Trần Thiện Tích – CH2 & ĐS7

Các chức vụ cầm đầu nền hành chánh địa phương trong thời chiến, từ sau năm 1960, phải nhường cho quân đội. Đó là một nỗi buồn chung của anh em hành chánh. ” Gặp thời thế, thế thời phải thế”, trước 1960 thì khác hẳn, nên ít người nhắc tới một điều đã trôi vào dĩ vãng.
Tôi chỉ xin ghi ra đây những vui buồn nho nhỏ của riêng tôi để cảm ơn hai vị quân đội đồng hành với tôi trong một thời, đã nâng đỡ tinh thần tôi và giúp tôi có được một quãng thời gian ấm cúng và bình yên khi vừa ra trường, đi nhận việc tại một vùng chiến tranh xôi đậu. Đó là ông Quận Trưởng của tôi Ngô Đình Trung và ông đội trưởng Nguyễn Văn Dành.
Trong thời gian làm việc ở Nha Viễn Thông và ở Giám Sát Viện, tôi luôn có cảm giác là một công chức trong thời bình, vì cuộc chiến tranh chống cộng sản chỉ gián tiếp liên hệ tới công việc của tôi. Như mục đích của nha Viễn Thông là cung cấp máy siêu tần số cho các xã và quận lỵ thiếu phương tiện truyền thông, vì sự phá hoại của Việt cộng, không thể nối đường dây liên lạc điện thoại. Lâu lâu có thêm cảm giác chiến tranh là khi một nhân viên Viễn thông ở miền xôi đậu bị thương trong trận tấn công, phục kích hoặc bị Việt cộng sát hại.
Tại Giám sát Viện thì càng gián tiếp hơn. Sự hiện diện sắc thái của thời chiến thường chỉ xuất hiện ở hai khía cạnh: trong việc điều tra hay kiểm soát, tôi tiếp xúc với nhà binh nhiều hơn dân sự và khi thi hành công việc giám sát tại địa phương thiếu an ninh, thì Tỉnh hoặc Quận thường cho một tiểu đội hay bán đội trang bị vũ khí đầy mình đi hộ tống.
Còn những thời gian dạy học, tôi có giảng về chiến tranh, nhưng không tiếp xúc trực tiếp với chiến tranh, nên cảm giác sống trong thời chiến càng xa lơ xa lắc.
Chỉ trong thời gian tôi làm việc tại một quận bất an mới có được nhiều kỷ niệm vui buồn về hành chánh trong thời chiến.
Vừa ra khỏi Học viện Quốc gia hành chánh, tôi “được” thuyên chuyển về một quận khỉ ho cò gáy, dân thì ít mà ngập lụt thì nhiều. Nhà dân phải làm sàn thật cao, trên những cột tràm, cột đước, chiếc to, chiếc nhỏ, chiếc thẳng, chiếc cong cong. Mùa khô, người mới từ thành phố về, nhìn những chân cẳng dưới sàn nhà như hàm răng cá mập không đều, thấy mà lạ mắt. Mùa nước lớn, từ sông Cửu Long đổ về, nước lai láng, mông mênh, mấp mé sàn nhà. Nước loãng, cá khó đánh bắt. Chuột, cóc và rắn rít không còn chỗ trú ẩn, lên ở chung với người. Chuột rúc rích khắp mái tranh, mái lá. Cóc nhảy ra nhảy vô trong từng góc kẹt. Rắn bò, rắn quấn trên kèo, trên cột. Rất may, đa số đều là rắn nước, rắn hiền. Trong quận buôn bán trao đổi trên các gò đất cao. Thực phẩm bày bán là các lồng chuột, cóc và rắn. Mùa này, tiệc sang là tô thịt mèo đặt giữa mâm. Muốn có đồ ăn bình thường, phải sai lính lấy ghe đuôi tôm sang mua ở thị xã lân cận.
