Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label TranDienBienPhuVC. Show all posts
Showing posts with label TranDienBienPhuVC. Show all posts

Saturday, 11 May 2019

THÊM YẾU TỐ "KHẨU PHÁO NHỰT" TRONG TRÂN ĐIÊN BIÊN PHỦ./-TCL

Đóng góp của Nhật cho Việt Minh ở trận Điện Biên Phủ Số là Nhật Bản xây dựng một nền công nghiệp hoành tráng ở vùng Mãn Châu. Năm 1945, khi Liên Xô đánh tới thì họ đầu hàng, không phá huỷ tài sản.

Liên Xô giao toàn bộ khí tài và nền công nghiệp Nhật cho Mao Trạch Đông. Trước đó Mao bị Tưởng đánh cho không còn gì, bỗng chốc thành người khổng lồ, còn Tưởng thì bị Hoa Kỳ bỏ quên (do dồn sức tái thiết Châu Âu). Chỉ 4 năm sau, Tưởng chạy ra Đài Loan.


Stalin nhìn Hồ Chí Minh và nói với Mao: Vũ khí Nga chuyển tới Việt Nam rất khó vì xa xôi, đồng chí hãy lấy vũ khí của mình cho Việt Nam rồi Nga sẽ bù lại vũ khí mới.


Thế là từng đoàn xe vận tải và đại bác của… Nhật Bổn… ùn ùn… bao vây Điện Biên.



Pháp thua trận Điện Biên vì pháo binh Nhựt Bổn. Số là họ xây dựng công sự để chống loại pháo nhỏ, nhưng loại pháo Hồ Chí Minh nhận được là loại hạng nặng, gây ra bất ngờ cho phía Pháp.


Loạt pháo đầu tiên đã đánh sập một căn hầm chỉ huy của phía Pháp, giết chết chính con trai của tướng Đờ-cát. Chỉ huy pháo binh của Đờ-cát sau mấy loạt đấu pháo tiếp theo, biết mình sẽ không hoàn thành nhiệm vụ, vào hầm rút chốt lựu đạn tự sát.


Vấn đề nữa là những anh lính nông dân của tướng Võ Nguyên Giáp làm sao có thể sử dụng được vũ khí hạng nặng?


Năm 1945, có gần 700 sỹ quan và binh lính Nhật quyết định ở lại Việt Nam, lấy tên họ Việt và gia nhập Việt Minh. Lý do, một phần vì họ không muốn trở lại Nhật Bản (bị Mỹ chiếm đóng) nhưng phần lớn là vì họ đã… lấy vợ Việt Nam.


Công lao của những người vợ Việt Nam này vô cùng lớn, vì họ đã giữ những chiến binh được đào tạo bài bản về khí tài quân sự hiện đại của Nhật cho Việt Minh. Họ đã huấn luyện binh sỹ Việt Minh sử dụng vũ khí hiện đại. Đóng góp ấy là vô cùng quan trọng.


Vai trò của những người lính Nhật này trong quân đội Việt Minh đã khiến chính phủ Nhật sau đó chú ý. Sau trận Điện Biên, họ đòi Việt Nam Dân chủ cộng hoà trả lại người nhưng không cho những anh lính này mang vợ con đến Nhật.


Việt Minh sau đó không chỉ xoá sạch hoàn toàn vai trò của những người lính Việt Minh gốc Nhật này khỏi lịch sử mà vợ con của họ ở lại Việt Nam cũng bị kỳ thị, không được cấp quyền công dân (không có chứng minh nhân dân, không được tham gia vào các định chế của xã hội cộng sản như “hợp tác xã”, con cái cũng không được đi học, để mặc họ tự vật lộn trong một xã hội bị kiểm soát toàn diện).


Có những anh lính Nhật đã dành phần đời còn lại chiến đấu… để gặp lại vợ con. Đến thập nhiện 90, nhiều người trong số họ mới toại nguyện. Câu chuyện của họ thành chất liệu để anh Quang Phan thực hiện tác phẩm RE/COVER tuyệt vời. (Xin xem tác phẩm của anh ở đây: “Nghệ thuật và hoà giải – vượt lên những đường biên“)


Đã đến lúc Việt Nam cần học về lịch sử bằng tinh thần đa nguyên.


