Kỷ Niệm Trường Chu Văn An
Và Những Biến Động
Kỷ Niệm Trường Chu Văn An
Trường Bưởi thành lập 1908, là trường trung hoc bảo hộ nổi tiếng ở Hà Nội thời kỳ Pháp thuộc. Đây là tiền thân trường Chu Văn An. Năm 1945, thời chính phủ Trần Trong Kim, trường Bưởi được đổi tên thành trường Chu Văn An (1292- 1370 ) , một danh nhân lịch sử, người Hà nội xưa, có học vị cao, sống liêm khiết, chuyên lo việc truyền bá văn hóa, giáo dục. Thời Vua Trần Minh Tông ( 1300- 1357) ông được mời vào dạy trong Quốc Tử Giám .
Thi hành hiệp định Geneve 1954 sau trận Điên Biên Phủ, chia đôi Việt Nam thành hai miền Nam Bắc , ranh giới là vĩ tuyến 17, trường Chu Văn An Hà nội, theo vận nước, đã chuyển vào Miền Nam Việt Nam thuộc Việt Nam Cộng Hòa. Và tên trường lưu giữ dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa đến 30-4-1975. ( Sau biến cố 1975, trường bị giải thể ).
Việt Nam Cộng Hòa đươc thành lập chính thức với cuôc trưng cầu dân ý 26-10-1955, thủ đô là Sài gòn, thời thủ tương Ngô Đình Diệm, trở thành Tổng Thống VNCH đầu tiên, chấm dứt nền quân chủ chuyên chế của nhà Nguyền, cai trị đất nước 153 năm từ thời vua Gia Long lên ngôi đến vua Bảo Đại cáo chung (1802-1955).
Thời kỳ đầu tại Miền Nam, trường Chu Văn An tạm đặt tai trường trung học Petrus Ký Sài gòn. Tổ chức chưa qui củ. Sĩ số học sinh không nhiều. Ban giám học và giáo sư day học chưa hoàn chỉnh. Vì vậy, it người biết hay quan tâm trường Chu Văn An. Trường chưa gây đươc tiếng vang dù đã có quá trình lich sử vẻ vang. Khi còn ở Hà nội trước năm 1954, nhiều cựu học sinh Chu Văn An, tốt nghiệp rồi tham chính khá nổi tiếng…..
Dưới thời đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa do Tổng Thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo , Bộ Giáo Duc đã bành trướng về giáo dục từ cấp Tiểu hoc, Trung hoc đến Đại học .
Thời đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa (VNCH),đồng hành với các lãnh vực khác, nền giáo dục được ưu tiên phát triển nhanh.
Trường Chu Văn An đã nhanh chóng cải tiến đáp ưng nhu cầu giáo dục. Năm 1961, trường được xây cất tại địa điểm mới là là đường Triêu Đà , gần khu Ngã Sáu, đại lộ Hồng Bàng, Chợ Lớn. Ngôi trường rất khang trang, rông rãi, đầy đủ phòng học, phòng thí nghiệm, sân chơi, nơi giữ xe. Ban giám học được tổ chức qui củ, và quí thầy dạy học được đào tạo chuyên nghiêp từ các trường đại học và đại hoc sư phạm Sài gòn. Sĩ số học sinh theo học tăng nhanh, rất đông, hàng ngàn học sinh. Học sinh thi nhập học và học sinh cũ đa số thuộc thành phần học sinh xuất sắc, giỏi hoặc trên trung bình. Kết quả các kỳ thi phổ thông toàn quốc từ trung học đệ nhất cấp ( lớp đệ tứ) đến tú tài phần toàn phần hay tú tài hai ( lớp đệ nhất) đều đỗ với tỉ số cao hơn nhiều trường đương thời. Sau tú tài 2, học sinh thi nhập học các phân khoa đại hoc hay chuyên nghiệp như y khoa, dươc khoa, luật khoa, kỹ thuật, kiến trúc, nông lâm súc, đại học sư phạm, quôc gia hành chánh kể cả lãnh vực quân sự, các quân trường và các quân binh chủng, cựu học sinh CVA đều hiện diện với tỉ số cao. Rất hãnh diện. Khi tốt nghiệp vào đời, phục vụ đất nước, họ đã làm nên sự nghiệp. Xứng danh kẻ sĩ :
“ Trong lăng miếu ra tài lương đống ,
Ngoài biên thùy rạch mũi can tương “
Vì vậy, các học sinh dang theo học tại trường CVA rât tự hào về ngôi trường mình đang theo học. Và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Ban Giám hoc nhà trường cùng quí thầy day có lương tâm, trach nhiệm và trình độ giáo dục chuyên nghiệp cao… Nhìn chung các bạn học đều chăm chỉ và giữ kỷ luật học đường xứng đáng với ngôi trường mình đang theo học với mục đích “ Hưng quốc An dân “ và đường lối giáo dục nhân bản “ Tiên học Lễ, hâu học Văn “ .
