CHUYẾN ĐI CUỐI CÙNG CỦA ÔNG ĐẠI SỨ
* CAO MỴ NHÂN
Đó là chuyến đi cuối cùng của ông Đại Sứ, ông yên vị trong cổ sự, chiếm hết lòng xe thiên cổ, bên cạnh ông chỉ có duy nhất người vợ đã già, và một cậu con nuôi, cùng với đứa cháu trai, con của em ruột ông. Từ đó, ông đi về miền vĩnh cửu xa vời.
Cựu Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa ở Anh 5 năm, trước năm 1975, Luật sư Lê Ngọc Chấn, mà thời Đệ I Cộng Hòa, ông còn giữ chức Bộ Trưởng Quốc Phòng, để rồi bất đồng chính kiến với Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông bị đi tù mấy năm ngay trong chế độ của... mình.
Luật sư Chấn đã nhắm mắt xuôi tay vào một buổi trưa mùa Hạ ở Sài Gòn tháng 6.1986.
Thuở sinh thời, Luật sư Lê Ngọc Chấn tuy xuất thân từ khoa bảng, đậu Cử Nhân Luật, đi Tri Huyện rồi kinh qua nhiều chức vụ trong chính quyền Quốc Gia, cuối cùng là Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa ở Luân Đôn, mãn nhiệm kỳ, Luật sư Lê cùng gia đình trở về quê hương để chuẩn bị đi đại sứ ở một nước gần hơn, thuộc Châu Á, thì bị kẹt lại bởi biến cố lịch sử ngày 30.4.1975.
Luật sư Chấn đã nhắm mắt xuôi tay vào một buổi trưa mùa Hạ ở Sài Gòn tháng 6.1986.
Thuở sinh thời, Luật sư Lê Ngọc Chấn tuy xuất thân từ khoa bảng, đậu Cử Nhân Luật, đi Tri Huyện rồi kinh qua nhiều chức vụ trong chính quyền Quốc Gia, cuối cùng là Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa ở Luân Đôn, mãn nhiệm kỳ, Luật sư Lê cùng gia đình trở về quê hương để chuẩn bị đi đại sứ ở một nước gần hơn, thuộc Châu Á, thì bị kẹt lại bởi biến cố lịch sử ngày 30.4.1975.
Luật sư Lê Ngọc Chấn cũng phải đi tập trung cải tạo như các công cán ủy viên, công chức cao cấp khác. Sau 5 năm, ông được ra trại cải tạo, về đoàn tụ với gia đình nơi cư xá Thương Nhân, đường Trương Minh Ký – Tân Bình.
Trong thời gian làm đại sứ ở Luân Đôn, cũng như các đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại các quốc gia khác, Luật sư Lê Ngọc Chấn đã mang vợ con cùng xuất ngoại. Hai trong 4 người con của ông bà Lê Ngọc Chấn đã kết hôn với người nước ngoài, có con cái và định cư ở Ý, Pháp từ nhiều năm. Hai người con theo ông bà về nước, cũng đã có gia đình. Một người cho gia đình vượt biên đến Pháp năm 1980, một người được em trai bảo lãnh cả gia đình, cũng đã đến Pháp khoảng đầu năm 1984. Vì thế, chỉ còn lại ông bà cựu Đại sứ với ngôi nhà đồ sộ trong xóm Phượng, mà phu nhân Đại sứ vốn làm thơ, nên bà đã thi vị hóa cư xá Thương Nhân ấy, là xóm Phượng, vì những cây phượng vĩ thường đua nhau nở đỏ cả một khung trời mùa hạ quanh những lối đi trong cư xá. Do một phần biệt thự quá rộng đối với ông bà...phần khác ông bà cũng muốn chắp cánh bay xa, để được xum vầy cùng bầy con cháu bên trời Tây, nên ông bà Luật sư Lê đã bán căn nhà trên đi, tới biệt thự Ức Viên của nhà thơ quá cố Đông Hồ và nữ sĩ Mộng Tuyết, ở tạm trên Gác Mây nơi trước kia gia đình cố thi sĩ Vũ Hoàng Chương tạm trú một thời gian trước năm 1975.
