Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label TetMauThanHue. Show all posts
Showing posts with label TetMauThanHue. Show all posts

Tuesday, 4 June 2024

 MẬU THÂN 68 VẪN CHƯA NGUÔI VỚI NHÂN LOẠI./-Mt68

________________

Deadliest Year in Vietnam: The Tet Offensive | Animated History
Thanks to HelloFresh for sponsoring today's video. Go to https://strms.net/hellofresh_thearmchairhistorian, use my co

Wednesday, 7 June 2023

 VIỆT CỘNG THẢM SÁT ĐỒNG BÀO HUẾ, TẾT MẬU THÂN 1968./-Mt68

Tuesday, 28 March 2023

 TẾT MẬU THÂN 1968- VIỆT CỘNG THẢM SÁT ĐỒNG BÀO, QUÂN CÁN CHÍNH HUẾ./-Mt68

Sunday, 14 February 2021

 (Bài này đã được Tạp Chí Dân Văn sửa các lỗi chính tả. TCDV đề nghị dịch bài này ra tiếng ANH, ĐỨC, PHÁP, TÂY BAN NHA, NGA...  phổ biến rộng rãi khắp thế giới để mọi người trên hành tinh này thấy được tội ác kinh tởm của bọn người theo Cộng Sản)

 

Đi nhận xác Thầy

 


Kính dâng hương hồn các vị Giáo Sư Đức Quốc:

Giáo Sư Gunther Krainick và Phu Nhân:

-Thạc sĩ Y Khoa Đại Học Greifswald 1943

-Thạc sĩ Y Khoa Đại Học Freiburg    1951

-Giáo Sư Nhi Khoa Đại Học Freiburg 1954

-Giáo Sư Nhi Khoa Đại Học Y Khoa Huế

Giáo Sư Raymund Discher:

-Giáo Sư Bệnh Lý Nội Thương Đại Học Y Khoa Huế

-Trưởng Khu Bệnh Lý Nội Thương Đại Học Y Khoa Huế

Bác Sĩ Alterkoster:

-Phụ Tá Giáo Sư Bệnh Lý Nội Thương

-Bác Sĩ thường trú khu Truyền Nhiểm

...là những vị đã đóng góp công lao và tâm trí rất nhiều vào việc khai sáng Đại Học Y Khoa Huế...

Những vị, với lương tâm chức nghiệp cao quí và lòng vị tha vô bờ đối với bệnh nhân, đã mãi là gương sáng của chúng tôi.

Những vị đã bỏ mình nơi quê người vì tâm hồn bác ái và tình nhân loại (Tết Mậu Thân 1968)

Lần giở những trang trân trọng đầu tiên của cuốn luận án Y Khoa; nhìn tên, tước vị của các Giáo Sư người Đức, bỗng nhiên tôi thấy lòng bồi hồi dâng lên niềm đau xót vô vàn với những tiếc nuối khôn nguôi. Những thương yêu, kính mến, với biết bao kỷ niệm và lòng tri ân với các vị; đã vì thiện tâm, chấp nhận hy sinh, xa gia đình, xa bạn bè, xa tổ quốc thân yêu, để đem sở học và nguyện ước của mình, đi truyền rao để khai hóa tận một xứ sở kém mở mang, xa xôi hẻo lánh, đầy dẫy hiểm nguy, ở tận bên kia bờ Đại Dương. Ước nguyện của quí vị thật dễ thương và hiền hòa là làm sao tạo dựng những bác sĩ Y Khoa tài năng, để đem sở học phục vụ bệnh nhân, phục vụ con người, phục vụ Y đạo ở ngay xứ sở họ.

Thế nhưng, những hy sinh cao quí, từ những con người nhân ái đó, đã bị trả một giá quá đắt - bằng chính mạng sống của họ - bởi những tên cộng phỉ xâm lược man rợ đầy thú tính từ phương bắc; đã lạnh lùng và tàn nhẫn ra lệnh thủ tiêu họ, không một chút tiếc thương, trong biến động do chính bọn chúng gây ra, trong lần bọn xâm lược này tấn công xâm chiếm cố đô Huế; trong dịp Tết Mậu Thân 1968.

Hạ tuần tháng 4, năm 1968.

Khoảng gần hai tháng, sau Tết Mậu Thân, cố đô Huế đã được Quân Đội VNCH tái chiếm (25 tháng 2 – 1968 dựng lại cờ tại kỳ đài chính của cố đô Huế)

Huế, sau những ngày bị bọn quỉ đỏ tràn ngập, đã nhuộm máu đào tang thương và đẫm nước mắt khóc than!

Không có phường nào, xã nào, không có xóm nào, không có gia đình nào, là không có người thân ngã gục, cha xa con, vợ mất chồng hoặc bằng viên đạn, hoặc bằng con dao, hoặc bằng cán cuốc...Có hàng loạt ngưòi bị chôn sống, sau khi bị cột thành từng “xâu người”, nối kết lại bằng dây dừa, dây điện thoại...

-Nào Phú Thứ oán khí ngất trời, với tiếng khóc và màu tang phủ trắng cánh đồng!

-Nào chùa Áo Vàng (Tăng Quang Tự), nào lăng Tự Đức.

-Nào Trung Học Gia Hội, với hầm chôn tập thể, nơi mà trường học biến thành lò sát sinh, nơi mà bọn súc sinh “ phản sư diệt tổ ” Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Thị Đoan Trinh, Nguyễn Đóa, Tôn Thất Dương Tiềm, Tống Hoàng Nguyên, Hoàng Lan, Nguyễn Thiết, Nguyễn Bé, Nguyễn Hữu Vấn, Trần Văn Linh, Lê Văn Hảo ( Chủ Tịch của “cái-gọi-là” Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ và Hoà Bình tại Huế),   Thích Đôn Hậu,  Thích Trí Tịnh,  Thích Thiện Siêu ,  Thích Trí  Quang …


Tất cả những tên ác thú này đã chứng tỏ bản chất khát máu, man rợ, đê hèn, tiểu nhân của bọn cộng phỉ để chôn sống hàng loạt con người bằng xương bằng thịt với nỗi đau kinh khiếp, rợn người mà oán khí chất ngất của họ chắc chắn sẽ đời đời theo níu chân bọn chúng và gia đình mà đòi món nợ xưong máu ngút trời này!