Sau khi tốt nghiệp trung học đệ nhất cấp ( đệ thất- đệ tứ) tại trường trung học công lâp Lý Thường Kiệt Gia đinh, tôi được chuyển đến trường CVA học tiếp đệ nhị cấp ( đệ tam-đệ nhất).
Tôi theo học trường Chu Văn An bắt đầu niên khóa 1962-1963, lớp đệ tam ban B, thuộc đệ nhị cấp theo tổ chức giáo dục lúc bấy giờ. Đối với tôi lúc đó, đây là niềm vui và vinh dự là hoc sinh Chu Văn An vì có ngôi trường bề thế, tổ chức qui củ, với ban giám học cũng như quí thầy dạy uy tín bậc nhât thủ đô Sài gòn.
Từ khi học Chu Văn An từ đệ tam đến đệ nhất, tốt nghiếp tú tài toàn phần, đến nay đã trên nửa thế kỷ, tôi còn nhớ tên một số thầy khả kính như thầy Trần Văn Việt, thầy Nguyễn Hữu Văn hiệu trưởng, thầy Lê văn Lâm, thầy Đào Văn Dương giám học, thầy Lãng tổng giám thi, học sinh quen goi tổng Lãng, thầy Nguyễn văn Hỗ giám thi khối B gồm các lớp ban B. Thầy Nguyễn Sâm dạy lý hóa, thầy Trần văn Mại, thầy Diễm Pháp văn, thầy Đào văn Dương, thầy Mậu toán, thấy Nguyễn Biển Thước viêt văn, thầy Nguyễn Ngọc Quỳnh vạn vật, viết phấn bảng rất đẹp… Và nhiều thầy, vì quá lâu và tuổi lớn không nhớ hết. Xin cáo lỗ quí thầy , không nhớ họ các thầy. Nhắc tên quí thầy như là kỷ niệm thời học sinh và cũng bày tỏ lòng tri ân quí ân sư mà tôi đã đươc thụ giáo thời thư sinh. Về bạn đồng môn từ đệ tam đến tốt nghiệp tú tài hai, đến nay tôi còn nhớ một số bạn học cùng lóp đã thành danh như Bs Nguyễn Phúc Thiện, Bs Hưng, Bs Tôn thất Châu và Bs Nguyễn hoàng Nguyên (?). Các bạn khác Phạm đăng Nữ, sĩ quan CSQG, bạn Đỗ trọng Hòa giáo sư trung học, bạn Trần Xuân Hòa kỹ sư Nông Lâm Súc, và Bùi Đức Hùng, Trần Việt Hùng , Trần Cảnh, v.. v.. Không biết bây giờ các bạn lưu lac phương trời nào ? Rất nhớ quí ân sư và quí bạn hoc đồng môn CVA.
Năm 1963, năm học đang tiếp tục thì ngoài xã hôi đó đây nổ ra các cuộc biều tình chống chính quyền tổng thống Ngô Đình Diệm. Lúc đầu biều tình nhỏ vài nơi. Sau lan rộng khắp nơi từ thủ đô đến nhiều thành thị miền Nam. Thành phần chủ động và tham gia bIều tình gồm các chính khách bất đồng với chính phủ, tuyên truyền lôi kéo theo giới trẻ sinh viên, học sinh với bản chất hiếu động và đông đảo đồng bào nghe theo tin rằng chính phủ độc tài và kỳ thị tôn giáo ?
