Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label TrietGiaLEXUANLOCLeVietThuongQGHC. Show all posts
Showing posts with label TrietGiaLEXUANLOCLeVietThuongQGHC. Show all posts

Sunday, 6 August 2017

ĐỂ TƯỞNG NHỚ TÁC GIẢ LÊ VIỆT THƯỜNG (LÊ XUÂN LỘC- CH8 QGHC) VỪA MỆNH CHUNG TẠI MELBOURNE ÚC CHÂU./-TCL

LUẬT HỒNG ĐỨC VÀ VẤN ĐỀ DÂN CHỦ: TINH THẦN VÀ THỂ CHẾ

Lê Việt Thường 
NHẬP ĐỀ
  • A) NHỮNG NGHỊCH LÝ CỦA VẤN ĐỀ VIỆT NAM
IMG.869Nếu nghiên cứu một cách thấu đáo vấn đề Việt Nam, chúng ta có thể nhận thấy những điểm NGHỊCH LÝ sau đây về mặt:
1) KINH TẾ XÃ HỘI
Chỉ hơn một thập niên sau 1975,Việt Nam bị xếp vào hạng một trong những nước nghèo nhất thế giới, trong khi trước 1975, mặc dầu có tình trạng chiến tranh, nhưng có lẽ nhờ có môt chút TỰ DO, nên miền Nam VN cũng đã đạt được mức phát triển “ngang ngửa” với các nước láng giềng sau này trở thành những “con Rồng Á Châu”. Sau chính sách “Đổi Mới” của thập niên 1980   thì tình trạng KINH TẾ của Việt Nam trong một thời gian có vẻ khá hơn trước, nhưng cũng còn lâu mới đạt được mức độ lý tưởng của tiềm năng dân tộc. Còn nay thì khuynh hướng phát triển đã thay đổi trở lại và có vẻ càng ngày càng trở nên Tồi Tệ hơn nhiều !                                             
2) QUÂN SỰ CHÍNH TRỊ
Giới lãnh đạo CSVN  ngày nay có thái độ khúm núm, sợ sệt, cầu cạnh, đối với giới cầm quyền Bắc Kinh để mong được giúp củng cố địa vị cá nhân, gia tăng quyền lực của đảng Cộng sản, đến độ họ không ngần ngại bán đất, dâng biển của Tổ Tiên để lại. Trong khi đó, Tiền Nhân ta , có lẽ nhờ được hun đúc trong bầu khí Văn Hóa Truyền Thống nên có được tinh thần  “uy vũ bất năng khuất” như Trần Bình Trọng, hay oai hùng như Lý Thường Kiệt với thành tích “phá Tống bình Xiêm”, hay thao lược như Trần Hưng Đạo đã đánh bại ba lần đạo quân Mông Cổ hùng mạnh nhất thế giới đương thời, hay lẫm liệt  như Nguyễn Huệ nhất quyết đòi Trung Hoa phải trả lại hai tỉnh Lưỡng Quãng của Tổ Tiên Lạc Việt …vvv…
3) NGUỒN GỐC VĂN MINH 
Cách đây không lâu trở về trước, có lẽ do tình trạng phôi thai của Khoa Học, cũng như dụng ý của Thực dân Tàu rồi Thực dân Tây, người Việt bị mang tiếng là một dân tộc chỉ chuyên “học mướn viết nhờ“. Trong khi đó, các khám phá Khoa Học mới nhất cho thấy là Tổ Tiên chúng ta đã Khai Sinh ra nền văn hóa Nông Nghiệp ĐẦU TIÊN của Nhân loại và đã giúp Sáng Lập ra các nền Văn Minh Lớn như Trung Hoa, Ấn Độ, Lưỡng Hà….. 
4) NHÂN QUYỀN DÂN CHỦ                                                      
Một số ít các nhà quan sát cũng đã bắt đầu hé thấy các điểm Mâu Thuẫn nêu trên. Nhưng còn những điều Nghịch Lý sau đây trong lãnh vực Nhân Quyền Dân Chủ thì rất ít người nhận biết, và nếu có biết đến thì cũng có lẽ chưa có ai thấy đúng tầm mức quan trọng của vấn đề.
Thật vậy, trong khi nhà cầm quyền CSVN ngày nay bị các cơ quan Nhân Quyền Quốc Tế  “lên lớp” trong các bản phúc trình hàng năm của họ về mặt vi phạm Nhân Quyền và đàn áp Chính Trị và Tôn Giáo, thì có ai ngờ rằng vào khoảng hơn 500 năm trước đây, trong khi hầu hết toàn thể Nhân loại đang ở trong tình trạng dã man, mông muội thì Tổ Tiên chúng ta đã thành tựu được bộ Quốc Triều Hình Luật còn được gọi là LUẬT HỒNG ĐỨC, mà sau khi được phân tích đối chiếu với các tiêu chuẩn NHÂN QUYỀN QUỐC TẾ và các điều khoản của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, chúng ta sẽ ngạc nhiên một cách thú vị là không những các quy định nằm trong Luật Hồng Đức về mặt nhân bản và nhân đạo tiến bộ bỏ xa luật pháp của các nước Đông Á và Tây Phương ít ra là bốn thế kỷ, mà còn VƯỢT QUA ở một số điểm cả Hiến Chương LHQ lẫn Luật Pháp Tây Phương ngày nay.
  • B) NHÂN QUYỀN VÀ DÂN CHỦ
Nghiên cứu Bộ Luật Hồng Đức về khía cạnh Nhân Quyền có lẽ cũng là dịp tốt để bàn về vấn đề Dân Chủ. Lý do là như chúng ta có thể nhận thấy trong thời cận đại, nền DÂN CHỦ Tây Phương đã thành hình SONG SONG với việc tranh đấu cho những QUYỀN căn bản của người DÂN và hai ý niệm Nhân QuyềnDân Chủ thường đi đôi như hình với bóng.
Vây nên, nếu nền LUẬP PHÁP VN qua bộ Luật Hồng Đức đã ĐI TRƯỚC Nhân Loại ít nhất 4 thế kỷ về mặt NHÂN QUYỀN thì có lẽ một hiện tượng tương tự cũng đã xảy ra về khía cạnh DÂN CHỦ. Nhưng có lẽ phát xuất từ tinh thần VỌNG NGOẠI của đa số trong giới Trí Thức VN do ảnh hưởng nặng nề của thời kỳ Thực Dân Đô Hộ gần đây, các PHONG TRÀO TỰ DO DÂN CHỦ VIỆT NAM hôm nay để giải quyết các vấn đề thiết cận của mình, của dân tộc mình, có vẻ CHỈ trông chờ giải pháp đến từ BÊN NGOÀI, mà Không đếm xỉa gì đến NỘI LỰC của mình, của nền Văn Hóa TỔ TIÊN để lại.
Để bổ túc sự THIẾU SÓT rất trầm trọng nêu trên, chúng tôi sẽ đề cập đến Tương Quan giữa LUẬT HỒNG ĐỨC và vấn đề DÂN CHỦ dưới hai khía cạnh Tinh Thần và Thể Chế. Nhưng trước đó, chúng tôi xin được lướt qua sự Hình Thành của nền DÂN CHỦ TÂY PHƯƠNG.
 I) SỰ HÌNH THÀNH CỦA NỀN DÂN CHỦ TÂY PHƯƠNG                                                                                                   
  • A) LỊCH SỬ
Chúng ta thường nghe nói Lịch Sử của nền Dân Chủ Tây Phương bắt nguồn từ ba cuộc CÁCH MẠNG Anh Quốc (1642), Hoa Kỳ (1776) và Pháp Quốc (1789).
  • B) NGUỒN GỐC
Về nguồn gốc xa xưa của nền Dân Chủ Tây Phương, thì người ta thường nghĩ đến ảnh hưởng của HY LẠP và LA MÃ. Nhưng ngay nền Cộng Hòa LA MÃ cuối cùng cũng đã trở thành Độc Tài Chuyên Chế khi La Mã trở thành ĐẾ QUỐC.
Khi thời Trung Cổ chấm dứt với sự lớn mạnh của giai cấp Thương Gia Trung Lưu giàu có, thì tại Âu Châu nẩy sinh một khuynh hướng muốn làm sống lại các Giá Trị Dân Chủ kiểu Hy Lạp, La Mã trong thời PHỤC HƯNG (Renaissance) và sau đó trong thời CẢI CÁCH (Reformation).
  • C) THẾ KỶ ÁNH SÁNG                                                                                                      
Nhưng ảnh hưởng quyết liệt nhất đối với sự ra đời của nền Dân Chủ Tây Phương có lẽ bắt nguồn từ thế kỷ XVIII còn được gọi là THẾ KỶ ÁNH SÁNG (le Siècle des Lumières) với các Triết Gia hay Chính Trị gia sau đây:
1) LOCKE 
Locke quan niệm CHỦ QUYỀN không thuộc về Nhà Nước, mà về NGƯỜI DÂN. Và Quyền hành của NHÀ NƯỚC bị ràng buộc bởi luật “Tự nhiên” hay Dân luật. Nhiều ý tưởng của Locke về quyền Tự Nhiên, quyền Tư Hữu, về Trách Nhiệm của Nhà Nước , về luật của Đa Số được đưa vào Hiến Pháp của Hoa Kỳ.
2) VOLTAIRE
Voltaire tố cáo tất cả  những hình thức Mê Tín, Đàn Áp, Kỳ Thị ở mọi lãnh vực. Ông chủ trương ĐẠO ĐỨC phải được dựa trên các nguyên tắc Tự Do Tư Tưởng, Tôn Trọng Tha Nhân.
3) MONTESQUIEU
Montesquieu được biết nhiều với chủ trương Tam Quyền Phân Lập (Séparation des Pouvoirs): Lập Pháp, Hành Pháp, Tư Pháp,  nhằm bảo đảm Tự Do và các QUYỀN của Cá Nhân.
4) ROUSSEAU
Nổi tiếng về mặt Chính Trị với tác phẩm “Khế Ước Xã hội“( le Contrat Social), Rousseau bênh vực cho Tự Do Cá Nhân chống lại các loại Đàn Áp đến từ Nhà Nước và Giáo Hội.
5) FRANKLIN
Về mặt Chính Trị, Franklin gây ảnh hưởng cũng như chịu ảnh hưởng của các triết gia, tư tưởng gia, lãnh tụ cuộc Cách Mạng Pháp.
6) JEFFERSON
Là nhân vật Hoa Kỳ sáng giá nhất của Thế kỷ Ánh Sáng, mà ba công việc quan trọng nhất trong sự nghiệp CHÍNH TRỊ của Jefferson là các vận đông của ông về việc thiết lập một hệ thống Gíao Dục Công Lập, soạn thảo Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ và Đạo Luật về Tự Do Tôn Gíao tại Tiểu Bang Virginia.
Phần trình bày trên đây phản ảnh lối nhìn thông thường của đa số những người bàn về vấn đề DÂN CHỦ ngày nay. Theo họ, Nguồn Gốc Dân Chủ phát xuất từ TÂY PHƯƠNG, gần thì từ thế kỷ XVIII, còn xa thì từ HY LẠP, LA MÃ. Nhưng nếu nghiên cứu một cách thấu đáo, nghiêm chỉnh hơn thì chúng ta có thể nhận thấy vấn đề không chỉ đơn giản như vậy !
…..
 II) ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO TRÊN TƯ TƯỞNG THẾ KỶ ÁNH SÁNG
Thật vậy, G. LANSON, người sáng lập ra khoa Lịch Sử Văn Học Pháp có nhận xét sau đây: “Giữa năm 1692-1723 trong giai cấp thượng lưu xã hội Pháp xuất khởi một ý thức xã hội và một tinh thần cải cách MÀ TRƯỚC KIA CHƯA CÓ NHƯ VẬY BAO GIỜ”
  • A) SỰ THAY ĐỔI TƯ DUY TRONG XÃ HỘI TÂY PHƯƠNG
Theo Lanson, cuộc biến đổi đó gồm 6 điểm  đặc biệt sau đây:
1) Nhu yếu suy tư cách rõ ràng mạch lạc căn cứ trên sự kiện và kinh nghiệm chống với thiên kiến hay quyền lực. Chỉ tìm chân lý vì chân lý.
2) Lấy lương tâm làm tòa án tối cao độc lập ngoài giáo điều. Như thế mỗi người có thiện chí ở mọi nơi, không phân biệt nòi giống hay tôn giáo, đều có những nguyên tắc luân lý cốt yếu như nhau và cá nhân có quyền xét đoán cái gì là tốt, cái gì là xấu cho mình. Nói chung, cái tốt là những cái gì trung bình (không thái quá, không bất cập).
3) Tốt lành và khoái trá trở nên đồng cư, người ta không thể khử trừ mà chỉ nên hướng dẫn dục vọng, nhấn mạnh đến việc hưởng lạc thú ở đời. Những xét đoán đặt căn cứ ngoài thế giới đều biến mất.
4) Không nên theo Rousseau mà tìm cầu sự tốt nơi tuyền dã. Nhưng phải tìm trong nền văn minh và văn hóa.
5) Triết lý lạc thú được mở rộng cho tới triết lý hỗ tương: người ta phải cảm thức rằng có giúp cho người khác hạnh phúc thì mình mới được hạnh phúc.
6) Nhân Ái được thay cho Bác Ái
  • B) SỰ DU NHẬP NHO GIÁO VÀO XÃ HỘI TÂY PHƯƠNG
Cả 6 điểm của triết lý nước Pháp ở thế kỷ XVIII vừa kể trên, theo Cố Triết Gia Kim Định, đều giống một cách lạ lùng tinh thần của NHO GIÁO NGUYÊN THỦY.
Thời mà Lanson nhận là thời xẩy ra biến đổi, tức từ năm 1680-1715, lại chính là thời mà Nho Giáo Nguyên Thủy được giới thiệu thực sự với công chúng Pháp. Bản dịch Nho Giáo đầu tiên xuất hiện vào năm 1662 và nhiều bản dịch khác tiếp theo mấy chục năm sau.
Năm 1685, phái đoàn bác học Dòng Tên do vua Louis XIV cử tới Trung Hoa, từ đấy luôn luôn có những thư dài và sách dịch hoặc xuất bản được gởi riêng cho các nhà bác học nổi tiếng nhất. Những tài liệu đó sẽ làm nền cho các sách xuất bản các năm sau để giới thiệu với Âu Châu về Khổng Tử, nhiều hơn khi nào hết.V. Pinot có nhắc đến ngót 200 sách và báo trong khoảng thời gian kể trên.
Hậu quả là theo nhận xét của Gs H. Creel, “Bên Âu và cách riêng bên Pháp, tất cả những phương pháp suy tư đã bị biến thiên trong hai thế kỷ XVII, XVIII. Và sau sự biến trạng đó thì nền tư tưởng Tây Âu trở nên giống Viễn Đông trong nhiều khía cạnh. Sự biến dạng cũng như trở nên giống nhau không phải chỉ có hời hợt bên ngoài.
Còn theo Học giả V. Pinot, có ba điều làm cho giới trí thức Âu Châu thế kỷ XVI, XVII chú ý đến Trung Hoa:
1)TRUNG HOA ĐÔNG DÂN: Nếu mối bận tâm của các chính phủ ngày nay là nạn nhân mãn, thì trái lại, từ thế kỷ XVIII trở về trước, mối lo đầu tiên của nhà cầm quyền là làm sao cho dân được đông đúc.Đang lúc bên Tây Âu dân số cứ trụt lùi thì bên Tàu dân đông vô kể. Điều đó đã làm cho người ta thán phục chính phủ Trung Hoa và thầm ước bắt chước.
2)VẮNG BÓNG HÀNH KHẤT: Điểm thứ hai làm cho các du khách phải ngạc nhiên là trong đám đông đúc đó, vắng bóng hành khất. Đang khi đó, số hành khất đã trở nên đông đảo và lang thang trên khắp ngả đường Âu Châu và trở nên mối bận tâm của mọi chính quyền lúc đó.
3)TRUNG HOA PHONG PHÚ SUNG TÚC: trong khi Âu Châu lại nghèo nàn.
Mỗi người giải thích khác nhau về sự kiện mà tất cả ai nấy đều đồng ý: Tàu là một dân sung sướng và phồn thịnh. Và đó là nhờ nền Luân Lý và Chính Trị Tuyệt Hảo của họ
Có người giải thích bằng lòng cương trực của các quan đại thần không sợ liều mạng can gián vua. Người thì cho là tại chính sách Cử Hiền Dữ Năng, tức hễ người nào có TÀI ĐỨC thì có thể ra LÀM QUAN, không kể đến xuất xứ hay dòng tộc.
Và vì bấy giờ Tây Phương chưa biết bí quyết làm đồ sứ, và đồ lụa còn thô sơ hơn của Trung Hoa rất nhiều, nên lắm người cho là TÀU GIỎI HƠN TÂY.
  • C) THÁI ĐỘ CỦA GIỚI ĐẠI TRÍ THỨC TÂY PHƯƠNG
Còn nếu bước sang phạm vi VĂN HÓA TRIẾT HỌC thì người Tây Phương thời đó còn gặp nhiều lý do hơn để thán phục.
1) TRÍ THỨC ĐỨC Triết gia Leibniz rất mừng rỡ khi vào năm 1887, vua Khang Hy cho phép các Thừa sai được tự do truyền bá Ky Tô giáo bên Tàu. Ông viết:
” Chúng ta cần họ gửi cho chúng ta những nhà Hiền Triết và Chính Trị gia để họ dạy lại ta phép Cai Trị và tất cả khoa Thần Học Tự Nhiên mà họ đã đẩy đến một mức độ hoàn bị cao viễn dường ấy”.
2) TRÍ THỨC PHÁP
a) Voltaire viết: “Nếu bao giờ có một thời kỳ hạnh phúc nhất và đáng kính nhất trên Trái Đất này thì đó là thời kỳ người ta theo luật cai trị của Khổng Tử” và ” Hiến pháp của Trung Hoa thật ra là hoàn hảo nhất trên thế giới….là môt nước duy nhất khi mà quan cai trị tỉnh phải thuyên chuyển nếu không được dân hoan hô…”
b) Quesnay  và nhóm “Physiocrates” nhấn mạnh đến lãnh vực GIÁO DỤC với chế độ THI CỬ của Viễn Đông được người Âu Châu thời đó hoan nghênh nhiệt liệt vì được xem như lá cờ TIỀN PHONG cho Bình Đẳng và Dân Chủ.
c) Các Trí Thức Pháp Khác Hầu như không có một tác giả nào thời đó mà không nhắc đến Trung Hoa:
Montesquieu nhắc đến một cách Ôn Hòa. Rousseau tuy ghét Tàu về mặt Lễ Nghi phiền toái, nhưng khen Tàu về mặt CÔNG BÌNH và CAI TRỊ. D. Helvetius trong quyển “De l’Homme à la Sciencse Philosophique Diderot trong “Encyclopédie” (article “Chinois”) đều nhắc tới……
Và biết bao lời nồng nhiệt khiến gây thành một trào lưu sùng mộ Triết Trung Hoa với khẩu hiệu “Inoculer Aux Francais L’Esprit Chinois“(= Tiêm tinh thần TÀU vào cho PHÁP”.
3) TRÍ THỨC ANH
a) Chủ trương của Quesnay trong lãnh vực GIÁO DỤC có ảnh hưởng rất lớn đối với giới Trí thức Anh thời đó. Năm 1731, dân biểu Eustace đề nghị là nước Anh nên thâu nhận chế độ THI CỬ của Trung Hoa.
b) Năm 1762, dân  biểu O. Goldsmiths cũng dùng các lý luận của ông Eustace để đả kích gắt gao chế độ Đẳng Cấp Quý Phái thế tập bên Anh. Nhờ những cuộc vận động ráo riết đó nên cuối cùng Chính Phủ Anh Đã Chấp Nhận Phép Thi Cử Theo Lối Trung Hoa.
4) TRÍ THỨC HOA KỲ
a) Franklin. Năm 1767, khi sang Pháp đã làm quen với Tư tưởng của Quesnay  mà ông sẽ dùng sau này trong các lãnh vực GIÁO DỤC và HIẾN PHÁP.
b) Jefferson: đặc biệt chú trọng đến Tư Tưởng của Quesnay. Năm 1779, ông đưa ra dự án CẢI TỔ toàn diện hệ thống GIÁO DỤC HOA KỲ theo tinh thần và thể thức của Trung Hoa và VIỄN ĐÔNG. Trước đó, năm 1776 ông đã có dịp đọc những dòng sau đây của Voltaire: ” Trí khôn loài người không thể tưởng tượng ra được môt chính phủ tốt hơn….bởi vì các phần tử quan lại chỉ được thâu nhận sau nhiều đợt khảo thí nghiêm nghị“. Bàn về hệ thống THI CỬ của Trung Hoa, ít nhất có hai quyển đã nằm trong tủ sách của Jefferson: một của DU HALTE, một của L. LECOMTE với lời lẽ như sau:”Quyền quý không bao giờ mang tính cách kế thừa và không có sự phân biệt nào khác giữa dân chúng ngoài sự phân biệt do chức vụ mà họ đang thi hành“và”môt khóa sinh dẫu là con một nhà thường dân cũng có thể nuôi hy vọng lên đến chức Khâm Sai hay cả chức Tể Tướng như những sinh viên con nhà thế lực vậy“.
Phần trình bày trên đây cho thấy ảnh hưởng lớn lao của NHO GIÁO trên các  Triết Gia, Chính Trị gia của thế kỷ XVIII thường được mệnh danh là những người CHA TINH THẦN của nền DÂN CHỦ TÂY PHƯƠNG như Voltaire, Montesquieu, Rousseau, Franklin, Jefferson…..qua nội dung của nền TRIẾT LÝ CHÍNH TRỊ của Nho Giáo còn được gọi là VƯƠNG ĐẠO.
…..
 III) VƯƠNG ĐẠO HAY TINH THẦN DÂN CHỦ TRONG NHO GIÁO
  •  A) NỘI DUNG VƯƠNG ĐẠO
Nói vắn tắt thì Vương Đạo dùng ĐỨC TRỊ, còn Bá Đạo dùng LỰC TRỊ: “Dĩ lực phục nhơn giả Bá, dĩ đức phục nhơn giả Vương”
1) CỬ HIỀN Trước câu hỏi: “Quyền bính thuộc về ai? Người có tài đức hay võ lực? Hoặc dòng tộc?