Trong trận Điện Biên, chiến sỹ hai bên đều dũng cảm, nhưng không nên kể về lòng dũng cảm đó bằng ngôn ngữ của thần thoại, bởi lòng dũng cảm không còn là yếu tố quyết định trong chiến tranh hiện đại.


Pháo binh đóng vai trò quyết định thắng thua ở Điện Biên. Nếu Việt Minh chỉ có lòng dũng cảm mà không có pháo binh hiện đại, và ngay cả khi có pháo binh hiện đại mà không có tri thức và kỹ năng sử dụng chúng, thì… sẽ không có Điện Biên mà chỉ là… Nà Sản thôi. Và sức mạnh pháo binh ấy của Việt Minh thì “Made in Japan” bằng nhiều con đường khác nhau.


(Về câu chuyện Nà Sản và Điện Biên thì xin xem ở đây)


Sách Việt Nam nói về các cỗ pháo Nhật trong trận Điện Biên Phủ. Nguồn: Dương Quốc Chính.


Friday, 9 May 2014

TRUNG CỘNG CHO TƯỚNG (KHÔNG BIẾT CÒ SÚNG Ở ĐÂU) VÔ MANH GIÁP (VÕ NGUYÊN GIÁP) MƯỢN TÊN CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ./- Mt68

Điện Biên Phủ và lừng lẫy năm châu!?
Hoàng Thanh Trúc (Danlambao) - cs/ XHCN/VN - Nhiệt liệt hoan hô 2 trong số 192 Quốc Gia trên địa cầu gửi điện mừng chiến thắng Điện Biên "lừng lẫy 5 châu, chấn động địa cầu"!?
Không biết có thêm nước nào nữa không, trên “5 Châu, địa cầu” này còn nhớ tới cơn “chấn động” Điện Biên Phủ cách nay 60 năm? Nhưng tính đến ngày 7/5 trên trang mạng báo Nhân Dân và Dân Trí điện tử của “nhà nước, đảng ta” hân hoan báo tin “Lãnh đạo các nước gửi điện mừng 60 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ”. Bao gồm “các nước” CHLB Nga và… nước Lào.
Chắc cũng còn điện mừng nữa chứ? có lẽ nghẽn mạng vì cùng lúc đang chen nhau tới tấp trên đường trực chỉ Việt Nam!… Bởi “5 Châu - địa cầu” dễ gì mà quên được một trường hợp hiếm có lạ lùng, khi thế chiến II tàn cuộc, khắp thế giới các quốc gia đang hối hả thi nhau hàn gắn vết thương chiến tranh, một số nước tranh thủ đơn phương tuyên bố lấy lại chủ quyền độc lập quốc gia trong hoà bình từ các mẫu quốc thực dân (Pháp-Anh) mà không phải tốn thêm xương máu, cụ thể như vùng Đông Nam Á, ( Asean) láng giềng của Việt Nam gồm các quốc gia: (xin nhắc lại chút tư liệu bài trước) 
* Indonesia – Qua ba thế kỷ rưỡi dưới ách thực dân Hà Lan sau thế chiến II Dưới sự bảo trợ của LHQ và Mỹ ngày 27-12-1945 Indonesia đã giành được độc lập trong hoà bình.
* Philippines từng là thuộc địa của Tây Ban Nha, Nhật và Mỹ, sau thế chiến II Qua Hiệp Ước Manila ngày 4-7-1946 LHQ và Mỹ công nhận Cộng hoà Philippines là một quốc gia độc lập.
* Myanmar là một nước thuộc địa đế quốc Anh giành được độc lập không đổ máu vào năm 1948.
* Campuchia thuộc địa Pháp trong liên bang Đông Dương Sau khi Nhật bại trận cuối thế chiến 2 - Campuchia tuyên bố độc lập trong hoà bình vào năm 1953.