Trong tình trạng chung bên ngoài thì học sinh Chu vắn An vẫn yên tâm học hành dường như it ai bàn tán hay vận động tham gia biều tình ? Chúng tôi vẫn đến trường học hành đều đăn , mỗi ngày như mọi ngày.
Nhưng vào một buổi mai hôm đó, bầu trời nắng đẹp, chúng tôi mới vào lớp và đang chờ giáo sư vào dạy thì nghe bên ngoài có tiếng ồn ào từ sân trường hay các lớp kế bên vọng lai. Các học sinh tò mò nhìn ngó thấy các lơp các bạn đứng ngồi không yên và bỗng nghe có tiếng hô lớn biểu tinh. Lúc đó lớp tôi chưa có ai bước ra khỏi cửa thì xuất hiện vài ba thanh niên không đồng phục học sinh, mặt mày giận giữ, và hô to ra hêt, biều tinh. Chưa ai biết ứng xử ra sao thì những người lạ này lập tức tung tro, cát khắp lớp và dùng gậy đập vỡ đèn, xô bàn ghế … hỗn loạn. Mọi người đành ra và nhập cuộc theo bản năng hiếu động của tuổi trẻ….
Cảnh trong sân trường hỗn loạn người chay ngược xuôi. Từ các tầng lầu người biều tình tiếp tục hè nhau khiêng bàn ghế ném tứ tung và xô xuống sân như cuộc hỗn chiến, không ai bảo ai…?
Gần hai giờ đồng hồ quần thảo trôi qua, học sinh hò hét ,la ó, quăng liệng bàn ghế thì lực lượng Cảnh Sát Dã Chiến từ ngoài vào được trong sân trường và cuộc xô sát ném gạch đá của học sinh vào Cảnh sát càng hỗn loạn thêm.. Và rốt cuộc trật tự được vãn hồi. Không khí trở nên yên lặng khác thường. Cảnh sát thanh lọc thành phần học sinh sau khi bắt ngồi thành hàng giữa sân trường. Những học sinh bình thường không có dấu hiệu phản kháng được chị dịnh ngồi tại chỗ. Những học sinh bị nhận diện hay khám xét bắt ngồi riêng. Trong số học sinh bị giữ riêng có học sinh nổi tiếng cho là hô hào, cầm đầu biểu tinh đó là Lê Văn Nuôi.
Đồng thời, tại thủ đô Sài gòn có nhiều cuộc biểu tình khác nhân danh Hoc sinh & Sinh viên . Người được báo chí nhắc tên nhiều và vận động xuống đường biểu tình là sinh viên y khoa Huỳnh Tấn Mẫm.
Về sau, những người hoạt động biểu tình này là ai ? Họ được “ ưu đãi “ ra sao, mọi người đều biết rõ sự thật rồi ?
Trật tự trong trường được vãn hồi hoàn toàn thì nhiều xe GMC đến chở toàn bộ hoc sinh tuy tham gia biểu tình nhưng không đặc biêt , đến tạm giam tại quân lao Gò Vấp. Sáng hôm sau, phụ huynh hoặc thân nhân mang giấy bảo lãnh do chính quyền địa phương cấp đến Quân Lao Gò Vấp lãnh con em về. Còn các học sinh bị giữ riêng, Cảnh sát đưa đi đâu không biết.
Thời gian sau đó không lâu, theo lệnh nhà trường, học sinh Chu Văn An đã trở lại trường và đi học bình thường. Không khí dinh hoạt học đường yên vui và sinh động thể hiện tinh thần hồn nhiên của tuổi thơ… Tiếp tục học đến tốt nghiệp học trình. Và, tôi từ giã mái trường thân yêu Chu Văn An năm 1965 sau khi thi đậu toàn phần rồi vào đại học.