Đó là quận Thanh Bình thuộc tỉnh Kiến Phong. Tên Thanh Bình mà chẳng thanh bình. Ngày đó có nói đến mấy nơi có chữ Kiến là thiên hạ sợ, như Kiến Tưởng, Kiến Phong, Kiến Hòa hay quận Kiến Văn, Kiến Thiện… thế mà tôi dùng chữ được để nói là được thuyên chuyển về, vì trong trí nhớ của tôi, thời gian đó là thời gian có nhiều kỷ niệm vui của một dân hành chánh trong thời chiến, làm việc ở một nơi luôn luôn dùng súng đạn thay giấy tờ. Học Viện Hành Chánh và khóa sĩ quan đặc biệt tại quân trường Đồng Đế đã giúp tôi đóng hai vai cùng một lúc, vừa hành chánh, vừa quân sự.
Quận Thanh Bình có hai điều lạ: trước hết là khẩu súng shotgun. Tôi không biết do đâu mà quận có khẩu shotgun, vì đó là súng của quân đội Mỹ, chưa có trong cấp số thuộc Quân đội chính quy của Việt Nam, huống chi là một quận hẻo lánh, xa xôi. Thứ hai là nghĩa quân chỉ tổ chức tới trung đội (không có đại đội) mà ở đây đội nghĩa quân phòng thủ quận đông tới 97 lính, nên gọi là trung đội thì không đúng, mà gọi là đại đội thì không xong. Nếu cấp số là 2 hoặc 3 Trung đội thì phải có hai, ba Trung đội trưởng mà ở đây chỉ có một mình Ông Nguyễn Văn Dành là đội trưởng. Thành ra tôi chẳng hiểu tổ chức như thế nào, rõ ràng là thực tế không còn đúng với nguyên tắc, không ăn khớp với khuôn mẫu quy định (quận cũng có một đại đội địa phương quân do trung úy Ngọc chỉ huy, đóng ngay sát cây cầu độc nhất vào quận).
Mỗi sáng thứ hai, tôi mặc bộ đồ lính kaki màu xám đậm, trên vai không lon lá, chỉ huy buổi lễ thượng kỳ, kéo lá cờ Việt Nam Cộng hòa mới may, màu vàng tươi với ba sọc đỏ, lên chiếc cột cờ thật cao giữa sân Quận. Tất cả nhân viên hành chánh và tiểu đội nghĩa quân mang súng dàn hàng ngang trước cột cờ. Tòa hành chánh quận còn mới màu sơn, nằm trên dỏi đất cao, nhô ra bờ sông, chưa có một cây nào đủ cao để che ánh nắng hay tạo bóng râm cho Quận. Lá cờ lộng gió tung bay phần phật, có thể nhìn thấy rất xa, từ các thôn ấp.
Qua những buổi chào cờ, tôi quen với tiểu đội cầm súng. Tiểu đội này thuộc đại đội lính Hòa Hảo do ông Dành làm đại đội trưởng. Ông Nguyễn Văn dành chỉ là một đội trưởng nghĩa quân, không có cấp bậc sĩ quan, nhưng thật giỏi trong việc chỉ huy và cầm quân. Thâm trầm và ít nói, rất hiền từ, thương lính và chống cộng một cách triệt để nên được lính và mọi người kính mến và nể phục. Tôi biết thêm Mè, Nghĩa, Sung và Bảo trong tiểu đội chào cờ. Ông Dành cho tôi sử dụng họ như là lính riêng của tôi. Tôi báo cáo quận và rủ họ lấy speedboat, thuyền máy riêng của của quận đi săn vịt trời và săn cá, mang theo bia và rượu. Tôi kéo cần cho chiếc thuyền máy 45 mã lực tăng hết tốc độ, rẽ sóng, mũi tểnh cao, chỉ còn phần đít rẽ nước trên mặt sông êm đềm. Tôi đã học lái để né tránh Việt cộng phục kích hai bên bờ kinh rạch khi cần di chuyển bằng đường thủy. Tôi chèo ghe thì dở, nhưng lái máy lẹ vì còn hăng máu trẻ và bốn người lính đi cùng tôi dày dạn phong sương, chẳng tỏ một chút nào sợ sệt. Bốn người họ mang súng carbin, lựu đạn và lưới vợt. Lưng tôi nịt khẩu súng lục Rulo (Smith) quen thuộc nạp sẵn 6 viên. Khẩu này tôi đã bắn tập hàng tuần ngay trước sân quận, hướng ra phía cửa sông dài. Mục tiêu là những lon bia cách xa 30 thước, thông thường chỉ cách 10 đến 20. Quen với đường ngắm, khi nào bắn đua tôi cũng uống bia thắng độ. Bên chân tôi, khẩu shotgun bắn đạn chài, dùng để chống phục kích với loại đạn 12 cục chì trong viên 1 pound. May có thêm được vài viên loại 20 bi nhỏ, nên dùng đạn này săn vịt trời khi vừa bay lên. Mỗi lần nổ súng là hai, ba con lả tả rơi xuống nước. Thêm cá do Sung bắt. Thầy trò nhậu thả giàn trên gò cao giữa sông, chiều mang thêm đồ ăn về quận.