Vương Đạo chủ trương quyền bính thuộc người HIỀN ĐỨC: “Tôn hiền, sử năng, tuấn kiệt tại vị“. Đó là lập trường đối lập với quan niệm “Kế thừa huyết thống của Thượng Đế” của Quý Tộc Đông cũng như Tây xây trên Thần Thoại với chế độ Kế Tử “cha truyền con nối“, kể cả trong hàng quan lại.
Theo nguyên tắc trên, Khổng Tử chỉ chú trọng tới TÀI ĐỨC mà không kể đến Dòng Tộc. Về việc Trọng Cung có TÀI mà không được đắc dụng chỉ vì thuộc tầng lớp thường dân, thì theo Khổng Tử, Trọng Cung không những nên cử làm QUAN, mà cả đến làm VUA: “Ung giả khả sử nam diện“.
Trong dòng tư tưởng đó, Khổng Tử chủ trương Quan Cai Trị, Vua Kiểm Soát, tức sự Quan Trọng đặt nơi QUAN, chứ không nơi Vua: “Dĩ đạo sự quân, bất khả tắc chỉ“(= Quan phải trung với Đạo, chứ không trung với cá nhân vua). Quan niệm trên sau này được Mạnh Tử đặt nổi với câu “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”
2) GIÁO CHI Chủ trương CỬ HIỀN TÀI như trên thật đúng là TINH THẦN DÂN CHỦ, chỉ chưa có phổ thông đầu phiếu. Nhưng bù lại, Ông đã cố gắng BÌNH DÂN HÓA VIỆC HỌC, cố gắng giật cái độc quyền học thức ra khỏi tay phái quyền quý để mở rộng ra với quần chúng:” Hữu giáo vô loại“(= trong việc giáo hóa, không có phân biệt giai cấp quý tiện sang hèn)
Ở phần trên chúng ta đã thấy là mãi đến khoảng giữa thế kỷ XIX, các nước Âu Mỹ mới bắt chước chế độ THI CỬ của VIỄN ĐÔNG để mở cửa giáo dục cho toàn dân!
3) PHÚ CHI Muốn cho dân nhờ giáo dục thì phải có của dư giả mới tìm ra thì giờ nhàn rỗi mà đi học. Và không có Triết Gia nào tha thiết về vấn đề làm giàu dân bằng Mạnh Tử: “Dân khả sử phú dã“. Đó cũng là lý do tại sao  Khổng Tử đặt “Phú chi” trước “Giáo chi” và ngược lại với Pháp Gia, Khổng Tử  chủ trương “làm giàu Dân“, chứ không phải” làm giàu Chúa“: “Bá tánh bất túc, quân thục dữ túc“(= Bá tánh không đủ ăn thì vua đủ ăn với ai).Và tất cả Triết Lý Chính Trị của Nho Giáo đặt trên Nguyên Tắc Căn Bản sau đây: “Bất hoạn quả nhi hoạn bất quân”(= Không lo ít của cho bằng lo chia của không đều).
4) LỄ TRỊ: Con người hễ đã “giàu có thì sinh lễ nghĩa“, nhân vị cao lên. Bởi vậy tiếp theo chương trình “Giáo chi, Phú chi”, Khổng tử chủ trương LỄ TRỊ vì theo Ông “Dùng chính trị hình luật mà cai trị thì dân mới biết có tránh phạm luật.Dùng đạo đức và lễ nhạc mà cai trị thì dân mới trau dồi nhân cách“.
5) CHỮ TÍN Lễ Trị là một lối cai trị tôn trọng người dân, coi người dân như người cộng tác với chính quyền. Đã nói đến cộng tác thì chữ TÍN là cần: “Thượng háo Tín tắc dân mạc cảm bất dụng tình“(=Nếu người trên Thành Tín thì không ai không hết lòng”. Đã TÍN thì coi Ý DÂN làm trọng. Trong ba vấn đề “Túc thực, túc binh, dân tín chi hĩ“(= lương thực cho đủ nuôi dân, binh lực cho đủ bảo vệ dân, lòng tin cậy dân đối với mình) thì Khổng Tử cho chữ TÍN là quan trọng hơn cả vì “Dân vô tín bất lập“(= dân không tín nhiệm thì chính quyền hết đứng nổi).
  • B) ĐỐI CHIẾU VƯƠNG ĐẠO VỚI TINH THẦN DÂN CHỦ NGÀY NAY
Khi đem 5 nguyên tắc căn bản trên đây của nền VƯƠNG ĐẠO của Nho Giáo để so sánh với Tinh thần Dân chủ Ngày nay mà nội dung đã được học giả Charles Merriam xác định, thì Gs H. Creel cho rằng Khổng Tử đã áp dụng được tất cả các khoản trừ khoản Ý Dân hay “Phổ Thông Đầu Phiếu” vì theo ông ” đấy là một điều  chưa có dân nào lúc đó dám nghĩ  tới“. Do đó, ông kết luận: Tuy chưa có thể chế Dân Chủ, mà sự cải tổ  của Khổng Tử đã mang tự thân TINH THẦN DÂN CHỦ. Còn Triết Gia H. Keyserling thì cho rằng ngay khoản Ý Dân cũng được Nho Giáo thực thi bằng lối “Đầu Phiếu Trường Ốc“(=Scrutin d’école), tức khoa THI CỬ.
  • C) LÝ DO ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO BỊ LÃNG QUÊN
Tại sao một trào lưu mạnh mẽ đã gây ảnh hưởng đến thế lại bị lu mờ để cuối cùng người Tây Phương quên đi ảnh hưởng của Nho Giáo trên sự thành hình của nền Dân Chủ Tây Phương ở thế kỷ XVIII. Có 2 loại lý do:
1) LÝ DO THỜI THẾ  Sau khi Cách Mạng Pháp thành công đạp đổ nền Quân Chủ thì các phe phái tại Tây Phương không còn cần dùng Trung Hoa để bênh vực cho lập trường Chính Trị của họ nữa.
Nhưng lý do chính cốt nằm trong vấn đề THUỘC ĐỊA và KHOA HỌC. Nhờ có những thuộc địa nên tài nguyên được quy tụ về Âu Châu gây dựng nền Tư Bản. Tư Bản giúp cho kỹ nghệ có phương tiện phát triển và đem lại cho Âu Châu sự giàu sang phồn thịnh, khiến nẩy sinh nơi người Tây Âu mặc cảm tự cao là tài trí hơn các dân khác mà họ đã chinh phục được.
Tự đấy người ta quên hẳn ảnh hưởng của Trung Hoa hay có nói đến là để tỏ dấu khinh thị một tình trạng ứ đọng. Mà quả thật, sau hai đời Khang Hy và Càn Long thì nước Tàu đi xuống giốc để cuối cùng bị các cường quốc Âu Mỹ đến thao túng, xâu xé, rồi đâm ra khinh dể
2) LÝ DO NỘI TẠI Tuy nhiên, sự suy tàn của Nho Giáo trong giai đoạn vừa qua không chỉ vì lý do THỜI THẾ , mà còn có những nguyên nhân NỘI TẠI nữa. Thật vậy, vào thế kỷ XVII, khi các Giáo sĩ Dòng Tên được vua Louis XIV cử qua Tàu, nhờ được vua Khang Hy trọng đãi, nên họ được nghiên cứu Nho Giáo đến tận nguồn. Đó là Nho Giáo Nguyên Thủy, Nho của TAM CƯƠNG: Trí, Nhân, Dũng, Nho “DÂN VI QUÝ” của Mạnh Tử là loại Nho Giáo đã ảnh hưởng đến những người Sáng Lập ra nền Dân Chủ Tây Phương như Voltaire, Montesquieu, Rousseau, Franklin, Jefferson
Còn trong thực tế, Nho Giáo của các Vương Triều Trung Hoa không còn giữ được tính chất Tinh Tuyền như vậy. Chẳng hạn:
a) Ở thời Huyền Sử, Nho Viêm Việt của Si Vưu đã bị Nho Hoa Tộc của  Hoàng Đế lấn áp.
b) Kế đến, nhà Chu đốt sách nhà Thương Nông Nghiệp và du nhập các yếu tố DU MỤC của nền văn minh Lưỡng Hà (Perse, Assyria) như các ý niệm Thiên Tử, Luật Hình, Hoạn Quan, Phong Kiến.
May là sau đó, Nho Giáo được Khổng Tử phục hưng thành nền VƯƠNG ĐẠO.
c) Còn nhà Tần thì “Đốt sách chôn Nho” với sự thắng thế của phe Pháp Gia.
d) Đến nhà Hán bề ngoài có vẻ tôn Nho nhưng trong thực tế lại lập tháp Thạch Cừ nhằm xuyên tạc Nho như chẳng hạn giải nghĩa Nho theo kiểu ma thuật có lợi cho chính quyền chuyên chế, hạ giá đạo Hiếu để đề cao “trung quân“. Đó là Nho loại TAM TÒNG của Đổng Trọng Thư.
e) Nho VƯƠNG TRIỀU còn tiếp tục SA ĐỌA với các nhà Minh, Tống, Thanh……
…..
 IV) LUẬT HỒNG ĐỨC VÀ NỀN DÂN CHỦ VIỆT
Phần trình bày trên cho thấy một mặt là muốn tìm ra TINH THẦN DÂN CHỦ chân thực, chúng ta phải biết vượt qua Hán Nho và các loại Nho của các Vương Triều để trở về với nền VƯƠNG ĐẠO của Nho Giáo Nguyên Thủy mà người đại diện ưu tú nhất là Khổng Tử. Nhưng mặt khác, Khổng Tử lại nói:”Thuật nhi bất tác“(=Ta không sáng tác gì, mà chỉ thuật lại Đạo của người xưa). Ở chỗ khác, ông hé cho chúng ta thấy “người xưa” đó là người ở phương Nam:”Nam phương chi cường giả, quân tử cư chi“.
Mặt khác, vì Dân Chủ và Nhân quyền đi đôi như hình với bóng như trường hợp nền Dân Chủ Tây Phương đã thành hình sau bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền của cuộc Cách Mạng 1789, do đó trước khi bàn về nền DÂN CHỦ VIỆT có lẽ cũng nên đề cập đến khía cạnh
…..
  • A) NHÂN QUYỀN TRONG LUẬT HỒNG ĐỨC
1) SƠ LƯỢC Năm 1483 vua Lê Thánh Tôn cùng với một số quan đại thần biên soạn bộ “Thiên Nam Dư Hạ” gồm 100 quyển viết về việc chính là Hình Luật. Bộ luật được đặt tên là Quốc Triều Hình Luật và thường được gọi là LUẬT HỒNG ĐỨC, gồm 722 điều khoản liên hệ tới nhiều lãnh vực luật pháp. Chẳng hạn bàn về:
2) QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỮA CON TRAI VÀ CON GÁI , GIỮA VỢ VÀ CHỒNG
a) SO SÁNH VỚI LUẬT TRUNG HOA
_ VỀ NHÂN THÂN  Luật Hồng Đức định rằng nếu người chồng bỏ bê vợ mình vì si mê một người đàn bà khác hay vì bất cứ lý do gì (trừ khi thi hành công vụ) mà kéo dài tới năm tháng hay một năm nếu có con, thì người vợ có thể kiện chồng.
Đặc biệt là những lý do này không có trong luật Trung Hoa và các nước Đông Á khác.
_ VỀ TÀI SẢN Theo điều 88 của ĐẠI THANH LUẬT LỆ, chỉ con trai được hưởng quyền chia tài sản của cha mẹ. Còn theo điều 78, khi người đàn bà lấy chồng thì tất cả tài sản riêng của mình kể cả tài sản mình tự tạo lập ra hay nhận của cha mẹ ruột của mình, đều phải sáp nhập hết vào gia sản của nhà chồng. Nếu ly dị hay cải giá, người đàn bà phải rời nhà chồng với hai bàn tay trắng, không lấy được các tài sản riêng mà mình mang đến cho gia sản của nhà chồng.
Trái lại, LUẬT HỒNG ĐỨC cho con gái được thừa kế ngang hàng với con trai. Và cho người đàn bà có chồng tiếp tục làm chủ tài sản riêng của mình. Khi ly dị hay cải giá, người đàn bà có chồng có quyền lấy lại các tài sản riêng của mình.
b) SO SÁNH VỚI LUẬT TÂY PHƯƠNG ĐỒNG THỜI
_ VỀ TÀI SẢN Trong khi LUẬT HỒNG ĐỨC cho vợ chồng hoàn toàn BÌNH ĐẲNG VỀ HÔN SẢN thì tại Mỹ, mãi tới năm 1890 nhiều tiểu bang mới sửa đổi và một số tiểu bang vần còn áp dụng học lý Femme Couverte của Thông Luật, theo đó NGƯỜI VỢ LÀ VẬT SỞ HỮU CỦA CHỒNG và không có quyền pháp lý đối với lợi tức do chính bà kiếm ra cũng như đối với con cái và tài sản của bà, trừ khi hai vợ chồng ký hôn khế trước đặt tài sản của họ dưới chế độ giám hộ(trust).
_ TỔNG QUÁT: Trong khi người phụ nữ VIỆT ở thế kỷ 15, có quyền tư hữu tài sản ngang hàng với chồng và giữ vai trò quan trọng trong gia đình cũng như ngoài xã hội, thì mãi tới thế kỷ 18 ở Âu Châu và thế kỷ 20 ở Mỹ, địa vị pháp lý của người đàn bà TÂY PHƯƠNG còn thấp trong cả gia đình lẫn ngoài xã hội. Cao trào phụ nữ (Feminism) chỉ thực sự lên cao tại Mỹ vào thập niên 1960 và thu thành quả tích cực vào những năm 1990.
Luật Hồng Đức còn tiến bộ hơn luật Tây Phương ít ra là 4 thế kỷ ở chỗ đã dãnh cho đàn bà quyền tham gia công vụ (làm quan) và dự liệu rằng NỮ QUAN được ưu đãi trong thủ tục thiết triều. Sự Tiến Bộ của luật Hồng Đức còn được thấy qua:
3) QUYỀN BÌNH ĐẲNG CHỦNG TỘC
a) NỘI DUNG Luật  Hồng Đức tìm cách loại bỏ mọi Hình Thức Phân Biệt Chủng Tộc bằng 3 biện pháp sau đây:
_ Sắc dân thiểu số được XÉT XỬ theo TỤC LỆ của họ nếu vụ kiện chỉ liên hệ tới những người trong cùng một sắc tộc.
_ Luật Hồng Đức còn cho phép sắc tộc thiểu số được quyền TỰ TRỊ HÀNH CHÁNH bằng cách đặt ra các CHÂU (ngang cấp HUYỆN của người Kinh) do chính người Sắc Tộc giữ chức Tri Châu cai trị.
_ Luật Hồng Đức cũng đảm bảo các quyền kinh tế và văn hóa của các sắc tộc bằng cách cho họ TỰ DO CANH TÁC  không hạn chế diện tích các vùng đất hoang (điều 348), TRỪNG PHẠT QUAN QUÂN  triều đình nào SÁCH NHIỄU hay cướp bóc người sắc tộc (điều 72).
b) SO SÁNH VỚI LUẬT TÂY PHƯƠNG Mãi đến năm 1965, với đạo luật Quyền Bầu Cử, tất cả mọi người Da Đen tại Mỹ mới bình đẳng đầy đủ về Chính Trị. Trước đó 5 thế kỷ, Luật Hồng Đức đã dành cho Sắc dân Thiểu Số Quyền BÌNH ĐẲNG đó rồi.
…..
  • B) LUẬT HỒNG ĐỨC VỚI HIẾN CHƯƠNG LHQ
Về các QUYỀN KINH TẾ, XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA, Luật Hồng Đức đã VƯỢT QUA Hiến Chương LHQ. Thật vậy, hiện nay các nước Hội Viên LHQ KHÔNG BỊ BÓ BUỘC phải thực thi những quyền ấy ở mức độ định trước, vì việc thực hiện bị giới hạn bởi mức khả dụng của tài nguyên quốc gia. Trái lại, Luật Hồng Đức xem những QUYỀN ấy là THỰC SỰ mà Nhà Nước có nghĩa vụ phải đảm bảo cho những người thụ hưởng luật định bằng cách TRỪNG PHẠT QUAN CHỨC KHÔNG THI HÀNH.
1) VỀ QUYỀN KINH TẾ  Luật Hồng Đức đảm bảo cho người dân 4 thứ quyền kinh tế được ghi nơi điều 25 bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền của LHQ:
a) Quyền An Sinh Xã Hội (Social Security) b) Quyền được săn sóc Sức Khoẻ (Medical Care) c) Quyền không bi bỏ đói (Freedom from Hunger) d) Quyền Tư Hữu.
2) VỀ QUYỀN XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA Giống như các Tiêu Chuẩn Nhân Quyền LHQ
a) QUYỀN GIA ĐÌNH  Luật Hồng Đức đảm bảo 3 quyền chính:
_ Quyền Thuận Tình kết hôn và lập một Gia Đình _ Quyền Bình Đẳng Dân Sự giữa Vợ Chồng (đã bàn ở trên) _ Quyền Bà Mẹ và Trẻ Em được săn sóc và bảo hộ.
b) QUYỀN TỰ DO GIÁO DỤC: Luật Hồng Đức đảm bảo:
_ Quyền hưởng Cơ Hội Đồng Đều _ Quyền Tự Do mở trường Dạy Học _ Quyền Tự Do chọn Trường Học và Thầy Học.
…..
  • C) LUẬT HỒNG ĐỨC VỚI LUẬT PHÁP TÂY PHƯƠNG NGÀY NAY
Về mặt NHÂN QUYỀN, Luật HỒNG ĐỨC còn VƯỢT QUA ở một số điểm như sau:
1) Án Tử hình phải được nhà Vua duyệt xét rồi mới thi hành.
2) Vua Minh Mạng chẳng hạn , thường bảo rằng mạng người rất quý nên các quan chức xử án phải xem xét án Tử Hình nhiều lần, dẫu cho nhà Vua đã xem qua. Và phải tâu lại nếu thấy còn chỗ nghi ngờ.
3) Đặc biệt, phụ nữ không bị án tử hình.
Các điều vừa nêu trên không có trong Luật Pháp Tây Phương ngày nay.
…..
 V) CÁC NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA NỀN DÂN CHỦ VIỆT
  • A) THỂ CHẾ DÂN CHỦ VIỆT
Phần trình bày trên cho chúng ta thấy tính chất TIẾN BỘ VƯỢT BỰC của Luật Hồng  Đức khi so với Luật Trung Hoa và nhất là Luật Tây Phương cùng thời. Ngay khi so sánh với Hiến Chương LHQ và Luật Pháp Tây Phương Ngày Nay về khía cạnh Nhân Quyền thì Luật Hồng Đức cũng VƯỢT QUA ở một số điểm. Do đó, chúng ta sẽ không còn ngạc nhiên, nếu Tiền Nhân ta đã thiết lập được một THỂ CHẾ thực sự DÂN CHỦ từ thời rất xa xưa.
1) DÂN CHỦ LÀNG XÃ
Nền DÂN CHỦ VIỆT phát xuất từ môi trường LÀNG XÃ, như Học Giả Paul Mus đã nhận xét: “Làng Việt Nam là một cái gì kỳ diệu, vì trong đó người ta sống hoàn toàn BÌNH ĐẲNG, cũng như là một tổ chức cai trị tuyệt vời”.
2) SO SÁNH CƠ CẤU LÀNG XÃ VIỆT VỚI THỂ CHẾ DÂN CHỦ NGÀY NAY
a) CƠ CẤU CHÍNH TRỊ
Tổ chức LÀNG XÃ VIỆT xưa cũ đã ngàn năm nhưng có đủ THỂ CHẾ và CƠ CHẾ của một xã hội Dân Chủ Hiện Đại.
Hội Đồng Kỳ Mục  bao gồm:
_ các Khoa Bảng Chức Sắc _ các Cựu Lý Dịch
Khoa Bảng là người đỗ đạt, biết nhiều hiểu rộng. Chức Sắc là những người đã từng có chức vụ trong xã hội, tức vừa có kinh nghiệm vừa có vai vế trong xã hội.. Vậy Khoa Bảng, Chức Sắc  trong Hội Đồng Kỳ Mục tương đương với giới Quý Tộc trong Hội Đồng Quý Tộc Anh (House of Lords).
Hội Đồng Kỳ Mục quyết định mọi việc tương đương với QUỐC HỘI trong một quốc gia. Lý Dịch Đương Thứ do dân bầu lên, tương đương với một Ủy Ban Chấp Hành, có nhiệm vụ Xử LýĐiều Hành các việc thông thường, nhưng phải chịu mệnh lệnh của Tiên ChỉThứ Chỉ (Chủ TịchPhó Chủ Tịch Hội Đồng Kỳ Mục). Khi mãn nhiệm, Lý TưởngPhó Lý vẫn còn là thành viên của Hội đồng Kỳ Mục.
Trong Ủy Ban Chấp Hành, ngoài hai chức Lý TưởngPhó Lý có thể so sánh với  các chức Thủ Tướng  và Phó Thủ Tướng ngày nay, còn các chức khác như Trương Tuần tương đương với bộ Quốc Phòng, Hương Bạ lo các vấn đề Hôn Thú, Sinh Tử tương đương với bộ Nội Vụ, Hương Bảng lo về Tài Chánh.
Hội Đồng Kỳ Mục quyết định mọi việc trọng đại nhưng cũng không thể vượt qua giới hạn xác định bởi một Hiến Chương đã được dân chấp nhận từ xưa gọi là Hương Ước. Vậy Hương Ước  chính là HIẾN PHÁP của một LÀNG.
Ngoài ra, từ nhà Lý trở đi mỗi triều đại đều có lập những cơ quan có nhiệm vụ phê phán những sai trái của triều đình, gọi là Ngự Sử Đài hay Đô Sát Viện có thể so sánh với Tối Cao Pháp Viện ngày nay.
Chế độ Công Điền Công Thổ tương đương với thể chế Welfare ngày nay đặc biệt với Quỹ Nghĩa Thương quyên góp hằng năm để giúp các thành phần gặp tai ương như Cô Nhi, Quả Phụ, Bô Lão… hoặc dùng làm “Học Bổng” cho các Thư Sinh Ưu Tú.