-Nào Khe Đá Mài, Bãi Dâu, Tây Lộc..., mà mỗi địa danh là một chứng tích không thể chối cãi về những tội ác man rợ, kinh khiếp đến rợn người, gây ra bởi loài quỉ đỏ cộng phỉ uống máu người không biết tanh !


Huế tang thương lầy lội

Huế rách như xơ mướp!

Huế tiêu điều với tường xiêu, mái đổ

Huế với thép gai giăng mắc

Huế như mặt kẻ bị đậu mùa!!

Huế với B40, với AK47, với CKC báng đỏ,

Huế đầy nước mắt với khăn tang,

Máu đỏ tanh hôi chảy ngập đàng,

Hoa cúc, mai vàng sau chẳng thấy?

Chỉ còn hoang lạnh với ly tan ?!!

Các nạn nhân vô tội đã bị bọn sát nhân khát máu mang ra sau chùa bắn theo kiểu hành quyết KGB với một viên đạn vào đầu. Thiếu Tá Từ Tôn Khoáng thì bị bọn chúng ra lệnh bắn nát thây với hơn 200 viên đạn vào người!

Sở dĩ tìm được các xác chết tại khe Đá Mài là do oan hồn của một thanh nữ Phật Tử bị bọn ác thú việt cộng thủ tiêu để diệt khẩu, đã chết oan uổng, tức tưởi, nên đã hiển linh về báo mộng cho mẹ đi tìm xác và đưa đẩy bà mẹ này đến khe Đá Mài.

Trong cái cảnh hỗn mang ấy, tôi đi giữa kinh thành Huế tang thương, đổ vỡ, lạc lõng, bơ vơ, không định hướng như bị mộng du. Tôi đi mà lòng ngậm ngùi thương tiếc như lạc mất người yêu xưa! Tôi đi, nhìn, nghe, phân vân, bồng bềnh như đang sống trong một cơn ác mộng khủng khiếp!

Bỗng tôi hoảng hồn vì tiếng Vespa rít lên bên cạnh, đồng thời với cái vỗ vai làm tôi giật bắn người:

-Đã biết tin gì chưa?

Tôi định thần nhìn lại, thì ra Đặng Ngọc Hồ, tôi hỏi.

-Tin gì mà có vẻ gấp rút thế?

-Tìm thấy xác của các thầy Krainick, Discher, Alterkoster và cả xác bà Krainick nữa!

-Trời ơi, có chắc không, ở đâu?

-Nghe đâu gần chuà Tường Vân, phía trên giốc Nam Giao. Rồi Hồ nói luôn:

-Ban đầu dân họ tưởng người Mỹ, họ báo với tiểu khu. Tiểu khu liên lạc với Lãnh Sự Mỹ, thì được biết phía Mỹ tuy có thiệt hại khá nhiều, nhưng không có mất tích. Sau liên lạc với viện Đại Học mình và với Lãnh Sự Quán Tây Đức thì biết Đức bị mất tích 4 công dân: 3 nam và 1 nữ. Bây giờ thì hoàn toàn trùng khớp.

Tôi chưa kịp đình thần, thì trong tiếng còi inh ỏi, đã trông thấy Bùi Hữu Út xuất hiện như một cơn lốc trên chiếc xe gắn máy, lạng và thắng nhanh như chớp! Tôi và Hồ vừa vội vàng nhảy tránh cú lạng vừa nói cho Út biết... Đằng xa lại thấy Lê Đình Thiềng, chở Nguyễn Quang trờ tới...

Bọn tôi, vội vàng làm cuộc họp “bỏ túi” trên lề đường Trần Hưng Đạo, gần Chi Thông Tin ở chân múi cầu Trường Tiền, bay giờ đã gãy một nhịp do đạn pháo kích của bọn cộng phỉ xâm lược từ phương bắc – vết ô nhục do đoàn cán binh cộng phỉ bắc việt để lại, khắc một vết nhơ sâu đậm trong lòng người dân xứ Huế có lẽ đến muôn đời sau.

Khi đó vào khoảng mười giờ sáng, cái lạnh của những ngày đầu Xuân len lén như dao cắt vào da thịt, lại thêm cái nắng quái của ngày Xuân, sao hôm nay lại khác thường, nó nhợt nhạt, vàng vàng, tai tái như da của một xác chết. Nó như bàng bạc mùi tử khí của một thành phố đang ung mủ, đã có lắm người chết oan khiên uất hận; chúng tôi chợt nghĩ đến các thầy và thương quá là thương.

Tôi đề nghị anh Hồ qua tiểu khu hỏi lại tình hình an ninh vùng đó đã ổn chưa, rồi sau đó, chúng tôi lên xe, chở nhau, nhắm vùng Nam Giao trực chỉ.

Một hồi sau, Tiểu Khu cho một tiểu đội, trên chiếc xe Dodge, với vũ khí đầy đủ đi mở đường, nhắm hướng vùng chùa Tường Vân. Anh Thiếu Úy bảo bọn tôi ngồi chờ ở ngã ba đường Nam Giao, ngã rẽ vào chùa Tưòng Vân để chờ họ báo tin. Khoảng nửa giờ sau, viên sĩ quan trở lại bảo tình hình an ninh an toàn, ụ không có mìn bẫy và hiện tiểu đội ông vẫn bám sát địa hình. 

Đột nhiên ông buồn bã, ngậm ngùi nói:

-Quân tôi, cùng một số dân trong xóm, đang đào đất, thấy nhô lên bốn cái đầu tóc, trong đó có một đầu tóc màu bạch kim. Thật tội nghiệp quá!

Bọn tôi nhìn nhau thở dài:

-Chắc là thầy Discher rồi!

 

Mái tóc màu bạch kim, hơi dợn sóng của người thầy tài ba thưong mến học trò, xem học trò như con, không ngừng ám ảnh tâm hồn chúng tôi đến xót xa.

Bọn tôi cám ơn viên Sĩ Quan và tất cả lên xe, nhắm hướng chùa Tường Vân trực chỉ.

Chùa Tưòng Vân nằm về hưóng tây nam núi Ngự Bình (hưóng Nam Giao, từ phố đi lên), đi quá chùa Sư Nữ một quãng xa thì rẽ phải, con đường mòn đất đỏ, thoai thoải dốc với nhiều ổ gà và nhiều bụi rậm.