Tôi vừa lược thuật khái quát cuộc biểu tình phản đối chính phủ của học sinh Chu Văn An năm 1963 như trên, đối với tôi và có lẽ cùng nhiều đồng môn đương thời, đó như một kỷ niệm khó quên của tuổi trẻ học trò áo trắng ? Khó quên vì tuổi trẻ bị lôi cuốn vào sinh hoạt xã hội bất ổn để rồi bị bắt tù, dù thời gian tạm giam ngắn đối với học sinh bình thường như chúng tôi . Khó quên vì cuộc biểu tình của đồng môn Chu Văn An đã góp chung vào dòng bạo động xã hội trở thành nguyên tố chính , tạo nên nhiều biến động cho đất nước từ sau khi nền đệ nhất VNCH 9 năm yên bình của chính phủ tổng thồng Ngô Đình Điệm bị cáo chung ?
Những Biến Động
Cuộc biến động nổi đình đám nhất đó là cuộc binh biến do Hôi Đồng Tướng lãnh quân đội, đứng đầu là trung tướng Dương Văn Minh chủ mưu với sự hỗ trợ tich cực của phe phái chính tri, tôn giáo, sinh viên học sinh và số đồng bào bất mãn đã lật đổ chính quyền tổng thồng Ngô Đình Diệm.
Đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa bị cáo chung từ thời điểm lich sử 1-11-1963..
Theo sử liệu và với nhãn quan khách quan, nền đệ nhất VNCH kéo dài 9 năm xây dựng và phát triển dưới sự lãnh đạo thời thống Ngô Đình Diệm, đất nước yên bình, phát triển kinh tế, văn hóa giáo dục, xã hội, ngoại giao … Đời sống người dân an ninh, ấm no, hạnh phúc .dân trí mở mang, con em học hành, tiểu hoc, trung học, đại học và chuyên nghiệp rộng mở , được miễn phí. Y tế phục vụ người dân cũng miễn phí. Và đặc biệt tiêu diệt hữu hiệu sự bành trướng của công sản với quốc sách ấp chiến lược … Thủ đô Sài gòn nổi danh là “ Hòn ngọc viễn đông “, không thua kém các nước lân bang vùng đông nam á.
Đệ nhị VNCH từ 1963, thời các tướng lãnh cầm quyền, các vị chính trị gia thay nhau lãnh đạo đất nước sau khi tổng thống Ngô Đình Diệm bị đảo chánh và hạ sát, tình hình quôc gia trở nên tồi tệ, bất ổn, phiêu lưu chính tri . Chỉ từ 1963 đến 1967 , dưới sự chỉ đạo của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, đã có nhiều chính trị gia xuất hiện, thay nhau thành lập chính phủ . Đầu tiên là thủ tường Nguyễn Ngọc Thơ, nguyên phó tống thống của tổng thống Ngô Đình Diệm, sau 3 tháng, thiếu tướng Nguyễn Khánh làm chỉnh lý nắm quyền thủ tướng, được 6 tháng trôi qua ông Nguyễn Xuân Oánh giữ quyền thủ tướng it ngaỳ rồi ông Trần Văn Hương và Bác sĩ Phan Huy Quát tiếp theo . Xã hội vẫn có biểu tình lẻ tẻ, ủng hộ, đả đảo, đời sống bị ảnh hưởng, giá sinh hoạt leo thang, đắt đỏ, Việt cộng pháo kich, đặt mìn nơi công cộng làm cho dân chúng bất an. Các chính phủ dân sự không thể vãn hồi tình trạng xã hội rối ren, ngày 19-6-1965, Hội Đồng Tướng Lãnh nhận trách nhiệm ổn định tình hình quôc gia tại hậu phương và tiền tuyến. Với danh xưng Uỷ Ban Lãnh Đạo quốc Gia , chủ tịch là trung tướng Nguyễn Văn Thiệu và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, gọi là Nội Các Chiến tranh, chủ tịch là thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ như thủ tướng chính phủ. Năm 1967, hiến pháp mới ra đời. Qua tổng tuyển cừ, phổ thông đầu phiếu, trung tướng Nguyễn Văn Thiệu trở thành tổng thống đệ nhị VNCH, phó tổng thống là thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, thủ tướng ông Trần Văn Hương . Năm sau đại tướng Trần Thiện Khiêm lên làm thủ tướng đến trung tuần tháng 4 – 1975 thoái vị . Vào giai đoạn dầu sôi, lửa bỏng cuối tháng 4 - 1975, còn thêm hai vị thủ tướng nữa, ông Nguyễn Bá Cẩn ( thủ tướng 19 ngày ) , tổng thống là cụ Trần Văn Hương sau khi tổng thống Thiệu bị áp lực từ chưc. Và ông Vũ Văn Mẫu ( thủ tướng 2 ngày ), thời tổng thống Dương văn Minh … đầu hàng . Việt Nam sang trang sử mới.
