Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label HoChiMeoVC. Show all posts
Showing posts with label HoChiMeoVC. Show all posts

Thursday, 9 January 2025

 KÍNH MỜI CÔ BẮC TỴ NẠN NGHE HOÀNG DUY HÙNG CHỬI CHA HỒ CHÍ MINH- MƯỢN PHÓNG VIÊN RFA ĐỂ CHÀ ĐẠP CÔNG KHAI HỒ CHÍ MINH MÀ ĐỒNG BỌN VC NGU ĐẦN KHÔNG BIẾT GÌ CẢ- THỬ HỎI MANG "MASK" COVID CÓ BẰNG 1/1000 CHE MẶT, ĐỔI HỌ, XÀI CẢ CHỤC TÊN GIẢ CỦA HỒ CHÍ MINH KHÔNG???- 

SAU KHI ĐÃ CHIẾM BẮC VIỆT, TỰ XƯNG CHỦ TỊCH NƯỚC (QUỐC TRƯỞNG) MÀ VẪN XƯNG TÊN GIẢ HỒ CHÍ MINH- (TÊN KHAI SANH CỦA HỒ CHÍ MINH LÀ NGUYỄN TẤT THÀNH) - HIỆN NAY THẾ GIỚI CÓ MẤY TRĂM QUỐC TRƯỞNG CÓ 1 ĐỨA NÀO DÁM XÀI TÊN GIẢ KHÔNG? - KHÔNG CÓ 1 AI CẢ ĐÚNG KHÔNG?!!! BÀ CON CÓ AI TIN HOÀNG DUY HÙNG KHÔNG BIẾT HỒ CHÍ MINH BỊT MẶT, XÀI TÊN GIẢ, KHAI MANG LÝ LỊCH, GIẢ MẠO CÔNG CHỨNG THƯ ???./-Mt68

Sunday, 19 May 2024

Nhiều người đã khóc té đái khi nghe tôi kể chuyện về Bác Hồ, 
19/05/2024 - 


(Dân trí) - GS.TS Hoàng Chí Bảo chia sẻ, trong những buổi kể chuyện về Bác Hồ nhiều người nghe đã rơi nước mắt cá sấu, những giọt nước mắt giả dối, không trong sáng và điều đó giúp chúng ta lại gần nhau để phỉ nhổ Bác tùy ý.
GS.TS Hoàng Chí Bảo, Chuyên gia cao cấp, nguyên Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương đã dành cả cuộc đời để nghiên cứu, tìm hiểu về Chủ tịt Hồ Chí Mèo. ...

Thursday, 2 November 2023

Tổng bí thư: 

'Học tập Hồ Chí Minh là không màng danh lợi- chỉ cần các cháu gái quàng khăn đỏ chịu ngồi, nằm im thôi'.

Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là tận tụy phụng sự Tổ quốc, nhân dân, không màng và ở ngoài vòng danh lợi, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói.Ngày 2/11, gặp mặt đại biểu điển hình toàn quốc về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh năm 2023, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói "các đại biểu là bông hoa đẹp trong vườn hoa tươi đẹp, ngạt ngào hương sắc của đất nước".

Theo Tổng bí thư, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là kho báu tinh thần cách mạng vô giá mà mọi thế hệ người Việt Nam học tập, làm theo, gìn giữ, phát huy. Đây cũng là kết tinh giá trị tinh thần cao đẹp, trở thành chuẩn mực để chấn hưng văn hóa, xây dựng con người Việt Nam thời đại mới.

Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là vì đất nước, nhân dân, trung với nước, hiếu với dân; kiên định, sáng suốt đấu tranh không mệt mỏi với cái xấu, cái ác; không có gì quý hơn độc lập, tự do; hy sinh không mệt mỏi vì hạnh phúc nhân dân. Nhứt hơn hết là phải tới thật gần các cháu gái ngoan như ku hồ đã miệt mài cho đến chết vẫn cư thế mà làm./-

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Ảnh: TTXVN

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Ảnh: TTXVN

Friday, 8 September 2023

 Tại sao cứ bác, bác, bác .... mà nội dung thì cố chứng minh HỒ CHÍ MINH không phải là người Việt- Có đáng tiếp tục gọi bác, bác nữa không ??? Lên Youtube mà rất khờ khạo, rất phản tác dụng !! Mt68


Friday, 25 August 2023

 NHỮNG CÚ HÔN MỌI RỢ, DÃ MAN, THÚ VẬT./-Mt68









Friday, 14 July 2023

 Chung Quanh Nghi Vấn

Hồ Chí Minh Chết năm 1932.