Ngôi chùa với mái rêu phong, cổ kính, chung quanh sân rộng là những ngọn trúc la đà. Ở giữa là ngọn giả sơn Ngư Tiều Canh Độc. Xa xa, về phía dưói ruộng là hàng tre bao phủ, xanh ngắt một màu, xen kẽ mấy cây lồ ô, thân vàng có sọc xanh, dịu dàng lay động trứoc gió. Cảnh chùa tuy đẹp, nhưng bọn tôi không còn lòng dạ nào thưởng ngoạn khung cảnh nên thơ!

Vừa xuống xe tại sân chùa, đã nghe tiếng cuốc xẻng và thấy vài người dân địa phưong tụm năm tụm ba, cùng một vài anh em quân nhân đang xúm xít đào bới tận bờ hào tre, cách sân chùa khoảng 200 mét. Bọn tôi vội vàng chạy lại:

-Tội quá các anh ôi, 3 ông, 1 bà. Tất cả đều bị bắn giống nhau. Tụi việt cộng thật quá dã man, tán ác! Tiếng một quân nhân phát biểu.

"... Trong chiếc hầm chật hẹp đó, 4 ngưòi ngoại quốc đều bị trói thúc ké, hai tay bị bẻ quặt ra sau lưng, bị siết chặt bằng giây điện thoại truyền tin..."

Tôi vội vàng nhìn theo tay anh chỉ, thấy ba quân nhân đang cùng một vài ngưòi dân, tay cuốc, tay xẻng, nhẹ nhàng xúc đất và cát lên từ một chiếc hầm đào vội; bề dài khoảng 3.0m, bề ngang khoảng 1.0m và bề cao khoảng 1.0m, vừa đủ cho thế quì thẳng đứng của một ngưòi ngoại quốc! Trong chiếc hầm chật hẹp đó, 4 ngưòi ngoại quốc đều bị trói thúc ké, hai tay bị bẻ quặt ra sau lưng, bị siết chặt bằng giây điện thoại truyền tin.

Nhìn mặt họ đều bị biến dạng thê thảm. Thái dưong trái là lỗ đạn vào, thái dưong phải là lỗ đạn ra, nên bị phá ra toang hoác; mắt lồi hẳn ra ngoài! Đưòng đi ngọt xớt của viên đạn do chính kẻ luôn luôn miệng trơ trẽn và lố bịch rêu rao lấy lượng khoan hồng và nhân đạo làm nền tảng để xử thế, đã làm méo mó, biến dạng những khuôn mặt hiền hoà của các vị thầy chúng ta.

Các Thầy đã “được giải phóng” bởi những tên tay sai man rợ ác ôn của cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam của bọn Bắc Bộ Phủ dựng nên ! Chúng đã đang tâm đi “giải phóng” những con ngưòi chỉ biết đem tình thương và lòng nhân ái ra cứu chữa cho mọi ngưòi bệnh tật, nghèo đói…

Sau đó, chúng tôi cùng nhau, người một tay phụ giúp anh em chuyển xác quí thầy lên xe của tiểu khu và đưa vào nhà xác của Bệnh Viện Trung Ương Huế.

Cả thành phố Huế xôn xao, cả bệnh viện xôn xao! Nhiều ngưòi đã khóc nức nở. Có nhiều tiếng khóc thầm lặng ở khu nội thương, phòng cấp cứu, khu truyền nhiễm, khu nhi đồng…

 

  -Ôi, còn đâu nữa vị Bác Sĩ trưởng đoàn, luống tuổi, hồn nhiên, thương yêu sinh viên, đã luôn luôn tận tụy trong bài giảng, trong lâm sàn, suốt đêm ngày khám bệnh ở khu Nhi Đồng. Thân mật với sinh viên, vui đùa, xem như con; chúng tôi thưòng gọi ông là Bon Papa.

Có lần, trong khi chuông reo, chờ giáo sư đổi giờ vào giảng, chúng tôi thuờng nghịch ngợm “câu giờ”; mặc dầu chuông reo, nhưng chưa chịu vào lớp. Tôi cùng Lê văn Mộ, Trần Xuân Thắng, Hoàng Thế Định…đứng cheo leo trên mép thành cửa sổ lầu hai, nói chuyện phiếm. Ông đi lại nhắc nhở:

-C’est l’heure!

Chúng tôi giả bộ không nghe, ông vội trờ tới, nheo mắt, lo lắng mỉm cưòi nói:

  -N’avez vous pas peur de tomber du ciel?

Tôi làm bộ sắp rơi từ cửa sổ đáp:

  -Si, mais je veux voler dans le ciel plein de beaux nuages, mon bon papa.

Ông vội vàng chạy lại, hai tay nhẹ nhàng nhấc bổng tôi lên, đặt xuống sàn nhà, hào hển nói:

-Oh, Il faut faire attention, mon pauvre enfant!

Bọn chúng tôi cười sảng khoái vì câu đựoc giờ, ù chạy vào phòng học. Bon Papa mệt nhọc theo sau!

Còn đâu những kỷ niệm êm đềm bên ngưòi Thầy yêu quí, ngưòi đã đem hết cuộc đời tận tuỵ để phụng sự khoa học. Lẽ ra Thầy phải về nước dưõng bệnh một thời gian, sau khi bị cơn bệnh “Japanese Encephalitis” vật vã một thời, tưỏng như gần “đi đứt”. Tuy nhien ông đã ở lại vào dịp Tết Mậu Thân nghiệt ngã và bọn quỉ đỏ đã bắt Thầy cùng vị phu nhân can đảm, yêu thưong chồng, xin được đi theo để chăm sóc chồng cho đến ngày cuối cuộc đời thì Bà cũng bị xử bắn luôn!

Xin vĩnh biệt thầy cùng phu nhân.

Nguyện cầu Thầy cùng phu nhân thanh bình trong cõi vĩnh hằng, ở nơi không còn hận thù, ở nơi mà bọn quỉ đỏ phải lánh xa.

-Ôi, còn đâu nữa, Bác Sĩ Raymund Discher - ngưòi BS trẻ tuổi, điềm đạm và trầm tĩnh, vui tính và nhân hậu nhưng nghiêm khắc, ngày đêm ở khu truyền nhiễm, với tương lai đang rực sáng, Nhớ lại những “Family Party” thầy và cô thỉnh thoảng mở ra, mời sinh viên một vài lớp đến dự trong căn apartment nhỏ ấm cúng, bên bờ sông Bến Ngự. Thầy và cô hạnh phúc bên nhau như đôi vợ chồng mới cưói, thức ăn nhẹ, ruợu chát đỏ, vừa chuyện trò với đám sinh viên và nghe những tấu khúc bất hủ của Mozart trong không gian của buổi chiều đang tắt nắng, chỉ còn lại ánh đèn vàng của gian phòng ấm cúng… Hạnh phúc của thầy cô bình yên và miên viễn đến chừng nào.