Thỉnh thoảng, chiều tan sở tôi lang thang một mình đi thăm những người lính quen trong khu gia bình. Khu này do quận dựng nên thành một bức tường che chở văn phòng quận, bao gồm toàn nhà mái lá, nhỏ và ọp ẹp. Mỗi gia đình lính được chia một căn. Gặp tôi bất ngờ, Nghĩa mời tôi ra ngoài đầu hè với những lời nói chứa đầy sự chân thật của thanh niên Hòa Hảo và ấm tình người. Tôi cùng Sung, Bảo và Mè, ngồi lên những đòn kê trên nền đất xám. một soong vài con cá nhỏ và dăm trái cóc xanh mồi lưng chai đế. Đồ ăn đơn sơ, rượu đế loại thường mà tôi có cảm giác như được ăn một bữa tiệc thịnh soạn nơi thành phố. Qua câu chuyện, anh em lộ ra sự ngoan đạo và căm thù Cộng sản đã giết Huỳnh Giáo chủ của họ. Họ sống đoàn kết, nghèo nàn nhưng chống cộng từ trong tâm thức.
Một hôm, khoảng 9 giờ tối, có tiếng nổ chát chúa phía trước quận, bên kia con lạch. Bảo nhanh nhẹn xách súng vượt lạch. Mè, Nghĩa, Sung và hai ba nghĩa quân nữa bám gót sang liền. Họ đều là những lính chiến đấu thành thạo, thuộc từng ngõ ngách trong quận. Ông Dành mang thêm lính sang bao vây và theo dõi những kẻ khả nghi. Không đầy 20 phút, đại đội đã bắn bị thương một tên du kích, mang về cho quận một túi dết đầy cờ và truyền đơn. Tên này định chăng cờ và rải truyền đơn tại trạm y tế quận vừa xây xong, sắp làm lễ khánh thành. Lính tuần bắt gặp phải, nó tung lựu đạn và chạy trốn.
Sau đêm lộn xộn, tôi trở về công việc hàng ngày. Công việc nhiều nhất của tôi, hầu như là ký giấy phép cho các ghe đò chuyên chở, dù nhỏ hay lớn, dù đi xa hay đi gần. Nếu trong thời bình, chỉ cần ký một vài cái là đủ, nhưng giấy phép ở đây nhằm có mục đích kiểm soát hàng hóa có thể tiếp tế cho Việt cộng, có thể chở hàng lậu từ Campuchia về. Tôi phân vân hoài: dễ dãi thì không kiểm soát được, khó khăn thì làm dân xa chính quyền và mang tiếng hạch sách. Tôi đành tìm nhiều tin tức để giải quyết, Nảng, một nhân viên làm việc lâu năm trong lĩnh vực này cho tôi nhiều ý kiến. Kết hợp với tin tức từ các chủ ghe thuyền nói về các ghe thuyền khác trong quận, để so sánh với những nguồn tin của Nảng. Và phối hợp với tin tức từ các trạm gác trên sông để giải quyết. Riêng những trường hợp nghi ngờ, lâu lâu khám đột xuất theo phương pháp “random” đã học trong thống kê để con buôn thấy hiệu lực của chữ ký trên giấy phép. trong thực tế. Nhóm lính Mè, Sung, Nghĩa và Bảo cùng anh tài xế của tôi cũng thường cho nhiều tin tức. Sự cạnh tranh trong việc chuyên chở buôn bán hàng trên ghe, các chủ ghe tố và nói xấu nhau, để lộ ra các tin tức có lợi cho việc kiểm tra. Thỉnh thoảng mới có trường hợp chủ ghe bao che cho nhau, vì liên hệ gia đình hoặc vì tình nghĩa lâu năm.