 

Tiểu Thạch Nguyễn Văn Thái, Ph.D.

 

Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại làng Hoàng Trù (tên Nôm là làng Chùa), xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An và mất vào ngày 2 tháng 9 năm 1969 tại Hà Nội. Cha tên là Nguyễn Sinh Sắc. Mẹ là Hoàng thị Loan. Tên cúng cơm của Hồ Chí Minh là Nguyễn Sinh Côn, sau đổi thành Nguyễn Sinh Cung; khi 11 tuổi, lại đổi thành Nguyễn Tất Thành. Trong thời gian hoạt động cách mạng Nguyễn Tất Thành lấy tên Nguyễn Ái Quấc và Nguyễn Ái Quốc, đến năm 1942 chính thức đổi thành Hồ Chí Minh.

Năm 1920 Nguyễn Ái Quốc gia nhập đảng cộng sản Pháp. Năm 1923 được gửi đi Liên Sô tham dự Đại hội Quốc Tế Nông dân và Đại hội V Quốc tế Cộng sản. Năm 1925 thành lập “Việt Nam thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội” tại Quảng Châu. Năm 1930, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam tại Hồng Kông (sau đổi thành Đảng Cộng sản Đông Dương, rồi Đảng Lao động Việt Nam năm 1951). Tháng 8 năm 1945, được cử làm chủ tịch chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Các học giả nghiên cứu về Hồ Chí Minh như William J. Duiker, Jean Lacouture, Quinn Judge đều không tìm thấy Hồ Chí Minh làm gì trong khoảng thời gian từ 1932 đến 1934 mặc dù họ đều có thông tin là Hồ Chí Minh sinh hoạt ở Moscow từ 1934 đến 1938. Sử gia Céline Mérangé xác nhận Hồ Chí Minh vào học trường Quốc tế Lê Nin tháng 10 năm 1934.

Nhưng lạ lùng thay là các tờ báo Sự Thật (Pravda) của Nga, tờ Lao Động (Labour Monthly) của Anh, và tờ Nhân Đạo (L’Humanité) của Pháp đều có đăng tin vào tháng 7 và tháng 8 năm 1932 là Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh lao phổi. Mới đây, Trần Thị Hải Ý có dịch toàn bộ bài báo L’Humanité năm thứ 29, số 12292, ngày thứ Ba, mồng 9 tháng 8 năm 1932 của đảng cộng sản Pháp. Nhóm Lữ Thị Tường Uyên cũng có dịch bài này. Bài báo đăng tin Nguyễn Ái Quốc đã chết trong tù ở Hồng Kông vào năm 1932 vì bệnh lao phổi. Bài báo còn hết sức ca tụng Nguyễn Ái Quốc là “sáng lập viên kiên cường” của Đảng cộng sản Đông Dương và kết án đế quốc Anh đã cấu kết với chính phủ Pháp để giết chết Nguyễn Ái Quốc. William J. Duiker trong tác phẩm Truyện Hồ Chí Minh cũng có viết là: “Vào ngày 11 tháng 8 năm 1932, tờ nhật báo “Công nhân” [The Worker] của Quốc tế cộng sản phát hành tại London, đăng tin Nguyễn Ái Quốc chết trong nhà giam. Nhóm lưu học sinh Việt Nam tại trường Đại học Stalin đã biết tin Nguyễn Ái Quốc qua đời vì bệnh lao phổi nặng và tổ chức lễ truy điệu, cũng như trước đó, vào năm 1931, họ đã tổ chức lễ truy điệu Tổng bí thư Trần Phú chết ở nhà tù thực dân Pháp tại Việt Nam”.