* Lào bị sáp nhập vào Liên bang Đông Dương thuộc địa Pháp vào năm 1893, sau khi Nhật đầu hàng quân đồng minh ngày 12-10-1945 Lào tuyên bố độc lập. Tháng 7 năm 1954 Pháp ký Hiệp Ước Geneve công nhận nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Lào.
* Malaysia là thuộc địa của đế quốc Anh vào thế kỷ 18, giành được độc lập rất hoà bình từ khối liên hiệp Anh vào ngày 31 tháng 8 năm 1957.
* Singapore – Là thuộc địa của Anh Quốc vào năm 1824, bị Nhật Bản chiếm đóng trong thế chiến 2. Khi Nhật bại trận, sau chiến tranh Singapore tuyên bố độc lập tách ra khỏi mẫu quốc Anh vào năm 1963 mà không tốn chút xương máu nào.
* Brunei là thuộc địa đế quốc Anh vào Năm 1888, Brunei giành được độc lập từ mẫu quốc Anh vào ngày 1 tháng 1 năm 1984.trong một thoả hiệp hỗ tương hoà bình. (Theo Wikipedia)
Tất cả gần như có được độc lập mà không chút vướng bận “binh đao”.
Ngược lại, thật là hi hữu, duy nhất trên thế giới, tại Việt Nam ông Hồ Chí Minh và tay chân đảng cs của ông lại tạo ra một cơn “chấn động địa cầu” khi hoà bình trên thế giới đang thiết lập, lại lấy thương vong gần 10.000 sinh mạng nhân dân mình đánh đổi một chiến thắng với một một nhúm quân viễn chinh thực dân Pháp co cụm tại Điện Biên Phủ mà theo các nhà chiến lược và chính trị gia thế giới (tại thời điểm ấy) khẳng định dự báo: Không cần phải phung phí máu xương một cách rồ dại như thế, nhúm quân viễn chinh này sẽ xuống tàu về Pháp là tất yếu vấn đề là sớm hay muộn, chắc chắn điều này phải xảy ra – Lý do còn bám víu lại nơi ấy chỉ là một chút níu kéo để trả treo về quyền lợi trong giải pháp “Liên Hiệp Pháp” mà thôi. Nhìn sang 2 nước Campuchia, Lào và một số quốc gia Asean trong bối cảnh độc lập trước 1954 (trước trận Điện Biên) đã có thể tiên liệu được . 
Người ta viện dẫn, tại thời điểm ấy, một chính trị gia hay một nhà lãnh đạo dẫu có ngu ngốc nhất về thế giới quan, khái quát cũng phải nhận diện và hiểu ra rằng đế quốc thực dân Pháp sau khi đầu hàng bị phát xít Đức chiếm đóng (tháng 6/1940). Bốn năm kháng chiến chống đội quân đô hộ Đức khiến nước Pháp tiều tuỵ tan nát toàn diện không còn gì là hình hài của một Mẫu quốc nữa (phải đến năm 1944 được quân Mỹ và đồng minh đổ bộ lên Normandie giải phóng) - Một nước Pháp “Ốc chẳng mang nổi mình ốc” như thế thì làm thế nào còn đèo bồng tiếp tục “mang cọc cho rêu”. 
Còn hơn thế, Mỹ và 9 quốc gia đồng minh đã hao tốn gần nửa triệu binh sĩ thương vong để giải phóng nước Pháp ra khỏi sự độ hộ của phát xít Đức thì chẳng bao giờ đồng thuận cho nước Pháp tái lập chế độ đô hộ thực dân lên các nước khác – Bằng chứng, khi Trận Điện Biên Phủ xảy ra dù lực lượng quân sự hùng mạnh của Mỹ có mặt tại đảo Guam và nhất là tại Vịnh Subic Philippines bên bờ biển Đông, đối diện Việt nam là căn cứ hải quân lớn nhất của Mỹ tại Thái Bình Dương nơi Đệ thất hạm đội đóng quân, được Pháp cầu viện nhưng