượng ngùng (tôi nghĩ vậy). Thầy đứng trên mui xe, cao như tầm cao của một kẻ sĩ “uy vũ bất năng khuất”! Về sau tôi nghe tin Thầy đã vượt biển ra đi ở ngoài Lương Sơn. Chắc có lẽ tháng năm làm ‘phu xe đò’ bất đắc dĩ để Thầy tìm đường vượt biển. Tôi hết sức phục Thầy và sẵn sàng chịu đựng những tai ách đổ xuống cuộc đời “Gặp thời thế thế thời phải thế!”. Bởi Thầy mà còn chịu những khổ đau như thế thì thân mình là học trò có làm Hàn Tín cũng đành cam. Qua đây, tôi biết Thầy không chịu đành lòng nhìn quê hương khổ đau nên vẫn tiếp tục dấn thân vào giấc mơ mưu cầu hạnh phúc cho dân tộc. Nhờ đó tôi biết Thầy qua bút danh Ngô Q Sĩ. Thầy quả đúng là một kẻ sĩ của đất nước! Thấy và gia đình hiện đang sống hạnh phúc ở San Jose Hoa kỳ .Người Thầy giáo “quèn” (1985)
Cuối cùng là cuộc hội ngộ bất ngờ với người Thầy già kính yêu thời đại học ở đất khách quê người năm 1985. Khi tôi qua Úc được mấy năm, một hôm nọ đi chợ ở shop Thanh Thế tại Brisbane mua ít đồ, bỗng nhiên tôi thấy một người lớn tuổi trông thật quen quen ăn mặc rất đơn sơ, dáng cao cao gấy gầy cũng đang đi shop mà tôi đã biết chắc ông là vị Thầy cũ của tôi. Nhưng để cho chắc ăn, tôi phải nhìn kỹ mặt ông cái đã. Tôi đi vòng bên phải để nhìn rồi vòng qua bên trái. Cuối cùng thì chắc cú 100% đó là ông Thầy của mình nên bước tới gần lên tiếng hỏi khẽ:
-Thưa Thầy, Thầy có phải là Giáo sư NKNhân ở Học Viện QGHC?
Ông già vẫn tỉnh bơ và có vẻ ‘joking’ như những ngày còn ở Học Viện. Ông đáp:
-Không! không phải! Chắc cậu nhầm người!.

Khi ấy ông Thầy già mới chịu nhận mình là cựu Giáo sư Học Viện QGHC. Năm ấy chúng tôi chỉ còn một ân sư QGHC duy nhất còn sống tại Úc: Đó chính là Giáo sư NKN. Thời gian sau Thầy dời về sống ở Sydney với vợ chồng người con gái (mà rể là Bs Trần Đình Hoàng). Mỗi lần có dịp đến Sydney, vợ chồng chúng tôi thường đến kính viếng thăm Thầy Cô khi ghé ngang thành phố này. Sau đó Thầy Cô đã vào sống ở viện dưỡng lão với tuổi quá bát tuần – một nơi tuy vẫn còn gần gũi với gia đình con cháu nhưng cũng đã “gần đất xa trời”. Và vài năm sau thì cả hai đều thác xuống suối vàng để lại bao tiếc thương cho môn sinh còn tại thế .
Giờ đây, ghi lại những dòng này như một cảm nhận những điều kỳ diệu giữa Thầy và trò mà mấy câu “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”. “Không Thầy đố mầy làm nên”, tinh thần “Tôn sư trọng đạo “ vẫn còn vang vọng trong trí óc, vẫn còn in sâu vào trong tâm khảm người học trò nhỏ này một cách thật xúc động, thân thương!
Đối với Quý Thầy Cô còn sống, chúng con xin hết lòng biết ơn Quý Thầy Cô đã dạy cho chúng con nên người. Đối với Quý Thầy Cô đã qua đời, chúng con xin được thắp lên nén nhang lòng để tưởng nhớ quý Ân sư một lần và mãi mãi .-
No comments:
Post a Comment