Một hôm, chập choạng tối, trời mưa như trút nước, nhờ tin tức phối hợp trong tuần, Quận đón bắt được một ghe nhỏ mang giấy phép chở chạp khô, nhưng ngụy trang chở đầy thuốc tây đi về phía bất an nhất của quận. Khám ghe, ngoài thuốc còn thấy một bản đồ vẽ cầu thang, lối lên phòng ngủ của quận trường và phó quận. Quận trường vẽ hình nhân màu đỏ, nằm quay chân ra phía cửa phòng với khẩu Colt 45 để xéo đầu giường. Phó quận vẽ màu xanh dương, nằm quay đầu vô tường cạnh cửa phòng với phẩy với khẩu Smith 6 viên đặt bên cạnh và khẩu shotgun bắn đạn chài dựa vào góc tường. (Quận trưởng và quận phó đều còn độc thân, ăn chung và ở chung trong một phòng của quận. Tôi rất cảm ơn ông Quận trưởng vì đã cho tôi sống những ngày tháng thân thương. Tôi không cảm thấy cô đơn khi vừa rời ghế nhà trường và giúp tôi hăng say trong công việc hành chánh cũng như quân sự). Bắt được ghe chở thuốc tiếp tế cho Việt cộng, lòng tôi phấn khởi hẳn lên vì nghĩ rằng cách làm việc của mình đã có chút hiệu quả trong thời chiến.
Hỏi cung chủ ghe và người làm công trong ghe, Quận xác định được tin tình báo có du kích về xã ranh giới. Quận mở một cuộc hành quân bỏ túi. Tôi ngạc nhiên khi thấy cuộc hành quân dùng toàn nghĩa quân, mà không huy động Đại đội Địa Phương quân. Tôi định hỏi, nhưng sợ Quận trưởng cho là nhát, nên lại thôi. Quận trường rủ tôi cùng đi, tôi phải gồng mình theo ngay và nhắc khéo mang theo các hộp cứu thương. Mùa nước lớn, các thôn xóm nhô lên giữa đồng nước mênh mông. Cuộc hành quân bằng xuồng và ghe đuôi tôm, di chuyển theo hàng dọc. Tới vùng nước rộng chuyển sang hình thang. Lính mặc toàn quần áo đen xám của nghĩa quân và dân vệ, nhấp nhô trên làn nước, như đoàn hải cẩu im lặng rình mồi. Chỉ có quận trưởng và tôi mặc đồ chuẩn màu xanh pha màu đất.
Khi gần tới mục tiêu, du kích Việt cộng nằm trên gò cao, bắn lóc chóc về phía đoàn thuyền. Tiếng đạn đi gần bên, xé gió kêu rin rít. Lính vội vã, một tay cầm súng dơ lên cao, một tay bám vào thành ghế, nhảy xuống nước văng tung tóe ướt cả đầu. Nước nông, chỉ ngập tới ngực. Lính kê báng súng vô vai bắn trả trên ghe đằng trước, Quận trưởng vẫn đứng hiên ngang giữa ghé, dạng hai chân, cầm khẩu côn ra lệnh cho xuồng và ghe tản ra, bao quanh, tập trung hỏa lực vào gò. Tôi, một lần nữa, gồng mình theo Quận trưởng, cũng dạng hai chân đứng giữa xuồng. Khẩu carbin trên tay tôi hướng về phía gò, nổ dòn từng chập 2, 3 viên một.