Cơ cấu tổ chức của LÀNG XÃ VIỆT vừa được trình bày trên đây Rất Giống với THỂ CHẾ DÂN CHỦ NGÀY NAY. Còn hai điểm Đặc SắcTân Tiến khác là chế độ TẢN QUYỀN và TỰ TRỊ ĐỊA PHƯƠNG
b) TẢN QUYỀN GS J.Mc.Alister thuộc Đại học Stanford có viết về vấn đề này như sau:” Chính Quyền Trung Ương Việt Nam thời trước có thể giữ các nhu cầu về Ngân Sách ở mức độ thấp, và xử dụng quyền KIỂM SOÁT của Trung Ương đối với Địa Phương, nhưng loại quyền này Không có tính chất HÀNH PHÁP, vì trách nhiệm thi hành các biện pháp trong từng chi tiết nằm trong thẩm quyền của Làng Xã. Trung Ương PHỐI HỢP chứ Không ĐIỀU KHIỂN! Một đặc sắc khác của đời sống Làng Xã là Thể Chế
c) TỰ TRỊ ĐỊA PHƯƠNG bao gồm việc mỗi Xã TỰ Chỉ Định lấy Xã Trưởng có nhiệm vụ điều khiển công việc của Xã và đại diện Xã đối với quan trên. Triều đình không cần biết đến từng cá nhân trong Xã, và chỉ cần ấn định mỗi năm  Xã phải cung cấp bao nhiêu thuế, bao nhiêu người làm xâu, bao nhiêu người đi lính. Xã chỉ cần cung cấp đủ số tiền và người cho Triều Đình, còn sự phân phối cho dân Xã chia ra chịu mỗi người một phần là việc riêng của Xã.
Tự Trị Xã Thôn còn được quãng diễn qua câu Phép Vua Thua Lệ Làng được thấy qua các trường hợp cụ thể như việc áp dụng các HƯƠNG ƯỚC nhằm ấn định phương pháp làm việc của Xã theo Nguyên Tắc của Thánh Hiền: Về mặt này, Xã TỰ Ấn Định nội dung của Hương Ước theo TỤC LỆ của Địa Phương chứ không bắt buộc phải theo Nghi Thức của Triều Đình.
d) CHÍNH SÁCH KINH TẾ Một đặc điểm khác của Làng Xã VN khi xưa là chế độ BÌNH SẢN mà nét đặc trưng có thể làm nổi bật qua việc so sánh với hai chế độ Tư BảnCộng Sản.
Nói cách chung, chủ nghĩa Tư Bản thì quá TƯ RIÊNG, còn Cộng  Sản thì quá CÔNG CỘNG, mà điều trên là hậu quả của nền Văn Hóa MỘT CHIỀU của Tây Phương, còn Văn Hóa Việt Nam vì chủ trương HAI CHIỀU như “Âm-Dương”, “Thiên-Địa”  nên với thể chế BÌNH SẢN chẳng hạn, Tiền Nhân ta quan niệm là phải có sự Quân Bình giữa Đất CÔNG và Đất TƯ. Một mặt, người Nông Dân VN trước kia được quyền Sở Hữu trên bình diện Pháp Lý, mặt khác, những thành phần KHÔNG có đất TƯ thì cứ định kỳ được Làng Xã cấp cho một phần đất CÔNG để cày bừa, trồng trọt và hưởng phần hoa lợi do công lao mình tạo ra, tránh được khủng hoảng do tâm lý tiêu cực bắt nguồn từ sự kiện  trong xã hội CS, mọi sự đươc xem là “của chung” (chỉ trên nguyên tắc nhưng .đó là một vấn đề khác). Nhưng vì thông thường không ai dại gì bỏ hết tâm huyết vào cái gọi là “của chung” đó nên có lẽ đó là một nguyên nhân chính yếu gây ra sự thất bại KINH TẾ và sụp đổ của chủ nghĩa Cộng Sản.
Ngoài ra, cũng khác với  TƯ BẢN Nguyên Thủy, vì quá đề cao cái TƯ RIÊNG, và với chủ trương quyền Tư Hữu Tuyệt Đối, nên để thiểu số ưu đãi thống trị và chiếm hữu phần lớn tài sản của quốc gia, đã gây ra những bất công trầm trọng là nguyên nhân của sự ra đời của phong trào CỘNG SẢN, thể chế BÌNH SẢN đã dự trù những biện pháp Tránh tình trạng ĐỘC QUYỀN của giai cấp Thống Trị trên tài sản quốc gia, như cách thức được áp dụng dưới thời Vua Minh Mạng chẳng hạn, chính phủ Trung Ương canh chừng giới Hào Mục tự tiện BIẾN đất CÔNG thành đất TƯ, hay phương thức mua lại số đất TƯ thặng dư của Tư Nhân để QUÂN BÌNH với số đất CÔNG hiện hữu hoặc như tập tục của Làng Xã VN trước đây nhằm khuyến khích giới Hào Phú Xã Thôn chia xẻ của cải giàu sang với các thành phần khác không được may mắn như họ.
Cách tổ chức LÀNG XÃ như trên có thể xem là hội đủ phần lớn các Tiêu Chuẩn của một Xã Hội TIỀN TIẾN ngày nay. Nhưng nếu ta nhớ lại rằng Thể Chế này đã được phát minh ra từ thời mà nông nô Âu Châu bị bóc lột đến xương tủy thì ta mới đánh giá đúng mức trình đột TIÊN TIẾN của Xã Hội VIỆT.
…..
  • B) TINH THẦN DÂN CHỦ VIỆT
1) NGUỒN GỐC NỀN DÂN CHỦ VIỆT
Theo chủ thuyết VIỆT NHO của Cố Triết Gia Kim Định được  hình thành vào khoảng thập niên 1960 và  được kiện chứng sau này bởi những khám phá Khoa Học Tân Tiến nhất thì Bách Việt vào đất Trung Hoa trước Hoa Tộc và đặt nền móng đầu tiên cho Nho Giáo. Do đó, Tổ Tiên LẠC VIỆT đã khai sáng ra nền Văn Minh NÔNG NGHIỆP Đầu Tiên của Nhân Loại tại Đông Nam Á, nên có Truyền Thống DÂN CHỦ Lâu Đời.  Còn Hoa tộc tuy vào sau nhưng vì là dân DU MỤC nên mạnh về Quân Sự, ép dần về phương Nam nước Trung Hoa, các bộ tộc Bách Việt mà Lạc Việt là một thành phần và Việt Nam là nhóm đại diện cuối cùng của VƯƠNG ĐẠO tức nền Dân Chủ theo tinh thần Nho Gíáo, mà hai đặc tính nền tảng là :
a) NHÂN BẢN tức lấy Con Người làm trung tâm cho  mọi suy tư lo lắng, cũng như bàn về những chuyện thiết yếu đến Tự Do, Nhân PhẩmHạnh Phúc của con người xét nguyên về phương diện là người.
b) TÂM LINH tức Không tự Giam hãm mình trong những phạm trù Hữu Hình nhưng luôn luôn vươn tới NGUỒN SỐNG mênh mông Phổ Biến đang ngầm chảy trong Vũ Trụ và làm Mối Quán Thông cho mọi tư tưởng thâm sâu nhất của Triết Lý Đông Phương.
2) NGUỒN GỐC NỀN DÂN CHỦ TÂY PHƯƠNG
Phần trình bày trên cũng cho thấy Ảnh Hưởng Lớn Lao của NHO GIÁO ở thế kỷ XVIII trên những người Cha Tinh Thần của nền DÂN CHỦ Tây Phương như Voltaire, Rousseau, Montesquieu, Franklin, Jefferson…..và qua họ Nho Giáo đã đóng góp vào đời sống mới của Nhân loại những tư tưởng BÌNH ĐẲNG, TỰ DO, Huynh Đệ Phổ Biến….hoặc chế độ THI CỬ cũng như ba Nguyên Lý đang hướng dẫn đời sống Âu Châu hiện đại:
a)    Tìm Hạnh Phúc ở Trần Gian b)    Quyền Làm Cách Mạng của Dân c)    Nền Luân Lý Công Dân
Nhưng có lẽ lý do kỳ thị chủng tộc, hay thiên kiến tôn giáo hoặc ý hệ….khiến người Tây Phương chấm dứt sự khai thác thấu triệt nền MINH TRIẾT Nho Gíáo bao gồm hai khía cạnh NHÂN BẢN và TÂM LINH vừa nêu trên. Thực vậy, với ảnh hưởng của Nho Giáo ở thế kỷ XVIII, người Tây Phương mới chỉ đi được những bước đầu tiên ở phạm vi NHÂN BẢN Xã Hội, chứ Chưa đạt tới bình diện TÂM LINH.
Do đó, tuy bề ngoài người Tây Phương đã có thể chế Dân Chủ, đã có nhiều luật lệ bảo vệ Nhân Phẩm và Tự Do con người, nhiều tổ chức xã hội chăm lo đến những nỗi bất công hay những cảnh huống bi thảm trong xã hội….nhưng đó có vẻ chỉ là hậu quả của sự Thịnh Vượng của nền Kinh Tế Tây Phương kiểu “Gìàu Sang Sinh Lễ Nghĩa” chứ các điều nêu trên Không thực sự phát xuất từ nội dung VĂN HÓA.
Và đây là điểm NGHỊCH LÝ Nền Tảng của văn minh Tây Phương ngày nay, vì  bên trong người Tây Phương hiện đang mắc loại bệnh “MẤT HỒN”, rơi vào sự “Trống Rổng”, “Hư Vô“(Nihilism)…….khiến các quốc gia Âu Châu hiện nay chẳng hạn phải dành phần chi phí cao nhất của ngân sách của họ cho lãnh vực TÂM THẦN. Điều này chứng tỏ sự Khủng Hoảng Trầm Trọng của nền văn minh Tây Phương !
Thực vậy, không dễ gì một sớm một chiều mà các dân tộc Tây Phương có thể rủ bỏ ÁC QUẢ 25 thế kỷ của nền văn hóa DUY LÝ mà bộ ba Triết Gia Hy Lạp Socrates, Plato, Aristotle là đồng tác giả.
…..
C) SO SÁNH NỀN DÂN CHỦ VIỆT VỚI DÂN CHỦ LA-HY
Và để hiểu rõ tất cả giá trị của nền DÂN CHỦ VIỆT, hãy thử so sánh với nền Dân Chủ LA-HY là một trong những nguồn gốc của Dân Chủ TÂY PHƯƠNG ngày nay.
1) NỀN DÂN CHỦ KIỂU LA-HY
Ở Hy Lạp, La Mã xưa, chỉ có từ 10% đến 20% người TỰ DO có đặc ân thờ cúng Tổ Tiên vì họ cho là tổ tiên của họ mới có máu Thần Linh. Điều trên rất quan trọng vì có quyền cúng tế Tổ Tiên, tức cũng là có quyền làm CÔNG DÂN với các quyền lợi theo sau như quyền được hưởng đất, mua sắm, đi học…..…Còn 80 đến 90% dân chúng LA-HY là Nô Lệ. Các triết gia Tây Phương như Plato, Aristotle… lại còn chứng minh và bênh vực chế độ Nô Lệ, coi như là điều cần thiết cho nền móng xã hội.Do đó, nạn người bóc lột người từ NÔ LỆ La-Hy chuyển qua NÔNG NÔ thời Trung Cổ, rồi qua giới THỢ THUYỀN Âu Châu của thế kỷ XIX với số phận rất là bi đát.
Đó là lý do làm nẩy sinh phong trào CỘNG SẢN mà hiểm họa diệt vong khiến giới TƯ BẢN phải nhượng bộ một phần nào trước những đòi hỏi của giới Thợ Thuyền Tây Phương. Và những Bất Công mà trước kia giới này phải gánh chịu, nay được chuyển qua các dân Nhược Tiểu. Ta mới thấy tính chất ĐẠO ĐỨC GIẢ của những người làm Chính Trị như Henry Kissinger, bề ngoài tuy nhân danh Dân Chủ Tây Phương, nhưng bên trong lại “đi đêm” và ủng hộ các chế độ Độc Tài, chuyên chế  đàn áp người dân của họ tại các nước Nhược Tiểu. Các triết gia Tây Phương thời mới như Hobbes, Machiavel, Hegel…..…vẫn biện hộ cho việc dùng võ lực để chiếm đoạt và bóc lột các dân nhược tiểu.
Do đó nếu nền Dân Chủ LA-HY trước kia dành cho thiểu số được gọi là CÔNG DÂN, thì nền Dân Chủ TÂY PHƯƠNG ngày nay có vẻ chỉ dành cho thiểu số các dân tộc DA TRẮNG.
2) NỀN DÂN CHỦ VIỆT
Trái lại, ở đất VIỆT có 1ẽ nhờ có cuộc Cách Mạng Tâm Linh nâng tục thờ cúng Tổ Tiên lên thành Lễ GIA TIÊN với bài vị Văn Tổ, nên hễ ai là Người thì đương nhiên có đủ quyền đứng ra Tế Gia Tiên, nên tục thờ cúng Tổ Tiên  hết còn là đặc ân dành cho quý tộc như ở các nơi khác thời xưa, mà trái lại Lễ GiaTiên ở đất VIỆT được mở rộng ra cho khắp mọi tầng lớp với các quyền lợi đi kèm như quyền được  đặt tên tự, và do đó quyền được hưởng công điền, quyền được đi học, đi làm quan……..
…..
 KẾT LUẬN
Tóm lại, nền Dân Chủ TÂY PHƯƠNG vì bắt nguồn từ những thúc bách bên ngoài thuộc các lãnh vực Chính Trị, Xã Hội, Kinh Tế… mà Không thực sự phát xuất từ nền tảng TRIẾT LÝ và VĂN HÓA nên vẫn chứa đựng rất nhiều điểm nghịch lý, MÂU THUẪN.
Trái lại, nền Dân Chủ VIỆT có lẽ nhờ bắt nguồn từ cuộc Cách Mạng TÂN THẠCH Nguyên Thủy của Tổ Tiên Lạc Việt , có tính chất VĂN MINH-VĂN HÓA thực sự nên đạt được MINH TRIẾT Toàn Diện với tính chất Nhất Nguyên LƯỠNG CỰC.
Do đó, nền Dân Chủ VIỆT tương lai phải là nền NHÂN – DÂN CHỦ Đích Thực vừa trung thành với Nguồn Cội của NHÂN, nhưng vừa lại có tính chất Khai Phóng Tiên Tiến của DÂN. Và Thể Chế  Dân Chủ VIỆT sau này sẽ không chỉ là PHÁP TRỊ, mà là LỄ PHÁP SONG HÀNH, tức vừa là LỄ TRỊ vừa là PHÁP TRỊ, nên dung hòa được hai nhu yếu trong con người: đó là Trật Tư Xã Hội qua PHÁP LUẬT và nét Riêng Tư độc Đáo qua LỄ TỤC.
  Lê Việt Thường
CHÚ THÍCH
(1) Encarta, 1995 Ed. (2) & (4) & (5) Pinot, Vigil, “La Chine et la Formation de l’Esprit Philosophique en France (1640-1740), Ed. De Paris, 1932 (3) & (9) & (25) Creel, Herrlee G.,    “Confucius and the Chinese Way”,Harper, N.Y. 1960 (6) & (10) Voltaire (1694-1778), “Dictionaire Philosophique”, Londres,1767 (7) Kim Định, “Cửa Khổng”, Lĩnh Nam, Louisiana, USA, 1997, tr.239 (8) Idem, tr.224 (11) & (12), LeComte, Louis (1655-1728), “Histoire Générale de la Chine” (13) Đoàn Trung Còn, “Mạnh Tử IIa.3, Trí Đức Tòng Thơ, in kỳ 3, SàiGòn, 1950 (14) MT IIa.5 (15) Đoàn Trung Còn, “Mạnh Tử VI.1, Trí Đức Tòng Thơ, in kỳ 2, SàiGòn, 1950 (16) LN: XI.23 (17) MT: VIIb.14 (18) LN: XV.38 (19) MT: VIIa.23 (20) LN: XII.9 (21) LN: XVI.1 (22) LN: II.3 (23) LN: XIII.4 (24) LN: XII.7 (26) LN: Hudson, Geoffrey F., “Europe and China, A Survey of Their Relations from the Earliest Times to 1800”, E. Arnold, London, (1961),c (1931) (27) Hoàng Xuân Hào, “Nhân Quyền trong Luật Hồng Đức: Niềm Tự Hào Dân Tộc”, Thế kỷ 21, số 113, th. 9/1998, tr. 28-33 (28) Nguyễn Ngọc Huy, “Quốc Triều Hình Luật”, Canada, 1998 (29) & (31), Paul Mus & John McAlister, “Les Vietnamiens et leur Révolution”, Du Seuil, 1972 (30) & (34) Phạm Khắc Hàm, “Triết lý Lý Đông A”, Nhóm Diễn Đàn Địa Lý (32) Nguyễn Ngọc Huy, “Di Cảo V” tr.42,44 (33) Lê Việt Thường, “Con Đường Nào Cho Việt Nam Hôm Nay”, Tham Luận DHVH 2005, San Jose, USA (35) Kim Định, “Cửa Khổng”, Lĩnh Nam, Lousiana, USA, 1997, tr.261

Wednesday, 19 July 2017

LÊ VIỆT THƯỜNG TÊN THẬT LÀ LÊ XUÂN LỘC CH6 QGHC SINH QUÁN QUẢNG NAM VỪA QUA ĐỜI ĐẤU THÁNG 7/2017 TẠI MELBOURNE./-TCL

TƯỞNG NHỚ NHÀ HIỀN TRIẾT, TRIẾT GIA, VỊ THẦY KHẢ KÍNH

Lê Việt Thường
IMG.624Nhân dịp Lễ Giỗ Mười Sáu Năm Ngày Cố Triết Gia Kim Định qua đời, chúng tôi xin được trình bày sơ lược Tiểu Sử của Ngài cũng như gợi lại một vài Kỷ Niệm mà chúng tôi có với Ngài trong khoảng thời gian chúng tôi hân hạnh được tiếp cận với Ngài như một môn sinh.
 Cố Triết Gia Kim Định  “sinh ngày 15-06-1915 tại làng Trung Thành tỉnh Nam Ðịnh. Sau khi tốt nghiệp Triết tại Giáo Hoàng Chủng Viện Saint Albert le Grand, Ngài dạy Triết Tây Phương tại Ðại Chủng Viện Quần Phương, Bùi Chu từ năm 1943-46 và viết tác phẩm đầu tiên “Duy Vật và Duy Thực” (Sách sau này bị thất lạc) . Sau đó, năm 1947 Ngài được cử đi du học ở Pháp nghiên cứu về Văn Minh Pháp, Xã Hội học, Triết Học và Nho Giáo tại Học Viện Cao Học Trung Quốc Học (Institut des Hautes Études Chinoises, Paris)”.
Ngay sau khi Miền Nam Việt Nam được ổn định, “các sinh viên du học nước ngoài lục tục kéo về xây dựng đất nước” Trong số đó có Cố Triết Gia Kim Định. Lúc đầu, Ngài dạy học ở Đại Chủng Viện Lê Bảo Tịnh Gia Định từ 1958 do cha Trần Văn Hiến Minh làm Giám Đốc. Ba năm sau, các cha giáo sư tiểu chủng viện Bùi Chu phụ trách trường Nguyễn Bá Tòng thay cha Tường đã làm Hiệu Trưởng trước đó. Cha Tường lúc về Đắc Lộ ngã tư Bảy Hiền có mời Cố Triết Gia về giúp Cha tại đây, nhưng đó chỉ là việc phụ, còn công việc chính của Ngài ở giai đoạn này là đi Dạy Học tại Đại Học Văn Khoa Sàigòn.
 Và đó cũng là hình ảnh mà chúng tôi còn giữ lại về Cố Triết Gia trong khoảng thời gian 4 năm (1967-1971) mà chúng tôi có dịp theo học Đại Học Văn Khoa Sài Gòn về hai bộ môn Văn Chương Pháp và Triết Đông. Và cứ vài tuần một lần chúng tôi lại ghé thăm Thầy mình tại trường Đắc Lộ ở ngã tư Bảy Hiền (Sài Gòn).
Vì Dạy Học là công việc chính của Ngài nên ngoài Đại Học Văn Khoa SG, Ngài mới có thể phụ trách thêm các giảng khóa ở các Đại Học khác như  các ĐH Vạn Hạnh, Đà Lạt, Minh Đức, Thành Nhân, An Giang. Riêng tại ĐH Vạn Hạnh, Ngài là Giáo Sư đỡ đầu tiểu luận Cao Học của chúng tôi về đề tài “Cơ Cấu Luận và Việt Nho” (1971-72) mà chúng tôi không có thì giờ hoàn tất vì ngay sau đó chúng tôi thi đậu vào Ban Cao Học Ngoại Giao của Trường Quốc Gia Hành Chánh (SG khóa 1972-74) và sau đó nữa là biến cố 30/04/1975.
Tuy biết rằng “ cái ‘tôi’ đáng ghét” (do đó chúng tôi rất ái ngại mỗi khi phải đề cập đến bản thân mình), nhưng miễn cưỡng chúng tôi phải làm chuyện đó ở đây với mục tiêu duy nhất là làm sáng tỏ giai đọan này của Cố Triết Gia mà vai trò chính yếu của Ngài là của một TRIẾT GIA kiêm GIÁO SƯ ĐẠI HỌC chứ không phải của các công việc linh tinh khác mà người ta cố ý nhấn mạnh vào.
Thật vậy, nhằm thực hiện những ý đồ không mấy trong sáng của họ, những người nêu trên “có khuynh hướng BI THẢM Hóa những sinh hoạt xét ra là BÌNH THƯỜNG trong một xã hội Bình Thường như sự Cạnh Tranh trong lãnh vực nghề nghiệp, các cuộc tranh luận lý thuyết trong môi trường Đại Học…. Chỉ có thể lần này hơi Khác các lần trước một chút là vì với nhiều lý do khác nhau, Cố Triết Gia đã tỏ ra NỔI hơn so với đa số các bạn đồng nghiệp của mình, do đó gây ra phản ứng khó chịu từ nhiều người trong giới họ, nhất là với các khám phá của Ngài về AN VI VIỆT NHO. Ngài đưa ra không những nhiều Tư Tưởng Tân Kỳ  Độc Đáo mà còn cả một Lề Lối suy tư MỚI MẺ nhằm đặt lại vấn đề đối với hiện trạng. Do đó, cuộc tranh luận lần này có thể trở nên Gay Gắt hơn thường lệ, nhưng cũng vẫn ở trong lằn mức Bình Thường của một xã hội tương đối Bình Thường là xã hội Miền Nam VN trước đây .