Mỹ chỉ phái đi phi cơ vận tải Dakota thả dù chủ yếu tiếp liệu lương thực cho đội quân Pháp sống còn chứ không hỗ trợ tác chiến – (Tư liệu của CSVN ghi rằng Mỹ tham chiến?). Người ta nghĩ vui nếu quân Mỹ tham chiến hỗ trợ chính thức hết lòng bằng không quân cho Pháp thì trận này đã thành “trận Điện Âm Phủ” rồi, dù có cả sư đoàn pháo binh chủ lực của Trung Quốc tham chiến do 2 tướng Vi quốc Thanh và Lã Quý Ba chỉ huy tướng Giáp luôn cả Ông Hồ. Toàn bộ chiến thuật (đào giao thông hào) là do hai tướng LÃ QUÝ BA (người sau này là đại sứ đầu tiên của trung quốc ở VIỆT NAM) và VI QUỐC THANH (người nổi tiếng với câu nói VIỆT NAM LÀ ĐỒ PHẢN PHÚC PHẢI DẠY CHO VIỆT NAM MỘT BÀY HOC năm 1979) chỉ đạo, lấy dân công Việt Nam làm công cụ.
Đây! Bộ sậu Tàu Cộng và Việt Cộng làm nên “chấn động địa cầu”!? (Vi quốc Thanh và Lã Quý Ba ). Bên phải. 
Tuy nhiên, suy cho cùng những chóp bu csVN phát ngôn tôn vinh đánh bóng trận đánh là “lừng lẫy năm Châu” cũng có lý “tầm cao trí tuệ” của nó. 
Để bảo vệ biên giới phía Đông Bắc của một Trung Quốc cs non trẻ, trước đó một năm (1953) Trung Quốc đã phải hy sinh thương vong gần nữa triệu (500.000) quân để giữ được Bắc Triều Tiên làm phên dậu che chắn trước làn sóng quân tư bản Mỹ và đồng minh áp sát biên giới đe doạ thành quả cách mạng Mao Trạch Đông.
Thì ở phía Nam là căn cứ quân sự Điện Biên Phủ của quân tư bản Pháp nằm sát biên giới Việt Trung như cái gai nhọn phà hơi tư bản vào lãnh thổ cs/tc cần phải nhổ bỏ thì còn gì tốt hơn bằng dùng súng đạn giao cho csVN làm tay sai lấy máu xương dân Việt đuổi Pháp đi và ngay sau đó theo dòng thời cuộc là mưu đồ tiếp tục dùng vũ khí tc thông qua tay sai HCM và csVN đánh Mỹ bằng người Việt Nam cuối cùng.
Kết quả là Hồ Chí Minh và csVN đã làm nên một “đại” chiến công “Lừng lẫy năm Châu” mà không một quốc gia nào trên thế giới này có can đảm làm được đó là dùng hàng triệu máu xương nhân dân nước mình đuổi Pháp đi để bảo vệ cho biên giới phía Nam Trung Quốc. Đuổi Mỹ đi khỏi khu vực để không còn thế lực nào đối trọng với Trung Quốc để “đồng chí” của mình tự do cướp đoạt đất trời biên giới biển đảo quê nhà của ngay chính quốc gia mình...
Và ngày hôm nay - cả nước chứng kiến - Tại thời điểm này, giàn khoan dầu khổng lồ siêu sâu vĩ đại HD-981 của “đồng chí 4 tốt 16 vàng” tc đang chểm chệ ngự trị trên thềm lục địa trong lãnh hải Việt nam chính là biểu tượng lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh tạo ra chiến công “lừng lẫy năm châu” lé mắt địa cầu, mà không một quốc gia nào trên thế giới có tầm cao trí tuệ hăng hái nhiệt tình đuổi Mỹ đi bằng máu xương Việt Nam dọn đường thênh thang rước con voi Trung Quốc về dày lên mả tổ nhà mình.
“Lừng lẫy với năm Châu” về mức độ ngu xuẩn của csVN chính là chỗ này.