Tuy nhiên định mệnh năm Mậu Thân đã khắc nghiệt cướp đi mạng sống của người chồng tài hoa. Thầy vừa mới đưa vợ về nước, và đáng lẽ thầy còn được nghỉ, mọi ngưòi đều khuyên nên ở lại, nói tình hình ngoài Huế không an ninh, nhưng thầy lại tìm đủ mọi cách ra Huế để giảng dạy sinh viên cho kịp thời khoá biểu riêng mà thầy đã lập sẵn!

Bọn quỉ đỏ đã nhẫn tâm hành quyết thầy bằng viên đạn xuyên thái dương đầy thù hận!

Nguyện cầu linh hồn Bác Sĩ Raymund Discher sẽ mãi mãi bình yên ở chốn vĩnh hằng.

-Ôi, còn đâu nữa Bác Sĩ Alterkoster, ngưòi Bác Sỉ trẻ tuổi, đẹp trai, tận tâm ở khu truyền nhiễm. Alterkoster với bộ râu quai nón đầy vẻ giang hồ của một tay hải tặc khí phách “Le Viking”, đôi mắt xanh biếc ánh lên nét thông minh và nhân từ; nhìn chung rất lôi cuốn và nhất định phải là một “good guy”. Alterkoster rất thân mật và hoà đồng với sinh viên, ông thưòng rủ sinh viên lên Kim Long, Thiên Mụ ăn chè, ăn bánh bèo … Tướng ông rất tốt, xem qua không thể chết yểu được, ngờ đâu lại bại dưới tay “sát thủ” của đảng và bác!

Nguyện cầu BS. Alterkoster sẽ mãi mãi ở nơi chốn Thiên Đàng.

Tối hôm đó, chúng tôi, hầu như tất cả các sinh viên Y khoa còn tại Huế, đều tề tựu đến bệnh viện trung ưong. Từ Đại Học Xá Nam Giao, trung tâm Xavier, trường Nữ Hộ Sinh Quốc Gia, Cán Sự Y Tế... các bạn ở mọi nơi trong thành phố, lần lượt biết tin, tập trung tại phòng trực bệnh viện để phân chia công việc và trực xác quí thầy, đang tạm quàn tại nhà xác bệnh viện.

Mờ sáng hôm sau, quan tài quí thầy được đưa lên quàn tại Toà Viện Trưỏng Viện Đại Học Huế.

Sinh viên Y khoa chúng tôi, quần sẫm, áo chemise trắng dài tay, cravat đen; nghiêm trang vòng tay đứng thành hai hàng, trực bên quan tài quí thầy. Những tràng hoa phúng điếu rải rác của các Toà Lãnh Sự, các Trưòng, các Hội Đoàn, Đoàn Thể, các Phân Khoa bạn...

Đức Tổng Giám Mục Địa Phận Huế  Nguyễn Kim Điền chủ tế.

Không khí lắng đọng, cảm xúc và trang nghiêm. Mắt mọi ngưòi đều rưng rưng, tiếng máy quay phim đều đều, âm thanh trầm buồn như lời nguyện cầu. Đột nhiên, có tiếng thổn thức ở phía cửa chính, mọi ngưòi xôn xao nhìn ra; nhiều ống kính hưóng theo, ánh sáng máy ảnh lập loè: Một thiếu nữ, trong bộ đồ đen tuyền, khăn tang trắng bịt ngang đầu, nức nở lảo đảo tiến vào; hai tay ôm chặt vòng hoa tím – Couronne Mortuaire – kết cườm đen có đính dãi băng màu tím với giòng chữ trắng “To You With All My Sacred And Humble Love” Đức Tổng Giám Mục lặng lẽ nhìn, nét mặt ngài dịu đi. Mọi ngưòi xúc động bàng hoàng cùng với nhiều tiếng nức nở. Ai đây? Ngưòi thiếu nữ nhẹ đặt vòng hoa trước linh cữu của BS. Alterkoster rồi phủ phục xuống, ôm quan tài khóc nức nở!

Mắt tôi mờ đi, cảm xúc đến lặng ngưòi; nhìn người thiếu nữ, không còn trẻ lắm, với nét thuỳ mị, đoan trang và kín đáo, kín đáo như trong tình yêu thiêng liêng của chị, thắm thiết và buồn như màu tím của vành Couronne mortuaire. Những giọt nước mắt xót thương chị đang gởi cho ngưòi mình yêu vừa ngã gục trên mảnh đất của quê hương nầy. Máu đào của anh, vô tình đã tô thắm lên quê hưong Việt Nam mến yêu của chị!

 

Tình yêu của hai người kín đáo và thầm lặng như giòng sông xứ Huế, rất ít người được biết.

Ở đây, tôi xin phép chị Thảo – vâng, người ấy chính là chị – cho tôi viết ra điều; phải chăng đó là những kỷ niệm cao quí nhất và thiêng liêng nhất của cả cuộc đời chị; mà tôi tin rằng, nếu mọi người biết đến, cũng sẽ làm tâm hồn họ thăng hoa, bâng khuâng và xúc động, như khi họ khám phá ra một khu vườn hoa đầy hương sắc, kỳ bí, mong manh, dễ vỡ. Họ sẽ ngạc nhiên thích thú và trân trọng giữ gìn...

 

(Chị là chuyên viên phòng thí nghiệm trường Y, nhưng chị thường lên thư viện để tìm sách đọc nghiên cứu, và trò chuyện cùng chị Hưòng nên nhiều người cứ tưởng chị là quản thủ thư viện - là chị Hường).

 

Sáng hôm sau, hai chiếc máy bay màu trắng bạc “Air America” đưa bốn quan tài vào phi trường Tân Sơn Nhứt. Ở đó, ngoài phái đoàn Đại Học Y Khoa Huế, còn có phái đoàn của sinh viên Đại Học Y Khoa Saigon chờ đón với vòng hoa phân ưu và biểu ngữ lên án bọn quỉ đỏ khát máu xâm lược từ phương bắc đã ra tay thảm sát một cách hèn hạ và man rợ những người làm công việc y tế, chỉ biết phụng sự khoa học và phụng sự nhân loại.