Và đó cũng là Cảm Tưởng CHUNG của chúng tôi cùng với một số bạn học trong thời còn là sinh viên tại ĐH Văn Khoa SG và cũng là khoảng thời gian quan trọng, sáng tạo, hào hứng, sôi nổi Nhất của cả Thầy lẫn trò trong việc hình thành Chủ Thuyết AN VIVIỆT NHO. Riêng với chúng tôi, quả là một giai đoạn khó quên đã có một ảnh hường Quyết Định trên phần còn lại của đời mình. Tuy nhiên, vào thời điểm này, nhóm bạn bè chúng tôi không phải là nhóm duy nhất có may mắn tiếp xúc thường xuyên với Thầy mình như vậy. Chúng tôi còn nhớ rất nhiều lần có dịp “chạm trán” với những nhóm khác (hoặc tới trước hoặc tới sau nhóm chúng tôi để thăm Thầy, và họ có thể là sinh viên ĐHVKSG hoặc sinh viên các Đại Học khác như ĐH Luật hay ngay cả ĐH Khoa Học) tại chỗ Ngài cư ngụ là trường Đắc Lộ ở Ngã Tư Bảy Hiền. Đó là chưa kể ảnh hưởng hằng ngày của Ngài đối với giới Sinh Viên mỗi khi Ngài giảng dạy tại các Đại Học Văn Khoa, Vạn Hạnh, Đà Lạt, Minh Đức, Thành Nhân, An Giang, còn đối với các giới khác là qua số lượng sách vỡ được in ra.
 Và phần lớn nội dung của các buổi gặp gỡ giữa Ngài và các nhóm Sinh Viên khác nhau liên quan đến các Khám Phá Mới Mẻ Nhất của Ngài về AN VIVIỆT NHO trong một bầu không khí rất là hào hứng cởi mở với một bên là Ngài qua hình ảnh một Vị Thầy Khả Kính luôn luôn Lạc Quan Yêu Đời với một lối sống Bình Dị dễ tiếp cận, nhưng đồng thời lại là một Triết Gia Sâu Sắc, Độc Đáo hiếm thấy đi Tiên Phong trong Mặt Trận Văn Hóa hướng tới mục tiêu Cứu Quốc và Kiến Quốc với bên kia là các môn sinh của Ngài thuộc tầng lớp Trẻ có Lý Tưởng , chứ nội dung gặp gỡ KHÔNG phải là những khó khăn trong nghề nghiệp, những gièm pha, đố kỵ, phát xuất từ các đồng nghiệp, như có người lầm tưởng! Lý do là Ngài xem các điều sau như là những chuyện thường tình trong các mối tương quan giữa người với người. Nhất là trong đồng văn của một xã hội tương đối Bình Thường là Miền Nam Việt Nam trước 30/04/75 (mặc dầu bị đặt trong tình trạng chiến tranh), thì càng không có gì đáng nói !
Và chính trong bầu khí TỰ DO Tư Tưởng và Sáng Tạo của Miền Nam VN (chứ không phải Miền Bắc) mà Chủ Thuyết AN VIVIỆT NHO bắt nguồn từ nền MINH TRIẾT VIỆT mới có thể ra đời được! Thiết tưởng đó là Thành Tựu Cao Quý Nhất của 21 năm Sống Còn của Miền Nam VN (1954-1975) !!!
Sau 1975, chúng tôi liên lạc lại được với Cố Triết Gia vào những năm đầu tiên của thập niên 1980 và tiếp tục liên lạc đều đặn từ đó và rất phấn khởi về những gặt hái rất tích cực, phong phú và đầy triển vọng trong các sinh hoạt của Ngài về cả hai mặt Lý Thuyết và Thực Tiễn ở hải ngoại. Và có dịp gặp lại Ngài 3 lần. Lần đầu tiên từ Pháp qua thăm Ngài tại San Jose (HK) vào Mùa Hè 1984. Lần thứ hai vào Mùa Hè 1988 cũng tại San Jose khi chúng tôi đang trên đường đi định cư lần thứ hai tại Úc. Và lần thứ ba khi Ngài sang Úc diễn thuyết theo lời mời của CĐNVTD tại Úc vào năm 1989.
Sau đó, vì bận bịu với các công việc mưu sinh trong bước đầu định cư tại Úc nên chúng tôi không liên lạc đều đặn được với Cố Triết Gia như trước. Tuy nhiên, vào năm 1995, tức hai năm trước khi Ngài mất,  chúng tôi có nói chuyện được với Ngài qua điện thoại và có nhận xét là vào thời điểm này, Ngài vẫn tỏ ra Minh Mẫn, Tỉnh Táo và rất vui mừng khi nghe chúng tôi báo tin là sắp cùng với bạn bè ra một tờ Tuần Báo để truyền bá An Vi và Việt Nho.
Nhân dịp Lễ Giỗ Mười Sáu Năm Ngày Cố Triết Gia Kim Định  ra đi, với tư cách một môn sinh, chúng tôi xin ghi lại đôi dòng như vừa trình bày ở trên , nhằm TƯỞNG NHỚ một nhà HIỀN TRIẾT, một TRIẾT GIA của Việt Tộc cũng như một Vị THẦY KHẢ KÍNH mà chúng tôi có may mắn gặp được trong cuộc đời của mình.
Lê Việt Thường

Friday, 14 July 2017

Mt68: CHÚNG TÔI NGHĨ ĐẾN 1 LÚC NÀO ĐÓ GIỚI NGHIÊN CỨU SỬ VIỆT NAM NÊN TÁCH RỜI "HUYỀN THỌAI" VÀ NGUỒN GỐC " VIỆT TỘC" CÓ SỬ LIỆU THÀNH 2 PHẠM TRÙ KHÁC NHAU ĐỂ NGƯỜI VIỆT CHẤM DỨT NHỮNG TIN TƯỞNG DỊ ĐOAN, MỘNG MỊ KHÔNG THỰC TẾ./-TCL

KINH QUA VĂN HÓA VIỄN ĐÔNG (I)

Lê Việt Thường
PHẦN MỘT :
MỘT CÁI NHÌN VỀ “HUYỀN SỬ TIÊN RỒNG”
 DẪN NHẬP
Trên hành trình đi về với Văn Hóa Viễn Đông và Việt Nam, có một TRỞ NGẠI lớn lao là đại đa số giới Trí Thức gọi là “Tây Học” thường không nắm vững Tinh Hoa của Văn Hóa Viễn Đông và Việt Nam, nên có thói quen áp dụng một cách Sai Lạc, không đúng chỗ các Phạm Trù của TÂY PHƯƠNG vào môi trường Văn Hóa Viễn Đông và Việt Nam, nhất là trong lãnh vực Huyền Thoại học. Do dó, vấn đề ưu tiên và cốt yếu ở đây có lẽ là phải HIỂU ĐÚNG Thần Thoại,Huyền Thoại, Huyền Sử là gì?
I) VAI TRÒ HUYỀN THOẠI, SỬ TRUYỆN
A) ĐẠI CƯƠNG
Phần này chúng tôi đã trình bày đầy đủ trong một bài viết trước đây . Ở đây, chúng tôi xin tóm tắt vừa đủ để áp dụng cho trường hợp này.
Chúng ta biết rằng Huyền Thoại, Sử Truyền kỳ rất phổ biến ở thời kỳ sơ khai của mọi dân tộc. Sử Cổ Truyền của dân tộc Việt được mở đầu bằng họ Hồng Bàng, Lạc Long Quân với 18 đời Hùng Vương và các truyện đi kèm như được chép trong sách “Lĩnh Nam Trích Quái”…..Còn ở bên Tây Phương, một trong những nguồn văn hóa là Thần Thoại Hy Lạp khởi đầu từ Sử Thi truyền miệng…..
Nhưng đến thời Socrates thì Thần Thoại bị đả phá vì bị Socrates xem như là nguồn gốc của “mê tính dị đoan”. Triết Cổ Điển Tây Phương vì chống đối Thần Thoại nên trở thành DUY LÝ. Khuynh hướng này càng nổi bật với sự ra đời của Khoa Học cùng với sự lớn mạnh của trường phái Duy Nghiệm (Positivism). Áp dụng Duy Nghiệm hay óc tôn thờ khoa học vào Sử Học thì gọi là DUY SỬ (Historicism).
Ở các thế hệ vừa qua, vì phương pháp Khoa Học nhiều khi được áp dụng một cách quá trớn hay không đúng chỗ nên đã gây nên một phong trào chống đối , nhất là từ phía những nhà Hậu Hiện Đại như Nietzsche (Triết), Jung (Tâm Lý), Lévi-Strauss (Nhân Chủng)…..Riêng Lévi-Strauss đã được gợi hứng lập ra Cơ Cấu luận (Structuralism) là do một Học Giả về Nho Giáo là Marcel Granet. Về phần Marcel Granet, phương pháp mới mẻ mà ông này đề ra là đi “Tìm SỰ THỰC xuyên qua HUYỀN THOẠI, rồi Kiểm Chứng bằng XÃ HỘI HỌC”.
Ngày nay, nhiều Học Giả trong các lãnh vực khác nhau đã bàn đến cũng như sử dụng Huyền Thoại cho địa hạt chuyên môn của mình như Georges Gusdorf trong Triết Học, Marcel Granet trong Xã Hội Học,Claude Lévi-Strauss trong Nhân Chủng Học,   và gần đây Stephen Oppenheimer trong tác phẩm “Eden in the East”…..vvv…..
B) HIỂU ĐÚNG HUYỀN THOẠI
Có lẽ đến phiên chúng ta thử áp dụng các phương pháp nêu trên trước tiên vào một Huyền Thoại của dân tộc Việt như : “Tương Truyền Đế Minh tuần thú phương Nam gặp Vụ Tiên trên núi Ngũ Lĩnh”.
Đọc hay nghe kể về Truyền Thuyết trên, một người Dân VN bình thường có lẽ sẽ tưởng tượng ra câu chuyện như sau:” Sau khi sinh ra Đế Nghi với bà vợ lớn họ Thục, Đế Minh mới ra đi chu du về phương Nam và may mắn gặp được nàng con gái Vụ Tiên trên núi Ngũ Lĩnh. Đem lòng yêu thương, Đế Minh mới cưới Vụ Tiên đem về sinh ra cho Chàng được một Hoàng Nam đặt tên là Lộc Tục với dung mạo đoan chính, thông minh tính Trời.” Và theo Nietzsche, đó có thể là đề tài gợi hứng sáng tác cho các Thi Sĩ, Điêu Khắc gia, Họa Sĩ……
Còn nhìn dưới ánh sáng của khoa Tâm Lý Miền Sâu của C. Jung, thì Đế Minh KHÔNG hẳn là một Cá Nhân đặc thù nào đó mà có thể là một SƠ NGUYÊN TƯỢNG (Archétype Primordial)) hiện hữu trong thế giới Tưởng Tượng của mỗi người trong chúng ta. Điểm độc đáo của Jung là trong khi đa số chúng ta thường cho cõi Tưởng Tượng là không có Thực, thì trái lại ông cho rằng thế giới TƯỞNG TƯỢNG (Psyche) cũng có THỰC y như thế giới Hiện Tượng, Vật Chất mà mỗi người trong chúng ta thấy, nghe, ngửi, “rờ mó”, cảm nhận…..hằng ngày. Hơn thế nữa, theo JUNG, những Sơ Tượng nằm trong TIỀM THỨC CÔNG THÔNG (Inconscient Collectif) Khởi Nguồn cho mọi SÁNG TẠO và là Nguồn Gốc của các TRÀO LƯU VĂN HÓA .
Còn dưới cái nhìn của Xã Hội học , thì câu chuyện “Đế Minh” KHÔNG hẳn để ám chỉ một Nhân Vật LỊCH SỬ nào mà đề cập đến những đợt NAM TIẾN kèm theo với hiện tượng thường xảy ra là Trai Bắc “Đế Minh” lấy Gái Nam “Vụ Tiên”.
Còn theo phương pháp CƠ CẤU, thì Đế Minh (số 2) kết hợp với Vụ Tiên (số 3) làm nền cho NGŨ HÀNH (Ngũ Lĩnh) là nền Triết Lý chi phối tất cả địa bàn Văn Hóa của toàn vùng Viễn Đông.
Trên đây, chúng tôi thử trình bày sơ qua một vài cách thức Tiếp Cận HUYỀN THOẠI trong các lãnh vực khác nhau, nhằm nhấn mạnh đến sự TỐI QUAN TRỌNG của Huyền Thoại đối với giới Học Giả Quốc Tế ngày nay, nếu được hiểu một cách ĐÚNG ĐẮN. Thật vậy, nhờ khả năng đáp ứng nhu cầu của đại đa số các tầng lớp và lãnh vực trong xã hội loài người, nên Huyền Thoại, HUYỀN SỬ có thể đem lại sự THỐNG NHẤT Văn Hóa cũng như sự ĐOÀN KẾT Dân Tộc.
Trong khi đó, một số Trí Thức “Tây học” Việt Nam trước đây và ngay cả hôm nay, theo các khuynh hướng “Duy Khoa Học”(Positivism) hay“Duy Sử” (Historicism) vì không hiểu giá trị đích thực của Huyền Thoại, nên hô hào đả phá hay tìm cách trình bày một cách lệch lạc, do đó đã và đang đóng góp vào việc gây nên sự Phân Hóa, Chia Rẽ trong Cộng Đồng Việt Nam.
Một cách đại cương và vắn tắt, điều QUÁ TRỚN mà những “tay” Duy Khoa Học hay Duy Sử thường vấp phải là muốn đem áp dụng các Tiêu Chuẩn của Khoa Học Thực Nghiệm như tính MINH NHIÊN KHÁCH QUAN với các Phương Pháp, Tiêu Chuẩn của nó vào các Khoa NHÂN VĂN. Ông Tổ của DUY NGHIỆM là Auguste Comte đã thử làm điều này và đã THẤT BẠI!
Tuy nhiên, trong các Khoa NHÂN VĂN như khoa HUYỀN SỬ cũng có loại QUY LUẬT kiểu “Nhân Văn” thích hợp hơn thường gọi là tính MẠCH LẠC NỘI TẠI (Cohérence Interne), đòi hỏi phải có sự hiện diện của tính KIÊN ĐỊNH (Consistency) nhằm liên kết các Dữ Kiện lại vói nhau trong một cái Khung Khoa Học (Scientific Framework). Và Tính KIÊN ĐỊNH (Consistency) là Tiêu Chuẩn QUAN TRỌNG Nhất đối với giới Học Giả QUỐC TẾ ngày nay!
C) CÁCH HIỂU SAI : HUYỀN THOẠI HIỂU NHƯ LỊCH SỬ
Có điều LẠ LÙNG là ở thế kỷ 21 này rồi, có người làm việc Nghiên Cứu mà không ý thức được các điều trên, nên cứ tiếp tục áp dụng các PHƯƠNG PHÁP cũng như đưa ra những TIÊU CHUẨN đã Cũ Kỹ, LỖI THỜI của các trào lưu DUY NGHIỆM và DUY SỬ của các thế kỷ 18, 19! Lại còn khoe là mình dùng những tài liệu mới từ Internet. Dữ kiện MỚI mà áp dụng Phương Pháp, Tiêu Chuẩn CŨ thì cũng vậy thôi!
Điểm SAI LẦM Nền Tảng của DUY SỬ (Historicism) là Hiểu HUYỀN THOẠI như là SỬ KÝ, hay ít nhất áp dụng vào Huyền Thoại những PHƯƠNG PHÁP, TIÊU CHUẨN của Sử Ký. Chẳng hạn :
Tiêu Chuẩn: NGUYÊN BẢN, CHÍNH BẢN : “ông Tổ” Cơ Cấu Luận (Struturalism) và cũng là một “Chuyên Viên Lỗi Lạc ” về Huyền Thoại học là C. Lévi-Strauss đã cho chúng ta MIỄN “yêu sách” nêu trên vì theo ông, đây là HUYỀN THOẠI chứ KHÔNG phải SỬ KÝ!. Như đã nói ở trên, Auguste Comte đã THẤT BẠI khi muốn áp dụng tính”Minh Nhiên Khách Quan” vào các khoa Nhân Văn vì lý do là ngay ở đợt “Hạ Nguyên Tử” (sub-atomic) của thế giới Vật Lý , cái gọi là tính “Minh Nhiên Khách Quan” này đã “hết xài” rồi, huống gì là ở các khoa Nhân Văn! Nay thì như đã nói ở trên, giới Học Giả Quốc Tế đã áp dụng các Tiêu Chuẩn khác trước như tính “Mạch Lạc Nội Tại”, tính “Kiên Định” đi kèm với cái “Khung Khoa Học” từ lâu lắm rồi! Do đó, cứ tiếp tục nhân danh sự Chính Xác trong Dữ Kiện để đòi hỏi phải có NGUYÊN BẢN, CHÍNH BẢN trong lãnh vực HUYỀN THOẠI thì chỉ chứng tỏ là KHÔNG nắm vững vấn đề cũng như KHÔNG hiểu Huyền Thoại là gì cả!
Lévi-Strauss cũng không quan niệm khác khi ông xem mọi VĂN BẢN như nhau. Vì điểm độc đáo trong Huyền Thoại học nằm ở chỗ khác , chứ không phải nơi Văn Bản! Việc đòi hỏi Nguyên Bản, Chính Bản chỉ là thói quen của các “tay” Duy Sử có thể thích hợp ở địa hạt SỬ KÝ, nhưng KHÔNG thể áp dụng vào lãnh vực HUYỀN THOẠI được !
Học Giả M. Granet “ nói rất trúng rằng văn minh Tây Phương chuyên về NÓI thì căn cứ trên Ngôn Ngữ học ( một cách chung chung và VĂN BẢN trong giai đoạn LỊCH SỬ) thì phải, còn văn minh Đông Phương là văn minh LÀM, thì phải căn cứ trên Sự Kiện XÃ HỘI mới trúng. Và lúc ấy thì vấn đề TÁC GIẢ và Thời Kỳ VIẾT ra đâu còn quan trọng như bên Tây Phương nữa mà đòi Nguyên Bản, Chính Bản !
Sở dĩ vấn đề TÁC GIẢ cũng như Nguyên Bản, Chính Bản quan trọng cho TÂY ít nhất ở thời Hữu Sử, là vì các Tác Phẩm của họ hầu hết do Một CÁ NHÂN sáng tác. Còn bên Viễn Đông thì trước hết do TOÀN DÂN “thai nghén ấp ủ”, nói đi kể lại cả TỪNG NGÀN NĂM rồi sau cùng “Tác Giả” mới xếp đặt lại để lên khuôn. Trước khi La Quán Trung viết ra Tam Quốc” hay Ngô Thừa Ân viết “Tây Du Ký” hoặc Thị Nại Am viết “Thủy Hử”, Trần Thế Pháp viết “Lĩnh Nam Trích Quái”….. thì “Tam Quốc”, “Tây Du Ký”, “Thủy Hử”, “Lĩnh Nam Trích Quái” ….đã từng được từng trăm ngàn người kể đi kể lại, tô điểm thêm thắt….. Cho nên, những người căn cứ vào thời kỳ Trần Thế Pháp mà chối là truyện “Lĩnh Nam Trích Quái” không có trước, hoặc đồi chữ “trích” ra “chích” để đề cao phần “Sáng tác” của Tác Giả là theo phạm trù CÁ NHÂN Tây Âu, ít chú trọng phần Sáng Tác của DÂN GIAN và vô tình làm giảm mất tính chất U LINH thâm viễn cổ kính của Bản Văn!
Chính vì không nắm vững nét Đặc Trưng trên của Văn Hóa Đông Phương và Việt Nam nên CỨ mở miệng ra là đòi NGUYÊN BẢN, CHÍNH BẢN! Tại họ không hiểu rằng Huyền Thoại KHÔNG phải là Sử Ký là môn học có thể cần đến sự CHÍNH XÁC của Dữ Kiện. Trái lại, Huyền Thoại, Huyền Sử nhấn mạnh trên Ý NGHĨA, ĐẠO LÝ của câu chuyện, chứ không phải sự Chính Xác của Dữ Kiện nên không cần theo các Tiêu Chuẩn của SỬ KÝ vì lẽ dễ hiểu, Huyền Thoại có những Tiêu Chuẩn riêng của nó: Tại mình không biết đó thôi!
Lẽ dĩ nhiên, các “tay” DUY SỬ Đông cũng như Tây đâu có hiểu Huyền Thoại, Huyền Sử là gì đâu. Do đó, họ mới “tỏ mối ngờ vực về truyền thuyết Âu Cơ. “Cái thuyết nói 50 con theo mẹ về núi, biết đâu không phải là thế”! Cũng vì không hiểu tính chất của Huyền Thoại mới đòi “dựa trên những chuyện cổ tích và truyền thuyết trong dạng trinh nguyên”.
Lý luận “loanh quanh” một hồi rồi đưa ra một phán đoán “chắc nịch”: “Thêm vào đó, rất ít khi chúng ta nhìn vào những nhân vật ở thời huyền sử như một biểu tượng của thời đại, chứ không phải …người thật”. Đúng là một Phát Giác “ĐỘNG TRỜI”! Để xem nội dung chi tiết của ‘Khám Phá” này là gì đây ?