Thursday, 13 March 2014

60 NĂM TRƯỚC VIỆT CỘNG LÙA DÂN VÀO CHỖ CHẾT - ĐỂ NGÀY NAY BỌN SÂU BỌ CA SĨ, NGƯỜI MẪU, GIAN THƯƠNG , ĐĨ ĐIẾM LÊN NGÔI ... NHÀ CỬA , XE CỘ, LÂU ĐÀI HƠN CẢ VUA CHÚA THỜI XƯA./- Mt68



17 giờ 10 phút ngày này cách đây 60 năm: Mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ
Thứ năm, 13/03/2014 19:46
Lúc 17 giờ 10 phút ngày này 60 năm trước, ngày 13-3-1954, trận đánh mở màn cho Chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu. Những chiến sỹ Quân đội nhân dân Việt Nam ào ạt tấn công đồi Him Lam. Đây là 1 trong 3 trung tâm đề kháng tại cửa ngõ Tập đoàn cứ điểm.
 
Pháo binh nổ súng vào cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ vào chiều 13-3-1954. Ảnh: T.L
 Him Lam được quân Pháp xây dựng trên điểm cao gần 500m, gồm 3 cứ điểm trên 3 quả đồi nằm giáp cánh đồng Mường Thanh, án ngữ con đường Tuần Giáo - Điện Biên, cách phân khu trung tâm 2,5km. Với vị trí "'đầu sóng ngọn gió'' nên Him Lam được Pháp xây dựng thành vị trí kiên cố bậc nhất của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
60 năm đã đi qua, khói lửa không còn trên đồi Him Lam, nhưng mãi mãi vẫn còn đó chiến công lẫy lừng của những người Chiến sĩ Việt Nam kiên cường, giàu lòng yêu nước, mở đầu cho chiến dịch giải phóng Điện Biên Phủ.
Thành phố Điện Biên hôm nay

Điện Biên Phủ là một địa bàn chiến lược hết sức quan trọng, là một vị trí chiến lược cơ động ở giữa miền Bắc Việt Nam, Thượng Lào và miền Tây Nam Trung Quốc, có thể trở thành một căn cứ lục quân và không quân có tác dụng rất lợi hại trong âm mưu xâm lược của Pháp và cả Mỹ ở vùng Đông Nam Á.

Lực lượng của địch ở Điện Biên Phủ lúc đầu có 6 tiểu đoàn, sau tăng lên dần để đối phó với cuộc tấn công của ta, 12 tiểu đoàn và 7 đại đội bộ binh, bố trí thành Tập đoàn cứ điểm Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm và nếu khả năng âm mưu của địch cũng biến thành cơ hội để quân ta tiêu diệt sinh lực tinh nhuệ của địch.
Đầu tháng 1-1954, ta tập trung 5 đại đoàn (sư đoàn) chủ lực (308, 312, 316, 304 và đại đoàn pháo binh 351) tại chiến trường Điện Biên Phủ bao vây Tập đoàn cứ điểm, không cho chúng rút vì nếu chúng rút, ta chỉ giải phóng đất đai thôi thì cuộc bao vây thất bại. Địch rút an toàn, chúng lại chiếm đóng nơi khác.