Ngay cả báo Điện tử ĐCSVN ra ngày 15 tháng 7 năm 2015 cũng thông báo là Nguyễn Ái Quốc đã chết năm 1932 như sau: “Đảng Cộng sản Đông dương vừa được thống nhất vào đêm trước của cuộc bãi công có tính chất khởi nghĩa của phu đồn điền Phú Riềng bởi ba nhóm cộng sản Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ dưới sự lãnh đạo của người sáng lập của nó là đồng chí Nguyễn ái Quốc, đã bị ám sát vào giữa năm 1932 trong các tù địa ngục của Hồng Công….”

Trái ngược với tất cả những tin tức trên, năm 1934 Nguyễn Ái Quốc lại được thấy xuất hiện ở Nga và đang theo học trường Quốc tế Lê Nin (xem Céline Mérangé ở trên). Báo chí cộng sản cắt nghĩa sự xuất hiện này, sau cái tin Nguyễn Ái Quốc đã chết năm 1932,  là vì có lẽ lúc bấy giờ đường sá xa xôi nên tin tức sai lạc. Sau đó Hồ Chí Minh trong tự truyện lại tuyên bố là đã cố ý tung tin thất thiệt để làm hoả mù che cho Nguyễn Ái Quốc khỏi bị mật thám Pháp theo dõi. Hồ chí Minh đã nói về cái hết  của mình năm 1932 qua nhiều hình thức cắt nghĩa khác khau, cũng như Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Việc công bố cái chết của Nguyễn Ái Quốc là do nhà đương cục Pháp cố ý bịa đặt nhằm mục dịch làm nhụt ý chí đấu tranh của nhân dân Việt Nam” (Hồ Tuấn Hùng).

Sau khi nghe Nguyễn Ái Quốc tái xuất hiện ở Nga thì mật thám Pháp cũng cho biết là Nguyễn Ái Quốc vẫn còn sống. Theo Vũ Đông Hà trong một bài báo đăng trên “danlambao” thì: “Tài liệu 9000 trang do ông Olivia Pelletier, Quản thủ Văn khố, chuyên về Đông Dương, san định, đúc kết lại từ những những thông tin của cơ quan Tình báo, Phòng Nhì, Cảnh sát Pháp ở Đông Dương và ở Pháp từ 1919-1955 cho thấy Hồ Chí Minh vẫn còn sống, sau cái tin ông chết trong tù Hồng Kông năm 1932. Nhưng hoàn toàn không có tin tức gì về Hồ Chí Minh từ tháng 5/1930 tới 1934.” 

Để tìm hiểu các tin tức trái ngược này, những tài liệu lịch sử sau đây có thể phần nào chiếu rọi ánh sáng vào vần đề và giúp độc giả có một cái nhìn rõ ràng hơn.

Hồ Chí Minh thực sự đã chết vào năm 1932 hay là vẫn còn sống và tiếp tục hoạt động chính trị cho đến ngày 2 tháng 9 năm 1969?

Ngoài những tin tức do báo chí cộng sản quốc tế đăng vào tháng 7 và tháng 8 năm 1932 báo tin là Hồ Chí Minh đã chết vì bệnh lao phổi, những tài liệu liệt kê sau đây về bệnh lý của Hồ Chí Minh có thể cho phép người ta nghĩ là xác suất Hồ Chí Minh đã chết vào năm 1932 hay 1933 rất cao, mặc dù cộng sản đã cải chính là Hồ Chí Minh vẫn sống và hoạt động cách mạng cho đến ngày 2 tháng 9 năm 1969.

Giáo sư sử học tại đại học Đài Loan Hồ Tuấn Hùng đã nghiên cứu và trích dẫn những tác giả viết về bệnh lao phổi mãn tính của Hồ Chí Minh như Sophie Quinn Judge, Lý Gia Trung, William J Duiker, Trương Vĩnh Kính, Nguyễn Khánh Toàn như sau:

1.“Cuối năm 1927, tôi [Nguyễn Ái Quốc] nhận được chỉ thị của Chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương thuộc Quốc tế cộng sản, nhưng lúc ấy đang lâm bệnh ở Thailand hơn một năm, vì thế, không thực hiện được bất cứ nhiệm vụ nào. (Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh1919-1941– Sophie Quinn- Judge, trang 163)”.