Ghe tiến gần gò. Vài loạt đạn AK từ gò bắn ra. Mè ngồi gần chân tôi, quăng mình ra ngoài ghe. Chân chưa chạm nước thì bị một viên trúng bụng. Nước loang màu đỏ. Nghe tiếng la của Mè, Nghĩa ôm Mè từ dưới nước đẩy lên thuyền. Bảo có học cấp cứu, nhoài người lấy hộp cứu thương lội sang băng bó cho bạn, xé thêm áo buộc nịt chặt vết thương. Tôi nói vọng sang thuyền Quận trường, xin dồn quân để có ghe trống chở gấp Mè đi cấp cứu, đồng thời dùng máy siêu tần số báo vệ phòng truyền tin quận cho xe cứu thương chờ sẵn ở bến đò để chở Mè về ngay bệnh viện tỉnh. Mè sẽ phải chịu đựng quãng đường bộ từ quận về thị xã. Mùa mưa đường lầy lội, lổm chổm ổ gà. Xe cứu thương vừa chạy, vừa trơn trượt, chậm rì, đôi lúc tung lên cao vì xụp ổ gà. Người khỏe còn rên huống chi người bị thương. Anh em đồng ngũ của Mè sôi máu giận dữ. Đạn nổ giòn về phía gò. Gò nhỏ, không có nhà dân xen lẫn, bất cứ gốc cây hay bụi rậm nào có thể ẩn núp là đạn bắn vào tứ phía. Một xạ thủ cầm khẩu phóng lựu, báu vật đặc biệt của đại đội, nhắm hướng đạn bắn ra để triệt hạ khẩu AK. Tiếng nổ lựu đạn vang từ gò xuống sóng nước lăn tăn. Một lát, gò hoàn toàn im tiếng súng. Quận trường cho một ghe tiền thám đổ bộ lên gò. Các ghe khác sẵn sàng nổ súng yểm trợ. Rồi ghe thứ hai nối tiếp lên gò. Lục soát khắp các chỗ nghi ngờ. Ba du kích nằm sấp trên vũng máu pha nước ở một rãnh hơi trũng, bên cạnh khẩu AK và hai súng dài cùng dăm trái lựu đạn. Sung và Bảo nhào tới lật mặt bọn chúng, một tên còn sống sót, bị thương nặng, thở hổn hển. Máu nóng trả thù cho Mè vừa bị thương, Bảo giơ súng định kết liễu mạng nó, nhưng đội trưởng ra lệnh khiêng bỏ lên ghe và tịch thu chiến lợi phẩm. Xét trong người có giấy căn cước và đương sự ở xã ngay bên cạnh văn phòng quận.
Trận đột kích thắng lợi, nhờ anh em lính thiện chiến và tin tình báo phối kiểm tốt. Nghe tiếng đạn, anh em đã ước đoán trúng khả năng tác chiến và nơi ẩn núp của địch. Sự tập trung hỏa lực chính xác, khiến phe ta mau chóng thanh toán địch và hạn chế tối đa thiệt hại.
Trên đường về, anh em băng bó chu đáo cho tên du kích. Nhưng khi về tới bến đò xuất phát, tên ấy trút hơi thở cuối cùng vì có vết thương trên đầu và đã mất nhiều máu quá
Phòng truyền tin quận gọi điện báo cáo Mè cũng trút hơi thở cuối cùng trên đường xe cứu thương chở về bệnh viện tỉnh vì vết thương ở bụng, bị xuất huyết nội, không có trực thăng nên không kịp mổ để cầm máu.
Như có ai cầm dùi trống đập vào tim tôi, tôi nhảy vọt lên bờ, xin quận trường cho ứng trước tiền tử tuất để lo cho Mè. Mè còn độc thân, sống với bạn đồng đội. Khi nhỏ sống với bà cô ruột trong xã. Các bạn thân của Mè gồm Sung, Nghĩa và Bảo cùng ông đội trưởng Dành đứng ra lo cho Mè một cách thật tươm tất chu đáo và cảm động. Tiền dư đưa lại cho bà cô ruột.