Ngày ông bà cựu Đại sứ họ Lê dọn nhà từ xóm Phượng qua Ức Viên, vì khoảng cách chẳng bao xa. Tất cả đồ đạc trong nhà vừa tặng chủ mới, vừa cho anh em, cháu chắt họ hàng, hay những người thân tín, thì “hình như “ tôi cũng được phân phối hai chiếc ghế “phô tơi “, mà ông bà Đại sứ còn hào phóng, đến nỗi thuê hẳn một chiếc xe ba gác để chở hai ghế bành đó đến tận nhà tôi, cũng gần nhà ông bà Luật sư Lê, làm cho tôi ái ngại vô cùng. Lẽ ra ông bà chỉ cần nói tặng hay biếu gì đó, thì ai nấy được thông báo, sẽ tự lo việc chuyên chở ngay.
Ngày ông bà cựu Đại sứ họ Lê dọn nhà từ xóm Phượng qua Ức Viên, vì khoảng cách chẳng bao xa. Tất cả đồ đạc trong nhà vừa tặng chủ mới, vừa cho anh em, cháu chắt họ hàng, hay những người thân tín, thì “hình như “ tôi cũng được phân phối hai chiếc ghế “phô tơi “, mà ông bà Đại sứ còn hào phóng, đến nỗi thuê hẳn một chiếc xe ba gác để chở hai ghế bành đó đến tận nhà tôi, cũng gần nhà ông bà Luật sư Lê, làm cho tôi ái ngại vô cùng. Lẽ ra ông bà chỉ cần nói tặng hay biếu gì đó, thì ai nấy được thông báo, sẽ tự lo việc chuyên chở ngay.
Bấy giờ tôi mới đi cải tạo về, nên được bằng hữu chiếu cố là chuyện hân hạnh lắm. Do đó, tôi đã có hai chiếc “phô tơi “ để tha hồ ngồi thả hồn mơ mộng vì đồ đạc của tôi hay bất cứ ai, sau ngày 30.4.1975 đã lần hồi dọn ra chợ trời bán, hầu kiếm tiền mua lương thực cho “những bộ máy nhai” tức mấy cái dạ dày của chúng tôi làm việc hàng ngày.
Sự việc những bộ máy nhai liên tục...tủ giường, bàn ghế, quần áo, sách vở...đã gần như phổ biến khắp các tỉnh trên một nửa đất nước phía Nam. Đến nỗi cựu Thiếu tá Pháo binh Trương Duy Hy, người viết cuốn “Căn cước Tử Thủ 30” sau cuộc hành quân vĩ đại Lam Sơn 719, trận chiến Nam Lào, họ Trương được giải thưởng văn học của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, đã phải viết thư cho tôi:”Những bộ máy nhai của vợ chồng con cái tôi bỗng trở nên tích cực, nhai nghiến ngấu hơn trước NĂM 1975, chúng nhai từ đồ dùng lớn, đến đồ dùng nhỏ, nay chỉ còn căn nhà trống tuếch này, thế nào chúng cũng nhai nốt nay mai “.
Sự việc những bộ máy nhai liên tục...tủ giường, bàn ghế, quần áo, sách vở...đã gần như phổ biến khắp các tỉnh trên một nửa đất nước phía Nam. Đến nỗi cựu Thiếu tá Pháo binh Trương Duy Hy, người viết cuốn “Căn cước Tử Thủ 30” sau cuộc hành quân vĩ đại Lam Sơn 719, trận chiến Nam Lào, họ Trương được giải thưởng văn học của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, đã phải viết thư cho tôi:”Những bộ máy nhai của vợ chồng con cái tôi bỗng trở nên tích cực, nhai nghiến ngấu hơn trước NĂM 1975, chúng nhai từ đồ dùng lớn, đến đồ dùng nhỏ, nay chỉ còn căn nhà trống tuếch này, thế nào chúng cũng nhai nốt nay mai “.
Thì tôi cũng vậy, tôi đang ở nhờ nhà bà chị gái tôi, chị tôi đã bán “sa-lông“, tủ lạnh, máy nhạc, quần áo...là chuyện đương nhiên, nên, ông bà Đại Sứ cho hai ghế bành tổ, đã đáp ứng yêu cầu của tôi, mặc dầu kê xong hai ghế vào phòng khách, thì căn phòng chỉ còn lại một lối đi rộng độ nửa thước, như vậy đủ biết nhà tôi bé như thế nào.