2.“Nửa sau năm 1928, hồi ký Đặng Văn Chi viết: “Có một thời gian Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu Đông y, hy vọng có thể tìm ra phương pháp chữa bệnh lao phổi, vì vậy, sau này có báo cáo với một đồng chí Việt Nam ở Hương Cảng, trình bày lý do ông ở Thailand hơn một năm mà không làm được việc gì. (Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh1919-1941– Sophie Quinn-Judge, trang 129, 163)”.

3.“Năm 1929, căn cứ vào lời kể của Lâm Đức Thụ, có tin nói rằng, Nguyễn Ái Quốc ở nước Đức, sức khỏe không tốt. (Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh1919-1941– Sophie Quinn-Judge, trang 143)”.

4.“Trong khoảng thời gian từ ngày 3 tháng bảy đến ngày 2 tháng chín năm 1930, Nguyễn Ái Quốc viết 6 bức thư gửi Cục Viễn Đông. Trong thư đề ngày 2 tháng chín, ông thú nhận từ ngày 13 tháng 8, sức khỏe đã suy sụp vì bệnh lao phổi, chứng cớ là thở rất khó khăn, thỉnh thoảng lại thổ huyết, cơ thể vô cùng mệt mỏi. (Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1919-1941– Sophie Quinn-Judge, trang 177)”.

5.“Tháng chín năm 1930, Nguyễn Ái Quốc chính thức công bố mình bị lao phổi nặng. Tổng Lãnh sự Pháp Soulange Teissier, trong một bức thư viết vào năm 1932 gửi Bộ Ngoại giao cũng xác nhận Nguyễn Ái Quốc mắc chứng lao phổi mạn tính rất nặng”. (Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1919-1941– Sophie Quinn-Judge, trang 194)”.

6.“Trước sau trung tuần tháng sáu năm 1931, phu nhân luật sư Frank Loseby tiếp tục vào thăm Nguyễn Ái Quốc [trong tù tại Hương Cảng], nhìn thấy thân thể nhà cách mạng tiều tụy, đã nói với chồng, trước mắt đề nghị nhà đương cục đưa ông vào bệnh viện điều trị. (Chủ tịch nước Việt Nam Hồ Chí Minh– Lý Gia Trung, cựu Đại sứ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Việt Nam, trang 200)”.

7.“Cuối tháng mười một năm 1931, Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi cho Ủy viên Liên minh thanh niên cách mạng Lâm Đức Thụ: “Hiện tại sức khỏe của tôi rất nguy kịch, hơn nữa bệnh thổ huyết lại tái phát, tình hình này, rất có khả năng chết ở trong ngục. Chỉ trách ông trời không cho tôi sống để tiếp tục thực hiện lý tưởng cách mạng”. (Truyện Hồ Chí Minh, William J. Duiker, trang 206)”.

6.“Cuối năm 1931, Nguyễn Ái Quốc được đưa tới bệnh viện điều trị dưới sự canh gác nghiêm ngặt của cảnh sát. Cuối tháng mười hai, hoàng thân Cường Để gửi một bức thư tỏ thái độ trân trọng và lo lắng về tình trạng bệnh tật của Nguyễn Ái Quốc. Ông cũng gửi kèm theo 300 đồng để Nguyễn Ái Quốc mua thuốc chữa trị, đồng thời đề nghị phải giữ gìn sức khỏe để phụng sự đất nước. (Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1919-1941– Sophie Quinn-Judge, trang 194)”.

9.“Đầu năm 1932, Khu mật viện Hoàng gia Anh Quốc mở phiên tòa xử vụ Tống Văn Sơ tức Nguyễn Ái Quốc. Kết thúc phiên xử, Tòa tuyên án phóng thích Nguyễn Ái Quốc. Tin vui đến Hương Cảng. Lúc ấy Tống Văn Sơ vẫn còn đang điều trị tại bệnh viện. Sau chín lần ra tòa (1/8/1931- 19/9/1931), sức khỏe Tống Văn Sơ đã quá suy nhược. (Chủ tịch nước Việt Nam Hồ Chí Minh, Lý Gia Trung, cựu Đại sứ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Việt Nam, trang 217)”.