Chiều ngày 25-1-1954, giờ G quân ta ấn định sẽ nổ súng mở màn cuộc tiến công vào Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ mà mọi cán bộ, chiến sĩ rất mong đợi, nhưng trước đó vài  giờ, cuộc tiến công lại hoãn. Ta chuyển từ "tiến nhanh, giải quyết nhanh” sang "tiến chắc, giải quyết chắc”. Và nguyên nhân sâu xa thì sau này mới biết rộng rãi. Trong ngày 25-1-1954 trước khi mở cuộc tấn công dự tính vào buổi chiều, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã quyết định "đánh chắc, tiến chắc” và không thực hiện phương châm "đánh chớp nhoáng theo giải pháp chớp nhoáng”. Các tư lệnh, chính ủy đại đoàn chấp hành lệnh của Đại tướng và chỉ băn khoăn đã kéo pháo vào trận địa, kéo trọng pháo 105 ly nặng hơn 2 tấn rất gian nan, kéo bằng tay. Đại tướng lệnh ngay tức khắc kéo pháo ra và hoãn cuộc tấn công.
Cố vấn Trung Quốc vẫn giữ quan điểm "Đánh nhanh, tiến nhanh”, "Đánh chớp nhoáng theo giải pháp chớp nhoáng” nhưng không còn đi ngược lại với quyết tâm của cán bộ, chiến sĩ ta thay đổi chiến thuật và chuẩn bị đánh chắc ăn từng trận bằng cách tiến vững vàng.
Từ ngày 25-1-1954, bộ binh, pháo binh đều tranh thủ xây dựng trận địa, pháo 105 ly không còn lộ thiên, khi bắn dễ bị máy bay địch phát hiện và pháo địch sẽ hủy diệt pháo ta ngay. Xây dựng hầm pháo 105 ly tại sườn núi đối diện với tập đoàn cứ điểm, trên nóc chịu đựng mọi sức phá hủy của các cỡ đạn pháo của địch. Các cán bộ trọng pháo 105 ly đã nhiều lần đo đạc tính toán, kiểm tra kỹ lưỡng các phần tử bắn (các số liệu về tầm, hướng mà các pháo thủ lấy lên pháo để bắn, chuẩn bị bắn thật trúng đích).
Bộ binh đào hàng trăm ki-lô-mét giao thông hào, tiến đến đâu giao thông hào đào đến đó. Hơn một tháng rưỡi sau, khi bộ đội ta đã hoàn thành công cuộc chuẩn bị chiến đấu theo phương châm "Đánh chắc, tiến chắc” chiều 13-3-1954, ta mới chính thức mở màn cuộc tiến công vào Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.  
Mục tiêu cuộc tiến công của ta là trung tâm đề kháng Him Lam và toàn bộ phân khu bắc. Him Lam nằm bên đường 41, cạnh bản nhỏ Him Lam, bộ đội đã lấy tên bản này đặt cho vị trí địch. Him Lam giữ vị trí chủ yếu ngăn chặn chủ lực ta từ Tuần Giáo theo đường 41 tiến vào đồng thời là một đài quan sát phát hiện ta từ xa cho pháo binh ở Mường Thanh kết hợp với máy bay đánh phá. Binh lực chiếm đóng ở Him Lam là tiểu đoàn dù lê dương thứ nhất thuộc bán lữ đoàn lê dương thứ 13, một đơn vị mà theo lịch sử xâm lược của quân đội viễn chinh Pháp, đã được xây dựng gần 100 năm, gồm 4 đại đội lê dương tinh nhuệ nhất, rất thạo về phòng ngự.


Bộ đội ta xung phong trên đồi Him Lam

Đại đoàn 312, được vinh dự đánh trận mở màn, Đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn lo lắng sương mù phủ kín các mục tiêu của pháo binh trước giờ nổ súng. Đồng chí thấy cần hỏi ý kiến Bộ Tư lệnh đại đoàn pháo binh. Chuông điện thoại đổ hồi. Anh chiến sĩ thông tin trẻ tuổi giữ máy vội đưa ống nghe lên tai rồi mới nói với Đại đoàn trưởng:

- Báo cáo đồng chí nói chuyện với anh Ngọc (Tướng Giáp).

Đại đoàn trưởng đến cầm ống nghe. Anh đã biết rõ trước một trận đánh quan trọng, Tổng Tư lệnh thường hay trực tiếp kiểm tra quyết tâm của người chỉ huy:

- Đồng chí Tấn đấy phải không? Bộ đội đã sẵn sàng chưa?

- Báo cáo các đơn vị xung kích và hỏa lực của trung đoàn sẵn sàng, chỉ chờ pháo ta bắn là tiến ra trận địa xuất phát xung phong.

- Sương mù đã xuống nhiều, pháo binh đề nghị cho nổ súng sớm để nhìn rõ mục tiêu, bộ binh có đánh sớm được không?

- Báo cáo đồng chí, chúng tôi cũng đang định đề nghị với trên cho nổ súng ngay từ bây giờ.

- Được, đồng chí ra lệnh ngay cho đơn vị chuẩn bị. Chúc các đồng chí chiến thắng một trận thật giòn giã để mở màn cho chiến dịch. 