 

(**) Linh cữu của bốn vị được đưa ra phi cơ về cố quốc trên chiếc xe có bốn ngựa kéo, theo sau là 250 sinh viên Y Khoa Huế và Saigon, đội đưa tang và đội quân danh dự của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Sinh viên cầm biểu ngữ nói lên lòng biết ơn công lao của quí vị...

 

Một biểu ngữ ghi “Đại Học Huế không quên các giáo sư người Đức”. Trước khi linh cữu được đưa lên máy bay, nghi lễ tiễn biệt diễn ra thật cảm động. Ông Trân, Thứ Trưởng Bộ Giáo Dục và Kỹ Thuật phát biểu: "Bao nhiêu năm, tôi đã từng tham dự nhiều buổi lễ ghi nhớ các anh hùng hy sinh cho tổ quốc, nhưng chưa bao giờ cảm động như hôm nay, khi tiễn biệt những người Bác Sĩ dân sự này đã chết cho lý tưởng cao cả vì tha nhân và nhân loại."

 

(**) Trích “Cái chết của Bác Sĩ Krainick” của Elje Vannema, trang 98 – 99 (Cuốn Thảm sát Mậu Thân ở Huế)

 

Máy bay rời phi đạo, cất cánh lên cao dần và mất hút, mọi người vẫy tay tiễn biệt lần cuối, ánh mắt đỏ hoe, mờ lệ ...

 

Vĩnh biệt từ nay bóng dáng thầy

Tình sư nghĩa phụ sáng trời mây

Thương người viễn xứ thân tan nát

Lưu lại danh thơm với tháng ngày!

 

Tôn Thất Sang

Saturday, 28 December 2019

Ký Ức Một Thời

Phuoc An Thy
Phước An Thy
Tác giả qua Mỹ trong một gia đình H.O. từ tháng Sáu năm 1994, vừa làm vừa học và tốt nghiệp kỹ sư điện tử. Là cư dân Garden Grove, California, lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ 2018, ông đã nhận giải đặc biệt về Huế Tết Mậu Thân với bài viết về một gia đình bên cầu Bạch HổHuế, có người cha toàn thân bị cộng sản chôn sống.