Tác giả viết: “ Truyền thuyết dựng nước của Tàu thường được kể như sau: Trước hết là Bàn Cổ . Bàn Cổ từ trong trứng nhảy ra đầu đội trời chân đạp đất đến 18 ngàn năm, rồi chết…..Sau Bàn Cổ ít lâu đến thời Tam Hoàng và Ngũ Đế………Tam Hoàng thường kể đến nhất gồm có:
Hoàng Đế, Phục Hi và Thần Nông. Còn những vị Ngũ Đế quen thuộc nhất bao gồm: bà Nữ Oa (đội đá vá trời), vua Nghiêu (Yao) và Thuấn (Shun). Nghiêu truyền ngôi cho Thuấn. Thuấn truyền ngôi cho Yũ (Vũ). Vũ thiết lập nên nhà Hạ, triều đại đầu tiên của Trung Hoa. Nhà Hạ truyền đến 18 đời thì bị mất về tay Thành Thang, dựng nên nhà Thương (Shang), cũng còn gọi là Ân (Shin)………Nhà Hạ có thật hay không, cũng không chắc. Nhưng nhà Thương đã được chứng minh là có thật, bằng các tài liệu khai quật của ngành khảo cổ…..
Tam Hoàng và Ngũ Đế hoàn toàn mang tính huyền thoại. Nhìn một cách khoa học và khách quan hơn, các vị này phải được xem như biểu tượng cho thời đại, cho nền văn minh. Biểu tượng cho một khối dân tộc, hoặc nền văn minh và trình độ làm lụng sinh sống của dân tộc đó, ở vào thời đó. Thí dụ. Phục Hi đặt ra bát quái, Kinh Dịch…..Thần Nông là ông vua dạy dân chúng về nghề nông và trồng dược thảo, chữa bệnh……
Cũng ở dạng biểu tượng rất có thể bà Nữ Oa thuở ban đầu đứng đầu danh sách về Tam Hoàng . Bởi bà tượng trưng cho xã hội theo mẫu hệ……..”(1)
Thành thật mà nói, chúng tôi rất THẤT VỌNG, tưởng có khám phá gì mới mẻ, vì các điều trên có thể tìm thấy trong rất nhiều sách về cổ sử Tàu. Xin “mách nước” tác giả một chi tiết rất quan trọng sau đây: theo truyền thuyết thì Tam Hoàng được đặt ở thiên niên kỷ thứ 5 trước công nguyên, chứ khoông phải thứ 3 như các Sử Gia sau này viết. Ngoài ra, theo truyền thuyết cũng như theo các Nho Gia như Lưu Hâm, Lưu Hướng… thì thứ tự của Tam Hoàng phải là Phục Hy- Nữa Oa-Thần Nông. Nhưng sau này, Hiên Viên (-2695 còn sau họ Hồng Bàng -2879) đáng lẽ nằm trong Ngũ Đế , lại được đưa vào thế chỗ bà Nữ Oa trong Tam Hoàng và được “công kênh” lên làm “Hoàng Đế”!
Đúng là “bàn tay lông lá” của kẻ Thống Trị! Cũng xin “mách nước “ tác giả một chi tiết khác là vì lý do nêu trên và vô số lý do khác, nhiều người nghĩ rằng người Tàu đã CHÔM Huyền Thoại của Việt Tộc. Chứ tuyệt nhiên Ngô Sĩ Liên KHÔNG có “Chôm” Huyền Thoại “Tiên Rồng” của người Mường như có ngưới gán cho ông! Đúng là “oan ơi ông địa”! Có thể Ngô Sĩ Liên chép lại từ “Lĩnh Nam Trích Quái” của Trần Thế Pháp, nhưng Trần Thế Pháp cũng chỉ ghi lại những gì đã lưu truyền trong dân gian VIỆT nhiều ngàn năm trước đó mà thôi! Người Mường cũng thuộc Đại Tộc Bách Việt nên vì vậy họ có nội dung chuyện kể hơi khác với nội dung của người Việt.
Có nhiều cách thức, nguyên tắc, tiêu chuẩn để kiểm chứng mà chúng tôi sẽ trình bày ở phần sau để xem nhóm người nào xứng đáng đại diện nhất cho Tinh Thần và Nội Dung của “Huyền Sử TIÊN-RỒNG” ! Tuy nhiên, vì là Huyền Thoại, Huyền Sử chứ không phải là Sử Ký nên chúng ta không nên dùng tiêu chuẩn NGUYÊN BẢN, CHÍNH BẢN như đã nói ở trên., vì không thích hợp cũng như trái với các Tiêu Chuẩn QUỐC TẾ trong lãnh vực này! Nếu làm khác, “ông Tổ” Cơ Cấu luận là C. Lévi-Strauss sẽ “Nổi Giận” ngay vì ông sẽ CHÊ chúng ta là những kẻ thực sự KHÔNG CÓ CHÚT HIỂU BIẾT GÌ VỀ HUYỀN THOẠI MÀ LÀM RA VẺ TA ĐÂY HIỂU BIẾT THẬT!
II)NHỮNG VẤN ĐỀ GIẢ TẠO
A) ĐẾ MINH “NGƯỜI HOA” ?
Rồi tác giả lại “đặt vấn đề” không đúng chỗ, tức ở chỗ đáng lẽ không có vấn đề gì cả, đối với ĐẾ MINH để rồi đưa ra kết luận rằng Đế Minh KHÔNG phải là NGƯỜI HOA! Có bao giờ người VIỆT Chính Cống có Lòng với Đất Nước, có trình độ Hiểu Biết thực sự về Văn Hóa và Lịch Sử Dân Tộc lại xem Đế Minh là người Tàu đâu mà tác giả phải “đặt vấn đề”, để rồi cuối cùng “chứng minh” là không phải người Tàu?! Đúng là một vấn đề GIẢ TẠO! (2)
 B) HÙNG VƯƠNG “LAI TÀU” ?
Tác giả lại DỰNG ĐỨNG lên một câu chuyện khác. Tác giả viết:
“Hai sự kiện chứa nhiều mâu thuẫn vẫn thường bị bỏ sót:
_ Thứ nhất: Tên hiệu tổ tiên gần và ngay cả của Hùng Vương đều viết theo chữ Hán ròng”
Nếu thực tình tác giả tin như vậy chứ không phải là một hình thức NGỤY BIỆN thì điều này càng chứng tỏ tác giả không hiểu “tí ti” gì về Huyền Thoại cả? ! Vì một lần nữa, tác giả lại xem Huyền Thoại như Sử Ký!
Như đã nói ở phần trên, Tác Giả chính yếu của Huyền Thoại là DÂN GIAN. Huyền Thoại “TIÊN RỒNG” bắt đầu với họ Hồng Bàng vào khoảng 2879 năm trước công nguyên, trải qua giai đoạn nước Văn Lang kéo dài khoảng 2622 năm, qua nhà Thục, nhà Triệu, rồi khoảng 1000 năm bị Tàu đô hộ , đến nhà Ngô, nhà Đinh, nhà Tiền Lê, nhà Lý, nhà Trần, nhà Hồ rồi nhà Hậu Lê. Tổng cộng khoảng hơn 4000 năm.
Như vậy, Huyền Thoại “Tiên Rồng” đã được Dân Gian kể đi kể lại trên hơn 4000 năm, bắt đầu với thời kỳ Lập Quốc , qua giai đoạn bị Tàu đô hộ, rồi Độc Lập với nhà Lý, nhà Trần, nhà Hồ, nhà Hậu Lê., cùng với ảnh hưởng của Tam Giáo: Nho-Lão-Phật. Thì đâu có gì là lạ việc người Bình Dân gọi QUỐC TỔ là “VUA HÙNG”, còn Nho Sĩ thì gọi là “ HÙNG VƯƠNG” và đó là điều chúng ta vẫn tiếp tục làm cho đến tận ngày nay, khi gọi là “Vua Hùng”, khi gọi là ‘Hùng Vương” tùy theo thói quen của mỗi người . Nên nhớ Trần Thế Pháp là một NHO SĨ sống ở thế kỷ 15, thì việc ông viết là “HÙNG VƯƠNG” cũng là chuyện Bình Thường mà thôi! Đâu là Vấn Đề ? Đúng là tác giả một lần nữa BÀY ĐẶT ra một vấn đề GIẢ TẠO!
Tác giả viết tiếp : “Bởi “Hùng Vương” là một tên chữ Hán ròng, chỉ có một trong hai chuyện đã xảy ra:
MỘT: Hùng Vương là người gốc Tàu hay lai “Tàu”, không biết tiếng của dân bản địa. Do Lạc Long Quân dẫn đến áp đặt làm “vua” cai trị dân địa phương. Như vậy, Hùng Vương chỉ có thể một quan thái thú đầu tiên chứ không thể nào là quốc tổ được. Không có huyết thống và DNA giống như loại của dân địa phương. Truyền thuyết theo như “Việt Nam Sử Lược”, khác với kiểu Mường như sẽ trình bày kiểu dưới, đặc biệt nhấn mạnh 100 con của Âu (Cơ) và Lạc (Long Quân) toàn là con trai. Như vậy không có cách gì Hùng Vương đã trở thành thủy tổ của dòng giống Lạc Hồng hết. Chỉ có thể vua Hùng các đời sau, nếu vua thứ 1 và các vua kế tiếp đều lấy dân bản địa làm vợ.”(3)
Với những gì chúng tôi đã trình bày ở phần trên, có lẽ Quý Độc Giả (nếu không “phì cười”!) thì cũng đoán được đây chỉ là một hình thức NGỤY BIỆN của tác giả, và HÙNG VƯƠNG của chúng ta có trăm phần trăm Nguồn Gốc VIỆT Tộc! Ngoài ra, còn là một Bằng Chứng khác về việc tác giả KHÔNG HIỂU Ngôn Ngữ của HUYỀN THOẠI!
Huyền Thoại phải được “hiểu theo NGHĨA BÓNG” chứ KHÔNG được “hiểu theo Nghĩa Đen” như Sử Ký! Chẳng hạn khi trong Huyền Thoại “TIÊN RỒNG” có đề cập đến việc “Mẹ Âu Cơ sinh ra một bọc trứng đem ra bỏ ngoài đồng, trong bọc nở ra một trăm trứng, mỗi trứng là một con, bà đem về nuôi nấng, không cho ăn, cho bú mà tự nhiên trường đại, trí dũng song toàn, ai cũng úy phục, bảo nhau là những anh em phi thường”.
Muốn hiểu đoạn trên, điều cần TRÁNH nhất là “hiểu theo Nghĩa Đen” như tác giả đã làm đối với Vua Hùng, tức nhấn mạnh trên sự Chính Xác của Dữ Kiện làm như sự kiện xảy ra thực sự như trong Sử Ký! Làm vậy là HIỂU SAI Tinh Hoa của HUYỀN THOẠI vì Huyền Thoại nhấn mạnh trên Ý NGHĨA, ĐẠO LÝ, chứ không phải trên Sự Kiện và phải được “hiểu theo NGHĨA BÓNG”.
Do đó, ta có thể hiểu đoạn văn trên như sau: giống như trước kia chúng ta có thói quen gọi nhau là ĐỒNG BÀO thì chính Tinh Hoa, Ý Nghĩa của hai từ ‘Đồng Bào” được diễn tả qua Huyền Thoại “Bọc Trứng ÂU CƠ” để chỉ mọi người VIỆT cùng chung một MẸ sống trong Tình Nhà là ĐÙM BỌC, San Sẻ. Yêu Thương, Bình đẳng, lấy chữ HÒA làm Lý Tưởng, cũng như theo Tinh Thần NHÂN CHỦ lấy sự Tự Lực, Tự Cường làm Tiêu Chuẩn để SỐNG. Đặc biệt ý tưởng “Mẹ Âu Cơ vứt Bọc Trứng ra đồng mà trăm con đều phương trưởng” hàm ngụ chế độ BÌNH SẢN của Tổ Tiên chúng ta : ai cũng được có phần Tài Sản. Đó là cách thức ĐÚNG ĐẮN nhất để hiểu đoạn văn trên, chứ ĐỪNG HIỂU LẦM rằng Mẹ Âu Cơ là một bà mẹ “ác ôn” nhẫn tâm” liệng” con ra đồng rồi bắt con mình “chịu đói chịu khát! Nếu hiểu hay “làm ra vẻ” hiểu như vậy như tác giả đã làm đối với HÙNG VƯƠNG là đã LẠC ĐỀ rồi đấy! Một cách tương tự, khuyên tác giả đừng lo hão về VUA HÙNG: Ngài có máu LẠC HỒNG một trăm phần trăm! Hãy đổi lối nhìn đi thì sẽ thấy!
 C) “LẠC VƯƠNG” HAY “HÙNG VƯƠNG”? : MÔT VẤN ĐỀ GIẢ TẠO CÓ TỪ THỜI THỰC DÂN PHÁP
Việc có người đặt vấn đề đối với danh hiệu HÙNG VƯƠNG của Quốc Tổ VIỆT không phải mới xảy ra đây, mà đã bắt đầu từ thời THỰC DÂN Pháp! Vấn đề đã được học giả người Pháp Henri Maspéro đặt ra năm 1916 khi ông căn cứ trên ba Cổ Thư thì hai viết “Lạc”, còn một viết “Hùng”…..Thuyết của Maspéro đã nảy sinh ra ở chỗ ông không hiểu hay KHÔNG MUỐN HIỂU đoạn sử của Ngô Sĩ Liên như sau:
“ Lạc Long Quân phong người con cả là Hùng Vương nối ngôi vua. Hùng Vương con Lạc Long Quân không rõ tên húy, đóng đô ở Phong Châu”.
Đoạn văn đó có thể viết rõ hơn rằng : “Lạc Long Quân phong cho con cả làm vua lấy hiệu là Hùng Vương”. Cứ như bản dịch trên thì không thể lầm được: Lạc Long Quân mà người Tàu gọi là “Lạc Vương” truyền ngôi cho con (người Tàu cũng gọi là Lạc Vương) lấy hiệu là Hùng Vương. Chẳng thấy vấn đề gì cả , có chăng thì chỉ là “Vấn đề tại sao Vua Cha không có Hiệu mà Vua Con lại có”. Nhưng Maspéro đã không đặt vấn đề như vậy, mà lại đặt vấn đề PHẢI với TRÁI: “HÙNG VƯƠNG hay LẠC VƯƠNG đàng nào phải?”
Theo Maspéro, trong bốn quyển nói đến Hùng Vương thì ba quyển mới quá không đáng kể:
_ Một là “Việt Sử Lược”, thế kỷ 14
_ Hai là “Việt Điện U Linh Tập”, thế kỷ 14
_ Ba là “Thái Bình Hoàn Vũ Ký”, thế kỷ 10
Vậy chỉ còn “Nam Việt Chí” là Cổ (thế kỷ 5) viết “Hùng Vương”, còn hai quyển kia: “Giao Châu Ngoại Vực Ký” và ‘Quảng Châu Ký” đều nói “Lạc Vương”. Ông đã phân xử theo đa số : 2 thắng 1.
Thế nhưng nếu mở rộng tầm mắt xa hơn sách vở thì thắc mắc của Maspéro được trả lời liền là “Giao Châu Ngoại Vực Ký” và “Quảng Châu Ký” đứng ở Quan Điểm của NGƯỜI TÀU chép về Giao Châu đang đặt dưới quyền thống trị của mình ,ĐỨNG Ở XA MÀ NHÌN NÊN NÓI SƠ SÀI . Còn tác giả “Nam Việt Chí” thì CHUYÊN VỀ VIỆT và người đến nơi thuật lại những Điều Mắt Thấy Tai Nghe, nên ĐI VÀO CHI TIẾT nhiều hơn: Nhắc Cả DANH HIỆU VUA Nữa.
Hai đàng không có gì nghịch nhau hết, Môt đàng NÓI CHUNG nên viết “LẠC VƯƠNG” cũng như ta nói ‘Hán Vương”, “Sở Vương” vậy. Còn một đàng Nói CHI TIẾT Hơn thì nhắc đến hiệu Vua là “HÙNG VƯƠNG”. Thế thôi, có chi đâu mà phải đặt vấn đề. Thế mà Maspéro dám dựng nên một thuyết (không thèm giả thuyết) lại còn kèm theo những phán đoán quyết liệt “ex cathedra” để lên án cả bao sử gia Tàu cũng như Việt. Sau đây là lý lẽ chính của Maspéro: “ Hai chữ “Lạc”, “Hùng” rất giống nhau nên dễ lẫn lộn, lỗi ở tại người chép sách”
Để trả lời “phải nói là mặt chữ chỉ hơi giống nhau chút xíu chứ không được nói rất giống nhau, vì đây là Khoa Học, không nên dùng tĩnh từ bừa bãi. Chữ “Các” trong chữ “Lạc” có 6 nét, chữ ‘Quảng” trong chữ “Hùng” 4 nét, cấu trúc lại khác hẳn, giống nhau ở đâu?
Đã vậy còn hai chữ “Lạc” khác là ‘Lạc” bộ ‘Mã” và “Lạc” bộ “Trãi” cũng được thông dụng như “Lạc” bộ “Các” thì dễ gì lầm được. Xưa nay có lầm là những chữ thông thường như “Tác” đọc ra “Tô”, “Ngô” đọc ra “Quá”…..vvv…..Còn đây là danh hiệu Vua bao người nói đến, sao dám gán sự sai lầm bừa bãi vậy?
Nhất là phải đi qua mặt biết bao học giả uyên thâm tại chỗ : Lê Văn Hựu, Hồ Tôn Thốc, Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh, Ngô Thời Sĩ……đều là học giả trứ danh, đỗ đại khoa, ra làm quan ở Sử quán lâu năm đã tham khảo biết bao chính sử, dã sử, truyện ký; lại còn hàng trăm điện đến đều nói ‘HÙNG VƯƠNG”, KHÔNG một điện nào nói “LẠC VƯƠNG“ cả. Thế mà Maspéro dám quả quyết là lầm và đổ lỗi ở người chép sách. Nếu là người thận trọng thì chỉ đặt giả thuyết là “có thể lầm”…….
Đó là đại khái vấn đề HÙNG VƯƠNG hay LẠC VƯƠNG ? mà Maspéro đã bày đặt ra . và sau đây là ý kiến của Cố Triết Gia Kim Định về vấn đề nêu trên. Cố Triết Gia viết:
“Maspéro thuộc trào lưu cố dìm văn hóa dân bị trị do bọn Malinowski, Taylor, Levy-Bruhl….chủ trương cho dễ đồng hóa dân bản thổ. Đã vậy ông ta là loại người mà tâm lý xếp vào hạng “tough minded” (cùng nghĩa với đặc ngữ “esprit de géométrie” của Pascal) chỉ thấy những gì hiện hình ra đập vào mắt, thiếu óc tế vi thì rất dễ chạy theo khuynh hướng của Thực Dân xưa muốn chiếm nước ta cả về vật chất lẫn tinh thần. Nên có ý hạ văn hóa ta bất cứ chỗ nào có thể.
Maspéro đã vô tình hay hữu ý đi theo ý đồ đó khi chối bỏ danh hiệu Hùng Vương, bởi vì thời đại Hùng Vương là thời đại đã đặt nền cho thuyết NHÂN CHỦ là thuyết cao nhất, ơn ích nhất cho con người mà mãi tới nay những nước tiên tiến còn chưa đạt được, nên chối đi được là đã thành công biến người Việt thành lũ VONG BẢN và cũng là VONG QUỐC khi gọi Vua Tổ mình là “Lạc Vương” như người Tàu, nghĩa là coi mình như xa lạ với gốc Việt. Nếu làm được như thế thì Maspéro đã thành công phá hủy được cái giường cốt của nền Văn Hóa Việt Tộc rồi đó”.(4)
Chúng ta thấy rằng Âm Mưu XUYÊN TẠC Danh Tính của Quốc Tổ HÙNG VƯƠNG cùng với Huyền Sử TIÊN RỒNG đã bắt đầu từ thời THỰC DÂN Pháp, chứ không mới mẻ gì ! Tuy nhiên, với những Tiến Bộ trong khoa Huyền Thoại học ngày nay, mà vẫn có người tiếp tục sử dụng Phương Pháp “CỔ LỔ SỈ” đó của các “tay” DUY SỬ trong đám Thực Dân Thuộc Địa thời trước thì mới là điều ĐÁNG NGẠC NHIÊN! Có lẽ đã đến lúc chúng ta bàn về những điểm KHÁC BIỆT giữa Huyền Sử và Sử Ký.
 III)NHỮNG KHÁC BIỆT GIỮA “HUYỀN SỬ” VÀ “SỬ KÝ”
A) ĐẠI CƯƠNG
HUYỀN THOẠI là Tự Truyện của một Dân Tộc bao hàm những kinh nghiệm tích lũy từ không biết bao đời Tiên Tổ kết tinh lại nên là những Di Bảo thiêng liêng chứa chấp những giá trị thâm sâu nằm giáp miền Tiềm Thức.
Có thể nói Tác Giả đã dựng nên những Huyền Thoại cũng chính là Tiềm Thức CỘNG THÔNG (Collective Unconscious) của tất cả Tiên Tổ đã góp phần vào việc kiến tạo dân nước. Nói đến Tiềm Thức là nói đến sự VƯỢT biên cương LÝ TRÍ phân minh, nên trở thành âm u, sâu thẳm.
Huyền Sử chính là Sử Chiều Sâu, nên cũng gọi là Sử Hàng Dọc, vì thọc sâu vào Ý NGHĨA của sự việc. Trái lại, SỬ KÝ gọi là Hàng Ngang vì nó “bò lan” trên SỰ KIỆN: nó nhằm ghi các Biến Cố CÁ THỂ nghĩa là chỉ xảy ra MỘT LẦN nên nó bám sát phạm trù Không Gian và Thời Gian; Địa Danh và Niên Hiệu vì thế trở thành quan trọng. Cũng như SỬ KÝ cần đến NGUYÊN BẢN, CHÍNH BẢN là cái có thể giúp cho Sự Kiện được CHÍNH XÁC, vì đó có thể là một Mục Tiêu của SỬ KÝ.
Huyền Sử gồm 2 từ “Huyền” và “Sử”: Sở dĩ gọi là SỬ vì các Huyền Thoại phần nào dựa trên Sự Kiện lịch sử , nhưng gọi là HUYỀN vì những sự kiện đó không cần phải thật hết bởi nó đã bị Tổng Quát hóa theo nghĩa là được RÓC hết mọi phạm trù Không Gian và Thời Gian, để chỉ còn chú ý đến Ý NGHĨA là cái gì Phổ Quát. Thật vậy, mục tiêu của Huyền Sử là nhằm gợi lại cái dạng thức Tinh Thần, cái HỒN của một dân, cái đường lối sống căn bản của dân ấy, cho nên chính thực nó là một nền Minh Triết hay Đạo Lý nhưng khác với Minh Triết ở chỗ dùng Huyền Thoại. MINH TRIẾT nói thẳng, nói vắn gọn bằng những câu Châm Ngôn, Tục Ngữ, trái lại HUYỀN SỬ dùng Biểu Tưọng như Đồ Biểu, Độ Số, HUYỀN THOẠI.