Đệ nhì VNCH, tình hình chính tri phiêu lưu, kinh tế bất ổn, xã hội xáo trộn là cơ hội thuận tiện, thừa nước đục thả câu của đối phương cộng sản Bắc Việt (CSBV) . Ngoài tiền tuyến, họ mở rộng mặt trận , cầm chân quân đội quôc gia, khắp 4 cùng chiến thuật, nhiều nơi vùng quê xa mât an ninh , ngày quốc gia đêm cộng sản, dân chúng bất an phải chạy về thành thị lánh nạn. Tử Bến Hải đến Mũi Cà Mau , nhiều tỉnh bị CSBV kiểm soát 80 % đến 90 % . Để úng phó tình hình an ninh, chính phủ phải ban hành lệnh động viên từng phần. Tại hâu phương, CSBV, xâm nhập cán bô nằm vùng, cài người vào đoàn thể chính trị, cơ quan công quyền , kể cả phủ tổng thống như vu Huỳnh văn Trong, Vũ ngọc Nhạ, cũng có những nhân vật là dân biểu quốc hội, hay giữ chức vụ hành chánh như tỉnh trưởng hoặc sư đoàn trong quân đội mà sau tháng 4- 1975 hiện nguyên hình là cộng sản ??
Tạo được nhiều lợi điểm tại Miền Nam, CSBV tưởng đã chin mùi nên đã lợi dụng hưu chiến Tết Mậu Thân 1968, mở tổng công kích Mậu Thân trên toàn Miền Nam, là điều tât nhiên để chiếm Miền Nam.
Nhưng họ đã lầm to, vì đồng minh Hoa Kỳ chưa rút khỏi Viêt Nam , vẫn yểm trợ chính quyền Viêt Nam Cộng Hòa (VNCH) Và quân đội VNCH vẫn còn hùng mạnh, đầy đủ quân dụng, vũ khí đạn dược , dư sức dẹp tan cuộc tổng công kich Mâu thân kéo dài một tháng chiến đấu , tiêu diệt hàng trăm ngàn bộ đội Bắc Việt. CSBV đã thất bại về quân sự Tết Mậu thân 68 và nhiều mặt trận lớn về sau như Bình Long, KonTum và Quảng tri, mùa hè đỏ lửa năm 1972….CSBV đều bỏ chạy .
Thất bại quân sự, nhưng về chính trị, CSBV thắng to vì gây được tiếng vang trên toàn thế giới , chứng tỏ họ đủ sức mạnh mở các mặt trận trên toàn lãnh thổ Miền Nam, và tuyên truyền rằng dân chúng miền Nam bât mãn nổi dậy lât đổ chính quyên quôc gia ? Đặc biệt là tạo ảnh hưởng mạnh vào chính trường Hoa Kỳ . Tại Hoa kỳ, nhiều cuộc biểu tình phản chiến rầm rộ, mạnh mẽ đòi chính phủ, quôc hội Hoa Kỳ sớm rút quân đôị Mỹ khỏi Miến Nam, cùng nghĩa không ủng hộ chính quyền và nhân dân VNCH nữa.
CSBV tiếp tục vận động quốc tế về chính trị, ngoại giao và sau cùng , chính phủ Hoa Kỳ chiu mở Hòa Đàm Paris 1973 hay Hiệp Định Ba lê 1973 về chấm dứt chiến tranh Viêt Nam. Thành phần tham dự gồm 4 phe Hoa kỳ, CSBV, VNCH và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam ( con cờ chính của CSBV dựng nên ).