17 giờ 10 phút ngày 13-3-1954, chiến dịch "vang dội năm châu, chấn động địa cầu" chính thức mở màn. Khói đen trùm lên cụm cứ điểm Him Lam. Những đơn vị hỏa lực nhanh nhẹn rời chỗ ẩn náu bên sườn đồi, tiến xuống trận địa xuất phát xung phong. Ba tiểu đoàn bộ binh tiến thành các mũi do Trung đoàn trưởng Quang Tuyến và Trung đoàn trưởng Hoàng Cầm chỉ huy cùng tiến về phía cứ điểm địch. Trên dòng sông Nậm Rốm phía Tây Nam cứ điểm nhanh chóng xuất hiện một chiếc cầu. Cũng trên sông này, cách dăm chục mét về phía Bắc, một cánh quân của ta đang chạy trên mặt nước, vượt qua sông trên chiếc cầu chìm như đi giữa đường băng. Từ đêm hôm trước, các chiến sĩ công binh của ta đã bí mật làm xong 2 cây cầu trên con sông, một cầu chìm và một cầu nổi. Các bộ phận của chiếc cầu nổi được giấu kín trong những đám lau lách dọc bờ sông và lắp ráp lại khi trọng pháo 105 ly bắt đầu bắn vào vị trí địch.
Sau khi thấy chiếc cầu nổi xuất hiện trên sông, địch tập trung hỏa lực pháo ngăn chặn đường tiến quân của ta tại hướng này. Đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn đề nghị Bộ Chỉ huy mặt trận cho trọng pháo 105 ly bắn mạnh kiềm chế pháo binh địch và quyết định đưa tiểu đoàn dự bị vào chiến đấu tại các cứ điểm 2 và 3 nhanh chóng tiêu diệt nốt toàn bộ quân địch rồi từ đây mở đường đánh sang cứ điểm 1. 22 giờ, tiểu đoàn 428 báo cáo đánh chiếm xong toàn bộ cứ điểm 2 nhưng cả tiểu đoàn 428 tại đây và tiểu đoàn dự bị đã tiến vào cứ điểm 3 đều không vượt được qua những công sự dầy đặc và rất phức tạp của địch để mở đường sang cứ điểm 1.


Đồi Him Lam sau trận chiến đêm 13-3-1954
Ảnh: T.L

22 giờ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp điện thoại cho Đại đoàn trưởng đại đoàn 312 hỏi tình hình chiến đấu, Đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn trả lời:

- "Báo cáo đồng chí, bộ đội đã chiếm được hoàn toàn cứ điểm 2 và cứ điểm 3. Cứ điểm 1 vẫn chưa giải quyết xong”.

- Tại sao?

- Đại đoàn chưa nắm được cụ thể tình hình đơn vị.

- Phải cử ngay người vào cứ điểm nắm tình hình chiến đấu xem sao. Các đồng chí cần gì thì đề nghị. Cần giải quyết cho gọn trong đêm nay.

Trước mắt các chiến sĩ bộc phá chỉ còn lại một hàng rào cuối cùng. Tổ trưởng bộc phá Thuyết ôm bộc phá xông lên bị một viên đạn sượt bụng, anh cúi gập người xuống và vẫn tiếp tục chạy lên lao ống bộc phá xuống dưới hàng rào, hoàn thành nhiệm vụ mở cửa. Tiểu đội trưởng Nguyễn Hữu Oanh dẫn đầu một số chiến sĩ đánh thốc vào cứ điểm. Trận đánh Him Lam đã kết thúc lúc 22 giờ 30 phút. 