Quét dọn, lau chùi ghế xong, tôi thong thả bước qua cư xá Thương Nhân, tôi thấy thân nhân và tha nhân đã dọn sạch đồ đạc và những thứ gia dụng, chỉ còn lại một đống rác nhỏ đang được phu nhân Đại Sứ vun quét để chuẩn bị bật một que diêm, cho mọi tàn dư dĩ vãng mau biến ra tro bụi.
Riêng ông Đại Sứ lại cứ loay hoay xếp và cột hai chiếc ghế cỡ vừa bằng loại gỗ nhẹ như loại gỗ diêm được sơn màu đỏ đồng, thật đẹp, trên hai lưng ghế có vẽ quốc huy Anh Quốc do Nữ hoàng Anh Cát Lợi tặng ông bà Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa Lê Ngọc Chấn để làm kỷ niệm thời gian ông bà ở Anh Quốc.
Tôi hỏi bà Đại Sứ:
-Tại sao anh Chấn cột hai chiếc ghế kia lại thế?
-Vì có ngồi bao giờ đâu, và để dễ xách qua nhà chị Mộng Tuyết.
Có lẽ trong đời quan quyền của Luật sư Lê Ngọc Chấn, tặng phẩm của Nữ hoàng Anh là quý giá nhất, nó đánh dấu một thời vàng son và nhắc nhở những tháng năm gia đình Luật sư sống giữa một xã hội sang trọng, quý phái nhất thế giới.
Chẳng thế con gái đầu lòng của Đại Sứ được ghi danh theo học ở trường nghi lễ quý tộc Anh Quốc, một trường được mở ra để hướng dẫn các vương tôn, công tử, công nương, quận chúa, con cháu các bậc nguyên thủ quốc gia, và giai cấp thượng lưu, ủy nhiệm nhà trường dạy dỗ cho con cái họ có được phong cách, nhân dáng người sang trọng, quyền quý, ngõ hầu không bị vụng về, ngơ ngác mỗi khi trong cung đình nào có tiếp tân quốc khách...
Cũng vì thế ái nữ của Đại Sứ đã gặp một công tử quyền quý nước Ý, và đã xin phép các bậc sinh thành cho lập gia đình. Buổi đầu Đại Sứ họ Lê không chấp nhận, Luật sư tuy Tây học song lại bảo thủ về quan niệm nhân sinh, ông không thích con cái kết hôn với người nước ngoài. Sau, ông cũng phải đồng ý, vì người hôn phối của ái nữ ông, là con nhà dòng dõi thượng lưu.
Cũng vì thế ái nữ của Đại Sứ đã gặp một công tử quyền quý nước Ý, và đã xin phép các bậc sinh thành cho lập gia đình. Buổi đầu Đại Sứ họ Lê không chấp nhận, Luật sư tuy Tây học song lại bảo thủ về quan niệm nhân sinh, ông không thích con cái kết hôn với người nước ngoài. Sau, ông cũng phải đồng ý, vì người hôn phối của ái nữ ông, là con nhà dòng dõi thượng lưu.
Ông bà Luật sư Lê dọn tới biệt thự Ức Viên số 328 đường Nguyễn Minh Chiếu (nay đổi đường Nguyễn Trọng Tuyển) được ít lâu thì có thư mời lên sở ngoại vụ, để hoàn tất chặng cuối xuất cảnh đi Pháp.
Tôi còn nhớ suốt mùa đông năm 1984, luân phiên tại các tư thất anh chị em gia đình Quỳnh Dao, mở tiệc lưu tiễn ông bà Đại Sứ. Nguồn thơ tri kỷ cũng qua nội dung đó dâng trào, từ Minh Minh Thư Uyển của cặp văn nhân thi sĩ Thanh Vân-Như Hiên đến Uyển Hương, từ Thùy Khương Trang của nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương với phu quân Trần Bá Thùy, tới vườn Thu Hương của bốn chị em bậc nữ lưu Trinh Thục, rồi trường đình Tùng Linh-Việt Nữ, đến Liên Hoa biệt thự của thi sĩ Đinh Việt Liên với võ sư Võ Toàn (phu quân nữ sĩ ). Tóm lại quý vị trong hội thơ Quỳnh Dao đã mở tiệc chúc mừng ông bà Luật sư Lê Ngọc Chấn sẽ đi đoàn tụ với bốn gia đình con cháu ở Âu Châu.