****

Thật không dễ để nói hết những cảm xúc của mình khi nhớ về một thời, bỗng dưng cuộc đời trở thành “bể dâu”, và cũng khó để diễn tả được tâm trạng sung sướng như thế nào khi đang sống trong cảnh nghèo hèn, bỗng nhiên trở nên giàu có còn hơn cả trúng số độc đắc.
Cuộc đời “dâu bể”, lúc tôi mới 15 tuổi với sáu đứa em nheo nhóc mà đứa út chưa tới một tuổi. Chưa đầy một năm, sau ngày 30/4/1975, chúng tôi như bầy chim non đang chập chững, rạn rỡ tươi sáng thì bỗng nhiên mẹ chết, cha bị bắt. Đang ở nơi thành thị đầy đủ tiện nghi, phút chốc chúng tôi bị ném vào giữa rừng sâu, trên núi cao làm láng giềng với những người dân tộc thiểu số. Tôi không nhớ rõ hết cảm xúc của tôi lúc đó là gì, chỉ biết tuổi thơ ấu, thời vui vầy của chúng tôi đã chấm dứt.
Khi cha đi tù, mẹ con chúng tôi bị đi “kinh tế mới” và chỉ mấy tháng sau mẹ chúng tôi chết vì bị bệnh sốt rét cấp tính. Đúng là “mồ côi mẹ lót lá mà nằm”. Tuy còn cha nhưng cũng “như nhà không có nóc, như con nòng nọc đứt đuôi”. Còn cha, nhưng không “gót đỏ như son” mà “gót con đen sì”. Anh em chúng tôi lúc ấy chịu chung cảnh “Nước mất, nhà tan”, khốn khổ cùng bao người.
Sau một thời gian khóc mẹ, nhớ cha, tiếc thương những ngày đầm ấm đã mất, anh em chúng tôi cũng phải đào bới kiếm miếng ăn để tồn tại. Chúng tôi đành chấp nhận hoàn cảnh, không còn sợ hãi và không còn khóc mỗi đêm dưới ngọn đèn dầu leo lét, trong túp lều tranh giữa rừng già.
Dù mùa hè nắng chói chang hay mùa đông gió rét căm căm, chúng tôi cũng phải phơi mình dưới trời để làm rẫy hay đi rừng. Chúng tôi chặt củi, chặt lồ ô, chẻ thành hom đem xuống các làng bán lấy tiền mua thực phẩm. Thời gian đầu, vì chưa quen nên tay anh em chúng tôi bị bọng nước, bị cắt khứa chằng chịt. Vết thương cương mủ, làm độc đau đến nổi các ngón tay không co vào được. Không cầm được chén đũa, chúng tôi phải kẹp chén vào giữa hai bàn tay, ngửa mặt lên trời mà húp thức ăn.
Nhờ có đói khổ, chúng tôi mới biết sung sướng khi tìm được những thứ có thể ăn được ở trong rừng, thấy hạnh phúc như thế nào khi cầm những củ khoai, củ mì do tự tay mình trồng ra.
Vì tuổi còn nhỏ và bận kiếm thức ăn, áo mặc nên anh em chúng tôi không có nhiều thời gian để nghĩ cuộc sống của mình đau khổ như thế nào và xem đó là chuyện bình thường. Nhưng những hôm bị bệnh sốt rét, nằm bẹp dí trong căn lều tranh hiu quạnh, tôi mới có thời gian suy ngẫm hoàn cảnh của anh em mình.
Sáng sớm trời lạnh, tôi nằm lặng nhìn ra màn sương mù bao trùm khắp nơi. Nhìn các em thức dậy, đi làm vệ sinh, mặc những bộ áo quần rách vào người, nhét mấy lát mì khô luộc, nắm bắp rang vào trong túi rồi vác dao rựa lên vai, đi vào rừng. Nhìn bóng dáng bé nhỏ các em lẫn vào màn sương trông thật tội nghiệp. Khi ấy tôi thấy thương cho mình và các em phải sống thiếu thốn, chịu khổ cực đến như vậy.
Sau khi nôn ra cả mật xanh, mật vàng, thân thể mệt mỏi rả rời, nước mắt tôi chợt chảy ra, tôi nghĩ thà anh em tôi sinh ra và lớn lên ở vùng rừng núi này thì cũng đành và đỡ băn khoăn nghĩ ngợi hơn về cuộc đời của mình. Trong khi tuổi thanh xuân của chúng tôi phải sống với những gian khổ và sự thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần trên vùng rừng núi hoang vu này thì chúng tôi biết ở một nơi nào đó, vẫn có những người thật là may mắn, có cuộc sống đầy đủ tiện nghi, sung sướng hơn rất nhiều so với mình ở đây.
Bệnh sốt rét làm lạnh đến nỗi dù đắp bao nhiêu là mền mà cũng không thể nào dừng người bớt run lên,  răng bớt lập cập. Rồi nhiệt độ tăng cao, đến cơn nóng sốt, mồ hôi đổ ròng ròng. Sau cơn sốt lạnh nóng, người thấy dễ chịu hơn và tôi rơi vào cơn ngủ chập chờn với những giấc mơ huyễn hoặc.
Sau cơn sốt tôi trở dậy ăn uống, rồi đi làm lại bình thường, nhưng nỗi buồn và những suy nghĩ khi bị bệnh vẫn còn ở lại trong đầu.
Sau gần 20 năm sống dưới chế độ Cộng sản, rồi điều may mắn, hạnh phúc trong cuộc sống đã đến với chúng tôi là được đi Mỹ, nhờ những năm tháng tù tội của cha. Ngày đi, mỗi người chúng tôi chỉ có vài bộ quần áo sờn rách làm hành trang để đi từ vùng “kinh tế mới” hoang dã đến một thế giới văn minh tiến bộ bậc nhất thế giới. Vì sao tôi viết, đang sống nghèo hèn bỗng nhiên trở nên giàu có còn hơn cả trúng số độc đắc? Bởi trúng số độc đắc mình chỉ có tiền, còn chúng tôi bỗng dưng được sống ở Mỹ, giàu cả vật chất và tinh thần.
Bây giờ ở Mỹ đã hơn 20 năm, nhưng khi nghe hay xem một bản nhạc được ghi nổi tiếng từ tháng năm nào, tôi thường nghĩ, năm đó mình đang ở đâu và đời mình như thế nào. Mỗi khi cầm viên thuốc hoặc chén cơm trắng lên, tôi lại nhớ đến hạt gạo khó kiếm và viên thuốc quý giá như thế nào khi còn sống vùng “kinh tế mới” ở Việt Nam.
Đôi lúc những kỷ niệm đau khổ hay hạnh phúc tưởng chừng đã rất xa xưa, bỗng dưng quay về, khơi gợi lại nhiều nỗi niềm buồn vui trong lòng tôi. Tôi muốn viết ra, lưu lại phần nào những ký ức, những suy nghĩ và cũng muốn được chia sẻ để cảm thấy ấm áp nếu có người đồng cảm với mình.
Một hôm, trên đường đi đến nhà ông bà ngoại xin gạo, bắp đem về ăn vì đói quá, chúng tôi được một mục sư Tin lành làm nghề bán kem cây dạo, đưa về nhà cho ăn cơm. Sau “giải phóng”, nhà của mục sư là một chòi tranh nép sau lưng nhà máy cưa, trên triền đồi nghiêng nghiêng khô cằn.