Quận trưởng chỉ thị cho tôi tìm thân nhân của tên du kích. Tìm được ngay thân nhân nhờ tờ giấy căn cước. Sau khi xét kỹ lý lịch, biết tên du kích này đã bỏ nhà đi hoang từ lâu, gia đình được xã và ấp Hòa Hảo xác nhận là lương thiện và có một người con là hạ sĩ quan trong sư đoàn 7, tôi xin quận trường cho phép cha mẹ nhận xác tên du kích về chôn cất.
Mặt trời chiều đỏ rực trên sông. ly cà phê uống cạn một nửa. Nhìn cái ly tôi suy nghĩ mông lung, lúc buồn, lúc vui:
– Nghĩ về Mè, một chàng trai nông thôn, đượm tình quê cả từ cái tên Mè, nếu gần bệnh viện được mổ ngay thì mạng đâu có yểu. Tôi từng lái xe cứu thương trên con đường từ quận về tỉnh. (Tôi biết lái xe khi về quận này. Quận trường và tôi như anh em, ngủ chung một phòng. Tôi lấy xe Four Wheel Drive của Quận trưởng tập lái). Tôi thường thay đổi xe, ngụy trang, để tránh phục kích, vì có lần lái xe 4WD vừa qua khỏi chiếc ống cống được khoảng 3 thân xe thì mìn nổ tung. Xe nhấc đít lên. Tôi thoát chết trong gang tấc. Việt Cộng ngày ấy mới có loại mìn thô sơ, nếu chúng có mìn điều khiển từ xa hoặc những mìn bén nhạy như bây giờ thì tôi đã tiêu rồi. Mè không bị mìn, nhưng bị đường khó đi mà chết, thật đau lòng, ấm ức và tức tối. Tôi không khóc, mà sao những giọt nước vẫn ứa ra khóe mắt.
Rồi tôi suy tư về cái gan dạ dở hơi của tôi, gồng mình đứng thẳng người giữa ghe theo Quận trưởng. Cái hành động chẳng có đúng với những bài học trong quân trường tí nào. Nếu trúng đạn thì chắc ân hận lắm.
Tôi nâng ly cà phê nhấp cạn và nghĩ lan man: khi học hành chánh, đâu có môn nào dạy xét lý lịch để cho lấy xác hoặc bắt nhốt luôn thân nhân khi đến nhận xác kẻ thù. Đâu có bài nào chỉ về cách phối hợp tin tức để phân biệt ta và địch. Đâu có nghe giảng về tìm kẽ hở lấy tiền sửa nhà đổ nát của lính không nằm trong quy chế trại gia binh. Đâu có được chỉ bày cách cấp giấy phép chuyên chở không chỉ căn cứ vào bản chất và số lượng của hàng hóa mà còn căn cứ vào mục đích sử dụng hàng hóa vì lý do an ninh giữa ta và địch. Thời chiến đã dạy tôi làm hành chánh, dạy lái xe băng đồng tránh phục kích và dậy bắn súng trở thành như một thiện xạ viên, không hổ danh là một thủ khoa khóa sĩ quan Đồng Đế.
Thế rồi, thế thời xoay vần, đảo chính năm 1963, chính phủ Ngô Đình Diệm sụp đổ. Quận trường của tôi cũng họ Ngô Đình, nhưng không bà con vẫn bị hạ bệ ngay. Có lẽ vì tôi cùng ăn, cùng ở với Quận trưởng, nên rắn bị đánh chọn ổ. Tôi cũng văng đi nơi khác. sự văng đi của tôi lại may mắn, từ một quận khỉ ho, cò gáy lại đổi về thành phố. Sống một cuộc sống yên lành bình thường làm tôi nhớ nhiều thời gian sống bên cạnh những hiểm nguy tại quận hẻo lánh xa xôi, thích thú với những nét hào khí của thanh niên. Cũng như nhớ mãi những lần vượt biên đầy gian nan, nguy hiểm.