Phu nhân Luật sư Lê, tức nữ sĩ Văn Nương đã thuê hai xe chở khách với khoảng từ 60 đến 80 chỗ ngồi, để sẽ mời thân nhân và gia đình Quỳnh Dao đi phi trường Tân Sơn Nhất, chính thức tạm biệt vào ngày 20.12. 1984.
Buổi sáng ngày 18.12. 1984, ông bà cựu Đại Sứ mời giáo sư Lê (em trai kế ông) và tôi đi ăn sáng ở một tiệm nhỏ đường Nguyễn Minh Chiếu. Sau đó, chúng tôi chia tay, ông bà Lê Ngọc Chấn đến Sở Nhà Đất Thành phố để lấy biên lai hợp lệ tình trạng không còn bất động sản ở Việt Nam. Giáo sư Lê qua Đại học Nông Lâm Thủ Đức, còn tôi trở về sân tập thể dục Câu lạc bộ Dưỡng sinh. Tuy không nói ra, nhưng cả bốn chúng tôi đều phảng phất ưu tư, cảm thấy như việc xuất cảnh của ông bà Luật sư Lê không suông sẻ.
Thì đúng vậy, ngay chiều hôm ấy, ngày 18.12.1984, Sở Công An Thành phố đã phái nhân viên đến tận chỗ ông bà cựu Đại Sứ cư ngụ (Ức Viên) xuất trình lệnh công tác và thu hồi hai sổ thông hành, có nghĩa là ông bà cựu Đại Sứ không hay chưa được phép xuất ngoại.
Ngày 20.12.84, chính tôi là “người đứng chờ “ ở cổng ngoài Ức Viên, để “tạ lỗi” nếu ai đến đó với dự định đi tiễn ông bà Luật sư Lê. Sự thực thì cái lý do không hay hay chưa được xuất cảnh của ông bà cựu Đại Sứ, nghe qua cũng ...bình thường như bất cứ lý do nào mà nhà nước cộng sản có thể nại ra cho bất cứ ai, ở hoàn cảnh nào xin rời đất nước thuở đó mà thôi. Bởi vì hiếm khi nhà nước cộng sản Việt Nam tuyên bố là quý vị không được ra đi vì lý do chính trị, có nghĩa quý vị không phải những đối thủ đáng ngại cho nhà nước, chẳng qua quý vị làm sai một số luật lệ hiện hành!
Ngày 20.12.84, chính tôi là “người đứng chờ “ ở cổng ngoài Ức Viên, để “tạ lỗi” nếu ai đến đó với dự định đi tiễn ông bà Luật sư Lê. Sự thực thì cái lý do không hay hay chưa được xuất cảnh của ông bà cựu Đại Sứ, nghe qua cũng ...bình thường như bất cứ lý do nào mà nhà nước cộng sản có thể nại ra cho bất cứ ai, ở hoàn cảnh nào xin rời đất nước thuở đó mà thôi. Bởi vì hiếm khi nhà nước cộng sản Việt Nam tuyên bố là quý vị không được ra đi vì lý do chính trị, có nghĩa quý vị không phải những đối thủ đáng ngại cho nhà nước, chẳng qua quý vị làm sai một số luật lệ hiện hành!
Trường hợp ông bà Luật sư Lê Ngọc Chấn, họ quy kết việc bán nhà không theo đúng thủ tục giấy tờ, mới được Nhà Đất cấp Quận thông qua, còn phải được Nhà Đất Thành Phố duyệt xét nữa, tức là ông bà Luật sư chưa hoàn tất ở chặng cuối này, nên phải...làm lại từ đầu!