Mục sư kể cho vợ nghe hoàn cảnh của chúng tôi, rồi hối vợ nấu cơm. Dưới ngọn đèn dầu vàng vọt, vợ mục sư dọn lên bàn một nồi đầy cơm trắng và một dĩa cá kho. Mục sư cầu nguyện xong rồi bảo anh em tôi ăn cơm. Tôi mắc cỡ vì các em tôi xuýt xoa “ Cơm tinh, cá kho” và vừa thổi phì phì vừa ăn xì xụp. Anh em chúng tôi đói đến cầm chén cơm mà run cả tay, bụng sôi cào lên, tay gắp miếng cá kho rớt lên rớt xuống. Chưa bao giờ chúng tôi ăn ngon và nhiều đến thế.
Dọn dẹp chén bát xong, vợ chồng mục sư trải chiếu dưới nền nhà cho anh em chúng tôi ngủ. Vợ chồng mục sư và hai con nhỏ ngủ bên trong phòng ngủ được ngăn cách bằng một tấm ván mỏng. Nằm chừng vài tiếng đồng hồ chưa kịp ngủ, tôi thấy vợ chồng mục sư dậy, rón rén cầm đèn dầu đi ra nhà sau. Họ lôi ra nhiều ống tôn tròn, dài gấp đôi cán dao và một cái chậu nhôm lớn hình bầu dục, hai đầu túm lại, đáy hơi cong trông như một chiếc đò nhỏ đựng đầy nước muối. Vợ mục sư pha bột với đường nấu kem, mục sư kéo một bao tải đựng nước đá dưới đống mạt cưa ra, chặt nhỏ bỏ vào chậu nước muối hình bầu dục. Đợi nước kem nguội, hai vợ chồng mới chế vào những ống tôn tròn, hai đầu ống được bịt ni-lon, cột bằng dây thun. Sắp đầy những ống kem vào chậu nước muối trộn đá, hai người ngồi hai đầu kéo chậu nhôm lên xuống, qua lại khiến nước muối trộn đá và những ống kem chao đi đảo về liên tục.
Không biết đến bao giờ kem mới đông, nhìn cảnh vợ chồng mục sư gập lưng đung đưa chậu kem qua lại trong đêm, tiếng lục cục đều đều của những ống kem va vào nhau làm mắt tôi xụp xuống, trôi vào giấc mộng có hình dáng hai người níu kéo một chiếc thuyền kem.
Tôi giật mình thức giấc bởi tiếng ồn ào bên nhà máy cưa, trời đã sáng. Không thấy mục sư đâu, chắc đã dắt xe đạp đi bán kem. Anh em chúng tôi rửa mặt chuẩn bị ra ga xe lửa, vợ mục sư đưa cho tôi một gói cơm và hai cây tiền. Hai cây tiền là những đồng tiền tròn mười đồng bằng kẽm, cuộn tròn trong tờ giấy học trò. Vợ mục sư nói, các em mua vé tàu mà đi. Có lẽ vợ chồng mục sư đã cho chúng tôi số tiền để dành phải lâu lắm mới có. Tôi cám ơn rồi dẫn các em bước vội xuống đồi để ngăn những cảm xúc có thể trào ra trên mắt mình. Trên đường đi ra ga xe lửa, tôi vừa đi vừa nhìn quanh hy vọng sẽ thấy mục sư bán kem đâu đây để nói lời giã từ, nhưng không thấy. Đó là một trong những kỷ niệm nằm sâu trong ký ức, theo tôi suốt cuộc đời.
Tuy có nghĩ là sẽ không ai quan tâm các kỷ niệm của riêng mình, nhưng vì muốn mở rộng trái tim ra khỏi không gian riêng của mình và cũng để lưu lại phần nào những ký ức cho chính bản thân, nên tôi mạnh dạn viết ra. Như tôi đã viết trong một bài trước, “đa số những kỷ niệm của tôi ở Việt Nam là những kỷ niệm buồn, còn những kỷ niệm trên đất Mỹ thì ngược lại. Mặc dầu vậy, tôi lại thường nhớ đến những kỷ niệm ở Việt Nam hơn, có lẽ chúng đã có đủ thời gian để thấm nhập, bám chặt vào ký ức của tôi”, nay tôi xin kể thêm một kỷ niệm đã bám chặt vào ký ức của tôi.
Từ ngày nơi nơi đều vào hợp tác xã nông nghiệp, đến mùa gặt, anh em chúng tôi được dịp đi mót lúa. Trời mờ mờ sáng, cầm vài lát sắn khô luộc, ôm thúng rỗ tre, anh em chúng tôi đi hàng mấy cây số, xuống những cánh đồng của các hợp tác xã để mót lúa.
Không phải ngày mùa gặt lúa nào cũng như trong sách, nào ngày mới nắng lên rực rỡ, đồng lúa trĩu hạt vàng tươi, người gặt kẻ đập hát cười vang cả cánh đồng... nhưng thực tế có nhiều ngày gặt thật buồn thãm, bầu trời xám xịt, gió hây lạnh, mùa màng thất bát, đồng lúa hạt vàng chen nhiều hạt trắng. Anh em chúng tôi và nhiều người mót lúa, chẳng ai nghe thấy tiếng cười hát ở đâu. Mọi người cúi gầm mặt xuống tìm nhặt những bông lúa sót lại trên mặt ruộng đã gặt xong, mắt dáo dát trông chừng kiểm soát viên của hợp tác xã.
Vì các ban quản trị hợp tác xã không muốn sai chính sách, không muốn bộ mặt “ Ăn nên làm ra ” của hợp tác xã bị hoen mờ bởi những con mót và cũng để dành lúa rơi rớt nuôi đàn vịt của hợp tác xã nên họ cấm mót lúa. Hợp tác xã ra lịnh nếu xã viên hay con em xã viên đi mót lúa bị bắt thì một phạt thành mười, sẽ trừ vào công điểm nên nhiều người ở hợp tác xã này đi qua hợp tác xã khác mót lúa vì khi bị bắt chỉ bị tịch thu lúa chứ không bị trừ công điểm. Ngược lại, ban quản trị hợp tác xã khuyến khích kiểm soát viên nào bắt được con mót thì một thưởng thành mười, nên các kiểm soát rất tích cực trong việc rình mò, rượt bắt bọn con mót chúng tôi.
Chúng tôi phải chạy đua bì bõm trên ruộng sình lầy dành ăn với đàn vịt, chậm chân để đàn vịt đi qua trước thì một hạt cũng không còn chứ đừng nói gì một nhánh lúa rơi. Chúng tôi cắp rổ bên hông, chạy trốn mấy kiểm soát viên đang la hét vang khắp cánh đồng. Trên đồng trống, chúng tôi luôn giữ một khoãng cách an toàn với kiểm soát viên. Như mèo với chuột, nếu họ đi từ từ tới, chúng tôi lui từ từ, nếu họ rượt chúng tôi chạy. Con mót thì đông, kiểm soát viên chỉ vài người nên người nào xui lắm mới bị họ bắt.
Chiều đến, khi tất cả xã viên gặt lúa đã ra về hết, dù lạnh cóng anh em chúng tôi vẫn tha thẩn như những cái bóng trên cánh đồng, tìm bắt ốc bưu, hái rau dại trên bùn lầy đầy dấu chân. Khi không còn nhìn thấy bàn tay, bàn chân, chúng tôi mới băng đồng về để tránh những kiểm soát viên rình rập, núp trong các bụi rậm trên đường đi. Chúng tôi đã từng bị rình bắt như vậy, tha hồ khóc lóc, xin xỏ mà vẫn bị tịch thu cả thúng lẫn lúa.