Chiến thắng Him Lam thu hút mọi người nhưng những chiến thắng của pháo binh ngày 13-3 đâu chỉ có ở Him Lam. Khu trung tâm Mường Thanh có hầm chỉ huy của tướng Đờ Cát, cũng là nơi tập trung lực lượng trọng pháo 105 ly và 155 ly của địch đã trúng pháo 105 ly của ta nhiều nhất ngày 13-3. Năm máy bay tại sân bay lần lượt bị phá hủy và các trận địa pháo của địch đều lộ thiên, một số đã bị pháo ta phá hủy.
Trong giờ đầu tiên của cuộc tiến công của ta, pháo địch ở khu trung tâm bị tê liệt, pháo thủ của địch phải nấp dưới hầm tránh đạn. Tên trung tá Langlais, chỉ huy bán lữ đoàn lê dương thứ 13 đang tắm bỗng tiếng nổ khủng khiếp của đạn pháo ta, trúng nơi chỉ huy của hắn. Langlais hoảng loạn vội lao vào hầm, thoát chết. Tên trung tá Gaucher, chỉ huy phân khu trung tâm đã được trung úy De Veyes cảnh báo về pháo Việt Nam, tại Him Lam, quan tư Pégause, chỉ huy tiểu đoàn lê dương thứ 3 và mấy sĩ quan dưới quyền đã chết vì pháo 105 ly. Gaucher tỏ ý giận dữ, càu nhàu: "Tôi đã nhắc là các hầm ở Him Lam quá mỏng, quá sơ sài”. Ngay sau đó pháo của ta đã bắn trúng nơi chỉ huy của Gaucher. Trời đã tối, điện lại tắt. Gaucher bị thương rất nặng, không còn hai cánh tay và máu ra rất nhiều. Gaucher chỉ kịp thều thào: "Lau mặt cho tôi, cho tôi uống nước”. Sau đó lịm đi rồi tắt thở.

Mọi tội lúc này đều đổ dồn cho đại tá Piroth, chỉ huy lực lượng pháo binh. Piroth rất được Đờ Cát nể trọng vì là sĩ quan có kinh nghiệm về pháo binh, xông pha trận mạc nhiều. Đờ Cát và các tướng, tá hỏi Piroth về pháo binh Việt Nam, Piroth đều chủ quan, nhún vai coi thường. Pháo 105 ly, bộ đội Việt Nam đưa lên đến Điện Biên Phủ sao nổi, qua bao đèo rất cao, suối sâu. Về phía ta, càng làm cho Piroth tự cao, tự đại vì cho đến ngày 13-3-1954, ta chỉ sử dụng pháo 75 ly vác vai, ta chưa hề bắn một viên đại đại bác 105 ly nào. Chính vì vậy, ngày 13-3, pháo 105 ly bắn ào ạt, cấp tập vào vị trí Him Lam và khu trung tâm Mường Thanh, bắn rất trúng đích, làm cho địch vô cùng kinh ngạc, Piroth không sao hiểu nổi. Suốt ngày 13-3 rồi 14-3, các sĩ quan đều hỏi Piroth pháo 105 ly của Việt Nam từ những đâu bắn tới vậy? Có cách nào làm pháo Việt Nam ngừng hoạt động không? Sao pháo của Pháp rất mạnh lại không làm "câm miệng” pháo Việt Nam. Piroth ú ớ không sao trả lời được, đành chỉ lên các đỉnh núi. Piroth quá ngượng ngập với các sĩ quan, lần đầu tiên pháo binh do hắn chỉ huy chịu thất bại ê chề và lại là đối thủ mới dùng trọng pháo trận đầu. Về hầm, Piroth chỉ nằm và bỏ ăn.
Sáng 15-3, cần vụ của Piroth nghe trong hầm của hắn có tiếng nổ, vội chạy vào thì thấy Piroth đã chết, mặt, ngực và bàn tay đã nát bét. Piroth đã tự kết liễu đời hắn bằng một quả lựu đạn. Mới đến ngày thứ ba của cuộc tiến công, cái chết thảm hại của đại tá chỉ huy lực lượng pháo binh địch đã chứng minh phương châm của chiến dịch "Đánh chắc tiến chắc” là hoàn toàn đúng đắn. Đó là tư tưởng quân sự Việt Nam, bắt nguồn từ truyền thống chiến tranh nhân dân của Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ, có dấu ấn Võ Nguyên Giáp, người học trò xuất sắc của Bác Hồ, đã thực hiện đến nơi đến chốn lời căn dặn của Bác trước khi Đại tướng lên đường đến Điện Biên Phủ, trực tiếp chỉ huy chiến dịch:

Thắng lợi mới đánh
Không thắng không đánh­­.
Theo Đại Đoàn Kế