Hiệp định Ba lê 1973 được ký kết ngày 27-03-1973 sau mật đàm của 2 phe là Hoa kỳ ( Kissinger ) và CSBV ( Lê Đức Thọ ) . VNCH không được tham khảo ý kiến ? Dù không đồng ý, VNCH vẫn bị ép ký tên . Hiệp định Paris 1973 là thắng lợi lớn cho CSBV . Và là thất bại cho VNCH. Theo nhận định khách quan, Hiệp định Paris 1973 như Bản án bức tử VNCH ?
Sau Hiệp định Paris 1973, ngày 28-03-19973, chính phủ Hoa kỳ hết trach nhiệm tại Việt Nam Cộng Hòa . Tiếp theo Mỹ rut quân , không viện trợ . VNCH phải đơn phương tự vệ với mọi phương diện thiếu thốn …. Tất nhiện hậu quả nghiêm trọng , vô tiền khoáng hậu cho VNCH không thể tránh được .
Ngày 30-04-1975, ngày đen tối nhất cho VNCH, tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng CSBV vô điều kiện. VNCH bị bức tứ từ Hiệp định Paris 1973. Tướng Văn Tiến Dũng của CSBV tuyên bố đây là Đại Thắng Mùa Xuân (1975) ? Thưc chất chỉ là cuộc chiến “ Bât chiến tự nhiên thành “ . Vì CSBV và VNCH không có mở giao chiến theo đúng qui luật chiến tranh mà chỉ là bỏ cuộc ?
Việt Nam thống nhât khởi sự trang sử mới …
LỜI KẾT
Mở lại trang sử cũ VNCH, chúng ta không thể không nhìn nhận rằng tinh thần tự do, dân chủ và nhân quyền nền đệ nhất VNCH còn quá non trẻ thời hậu chính thể quân chủ chuyên chế của Triều Nguyễn Gia Long , chưa thấm sâu vào tầng lớp dân chúng nên dễ bị lung lạc, lôi cuốn vào dòng sinh hoạt chính trị nặng tính khuynh tả nên dân quân miền nam đã để mất đệ nhất VNCH , tạo nên giai đoạn tiếp theo đất nước bị tình trang phiêu lưu chính trị để đối phương lợi dụng cơ hội gây bât ổn tại hậu phương, tiền tuyến, làm mất đồng minh và sau rốt VNCH bị tiêu diệt một cách đau thương, oan nghiệt và uất ức ?
Tiếc nuối ? Quá muộn màng. Vận nước đã an bài .
“Quôc gia hưng vong , thất phu hữu trách ?
Nhớ Nước đau lòng con “ Quốc Quốc “,
Thương nhà mỏi miệng , cái “ Gia Gia “.
( Bà Huyện Thanh Quan ).
Và, điểm lại kỷ niệm trường Chu Văn An thời còn theo học tuổi học trò, với các biến động liên tiếp, những người trẻ chúng tôi bấy giờ đã bị thế hệ cha anh hướng dẫn sai lạc nên đã vô tình bị cuốn theo dòng chảy sinh hoạt chính trị đương thời để góp phần dù nhỏ vào sự tiêu vong sinh mệnh quốc gia mà tưởng chừng mình làm nên việc lớn ích quốc, lợi dân ?
Ngày nay, Việt Nam đã thống nhất, không còn chiến tranh. Đồng bào việt Nam không phân biệt chính kiến hay tôn giáo, họ được hưởng lợi gì ?
Đất nước do đảng độc tài lãnh đạo. Xã hội suy đồi đạo đức, áp bức, bất công , bị mất chủ quyền…. Người dân thực sự được tôn trong tự do, dân chủ và nhân quyền chưa ? Đồng bào trong nước đã rõ rồi.
Và hơn 3 triệu người Việt quốc gia sống lưu vong tại các quốc gia tự do trên thế giới, mất tổ quôc, mất quê hương tự do, có bao giờ hồi tưởng những đóng góp của mình ngày xưa cho đất nước VNCH mà xót xa, ngậm ngùi, nuối tiếc , thương cảm u hoài như tâm trạng hoài cổ của người xưa :
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường ?
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương.
Và :
Ngàn năm gương cũ, soi kim cổ
Cảnh đó, người đây, luống đoạn trường.
( Bà Huyên Thanh Quan ).
chs CVA NGUYỄN THÁI HÙNG.