Sau nhiều ngày mót lúa, chúng tôi đạp lúa, sàn sẩy, phơi khô cũng được hơn chục ký lúa. Năm nào cũng vậy, ngày đầu giã gạo nấu cơm, chúng tôi tạm quên thói hà tiện, nấu một nồi cơm không độn một thứ gì, chúng tôi gọi đó “cơm tinh”. Thời ngăn sông cấm chợ, cả năm chỉ ăn rau lá, khoai sắn dính vài hạt cơm mà cũng không có đủ, nay tay bưng chén cơm nóng trắng muốt, anh em tôi mhìn nhau, không thể tả hết được cảm xúc lúc ấy. Từng hạt, từng nhánh lúa rơi vương vãi trên ruộng đồng, góp nhặt thành chén cơm trắng tinh. Mùi cơm nóng bốc lên mũi đánh tan mùi bùn lầy, mùi tanh của máu bị đỉa cắn, xóa đi hình ảnh những ngày lạnh lẽo chạy lúp xúp trên cánh đồng. Ăn hạt cơm mềm, thật ngon, dù ăn với nước mắm nấu lại, loại nước mắm từ ba muỗng nước mắm nấu với một lít nước lạnh, vài giọt nước màu và nữa chén muối hột. Một năm chúng tôi chỉ có vài lần được ăn chén cơm không độn một thứ gì như vậy mà thôi.
Ở Mỹ, anh em chúng tôi vẫn giữ truyền thống gia đình như khi cha còn sống là gặp nhau trong những ngày lễ của gia đình, cũng như những ngày lễ lớn của nước Mỹ. Vì mỗi người đều có những công việc riêng, dành nhiều thời gian làm việc để có cuộc sống ổn định và cũng vì có vài người em lấy chồng, cưới vợ ở xa nên việc gặp nhau đầy đủ trong những ngày lễ là một điều khó khăn.
Ngay cả một gia đình nhỏ muốn ngồi ăn chung với nhau cũng không dễ, vì cả vợ lẫn chồng đều phải đi làm, mà hãng xưởng lại cách xa nhau, thời gian làm thì chênh lệch, còn con cái cũng phải đi học, đi làm thêm... Thường thì cả gia đình chỉ có thể ngồi quây quần bên mâm cơm trong dịp cuối tuần hay những ngày lễ lớn được nghỉ làm việc.
Tuy khó khăn để có những buổi họp mặt với nhau như vậy, nhưng anh em chúng tôi vẫn cố gắng thực hiện những buổi sum vầy bên nhau, để anh em, con cháu được gắn kết tình thân ái với nhau hơn. Trong những bữa cơm gia đình đó, chúng tôi chia sẻ với nhau những sung sướng, vất vả, vướng mắc của mỗi người ở trên đất Mỹ này và ôn lại những năm tháng khó khăn trong cuộc đời của mình ở Việt Nam.
Chúng tôi rất trân trọng từng giây phút bên nhau. Chúng tôi dùng thời gian sum họp, quây quần ăn uống bên nhau để hồi tưởng lại những tháng ngày quá khứ khổ cực, để nhắc nhở nhau biết trân quý cuộc sống tương đối ổn định, no ấm mà mình đang có. Nhất là để con cháu sinh ra ở đây, nay lớn lên, đang học, đã ra trường đi làm hay đang phục vụ trong quân đội, biết đất nước này đã cưu mang, giúp đỡ gia đình mình từ những ngày mới nhập cư như thế nào.
Chúng tôi thường hay kể lại với nhau về khoảng thời gian nỗ lực học hành, cần cù làm việc của mình để có cuộc sống ổn định và cũng nhắc lại thời kỳ đói khổ để thấy mình bây giờ đã giàu có như thế nào. Tôi tự nhận mình giàu, vì tôi hài lòng với những gì mình đang có, vì tôi có cố gắng kiếm bao nhiêu là tiền, nhưng không cảm thấy mình giàu thì mình vẫn nghèo.
Tôi tự tin cho rằng mình giàu có vì tôi đang so sánh cuộc sống hiện tại của mình với những người nghèo về nhiều mặt, thiếu thốn của cải vật chất cũng như tinh thần ở những nơi khác.
Chắc chẳng bao giờ tôi thấy hoặc cảm nhận được sự đói khổ thực sự của người khác là như thế nào, nếu cuộc đời tôi chưa từng cùng kiệt. Khi xem trên TV hay trên báo chí các hình ảnh những thân xác gầy ốm, da bọc xương, đói rách dành nhau những miếng nhỏ thức ăn thì tôi có thể tưởng tượng ra họ đói và sống khổ cực tới mức nào.
Vì tôi đã được nhiều ân nhân, những người không sống dựa trên mối quan hệ giá trị vật chất, giúp đỡ mình trong cơn hoạn nạn nên tôi không chỉ định giá giàu nghèo qua mỗi vật chất mà tôi còn định giá giữa giàu và nghèo qua lòng nhân hậu và sự quảng đại. Chính các ân nhân, những người sống với tình yêu thương giản dị, chân tình đã giúp tôi giữ được niềm hy vọng trong lòng, nhờ đó mà tôi tự tin để vượt qua những khó khăn trong đời.
Tuy nhìn lên tôi không bằng ai, nhưng nhìn lại quá khứ và nhìn xuống nhiều người, tôi phải cảm tạ ơn trên đã cho tôi quá nhiều may mắn và tôi cảm thấy mình giàu có quá rồi.
Cho đến bây giờ, sống nơi đất khách quê người đã hơn hai mươi năm mấy qua, vật đổi sao dời, số phần mỗi người anh em chúng tôi đã khác, nhưng mỗi lần anh em sum họp ăn cơm chung, bưng chén cơm lên tôi lại nhớ những chuyện xưa cũ.
Những kỷ niệm xưa cũ ấy luôn âm thầm len lỏi ở trong lòng tôi, những kỷ niệm mà không có tiếng cười nói lao xao sum họp như bây giờ. Những kỷ niệm cúng giỗ mẹ chỉ bằng những trái cây hái trong rừng và nén hương là lòng lặng lẽ trong đêm, cầu xin Thiên Chúa đưa linh hồn mẹ về trời. Những kỷ niệm dành giụm tiền, với những bao khoai sắn khô làm quà thăm nuôi để đi thăm cha ở tù ngoài miền Bắc. Những kỷ niệm đón Tết, thay tiếng pháo bằng tiếng gõ vào nồi niêu, thúng rỗ để mong xua tan buồn bã đượm đẫm cuộc sống nơi rừng sâu, chốn hẻo lánh buồn thiu. Ngày đầu năm, anh em chúng tôi xuống làng, đến những nhà có đốt pháo để xem. Các em tôi ngây ngô hốt những xác pháo đỏ hồng trước sân nhà người ta, đem về rải đều trước hiên nhà mình để cầu may mắn và mong quên được những ngậm ngùi của một năm đã qua...
Niềm vui trong những buổi họp mặt của anh em là kể cho nhau nghe những ngày xa xưa khi còn cha mẹ hạnh phúc, khi ấy trong nhà có đầy đủ mọi thứ. Kể lại chỉ để níu kéo, cố tìm lại những ngày của tuổi ấu thơ sum vầy đã qua mà bây giờ chẳng bao giờ còn có được. Cứ mỗi lần họp mặt, chúng tôi lại kể cho nhau nghe những chuyện cũ, thời mới lớn, tuổi thanh xuân bỗng dưng đã phải khắc khoải, sống lạc lõng giữa rừng xanh.
Để không làm nỗi mừng vui của những buổi sum họp trên quê hương mới này vơi đi, anh em chúng tôi đã dặn nhau, thôi nhắc chuyện xưa và đừng kể một thời đã qua nữa, nhưng khi mở rượu ra, câu chuyện loanh quanh một hồi rồi những kỷ niệm cũ kỹ vẫn lãng đãng quay về trong lòng mỗi người. Có lẽ, lòng chúng tôi đã già!../=