Hãy lấy một Thí Dụ như trường hợp Huyền Thoại sử dụng một loại Biểu Tượng là SỐ: như khi huyền thoại nói về 18 đời Hùng Vương: nếu đọc theo lối HUYỀN SỬ thì ta sẽ không tìm xem thực sự có 18 đời Hùng trải dài trên hơn hai ngàn năm chăng như tác giả bài viết đã làm (có lẽ vì tác giả LẦM LẪN Huyền Thoại là SỬ KÝ chăng?), nhưng trái lại, sẽ tìm hiểu Ý NGHĨA sao đây, Đạo Lý nào ẩn tàng trong số 18 , ẩn trong tên Hùng, ta sẽ xem Vũ Trụ quan 18 đời Hùng ra sao , thuộc Nhân Sinh quan nào? Vũ Trụ quan thì có Động có Tĩnh về Thời Gian, có Tả có Hữu về Không Gian. Nhân Sinh quan thì có Chủ có Nô, tức là Nhân Chủ hay Vật Chủ.
Những câu trả lời cho những loại câu hỏi trên sẽ làm nên chân trời quy định Ý NGHĨA của Huyền Sử. Hiểu đúng được thì huyền sử sẽ giúp tìm ra được Tâm Hồn người xưa, dọi nhiều tia sáng vào những huyền thoại vẫn tưởng là vô nghĩa, đem lại cho sử trình tiến hóa của dân tộc một nền thống nhất lẫm liệt, một chiều kích u linh siêu việt cũng như đem đến cho những tiêu điểm vững chắc, những phân biệt thấu triệt mà Sử Ký hay cả Khảo Cổ KHÔNG sao cung ứng nổi.
Ngoài ra, khi nhìn bao trùm Sử Trình của TÂM THỨC con người trên đường Tiến Hóa: ở đợt thấp nhất chỉ có SỰ VẬT, lên một đợt nữa là SỰ KIỆN, lên nữa .là Ý NIỆM, tiếp đến là CƠ CẤU và các mối Tương Quan, Sau cùng đến chữ TƯƠNG Viết Hoa.
Các sự việc cũng như mọi biến cố bày ra trước mắt ta thì có muôn vàn, đó là SỰ VẬT. Khi ta chú ý đến một số sự vật, một số biến cố thì những cái đó trở nên SỰ KIỆN. Khi ta đem sự kiện đó róc hết những cái bám vào chung quanh như các phạm trù không gian và thời gian với các tùy thể của nó thì là Ý NIỆM.
Ý NIỆM như vậy chỉ còn là cái khung của Sự Kiện, nó đã trở nên TRỪU TƯỢNG, mất hết những phẩm tính khả giác như mùi vị, màu sắc tức mất tính chất tình tứ có khả năng lay động tâm hồn . Nhưng bù lại Ý Niệm trở nên dụng cụ chuyên biệt của cái nhìn trong suốt, có khả năng Liên Hệ với các sự kiện khác. Cái nhìn càng trong sáng, càng cất lên cao thì càng nhìn ra được những mối liên hệ nằm ngầm. Chính sự nhìn ra những mối liên hệ này quyết định các bước tiến của con người.
Mỗi bước tiến thành bởi những liên hệ được khám phá. Trong phạm vi thuần túy Lý Thuyết cũng vậy: tự Ý Niệm ra Tư Tưởng, từ tư tưởng ra Ý Thức Hệ, từ ý thức hệ ra Cơ Cấu….. tóm lại SỰ VẬT chỉ đạt được CƠ CẤU đối với Tâm Trí ở một trình độ Thức Giác nào đó. Nhưng cuối cùng phải nhảy ra KHỎI vòng vây của LÝ TRÍ thì mới thấy mối TƯƠNG QUAN nằm ngầm nối kết hết mọi Sự Vật vào một Liên Hệ căn bản ràng buộc tất cả Trời, Đất, Người thành một THỂ; “thiên địa vạn vật nhất thể”. Huyền Sử TIÊN RỒNG gọi đợt này là CÁNH ĐỒNG TƯƠNG. Phải đạt đến “Cánh Đồng Tương” mới mong hiểu được Ý NGHĨA của Huyền Sử (5).
Đó mới chính là điểm NỀN TẢNG của Huyền Sử, Huyền Thoại. Rất tiếc đó lại là điều THIẾU SÓT Then Chốt của bài viết của tác giả về Huyền Thoại TIÊN RỒNG! Thiếu sự hiểu biết trên, thì CHỈ còn lại một lối nhìn MỘT CHIỀU, Lệch Lạc Phiếm Diện về Huyền Thoại học cũng như về Văn Hóa VIỆT mà thôi!
Ở phần trên, chúng tôi đã có dịp trình bày về Huyền Thoại “Tương Truyền Đế Minh tuần thú phương Nam gặp Vụ Tiên trên núi Ngũ Lĩnh” với “Sơ Sơ” BỐN Lối Tiếp Cận khác nhau :
– cho người Bình Dân.
– dưới ánh sáng của khoa Tâm Lý Miền Sâu
– t heo phương pháp Xã Hội học
– theo phương pháp Cơ Cấu…….
Và còn nhiều lối tiếp cận khác nữa! Tuy nhiên, có thể nói ngay là gom lại tất cả Phương Pháp mà con người đã tìm ra để nghiên cứu Huyền Thoại, có lẽ cũng chưa “thấm tháp” vào đâu để tìm hiểu về nó. Lý do là HUYỀN THOẠI Không phải là một “sản phẩm” của Lý Trí con người, mà phát xuất từ Vô Thức Cộng Thông (Collective Unconscious) của Nhân Loại. Mà Vô Thức Cộng Thông là cái gì rất bao la, vô bờ bến nằm trong tầng Sâu Thẳm Nhất của Nội Tâm chúng ta và là Nguồn Gốc của mọi SÁNG TẠO của con người. Ta chỉ có thể “mường tượng” về NÓ mà thôi và Vô Thức Cộng Thông có thể là đợt cuối cùng trước khi con người đạt đợt SIÊU THỨC mà các Tôn Giáo gọi là ĐẠT ĐẠO !
Do đó, với một vốn Kiến Thức bị HẠN CHẾ trong một lãnh vực Chuyên Biệt mà lại đòi hành xử như mình đã đạt được “Chân Lý” , thì phải coi chừng, không khéo thì “lòi ra” Sự Thật là “Mình Chưa Biết Gì Nhiều Đâu”!
Ngay trong lãnh vực CHUYÊN MÔN của tác giả, CHỈ thấy nhắc qua là có một Chủ Thuyết “Mới” quan niệm con đường BẮC TIẾN của Văn Minh Đông Nam Á, nhưng hoàn toàn KHÔNG thấy tác giả sử dụng một chút Kiến Thức hay Phương Pháp “Mới” nào trong các lập luận của mình!
 Chủ Thuyết MỚI này mà chúng tôi đã có dịp trình bày khá chi tiết trong một bài viết trước đây, dựa trên những lý thuyết, dữ kiện, khám phá…..rất NGHIÊM TÚC và VỮNG CHẮC trong nhiều bộ môn khác nhau như Khảo Cổ, Địa Chất, Hải Dương, Ngôn Ngữ, Dân Tộc, Nhân Chủng, Di Truyền hoc…..của nhiều Học Giả QUỐC TẾ Nổi Danh (6). Nên nhớ bây giờ KHÔNG còn là thời của những L’ Aurousseau , Madrolle, Taylor, Maspéro….nữa mà là thới đại của W.Solheim II, S. Oppenheimer, J.Y.Chu , J. Nichols, M. Richards ……rồi đó!
Ngoài ra, những ai có dịp nghiên cứu một cách NGHIÊM TÚC trong lãnh vực Huyền Thoại học thì biết là có nhiều lối Tiếp Cận Huyền Thoại như chúng tôi đã đề cập ở phần trên. Nhưng ngay trong lãnh vực CỔ SỬ mà tác giả nhân danh, tác giả có vẻ BẤT CHẤP cả Truyền Thuyết lẫn Văn Bản để chỉ dựa vào một lối Giải Thích DUY NHẤT, MỘT CHIỀU cho hợp chủ trương của mình.
Chẳng hạn, lấy cớ “Nguyên Bản, Chính Bản”, (tác giả viết : “Thuyết Âu Cơ-Lạc Long Quân được giải mã dưới góc nhìn mới chú trọng đến sự chia ly giữa bà Âu với ông Lạc…..”) tác giả CHỈ nói đến khía cạnh CHIA LY trong khi đó, trong Truyền Thuyết và Văn Bản, có đoạn văn sau đây: “….mẹ con không về Bắc được, đêm ngày gọi Long Quân ‘Bố ở phương nào làm cho mẹ con ta trông nhớ!’. Long Quân hốt nhiên lại đến, gặp mẹ con ở TƯƠNG DÔ.
Hoặc “…..Bây giờ phải ly biệt, ta đem năm mươi trai về thủy phủ phân trị các xứ, năm mươi trai theo nàng ở trên đất, chia nước mà cai trị, dù lên núi xuống nước, nhưng CÓ VIỆC GÌ THÌ CÙNG NGHE, KHÔNG ĐƯỢC BỎ NHAU”. Mà như đã nói ở phần trên , hiện tượng “Rồng Tiên Hội Ngộ” ở CÁNH ĐỒNG TƯƠNG mới là điểm Quan Trọng NHẤT của Huyền Sử TIÊN RỒNG về nhiều khía cạnh!(7)
Ngoài ra, tất cả luận cứ của tác giả CHỈ xoay quanh cuộc “Di Tản” của hai tộc VIỆT và THÁI mà tác giả nghĩ là theo Huyền Thoại “Âu Cơ – Lạc Long Quân” (với lối hiểu “rất kỳ lạ” của tác giả) bắt đầu từ nước Sở và chấm dứt ở Bắc Việt. Còn về chính Huyền Thoại TIÊN RỒNG thì theo tác giả, chúng ta người VIỆT Chính Cống PHẢI căn cứ trên nội dung của ngưới MƯỜNG vì theo tác giả đó mới là ‘Nguyên Bản”, “Chính Bản” cũng như theo tác giả vì người MƯỜNG xuất phát từ chủng THÁI! Lối Lý luận xem ra vừa ĐƠN SƠ vừa KỲ LẠ!
Không những ĐƠN SƠ mà còn là MỘT CHIỀU” thẳng tắp” bất chấp các khám phá của biết bao Học Giả QUỐC TẾ Trứ Danh! Để “thay đổi không khí” chúng tôi xin đưa ra đây một thí dụ của giới Học Giả Quốc Tế nhận định về Tương quan giữa SỞ và VIỆT xảy ra như thế nào.
Hứa Văn Tiền viết ở bài “Dịch Giả Tự” trong bản dịch quyển “An Nam Thông Sử” mà Nguyên Tác là của Sử Gia Nhật Bản Nhan Thôn Thành Doãn với lới lẽ như sau : “Xét ngưới Việt lập được cơ nghiệp ở bán đảo Trung Ấn là có uyên nguyên, chứ không phải việc ngẫu nhiên bởi vì Việt Nam là giống cường đại nhất trong Bách Việt…..Nước Sở xuất hiện khoảng mười thế kỷ trước công nguyên là do dân tộc Việt Nam kiến lập.”(8)
Các nhận định của các Học Giả Tàu và Nhật vừa nêu trên hoàn toàn TRÁI NGƯỢC với những gì tác giả viết về đề tài này, tuy nhiên cũng không có gì lạ đối với những ai đã từng nghiên cứu một cách kỹ lưỡng và trung thực (nghĩa là không có ý đồ bóp méo Sự Thật Lịch Sử) giai đoạn”‘Việt Chiết Giang”. Thật vậy, vào thời đó, khối lớn là BẮC VIỆT đã làm thành nhiều Liên Bang vói hết SỞ, NGÔ rồi đến VIỆT và đã từng làm CHỦ mạn Nam Nước Tàu (tức lối 2/3 Trung Hoa) có một đoàn chiến thuyền lớn nhất lúc ấy đủ sức kiểm soát toàn bộ duyên hải Trung Hoa từ Bắc Kinh tới Cà Mâu. Ngoài ra, vào lối thế kỷ VI trước công nguyên, với Tứ Cường thời đó là Tề, Tần, Sở, Việt, có lúc VIỆT mạnh nhất. Nhiều học giả cho rằng nếu không vướng nước SỞ thì VIỆT đã củng cố xong LIÊN BANG ăn từ Chiết Giang qua Phúc Kiến, Quảng Đông tới Bắc Phần rồi! (9)
Đó gọi là lối nhìn HAI CHIỀU về Lịch Sử Đông Nam Á và Viễn Đông. Có giai đoạn BẮC TIẾN rồi mới có giai đoạn NAM TIẾN, cũng như luôn luôn có sự Trao Đổi và Ảnh Hưởng Hỗ Tương HAI CHIỀU chẳng hạn giữa VIỆT và SỞ. Và đó mới là Lối Nhìn ĐÚNG ĐẮN về Lịch Sử !
Để bênh vực cho chủ trương “Nam Tiến” MỘT CHIỀU của mình, tác giả lấy môt thí dụ từ THÁI LAN. Tác giả viết: “Nếu đối chiếu với lịch sử lập quốc Thái Lan chẳng hạn, ngay bằng cách truy cập trên mạng, ta sẽ thấy vấn đề có vẻ đơn giản hơn. Sử nước Thái cho biết họ có gốc gác miền Hoa Nam. Đặc biệt nước Nam Chiếu, tức Đại Lý…..hay Điền Việt thời xa xưa”.
Lẽ dĩ nhiên đối với VIỆT NAM, chúng ta cũng có thể tìm ra nhiều trường hợp tương tự. Chẳng hạn, nếu chúng ta thử đi làm một cuộc phỏng vấn “bỏ túi” không những với những người Bình Dân mà cả giới Trí Thức với bằng cấp, chức sắc “kè kè” bên mình, [hay ngay cả những điều được tìm thấy trong những sách SỬ (giáo khoa hay không)], thử hỏi họ về “Nguồn Gốc của Lúa Gạo” mà chúng ta ăn hằng ngày, để kiểm chứng bao nhiêu phần trăm sẽ trả lời là “Nhờ ơn “mưa móc” của Thái Thú Nhâm Diên “dạy dỗ” Tổ Tiên chúng ta cách trồng LÚA mà ngày nay, chúng ta mới có GẠO mà ăn!” và bao nhiêu phần trăm sẽ trả lời LỐI KHÁC tức giống như Stephen Oppenheimer chẳng hạn đã tuyên bố rằng : “Nay chúng ta có một hình ảnh mới lạ lùng là : thay vì cái mô thức cho Trung Hoa là nơi phát sinh kỹ thuật trồng lúa nước, ta thấy chính giống người nói tiếng Nam Á ở Đông Dương thường bị coi là giống Man Di, lại DẠY cho người TÀU kỹ thuật Thuần Hóa LÚA NƯỚC !”(10). Xin cam đoan là QUÝ VỊ sẽ được NGẠC NHIÊN một cách “không thú vị” chút nào về kết quả cuộc phỏng vấn!. Thí dụ này đươc dùng về trả lời lối giải thích của tác giả bài viết ở phần trên.
Ngay với việc giải thích mối Tương Quan VIỆT-THÁI của tác giả trong suốt chiều dài của cuộc Nam Tiến cũng thật là ĐƠN SƠ, NGHÈO NÀN và MỘT CHIỀU! Sự giải thích của tác giả CHỈ dừng ở giai đoạn CHÓT của cuộc “Di Tản”: Theo tác giả, “50 con theo Cha xuống biển” chỉ nhóm dân Lạc Việt, còn 50 con theo Mẹ lên núi thì chỉ nhóm Mường ! (mà theo ý kiến của tác giả thì chúng ta phải căn cứ trên nội dung Huyền Thoại của người Mường và cũng theo tác giả là hậu duệ của nhóm Thái ! ) .
Nếu chúng ta biết là cuộc Nam Tiến này kéo dài hơn 4000 ngàn năm, mà tác giả CHỈ có một lối Giải Thích DUY NHẤT như trên thì thật là QUÁ HẠN HẸP! Thật vậy, chúng ta có thể có NHIỀU lối Giải Thích khác nhau tùy mỗi Giai Đoạn của cuộc Nam Tiến.
 B) GIẢI THÍCH HUYỀN THOẠI CÁCH ĐÚNG ĐẮN
Nên nhớ, như đã nói ở trên, HUYỀN THOẠI phải được “ hiểu theo NGHĨA BÓNG” Co Giản, chứ Không phải Cứng Ngắt như Sử Ký. Do đó, chuyện “50 con theo Mẹ lên Núi, 50 con theo Cha xuống Biển “ có thể hiểu nhiều cách khác nhau, trong đó chẳng hạn “50 con xuống Biển” là chỉ dân ưa chuộng NƯỚC, còn “50 con lên Núi” là chỉ dân đốt rẫy ruộng ĐỒI. Thật vậy, nước Văn Lang thời trước đều có hai lối Canh Tác: ruộng nước và làm rẫy.
Ngoài ra, theo Huyền Thoại, ít nhất vào thời kỳ này, các nhóm Miêu Dao thích sống trên NÚI, còn các nhóm Man, Việt, Thái thì lại thích sống ở Đồng Bằng (ruộng NƯỚC). Như vậy, ở giai đoạn này chủng THÁI có vẻ làm TRÁI Ý tác giả ở chỗ là thay vì “theo Mẹ lên NÚI” thì lại bắt chước chủng VIỆT “theo Cha xuống “BIỂN” ( ở đây phải hiểu là NƯỚC tức để làm “Ruộng Nước”). Thật là “Trái Khoáy”!
Chưa hết, có một lối Giải Thích KHÁC là “50 con theo Mẹ lên NÚI” tức vùng Thục Sơn vào thời kỳ này, còn “50 con theo Cha xuống “Biển” (cũng hiểu là NƯỚC) tức Động Đình Hồ, Bà Dương Hồ, hoặc Nửa lên NÚI Ngũ Lĩnh và Nửa xuống BIỂN Đông như Phúc Kiến.
Nhưng vẫn chưa hết và một lần nữa lại làm TRÁI Ý tác giả là theo ông Từ Trung Thạch thì các dân các vùng Tứ Xuyên, Vân Nam, Quý Châu…..mà đa số thuộc chủng THÁI vẫn còn Tế các Thần coi ruộng NƯỚC. Như vậy, ở giai đoạn này, nhóm THÁI (trái với sự mong muốn của tác giả) lại là “50 con theo Cha xuống “BIỂN” (hiểu là NƯỚC). Còn nhóm VIỆT lại (cũng trái ý tác giả) là “50 con theo Mẹ lên NÚI” Ngũ Lĩnh ! (11)
Đó là “Sơ Sơ”” vài cách Giải Thích Huyền Sử TIÊN RỒNG. Còn vô số cách giải thích khác! Tuy Huyền Sử “ mới nhìn có vẻ CO GIẢN như “cao su” chứ KHÔNG phải CỨNG NGẮT như Sử Ký, nhưng Huyền Sử KHÔNG phải vì vậy mà “chơi Võ TỰ DO” đâu vì Huyền Sử có PHÉP TẮC hẳn hoi, nhưng KHÔNG phải loại Định Luật của Khoa Học VẬT LÝ, mà là loại Luật Tắc của Khoa Học NHÂN VĂN. Cái mà như đã nói ở phần trên, giới Học Giả QUỐC TẾ gọi là tính ‘Mạch Lạc Nội Tại”(Cohérence Interne) là tính “Kiên Định” (Consitency) kèm với cái “Khung Khoa Học” (Scientific Framfwork)!
Còn một điều nữa không biết tác giả có biết không là nhiều người thường không nhận ra là Ý NGHĨA các TỪ BIẾN ĐỔI theo Thời Gian, Không Gian. Thí dụ cũng là chữ Miêu, chữ Mán, chữ Mường mà mỗi đời mỗi nơi gọi khác nhau. Cũng là dân Dao nơi Quảng Đông, Quảng Tây mà khi vào Bắc Kỳ thì lại kêu là Mán, Mường. Chữ Miêu hiện nay thường chỉ mấy dân thiểu số ở QuýChâu là từ đời Tống, nhưng trước kia đời Đường gọi là Mán, đời Tống là Miêu Man, thời nhà Chu gọi là Kinh Man cũng có khi gọi là Tráng Sa Man, Ngũ Khê Man, Ngũ Lĩnh Man , Nam Man…….
 C) LẠC VIỆT NẮM VAI TRÒ LÃNH ĐẠO VĂN HÓA BÁCH VIỆT
Vậy trong khi nghiên cứu, nên xác định nội dung mỗi danh từ theo thời đại và khu vực. Nhưng khi nhìn toàn diện theo kiểu HUYỀN SỬ thì Miêu là Man là Môn, là Thái, là Việt (Âu Việt, Miêu Việt, Lạc Việt), mà VIỆT NHO quen gọi là VIÊM VIỆT, để chỉ tất cả những Dân đã cư ngụ ở miền Nam nước Tàu, đúng hơn là 9/10 diện tích nước Tàu.(12)
Còn thêm một lý do nữa là ngay các Học Giả nổi tiếng cũng thường LẪN LỘN giữa các Danh Xưng để gọi các Chủng, các Chi…trong Liên Đoàn Bách Việt, nhất là giữa VIỆT và THÁI. Chẳng hạn, trong khi Andreas Lommel quan niệm là có 8 nền Văn Hóa căn bản tạo nên Trung Hoa, thì Joseph Needham lại rút xuống còn 6 mà thội.: một từ phương Bắc là người Tung Gu Xích. Thứ hai từ Tây Bắc gốc từ người Thổ. Thứ ba từ phương Tây đến mà ông gọi là Proto-Tibetan tức là Cổ Tạng.