Sau đó thì ông bà bắt đầu lo“dịch vụ” nhà đất, tức là kiếm người thông thạo đầu mối lo cho mọi việc, lại phải hối thúc con cái yểm trợ, để kịp thời xuất chiêu“vàng cây” cho dự việc. Người mua nhà lớn, thường là cán bộ đương thời cao cấp. Trong trường hợp này, các chủ mua nhà mới, thường “bắt mạch”chủ bán nhà cũ, để chạc thêm “chỉ “ thêm “cây” nếu cần phải ký tới, ký lui dăm ba chữ ký nữa.
Sau đó thì ông bà bắt đầu lo“dịch vụ” nhà đất, tức là kiếm người thông thạo đầu mối lo cho mọi việc, lại phải hối thúc con cái yểm trợ, để kịp thời xuất chiêu“vàng cây” cho dự việc. Người mua nhà lớn, thường là cán bộ đương thời cao cấp. Trong trường hợp này, các chủ mua nhà mới, thường “bắt mạch”chủ bán nhà cũ, để chạc thêm “chỉ “ thêm “cây” nếu cần phải ký tới, ký lui dăm ba chữ ký nữa.
Nhưng, ngày một rồi ngày hai, cứ thế ngày này sang tháng khác, và năm cũng trôi qua. Hết năm 1985 rồi qua nửa năm 1986, mà tin tức nhà cửa và xuất cảnh của ông bà cựu Đại Sứ vẫn cứ vùn vụt qua song tưởng như trong đời sống ông bà chưa hề có chuyện...viển vông ấy bao giờ.
Một buổi sáng mùa Hè, ông bà Luật sư Lê định chuẩn bị vô cư xá Bắc Hải, ghé Uyển Đình thăm nữ sĩ Uyển Hương, bỗng Luật sư nghe có tiếng rất lạ trong trái tim, ông cảm thấy không thể xỏ tay vào chiếc sơ mi quen thuộc. Tiếp theo một số cử chỉ bất thường, nữ sĩ Vân Nương, vội ra đầu thang gác, kêu vang xuống tầng dưới, ngay chân cầu thang là phòng của nữ sĩ Mộng Tuyết, đã ngoài 70 tuổi (năm đó cuối năm 1986).
-Chị ơi, chị.
Nữ sĩ Mộng Tuyết đã lên ngay, và đã tiếp tay với nữ sĩ Vân Nương phái ngay người nhà qua tư thất thi sĩ Hà Thượng Nhân, vì thi sĩ Hà Thượng Nhân là em rể nữ sĩ Vân Nương, ông có thể nhờ con cháu giúp đỡ người anh cột chèo này.
Toàn bộ nhà thi sĩ Hà Thượng Nhân đã tề tựu quanh ông bà Luật sư Lê ở bệnh viện Nguyễn Văn Học, để rồi người bác sĩ trực phiên sáng thứ bảy hôm đó, đã tuyên bố Luật sư Lê đã chết từ trên đường đến bệnh viện, nếu nhập viện chỉ thêm rắc rối, thành gia đình nên đưa xác về nhà.
Nữ sĩ Vân Nương muốn khóc mà không còn nước mắt, hay sự uất nghẹn vô tình đã chặn ngang cổ bà, vì nơi ông cư ngụ chỉ là ở nhờ, nhà riêng đã bán, con cái ở bên Tây, nữ sĩ Vân Nương bối rối thốt lên:
-Đưa về nhà ư, nhà đâu?
Có lẽ nếu trên đời này, còn có người mã thượng nhất, người ấy chính là thi sĩ Hà Thượng Nhân năm ấy, đang có cụ thân sinh thi sĩ ở chơi với con cháu, cụ đã thật già, lại kê giường nghỉ ngay phía sau phòng khách, vì thế, nữ sĩ Vân Nương đã rất băn khoăn, nhưng bà không còn cách nào hơn nếu không nhờ được gia đình người em rể này, thi sĩ Hà Thượng Nhân; nên, nữ sĩ Vân Nương tức quả phụ Luật sư Lê Ngọc Chấn đã vội vã sụp lạy cụ thân phụ thi sĩ em rể, trước khi đưa xác Luật sư Lê vào nhà. Và, thi hài cựu Đại Sứ đã quàn lại phòng khách nhà thi sĩ Hà Thượng Nhân.