Còn bốn, năm, sáu, J.Needham cho là từ phương Nam và Đông Nam Á. Nhưng khác với Lommel cho nền Văn Hóa này là có gốc THÁI, thì Needham khẳng định ba nếp sống này đem vào Trung Hoa từ thới Tiền Sử có thể mô tả bằng một chữ, chữ VIỆT. Tóm lại thay vì Proto-Thai, thì là PROTO-VIET. (13)
Học Giả W. Eberhard cũng nhiều lần nhận ràng VIỆT là yếu tố nổi nhất trong nhóm nói tiếng Nam Á , trong đó có cả Thái, Dao, Đán (cũng thuộc DAO).!(14) Có nhiều Tranh Cãi trong giới Học Giả về Vai Trò của hai Tộc VIỆT và THÁI trong Cộng Đồng của Liên Đoàn Bách Việt, nhưng riêng về phương diện VĂN HÓA thì hầu hết cho rằng VIỆT có vai trò NỔI BẬT Nhất. Ngay H. Wiens thường lầm lẫn, nên nhiều thứ đáng lẽ là của VIỆT thì ông lại quy cho THÁI. Tuy nhiên, đó chỉ là ở các lãnh vực khác mà thôi, chứ về phương diện VĂN HÓA, Wiens cũng đồng ý với Hầu Hết các Học Giả khác. Ông viết: “Đời xưa dân Việt nổi nhất về mặt Văn Hóa trong nhóm ngưới Nam Á” (= In the ancient times, the Yueh peoples were culturally the highest among the Austronesians”.(15)
Nhưng có lẽ Bằng Chứng Tối Hậu có tính QUYẾT ĐỊNH cho Cuộc Tranh Luận nêu trên , theo thiển ý, có lẽ nằm ở chỗ người ta gọi Liên Đoàn các dân Bản Thổ trước kia sinh sống ở vùng đất bao la ở Miền Nam nước Tàu là BÁCH VIỆT chứ KHÔNG phải “Bách Thái” !
IV) LUẬT QUAN TRỌNG ĐỂ GIẢI THÍCH HUYỀN SỬ
Do óc DUY SỬ (Historicism) bắt nguồn từ thời Thực Dân thuộc địa , cũng như vì KHÔNG Cập Nhật Hóa vốn Kiến Thức của mình với các khám phá Mới Mẻ trong các ngành Khảo Cổ, Ngôn Ngữ, Hải Dương, Địa Chất, Di Truyền hoc…….cũng như trong các khoa Tân Nhân Văn như Dân Tộc, Nhân Chủng, Uyên Tâm, Tâm Lý Miền Sâu, Huyền Thoại Học…… , tác giả bài viết mới có Cái Nhìn Phiếm Diện, MỘT CHIỀU về Quá Khứ của Dân Tộc VIỆT , cũng như giải thích một cách Lầm Lẫn, SAI LẠC về Huyền Thoại, Huyền Sử , nhất là Huyền Sử TIÊN RỒNG!
A) ĐẠI CƯƠNG
Thật vậy, HUYỀN SỬ có Luật riêng của nó và Luật này phải Quy Chiếu vào cái TOÀN THỂ, vào cái Môi Sinh Tinh Thần của những Huyền Thoại để tìm ra Ý NGHĨA, tức phải chú ý đến cả Vũ Trụ Quan lẫn Nhân Sinh Quan: các Ý Nghĩa gán cho Huyền Thoại KHÔNG được đi ra ngoài cái TOÀN BỘ nọ. Đó là những Tiêu Chuẩn mà giới Học Giả Quốc Tế ngày nay gọi chung tên là tính Mạch Lạc Nội Tại (Cohérence Interne) hay tính Kiên Định (Consistency). Để Cụ Thể hóa khuôn mặt của cái Toàn Thể đó, Việt Nho đưa ra 4 Tiêu Điểm là: TỪ, TƯỢNG, SỐ, CHẾ, tương đương với điều mà giới Học Giả Quốc Tế gọi là cái Khung Khoa Học ( Scientific Framework).
TỪ là Lời Nói , ở đây hiểu là các Huyền Thoại thuộc thời Sơ Nguyên, nhiều khi có cả Sáng Thế Ký (Cosmogony) như truyện Ông Bàn Cổ. Với Lạc Việt thì căn bổn hơn hết là 15 truyện trong KINH HÙNG trích từ “Lĩnh Nam Trích Quái” mà nét Đặc Trưng là tính chất NHÂN CHỦ, trong đó có Huyền Thoại TIÊN RỒNG.
TƯỢNG thì có những cặp đôi: uy nghi cũng có, mà cận nhân tình cũng có như : nước lửa, núi sông, ông Cồ bà Cộc, ông Đùng bà Đà…..những cặp đôi đó đã kết tinh trong cặp đôi TIÊN RỒNG với tính cách thi vị mênh mông, một cặp đôi đầy biến ảo và thấu nhập vào hết các ngõ ngách của cuộc sống: từ mỹ thuật đến thể chế, ngôn ngữ, thói tục….Cặp Tượng này sẽ kép nét lên mà ra bánh dầy, bánh chưng hay là tròn vuông tương hội. Những Tượng này đã được đúc kết lại trong TRỐNG ĐỒNG mà Ý Nghĩa sẽ được trình bày ở phần dưới đây.
SỐ: Về Số thì phải tìm trong Tượng, phổ biến hơn cả là số 2 với Vũ Trụ quan ĐỘNG: Âm Dương, TIÊN RỒNG, Núi Sông, Nước Lửa, Đất Trời, Đực Cái……
Số 3 chỉ con người NHÂN CHỦ tức không lệ thuộc vào bên nào; không duy Dương cũng không duy Âm, không duy Trời cũng như không duy Đất, nhưng đứng giữa kiêm cả Hai nên là BA
Số 5 là 2 và 3 cộng lại thành ra NGŨ HÀNH: Ý Nghĩa nằm trong bộ số 3 và 2. Số 3 chỉ con người đầy Tác Động tính nên gọi là một trong Tam Tài (“Tài” là “Tác”). Số 2 chỉ tính “Lưỡng Thê” tức có hai Đời Sống : một của thế giới Hiện Tượng, một của thế giới Siêu Linh.
Sau “Ngũ Hành” là mấy Số KÉP khác như số 9 là 3 “kép với” 3, số 18 là 9 “kép với” 9: 18 đời Hùng Vương , 18 ngàn năm của Bàn Cổ, 18 thước cao của con ngựa Thánh Dóng, 18 đôi chim ở vòng ngoài cùng của Trống Đồng…….(16)
( Đây lại thêm một Bằng Chứng nữa về sự LẦM LẪN Tai Hại của tác giả bài viết: Đáng lẽ khi thấy Số 18 lập đi lập lại rất nhiều lần trong những trường hợp khác nhau như vừa đề cập ở trên, thì phản ứng đầu tiên phải có đối với một người bình thường có chút phán đoán là xét ngay đến Ý NGHĨA tự thân của con Số 18. Thay vì làm thế, tác giả lại đi tìm xem thực sự có 18 đời Hùng Vương trải dài trên hơn 2000 năm hay không ???!!!)
Xin trở lại vấn đề. Các Số này được kết tinh vào Kinh Dịch mà khởi thủy là “Kinh Vô Tự” vì dùng toàn số 2,3,5,9 (nó chỉ trở nên ‘Kinh Hữu Tự” từ lúc Tàu hóa gọi là của Văn Vương và Khổng Tử ). Vậy là ta có thể coi Kinh Dịch như nơi kết tinh của SỐ. Mà Huyền Sử TIÊN RỒNG như chúng ta sẽ thấy ở phần sau, lại là CHÌA KHÓA đưa vào Kinh Dịch.
CHẾ là các Thể Chế, Tục Lệ mà nơi tập trung sống động nhất là cái Làng VIỆT. LÀNG là một cái nấc thang đi lên NƯỚC nên Tiền Nhân nối liền Làng vào Nước gọi là LÀNG-NƯỚC, cũng như đã nối liền Nhà với Nước gọi là NHÀ-NƯỚC. Mục đích của việc NỐI KẾT này là nếu thực sự là giòng giống LẠC HỒNG thì dẫu sau này có thành Quốc Gia, ra với Quốc Tế “gì gì đi nữa” thì cũng ĐỪNG bao giờ Quên cái GỐC GÁC của mình là cái LÀNG Nguyên Thủy. Vì với Thể Chế, Thói Tục….LÀNG VIỆT chính là Hiện Thân của cái “Bọc Trăm Trứng” của Mẹ ÂU CƠ qua việc thực hiện nội dung Triết Lý ẩn tàng ngay trong Huyền Sử TIÊN RỒNG.(17)
 B) HUYỀN SỬ “TIÊN RỒNG”
TIÊN RỒNG là Hai Vật Biểu của Việt Nam thăng hoa từ Hai Vật Tổ Chim Rắn. Đây là nét Đặc Trưng quan trọng nhất, dẫn đầu mọi nét đặc trưng sau này. Đây là con số HAI kỳ lạ: Hai mà Một, Một mà Hai. Phải SIÊU VIỆT mới nhìn ra chỗ đó không thì chỉ thấy có Một. Vì thế thường người ta chỉ có MỘT vật Biểu: gấu Nga, ó Mỹ, gà Pháp, voi Ấn, rồng Tàu…..vvv…..Riêng VIỆT có HAI mà lại ở Hai đầu Thái Cực: một CHIM bay tận Trời, một RỒNG lặn sâu dưới đáy Biển, thế mà vẫn ĐI ĐÔI.
Chữ ĐÔI này phải được nhấn mạnh vì như trên đã nói, đây không là nét nghệ thuật trang trí mà là sự Biểu Thị chiều sâu xa không đâu có được: đây là mối TƯƠNG QUAN Nền Tảng nối HAI bên Thái Cực lại MỘT, để làm nên cái Vũ Trụ quan Năng ĐỘNG đối chọi lại với Vũ Trụ quan TĨNH Im, đông đặc MỘT là MỘT ở các nền Văn Hóa khác như Tây Phương chẳng hạn.
Đó là một Trang HUYỀN SỬ Cao Cả mà lại Thật Tế, hơn nữa còn thắm thiết sâu xa: Tổ Mẫu ÂU CƠ (Âu là chim Hải Âu ở đây, chứ KHÔNG hẳn ám chỉ dân Âu Việt như tác giả luôn luôn bị ám ảnh) đẻ ra cái Bọc Trăm Trứng, rồi trứng nỏ ra ra trăm con. Và khi Bố Mẹ chia tay (để PHÂN CỰC chứ KHÔNG phải đi làm thủ tục “ly dị” như tác giả “nghĩ bậy”) thì 50 con theo Mẹ , 50 con theo Cha rất công bằng, không có thiên kiến Cha hơn Mẹ, trái lại MẸ nắm phần trội hơn, vì TIÊN trưóc RỒNG, , ÂM trước DƯƠNG, VỢ trước CHỒNG.
Lại còn vụ 50 con theo MẸ lên Núi lập ra nước VĂN LANG chứ không phải 50 con theo Cha. Tức là Nước được kiến tạo theo Tinh thần của MẸ (principle of kinship) nên trong Nước KHÔNG hề có Giai Cấp bên Chủ bên Nô, như hầu hết trên thế giới. Theo Tinh Thần GIA TỘC thì làm chi có Nô, chỉ có Bà, Con, Cô Bác, Anh, Chị, Mẹ, Cha. Thực tế là mọi người đều được hưởng BÌNH SẢN và TỰ DO.
Từ lối sống đầy Tình Nghĩa đó đã vươn lên quan niệm Vũ Trụ quan ĐỘNG, tức bao giờ cũng có HAI đầu Thái Cực, nhưng KHÔNG bị nhìn là hai Mâu Thuẫn như ở nơi khác (thí dụ Tây Phương). Trái lại ở đây, HAI Cực được nhìn như HAI mặt Bổ Túc để làm nên một Thực Thể , vì thế giữa HAI Cực, có một mối TƯƠNG QUAN Cơ Thể (organic) tức cả HAI cần cho Toàn Thể: bỏ một bên là chết liền!. Nhưng đây là mối Liên Hệ nằm ngầm phải có mắt Hiền Triết mới nhận ra và tả lại bằngThoại Ngôn rằng “Âu Cơ Tổ Mẫu gặp Lạc Long Quân trên CÁNH ĐỒNG TƯƠNG”.
Nhờ Văn Hóa TIÊN RỒNG giữ được chữ TƯƠNG Nền Tảng nọ nên xem Vạn vật đều là ngành ngọn ngoại vi làm nên Một THỂ gọi là “thiên địa vạn vật nhất thể”. Nhưng NHẤT đây KHÔNG là cái Nhất Một chiều, nhưng là Nhất Nguyên LƯỠNG CỰC và tự HAI Cực , có sự Đong Đưa bất tận làm nên Vũ Trụ năng động giữa hai bộ Âm-Dương Nhị Khí, được ví với sông TƯƠNG luôn chảy qua Cánh Đồng TƯƠNG chở đầy Tình Người Tình Nước: “Sông TƯƠNG nước chảy HAI Chiều”
Chữ TƯƠNG cũng được diễn tả lu bù bằng những hình Tác Động GIAO CHỈ Cơ bản hơn hết như:
_ Nữ Oa Phục Hy ‘Giao  Chỉ’  bằng Đuôi
_ Hai Rồng ‘Giao Chỉ’  bằng Tay và Chân
_ Chim Hồng ‘Giao Chỉ với Lạc Long quân bằng Miệng (hình “Thuyền Tình Bể Ái” trên Trống Đồng)…..
Tất cả các Tiêu Biểu trên đều nhờ cái Bọc ÂU CƠ Quốc Mẫu đã thăng hoa tới đợt cuối cùng thành ra Quả Trứng Vũ Trụ cũng vẫn giữ được con sông TƯƠNG chảy ngòng ngoèo chữ S làm nên một Biểu thị Vũ Trụ quan cực đẹp, cực sâu xa và đầy đủ không thể có được cái thứ hai như vậy…..
Nhờ Chân Lý nền tảng trên đây mà người VIỆT không lúc nào li lìa 2 Vật Biểu đã biến thành TỔ MẪU TỔ PHỤ. Họ khai quốc xưng mình là HỒNG BÀNG. ‘Hồng’ là Chim Thiên Nga đại diện cho sự Trong Trắng Tinh Tuyền là cái làm cho nên Đẹp cái ĐẸP Tinh Trong Siêu Thoát. ‘Bàng’  là Rồng chỉ những Chân Lý thâm sâu như Đáy Bể., phát xuất từ cõi Tiềm Thức U Linh (17).
V) HUYỀN SỬ TIÊN RỒNG : CHÌA KHÓA DẪN VÀO KINH DỊCH
Cái NÉT GẤP ĐÔI đó mà Heidegger nói là Tây Phương đã đánh mất từ rất lâu , lại hiện diện không những trong Huyền Sử TIÊN RỒNG dưới hình thức Tiên-Rồng như vừa đề cập ở trên, mà còn trong KINH DỊCH dưới dạng thái Âm-Dương…..Ngoài ra, “Dịch quần kinh chi thủ” : Kinh Dịch đứng đầu các Kinh của Nho Giáo nên giữ địa vị quan trọng nhất. Vậy nên, tìm về NGUỒN GÓC của Kinh Dịch có lẽ cũng là tìm về Nguồn Gốc của Nho Giáo vậy. Mà muốn xác định Nguồn Gốc của Kinh Dịch thì có lẽ ta phải tìm về Nguồn Gốc của TiênThiên Bát Qúai là Sơ Đồ Nền Tảng của Dịch Kinh vì Tiên Thiên Bát Quái nằm ở đợt Tiên Thiên tức ở đợt TƯỢNG hay đợt Tiềm Thể U Linh của vũ trụ vạn vật con người.
Có người so sánh Tiên Thiên Bát Quái của Kinh Dịch với “Big Bang” trong Khoa Học Vật Lý liên quan đến sự xuất hiện và hình thành của Vũ Trụ Vạn Vật. Theo ý kiến của nhiều Khoa Học gia danh tiếng, có lẽ trước khi xảy ra “Big Bang” CHỈ có môt khối NĂNG LƯỢNG (Energy) Đông Đặc. Khoa Học ngày nay hình như vẫn chưa hiểu lý do tại sao có “Big-Bang” mà hệ quả là CHỈ sau “Big-Bang” mới xuất hiện VẬT CHẤT biến thái từ khối Năng Lượng nguyên thủy.
Ngoài ra, có nhiều điều trong Tiên Thiên Bát Quái có vẻ TƯƠNG TỰ với các Hiện Tượng đi kèm với “Big_Bang”. Chẳng hạn, Kinh Dịch lấy quẻ THUẦN KIỀN làm Đầu Mối có vẻ tương tự với sự hiện diện của khối NĂNG LƯỢNG Đông Đặc mà Không có Vật Chất đi kèm TRƯỚC khi xảy ra “Big-Bang”, nếu đúng theo tinh thần Kinh Dịch, NĂNG LƯỢNG được biểu hiệu bằng ‘Kiền’ bằng ‘Dương’ (còn VẬT CHẤT thì được biểu hiệu bằng ‘Khôn’, bằng ‘Âm’ xuất hiện SAU Big-Bang hay sau khi ‘Thái Cực sinh Lưỡng Nghi”)
Phải chăng vì vậy mà Huyền Sử TIÊN RỒNG “nói bóng” là hai Ông Bà Lạc Long Quân và Âu Cơ chỉ sinh ra CON TRAI mà thôi ?!. Tóm lại có những điểm TƯƠNG ĐỒNG nào chăng giữa 3 lãnh vực nêu trên:
_ Sự hiện diện của NĂNG LỰC thuần túy Không có Vật Chất TRƯỚC “Big-Bang”
_ Chu Dịch lấy quẻ THUẦN KIỀN làm Đầu Mối cho các Quẻ khác
_  Trong Huyền Sử TIÊN RỒNG khi nói Tổ Mẫu, Tổ Phụ chỉ sinh ra Con TRAI phải chăng là một hình thức NÓI BÓNG được dùng để ám chỉ những Chân Lý Cao Siêu Hơn được tìm thấy trong KINH DỊCH hoặc liên quan đến hiện tượng BIG-BANG ?
Ngoài ra, Huyền Sử TIÊN RỒNG, như đã nói ở trên, có đề cập đến vụ “50 con theo Mẹ lên núi…..”. Cố Triết Gia Kim Định có viết về vấn đề này như sau: “Lại còn vụ 50 con theo mẹ lên núi lập ra nườc Văn Lang chứ không phải 50 theo cha, tức là nước được kiến tạo theo tinh thần của Mẹ (principle of kingship) nên trong nước không hề có giai cấp bên chủ bên nô, như hầu hết trên thế giới).
Mặtt khác, THÁI CỰC thường được biểu thị bằng quẻ KIỀN nhưng phải hiểu một cách mặc nhiên là có thấp thoáng quẻ KHÔN ở đằng sau (xuất hiện SAU Big-Bang hay sau khi “Thái Cực sinh Lưỡng Nghi”), [tương tự trường hợp Vật Chất (matter) với “Phi Vật Chất” (anti-matter), hoặc Vũ Trụ “Thực” với Vũ Trụ “Ảo” vậy!] .
_ “Âu Cơ đem 50 con hay một nửa lên núi” trong Huyền Sử tương đương trong Kinh Dịch với nguyên tắc “Âm Sinh Dương” tức Khôn ÂM sinh 3 quẻ DƯƠNG là Cấn-Khảm-Chấn hay một nửa Con TRAI theo MẸ “lên núi”(tức quẻ KHÔN trong Kinh Dịch hay Mẹ ÂU CƠ trong Huyền Sử)
Ngược lại, vì nguyên tắc “Dương Sinh Âm”, nên quẻ Kiền DƯƠNG sinh ra Đoài-Ly-Tốn là ÂM. Sở dĩ xem quẻ Đoài-Ly-Tốn là Âm vì theo nguyên tắc “chúng dĩ quả vi chủ” nghĩa là hễ trong một quẻ có 3 hào, quẻ nào nhiều DƯƠNG thì phải lấy hào ÂM làm Chủ. Mà Đoài-Ly-Tốn gồm mỗi quẻ “2 hào Dương 1 hào Âm” nên phải lấy ÂM làm Chủ do đó còn gọi là Con GÁI sinh từ CHA là quẻ KIỀN theo nguyên tắc “Dương Sinh âm”.
Cũng xin nhắc lại ở đây là nét Đặc Trưng của Huyền Thoại, Huyền Sử là Không Nói Thẳng mà NÓI GIÁN TIẾP, nên khi huyền sử Tiên Rồng nói Chỉ “sinh con TRAI”  thì ĐỪNG hiểu theo nghĩa ĐEN mà tưởng thật mà phải hiểu theo nghĩa BÓNG với ý nghĩa rằng TRƯỚC Big-Bang, vũ trụ CHỈ gồm có NĂNG LƯỢNG Thuần Túy (DƯƠNG “Con Trai”), Chưa có Vật Chất (ÂM, “Con Gái”) tương đương tình trạng của Dịch Lý trước khi “Thái Cực sinh Lưỡng Nghi” .
Tác giả bài viết vì LẪN LỘN Huyền Thoại với Sử Ký nên “hiểu theo Nghĩa ĐEN”do đó HIỂU SAI Huyền Thoại, vì vậy mới có câu tuyên bố  với lối lập luận và căn bản hiểu biết rất SAI LẠC rằng ” không có cách gì Hùng Vương đã trở thành thủy tổ của dòng giống Lạc Hồng hết” .Ngược lại, nếu hiểu Huyền Sử, Huyền Thoại một cách ĐÚNG ĐẮN thì Vua HÙNG hay HÙNG Vương chính là QUỐC TỔ của chúng ta có Gốc Gác VIỆT Tộc một trăm phần trăm!
Ngoài ra, đó chỉ là phần đầu ĐI RA của “Big Bang”, của cõi Hiện Tượng, nhưng Kinh Dịch lại nhấn mạnh đến luật PHẢN-PHỤC hay hành trình ĐI VỀ vì con người tiểu ngã thường hay quên “Đi về”! Mà “Đi Về” hay luật Phản Phục của Dịch Lý có lẽ bắt nguồn từ đoạn văn sau đây của Huyền sử TIÊN RỒNG   “khi có chuyện phải hẹn gặp nhau ở CÁNH ĐỒNG TƯƠNG”!