Cũng tại đây, đêm sau, chúng tôi tổ chức một buổi đọc thơ tưởng niệm người quá cố, giọng ngâm Hồ Điệp một lần nữa lại ngâm cạnh quan tài: Luật sư Lê Ngọc Chấn, trước đó 5 năm, chúng tôi cũng tổ chức một buổi đọc thơ Tuệ Mai ngay cạnh linh cữu của chị, đầu Xuân năm 1982.
Ngày sau nữa thì đưa ma. Chiếc xe thiên cổ rời ngôi nhà thi sĩ họ Hà (họ của bút hiệu) đi ra đại lộ Trương Minh Ký, rẽ qua đường Thoại Ngọc Hầu, một đoạn ngắn, từ ngã tư Trương Minh Ký đến đường Hoàng Văn Thụ (tên mới) ngày xưa đoạn này chỉ là Võ Tánh nối dài lên phi trường quân sự, là vì chị muốn để anh đi lại đoạn đường hằng ngày anh chị hay đi ăn sáng với nhau, và để anh nhìn lại lần cuối cùng nơi anh chị ở trọ tại biệt thự Ức Viên kia.
Suốt đường trường từ Sài Gòn lên một ngôi chùa nhỏ, hướng Thủ Đức – Lái Thiêu, xe Phật với xe ma cứ đuổi nhau, giỡn nhau, là vì theo luật xã hội Việt Nam ta, thì bao giờ bàn thờ Phật, hay xe các sư cũng đi trước xe tang, hôm ấy tang gia mời nhiều vị sư đi hộ đám, thế mà đường cứ đông nghẹt xe cộ, khiến có lúc xe ma vô tình lại chạy trước xe của các sư. Đặt trước xe tang là bức chân dung Luật sư Lê Ngọc Chấn, nụ cười của ông hơi xếch, như chế giễu, như chưa hẳn ông đã chết trong tâm hồn nhiều bạn bè, chiến hữu. Rồi thì đi mãi cũng tới nơi. Đám ma rẽ vào một con đường chật hẹp, nhiều cây lá, ngôi chùa đang xây cất dở dang trong khuôn viên một tháp hỏa táng, linh cữu Luật sư Lê đặt trên hai chiếc kệ thô, tất cả sơ sài như đám ma một người bình thường, chưa hề vướng bận tiền tài danh vọng bao giờ. Quả phụ cựu Đại Sứ vốn thanh sắc vẹn toàn, nhưng qua mấy ngày tang chế, nên tiều tụy và khổ não đến tả tơi, bà ngồi dựa vào quan tài, không khóc, vì quá mệt mỏi, lo lắng. Một giọng nói tuy không ngụ ý gì, nhưng lại gây ấn tượng cho tối lúc ấy, giọng nói của một chú học tu mới vừa thí phát ít lâu:
-Bà này vô lễ Phật đi chứ, đến chùa mà không lễ Phật.
Tôi thấy nữ sĩ Vân Nương đứng lên, mà người như cúi gặp xuống, như sắp gãy làm đôi, chị đi tìm tam bảo để lạy Phật, rồi trở lại phòng vãng sanh thô sơ với những cột cây đang cất dựng dở dang.
Tiễn Luật sư Lê Ngọc Chấn vô tháp thiêu xong, tất cả phải ra xe trở về, vì mùa Hè ở Sài Gòn mây trời thường báo hiệu những cơn mưa đến bất chợt, nên chi không gian bỗng ảm đạm, u buồn, như thương nhớ một người phong nhã, hào hoa, lịch lãm. Xe chở tang gia và thân hữu về một hướng khác, đó là: phải đưa bài vị ông Đại Sứ đến nhà ông em trai út của ông ở đường Vũ Tùng (sau chợ Bà Chiểu) để nơi đây và nữ sĩ Vân Nương hương khói nhang đèn cho ông, quả phụ Lê Ngọc Chấn mỗi ngày ba buổi lễ nghi đầy đủ, sáng cúng trà, cà phê, thức ăn sáng, trưa và chiều cúng cơm với những món ăn quen thuộc mà thuở sinh tiền, ông thường ưa thích.