Đến đây, chúng ta phải hết sức THÁN PHỤC trước sự Hiểu Biết Cao Thâm của Tiền Nhân ta khi chứng kiến sự TƯƠNG ĐỒNG đã đạt đến trình độ có thể gọi là “Xuất Quỷ Nhập Thần” giữa những Khám Phá Mới Mẻ Nhất của cả KHOA HỌC Tân Tiến lẫn KINH DỊCH với Nội Dung Minh Triết của Huyền Sử TIÊN RỒNG quả xứng đáng là CHÌA KHÓA đưa vào Thế Giới DỊCH LÝ cũng như nền Văn Hóa VIỄN ĐÔNG vậy!
VI) HUYỀN SỬ “TIÊN RỒNG”, TRỐNG ĐỒNG VÀ UY QUYỀN “QUÂN TRƯỞNG” CỦA VUA VIỆT ĐỐI VỚI VUA NƯỚC KHÁC
A) HUYỀN SỬ “TIÊN RỒNG” VỚI TRỐNG ĐỒNG
Huyền Sử TIÊN RỒNG ngoài Lời nằm trong chính Huyền Thoại còn có TƯỢNG với nhiều Cặp Đôi được kết tinh trong cặp đôi Tiên Rồng. Những Tượng này cũng đã được đúc kết lại trong TRỐNG ĐỒNG nơi các Cặp Đôi được biểu lộ cách huy hoàng như Chim với Nai, con Dài con Vắn, con đi Lẻ con đi “cặp Hai”, con Đực con Cái…MẶT Trống chia ra hai mảnh, rồi mỗi bên là Lẻ Chẳn (nóc nhà một Chim, bên kia hai Chim) vòng sát ngoài có 3 đôi Chim bên kia, 4 đôi bên này. Đó là cặp số 2-3 kép lên thành 3-4 , 3 tròn 4 vuông, số của Bánh Trời Bánh Đất.
Bây giờ nhìn xuống TANG Trống, ta thấy chữ Tiên Rồng nổi bật cách huy hoàng. Trên Mặt Trồng mới thấy TIÊN, ở Tang Trống thấy thêm cả RỒNG. Rồng được nhập thế ngay vào THUYỀN: Thuyền không còn là thuyền mà đã là vật sống động có mắt, có chân thay chèo, rồi uốn mình cong lên và thú vị hơn cả là có miệng, miệng lại mở to ra để GIAO CHỈ với Tiên trong hình dáng CHIM đang lao vào miệng RỒNG…..
Như vậy CHIM không phải “đẩy Thuyền” mà là Đẩy RỒNG, đẩy Long Quân vào việc sinh ra “Con Rồng Cháu Tiên”……Không còn gì cụ thể hơn , thân cận hơn bằng biến ngay Thuyền thành Rồng: Thuyền ỏ dưới Nước nên cũng diễn tả được câu “Long Quân quen ở thủy phủ”. CHIM lao vào miệng RỒNG còn nói lên cả thói tục đời xưa là Âm trước Dương, Vợ trước Chồng, Gái “Ve” Trai, Tiên Dung quyết định hôn nhân trên tay Chử Đồng Tử.
Tóm lại, Tang Trống với Mặt Trống làm nên chữ ĐINH có hai nét T ngang dọc ((Đất Trời giao thoa) sống động nhất dưới dạng thức “Long Phụ Tiên Mẫu” lưu lại cho con dân Nước VIỆT một phù hiệu huy hoàng không đâu khác có nữa. Nét Ngang Dọc này liên hệ với nhà Chữ ĐINH mà Nữ Thần MỘC dạy cho VIỆT Tộc
Như vậy, TRỐNG ĐỒNG phải được coi là cái TƯƠNG Chói Chang của Huyền Sử Nước VIỆT. (19)
 B) UY QUYỀN “QUÂN TRƯỞNG” CỦA VUA VIỆT ĐỐI VỚI VUA NƯỚC KHÁC
Phần trình bày ở trên cho chúng ta thấy mối LIÊN HỆ thật mật thiết thâm sâu giữa TRỐNG ĐỐNG và Nội Dung của Huyền Sử TIÊN RỒNG. Ngoài ra theo Học Giả La Hương Lâm “Đặc biệt nổi nhất của Văn Hóa các Tộc VÌỆT Cổ là nghề Đúc Trống Đồng của họ dùng cho mục đích LỄ NGHI. Lạc Việt một nhánh của Tộc Việt đã thuần thục nghề này đến mức Trống Đống có khi được coi như Trống Đồng LẠC VIỆT”.
Trong Trống Đồng Đông Sơn, Trống Ngọc  Lữ là cái TIÊU BIỂU nhất, bởi nó cùng với Hoàng Hạ và Sông Đà là ba cái thuộc nhóm Trống Đồng sớm nhất cùng tìm thấy trên đất Việt Nam ở vùng châu thổ sông Hồng. Ngày nay không còn ai tranh cãi về Chủ Quyền Trống Đồng loại này……
Ngoài ra, Trống Đồng không phải chỉ là một dụng cụ ÂM NHẠC mà còn là một dụng cụ để ĐIỀU BINH Khiển Tướng trong lúc lâm trận, để ra Hiệu Lệnh cho Thời Bình, để THỜ ở Đền Đài làm Vật Thiêng, làm chứng cho lời thề của quần thần trung thành với Vua, với Nước vào đầu năm, có thể còn có vai trò một QUYỀN TRƯỢNG hay một Vương Niệm cho Triều Đình PHONG CHÂU ban cho các Triều Đình khác trong vùng Đông Nam Á…..
Vì Phong Châu, Kinh Đô Lạc Việt , vẫn là nơi Phát Xuất, là ĐẤT TỔ, là cái NÔI của tất cả các Tộc VIỆT trong Đại Tộc Bách Việt, cho dù thời đại Cực Thịnh của Nòi Việt ở Trung Nguyên, nhiều Tinh Hoa Việt đã đi lên phương Bắc để lập ra các nước gốc Việt hùng cứ một thời như Sở, Ngô, Ba Thục , Đông Việt, Mân Việt, Nam Chiếu….. nhưng phần GỐC, Cốt Lõi Tinh Hoa vẫn ở lại nơi Châu Thổ Sông HỒNG có Kinh Đô PHONG CHÂU Cổ Kính.
Thật vậy, theo Học Giả Loofs –Wissowa “ TRỐNG ĐỐNG được coi như là Vật Tượng Trưng cho Quyền Lực HỢP PHÁP. Loofs.-Wissowa cho rằng có Quyền Uy TÔN GIÁO đã tồn tại nơi nào đó ở phía Bắc bán đảo Đông Dương, mà hợp lý nhất là ở BẮC  VN. Quyền Uy Tôn Giáo đó không nhất thiết có Quyền Lực Chính Trị. Ông cho rằng Quyền Uy đó gần giống Giáo Hoàng ở phương Tây. Theo ông, có thể tưởng tượng rằng đã có những Sứ Bộ, Phái Đoàn do các Tù Trưởng Bộ Lạc ở nhiều vùng Đông Nam Á gửi đến miền BẮC VN để Được Ban những chiếc Trống Đồng, mà với chúng họ có thể Làm Vua HỢP PHÁP”(20).
KẾT LUẬN
Để kết luận, chúng tôi xin được đưa ra sau đây một vài Nhận Xét :
Thứ nhất, Bách Việt và nhất là LẠC VIỆT có lẽ là Chủng Duy Nhất mà Văn Hóa đã VƯỢT QUA giai đoạn Thần Thoại nơi đây Thần  Linh làm Chủ để tiến lên trình độ NHÂN THOẠI nơi đây Con Người làm Chủ. Mà tinh thần của Nhân Thoại là NHÂN CHỦ Tính là Đỉnh Cao nhất trong lãnh vực Văn Hóa Triết Học mà ngay những nước Tân Tiến nhất ngày nay cũng chưa nước nào đạt được! Mà Lạ Lùng thay là Nhân Chủ Tính chính là Nội Dung không phải của một , hai truyện lẻ tẻ, mà của cả 15 Truyện trong KINH HÙNG, nhất là Huyền Sử TIÊN RỒNG đã được thành hình từ thời Khuyết Sử của dân tộc Lạc Việt!
Phần trình bày ở trên còn cho chúng ta thấy tính chất SIÊU VIỆT của Huyền Sử Tiên Rồng với khả năng DỰ BÁO đối với các Khám Phá Mới Mẻ nhất của Khoa Học ngày nay, đồng thời cũng là CHÌA KHÓA đưa vào cuốn Kinh Nền Tảng Nhất của Văn Hóa Viễn Đông là KINH DỊCH. Điểm ĐỘC ĐÁO nhất về phương diện này của Huyền Sử Tiên Rông có lẽ nằm ở việc Gỉai Thích Thỏa Đáng, mặc dầu một cách Vắn Tắt bằng Biểu Tượng , Tình Trạng Tiền và Hậu “BIG-BANG” , cũng như Nguồn Gốc của Tiên Thiên Bát Qúai của Kinh Dịch đã làm “nhức đầu ” biết bao nhà Nghiên Cứu Dịch Lý!
Tuy nhiên, những điều vừa nêu ở trên sẽ trở nên DỄ HIỂU nếu chúng ta biết rằng các khám phá mới mẻ nhất của các khoa Khảo Cổ, Ngôn Ngữ, Hải Dương, Địa Chất, Nhân Chủng, Di Truyền học……đã chứng minh là các dân Lạc Vìệt, Bách Việt đã từ đồng bằng Sundaland, đồng bằng Sông Hồng cổ phân tán đi khắp nơi, nhất là đi LÊN PHÍA BẮC từ mấy chục ngàn năm cách ngày nay. Chẳng hạn, trong ngành Khảo Cổ, Ts W. Solheim II chủ trương rằng không những Nam Trung Hoa mà cả Ngưỡng Thiều cũng là hậu thân của Văn Hóa Hòa Bình. Riêng Học Giả J. Needham cho rằng người Hoà Bình đã du nhập vào Trung Hoa 25 nét Đặc Trưng Văn Hóa của mình trong đó có: Tục Đua Thuyền, Huyền Thoại Con Rồng, Văn Minh Trống Đồng…..
Thì đâu có gì lạ khi có ngưới chứng minh rằng LAC VIỆT là “Chủ Nhân Ông” của Kinh Dịch, ít nhất ở đợt Tượng Số mà Nguồn Gốc có thể được tìm ra với sự “giải mã” nội dung của Huyền Sử Tiên Rồng! Dẫu người Tàu có cố ý ĐÁNH TRÁO như vụ Hiên Viên (-2695 tức là còn sau cả Họ Hồng Bàng -2879) được “công kênh” lên vai “Hoàng Đế” đưa vào để thế chỗ Bà Nữ Oa trong danh sách Tam Hoàng , thì theo dòng thời gian, với các khám phá Khoa Học càng ngày càng nhiều thì Sự  Thật sẽ hoàn lại SỰ THẬT!
Ngoài ra, như phần trên cho thấy, một mặt nội dung của Huyền Sử Tiên Rồng được phản ảnh cách trung thực trên Trống Đồng, mặt khác LẠC VIỆT  được giới Học Giả Quốc Tế công nhận về vai trò Lãnh Đạo VĂN HÓA đối với toàn thể Bách Việt, thì cũng lại là điều DỄ HIẺU khi Học Giả Loofs-Wissowa gán cho Trống Đồng đặc tính Uy Quyển kiểu “QUÂN TRƯỞNG” có tính chất vừa Văn Hóa, vừa Tôn Gíao, vừa Nghi Lễ, vừa Pháp Lý của Vua VIỆT đối với các Vua khác trong Bách Việt.
Điều trên cũng giúp giải thích truyện “Âu Cơ-Lạc Long Quân” với nội dung kiểu Mường. Thật vậy, tác giả bài viết không làm sao giải thích nổi lý do về vụ 50 con của Âu Cơ (mà tác giả giả định là gốc MƯỜNG nên nghĩ là phải ở trên Núi) lại bận Áo ĐEN. Tác giả lại càng không hiểu tại sao 50 con của Lạc Long Quân ( mà tác giả giả định là gốc VIỆT phải ở Biển) lại bận Áo VÀNG.
Vì không giải thích nổi nên tác giả “nói trớ” là Huyển Thoại “Âu Cơ-Lạc Long Quân” vì ra đời trước khi gặp người Tàu nên KHÔNG theo NGŨ HÀNH về mặt MÀU SẮC. Thật ra, vì Kinh Dịch lẫn Ngũ Hành (phát xuất từ phía Đông Nam) đều là CỦA BÁCH VIỆT, do đó, theo thiển ý PHẢI ÁP DỤNG NGŨ HÀNH vào trường hợp này.
Dưới ánh sánh của các Dữ Kiện vừa nêu ở trên, chúng ta có thể giải thích như sau: Như đã nói ở trên, vì tác giả theo phương pháp SỬ KÝ cứng ngắt nên CHỈ dừng lại ở giai đoạn CHÓT của cuộc Nam Tiến. Do đó tác giả lập luận rằng ngưòi MƯỜNG thì phải ở NÚI như tình trạng hiện nay..Do đó, tác giả không làm sao giải thích được vụ người MƯỜNG ( theo Mẹ Âu Cơ) bận Áo ĐEN. Lý do là theo Ngũ Hành, màu ĐEN dùng để chỉ hành THỦY mà biểu tương là NƯỚC. Tác giả không nghĩ ra là trên con đường Nam Tiến, có giai đoạn người Mường cũng như người Thái sinh sống ở Đồng Bằng làm “Ruộng NƯỚC” nên bận Áo ĐEN là đúng rồi! Và có nhiều cơ may là Huyền Thoại “Âu Cơ-Lạc Long Quân” kiểu THÁI-MƯỜNG bắt đầu từ thuở đó.!
Câu hỏi kế tiếp là tại sao 50 con của Lạc Long Quân ( mà tác giả giả định là gốc VIỆT phải ở Biển) lại bận Áo VÀNG. Tác giả lại càng “Bí”!
Nhưng nếu căn cứ trên Uy Quyền QUÂN TRƯỞNG của Vua VIỆT đối với Vua của các xứ khác đã đề cập ở phần trên (nhất là đối với “Vua” hay Tù Trưởng MƯỜNG thì Uy Quyền Quân Trưởng của Vua VIỆT lại càng tăng thêm, cùng với sự Nể Phục), thì lại cũng là điều DỄ HIỂU nữa khi người MƯỜNG để cho 50 con theo Lạc Long Quân mặc Áo VÀNG là Màu Áo dành cho VUA với màu VÀNG cũng là Biểu Tượng của Hành THỔ trong khung Ngũ Hành. !
Về nội dung và CÁCH HIỂU Huyền thoại, Huyền Sử thì còn tùy TRÌNH ĐỘ của người “đọc” hay nghe kể. Ở phần trên, khi đề cập đến Huyền Thoại ĐẾ MINH, chúng tôi có đưa ra 4 Cách Thức: cách thức của người BÌNH DÂN cũng như cách thức của các nhà ĐẠI TRÍ THỨC như C. Jung, M. Granet, C. Lévi-Strauss…
Đối với Huyền Thoại TIÊN RỒNG cũng vậy, chúng tôi đã trình bày ở phần trên Nội Dung rất thâm sâu với các đặc tính rất CAO CẤP, SIÊU KHOA HỌC, NHÂN CHỦ, DỰ BÁO ….. của Huyền Thoại Tiên Rồng kiểu VIỆT. hoàn toàn TRÁI NGƯỢC với tính chất BÌNH DÂN của huyền thoại “Âu Cơ-Lạc Long Quân” kiểu MƯỜNG mà chúng tôi xin mời Quý Độc Giả cùng “thưởng thức” dưới đây:
“Ngày xửa ngày xưa, có một nàng công chúa xứ Mường tên Ngu Kơ mang tiền kiếp một con nai có đốm ngôi sao (cerf étoilé), cưới một ông hoàng tử con byua Yịt tên Lương Wong, gốc vốn loài cá. Ít lâu sau, Ngu Kơ sinh được 50 con gái và 50 con trai. Nhung rồi cơm không lành canh chẳng ngọt. Từ ở chỗ con cái không đủ đồ ăn thức uống, Ngu Kơ và Lương Wong ưa cãi vã với nhau. Cuối cùng, Ngu Kơ và Lương Wong đành phải chia tay, đôi ngã đôi ta. Ngu Kơ dẫn 50 người con lên miền rừng núi, và Lương Wong dẫn 50 người con kia xuôi về miền sông biển. Ngu Kơ và đám con tạo nên những dòng vua chúa mặc áo màu đen, và Lương Wong, các gia đình vua mặc áo vàng.Dân Mường thờ kính bà Ngu Kơ như mẫu tổ và thường làm cờ có hình con nai đốm sao, như môt vật tổ để tưỏng nhớ đến bà.” (21)
Có lẽ Quý Độc đã thấy sự KHÁC BIỆT “một trời một vực” về Nội Dung giữa hai loại Huyền Thoại một kiểuVIỆT và một kiểu MƯỜNG liên quan đến “Âu Cơ- Lạc Long Quân”!
Một chi tiết chót về hai khái niệm “Quantum Jump” và “Fast Forward” mà tác giả bài viết có vẻ muốn đưa vào để “hù thiên hạ” chăng? Tác giả viết:
“Theo thiển ý một hệ luận hết sức quan trọng đã bắt nguồn từ chỗ không để ý đến vấn đề Quantum Jump và Fast Forward trong truyền tích Âu Cơ. Đó là các sử gia từ đời này sang đời nọ đều quên đối chiếu cổ sử với biến động lịch sử chung quanh. Bởi ở chỗ truyền tích đã bị FAST FORWARD không có báo động, người khảo cứu khi chăm chú vào những huyền thoại di cư xảy ra vào thời Đế Minh, Lạc Long Quân, rồi Hùng Wang thường lầm tưởng mấy ông tổ này đi đến xứ của người nước Nam trong khoảng 2880-2780 TCN mà thôi” (22).
Thiết nghĩ sở dĩ tác giả thấy có vấn đề là vì một lần nữa, tác giả lại HIỂU SAI Huyền Thoại! Vì tác giả quan niệm Huyền Thoại như SỬ KÝ mà đã là Sử Ký thì phải LỆ THUỘC vào THỜI GIAN và KHÔNG GIAN cũng như những Định Luật VẬT LÝ. Thì làm sao mà “Quantum Jump” hay “ Fast Forward” được!
Nhưng Rất Tiếc là tác giả đã HIỂU SAI rồi! Thật vậy, Huyền Thoại vì KHÁC với Sử Ký nên KHÔNG bị sự Chi Phối của Thời Gian lẫn Không Gian cũng như các Định Luật Vật Lý. Nói cách khác, các Ý NGHĨA, Gía Trị của Huyền Thoại có tính chất VƯỢT Thới Gian, VƯỢT Không Gian nên tha hồ mà Quantum Jump và Fast Forward!
ĐÂU CÓ SAO!!!
1) Thứ nhất, tất cả Vấn Đề của tác giả bài viết là KHÔNG NẮM VỮNG lãnh vực Huyền Thoại học mà lại LẠM BÀN về Huyền Thoại TIÊN RỐNG, do đó đưa tới chỗ tác giả Hiểu và Gỉai Thích một cách SAI LẠC đề tài nêu trên. Lại sử dụng những Phương Pháp Viết Lách KHÔNG ĐƯỢC TRONG SÁNG lắm như :
– Đưa ra bàn những Vấn Đề có tính cách GIẢ TẠO
– DỰNG ĐỨNG Câu Chuyện
– NGỤY BIỆN……vvv…….
Mục Tiêu của tất cả việc làm của tác giả có phải là Nhằm XUYÊN TẠC., Làm MẤT Uy Tín của Quốc Tổ HÙNG VƯƠNG cũng với Tổ Mẫu ÂU CƠ và Tổ Phụ LẠC LONG QUÂN chăng? đồng thời HẠ GIÁ Nội Dung của Huyền Sử TIÊN RỒNG chiếm một Địa Vị thật ĐẶC BIỆT trong lòng Văn Hóa và Dân Tôc VIỆT.
Chúng ta những người VIỆT Chân Chính có QUYỀN Đặt Vấn Đề nêu trên với tác giả bài viết, cũng như có QUYỀN nghi ngờ về những ĐỘNG LỰC, Ý ĐỒ… “ẩn nấp” đàng sau những việc làm của chính tác giả bài viết
Lê Việt Thường
CHÚ THÍCH
(1)NguyênNguyên,”Quốc Tổ Hai Dòng Máu http://honque.com/HQ040/bKhao_nNguyen01.htm

(2) Idem
(3) Idem
(4) Kim Định, “Hùng Việt Sử Ca” Thằng Mõ San José, 1984
(5) Idem
(6) Lê Việt Thường,http://www.minhtrietviet.net/Thái Độ Nghiêm Túc Khi Sử Dụng Dữ Kiện Hay Lý Thuyết Khoa Học
(7) Đông Lan, “Yêu Mến An Vi”, Văn Hiến, USA ,2004 tr. 35
(8) Cung Đình Thanh , “Nhân Việc Đi Tìm Tác Quyền…Môt Bài Văn”.Tư Tưởng,số 30 & 31, Th. 06/2005
(9) Kim Định, “Triết Lý Cái Đình”, Nguồn Sáng, SG, VN, 1971
(10) Oppenheimer Stephen, Eden in the East: The Drowned Continent of Southeast-Asia”, Phoenix, London, UK,1998
(11) Kim Định, “Triết Lý Cái Đình”, Idem
(12)Idem
(13) Cung Đình Thanh,” Tìm Về Nguồn Gốc Văn Minh Việt Nam”, Sydney, 2003
(14) Eberhard Eberhard Wolfram, A History of China, Berkeley, University of California Press, USA, 1977.
(15) Kim Định, Idem
(16) Kim Định, “Hùng Việt Sử ca” Idem
(17) Kim Định, “Gốc Rễ Triết Việt”, An Việt Houston, tr.20-26
(18) Nguyễn Duy Cần, “Dịch Học Tinh Hoa”, Đại Nam tr.9
(19) Kim Định, “Sứ Điệp Trống Đồng”, An Việt San Jose, 1999, tr.61-63
(20) Cung Đình Thanh, “Nhân Việc Đi Tìm Tác Quyền Của Một Bài Văn” Idem
(21) Nguyên Nguyên, Idem
(22) Idem
[Tác Giả] [Lãnh Vực]