Nữ sĩ Vân Nương đã ở căn nhà thờ bài vị đó đúng 100 ngày, sau đó bà dời đến tư thất em gái bà, tức phu nhân nhà thơ Hà Thượng Nhân tá túc cho đến tháng 11 năm 1987, bà đi Pháp đoàn tụ cùng con cháu. Chuyến đi đơn chiếc của bà thật dễ dàng, giản dị, là cứ xong thủ tục bình thường thì ra sân bay Tân Sơn Nhất thôi, vì nữ sĩ Vân Nương không phải là Luật sư Lê Ngọc Chấn, cựu Bộ trưởng Quốc Phòng, cựu Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa, và một cựu lãnh tụ đảng phái chính trị; nên, chẳng có điều gì không đúng... thể thức, luật lệ nhà nước cộng sản Việt Nam cả.
Song cái phần cát bụi cuối cùng của đời người, là hũ xương đã được đốt thành tro của Luật sư Lê Ngọc Chấn ký thác tại tháp chùa Vĩnh Nghiêm, di ảnh thờ thêm tại chùa An Lạc, đường Phạm Ngũ Lão Sài Gòn.
Luật sư Lê Ngọc Chấn, người thể hiện luật lệ, phép tắc đã di chuyển từng bước trong cuộc đời của ông, khởi hành từ miền đất nước nghèo nàn Thanh Hóa, trưởng thành ở Hà Nội, sự nghiệp lẫy lừng ở Sài Gòn, đi ngoại quốc, rồi trở về, và biến thành cát bụi tại một ngôi chùa nhỏ vùng quê Thủ Đức – Lái Thiêu.
Ông đã tự đưa ông đi trên con đường một chiều cuối cùng, đó là ông trở bệnh ở Ức Viên, chết trên đường đến bệnh viện, quàn xác tại nhà thi sĩ Hà Thượng Nhân, thiêu tại chùa trên, bài vị đưa về nhà em trai, hũ cốt ở Vĩnh Nghiêm, di ảnh ở An Lạc; và, tôi không rõ là ngày bà quả phụ Lê Ngọc Chấn đi Pháp có mang theo hũ tro cốt ông Đại Sứ không nữa.
Tuy nhiên, di ảnh vẫn thờ nơi chùa An Lạc, tin mới nhất cho hay Hòa Thượng trụ trì Thích Quảng Thạc, người thường được số đông văn nghệ sĩ Sài Gòn ngưỡng mộ lâu nay, vừa viên tịch đầu năm 1996, đúng 10 năm sau ngày Luật sư Lê Ngọc Chấn mãn phần. Luật sư sẽ được gặp lại Hòa Thượng, ông sẽ mỉm cười như ngày nào, nụ cười của người làm ngoại giao thường ý nhị, nhưng vị cao tăng còn có nụ cười ý nhị hơn nhà ngoại giao, ấy bởi cố Hòa Thượng trụ trì chùa An Lạc luôn có cách nhìn quán thống thời thế, đến nỗi vị cựu Đại Sứ đã vô cùng tôn kính, tưởng đến chết vẫn quyến luyến vị cao tăng, khiến người thân phải để bức di ảnh của ông nơi ngôi chùa hoan hỉ mà yên tịnh này.
Tuy nhiên, di ảnh vẫn thờ nơi chùa An Lạc, tin mới nhất cho hay Hòa Thượng trụ trì Thích Quảng Thạc, người thường được số đông văn nghệ sĩ Sài Gòn ngưỡng mộ lâu nay, vừa viên tịch đầu năm 1996, đúng 10 năm sau ngày Luật sư Lê Ngọc Chấn mãn phần. Luật sư sẽ được gặp lại Hòa Thượng, ông sẽ mỉm cười như ngày nào, nụ cười của người làm ngoại giao thường ý nhị, nhưng vị cao tăng còn có nụ cười ý nhị hơn nhà ngoại giao, ấy bởi cố Hòa Thượng trụ trì chùa An Lạc luôn có cách nhìn quán thống thời thế, đến nỗi vị cựu Đại Sứ đã vô cùng tôn kính, tưởng đến chết vẫn quyến luyến vị cao tăng, khiến người thân phải để bức di ảnh của ông nơi ngôi chùa hoan hỉ mà yên tịnh này.
CAO MỴ NHÂN