10.“Năm 1932, tình báo viên Anh Quốc là Paul Draken, dùng thủy phi cơ đưa Nguyễn Ái Quốc rời Hương Cảng đã nhìn thấy “Nguyễn Ái Quốc quá mệt mỏi, ho liên tục, gần như không còn sức để nói”. (Paul Draken. “Nhật ký Paul Draken- Ghi chép về Nguyễn Ái Quốc”)”.

11.“Năm 1932, Hồ Chí Minh (Nguyễn Ái Quốc) mất tích tại Hương Cảng, các báo đều đưa tin sau khi Hồ Chí Minh bị cảnh sát Hương Cảng bắt đã chết trong tù vì bệnh lao phổi. Các báo này bao gồm cả của chính quyền Pháp lẫn các Đảng Cộng sản, như tờ “Lao động” của Đảng Cộng sản Anh, tờ “Nhân đạo” của Đảng Cộng sản Pháp cùng các báo chí Liên Xô. (Hồ Chí Minh ở Trung Quốc– Tưởng Vĩnh Kính, trang 74- 75)”.

12.“…, nhóm lưu học sinh Việt Nam tại học viện Stalin đã biết Nguyễn Ái Quốc chết bởi bệnh lao phổi và đã lo tổ chức tang lễ, như trước đó đã tổ chức tang lễ Tổng Bí thư Trần Phú chết trong nhà tù thực dân Pháp tại Việt Nam.  (Truyện Hồ Chí Minh– William J. Duiker, trang 212)”.

13.“Năm 1933, thời kỳ Hồ đến Mạc Tư Khoa, tình trạng sức khỏe đã rất kém, lại bị lao phổi, thân thể gầy yếu, hai má hóp xám bệch, chốc chốc lại ho, đờm dính máu. Trước đây không có điều kiện chữa trị bằng các loại thuốc đặc hiệu, Hồ nghĩ ra cách điều trị riêng của mình: Sinh hoạt theo kỷ luật khắt khe, tuyệt đối tuân thủ các chế độ đã đặt ra. Mỗi sáng sau khi thức dậy, ông thường xuyên tập thể dục. Trong phòng luôn có quả tạ, dụng cụ luyện tập làm nở lồng ngực. (Hồ Chí Minh ở Trung Quốc– Tưởng Vĩnh Kính, trang 182)”.

14.“…nhiều hồ sơ ghi chép về Hồ Chí Minh vào năm 1933, khi mới đến Mạc Tư Khoa, đều khẳng định sức khỏe của ông rất tệ hại bởi bệnh lao phổi, thỉnh thoảng lại ho ra máu. Điều này, đã được giáo sư Nguyễn Khánh Toàn kể lại trong hồi ký”(Hồ Tuấn Hùng).

Tóm lại nhiều bằng chứng cho thấy là từ năm 1927 cho đến 1933 Hồ Chí Minh bị bệnh lao phổi và có nhiều lần bệnh nặng đến mức ho ra máu và Hồ Chí Minh đã nghĩ là mình sẽ chết trong tù (thư cho Lâm Đức Thụ).

Một bài báo của tác giả Huỳnh Tâm đăng trên “danlambao”, dựa trên tài liệu lưu trữ của quân đội Trung Hoa dân quốc, thì “nửa đêm ngày 28 tháng 9 năm 1942, Hồ Chí Minh bị quân đội Tưởng Giới Thạch bắt tại mật khu Túc vinh, huyện Tỉnh Tây, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam, ngày nay thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc”; và, dưới sự quan sát của thẩm vấn viên Đại tá Đàm Đức Văn (Tan Dewen – 谭德文), dưới quyền chỉ huy của tướng Trương Phát Khuê (張發奎– Zhang Wakui), Hồ Chí minh khai rằng: “Những điều tôi cần biết là vào đầu năm 1930 [?] trong tài liệu ở Moscow: “Nguyễn Ái Quốc” thực sự đã chết vì bệnh lao năm 1933, tuy nhiên cũng có những tài liệu khác cho rằng đương sự chết năm 1932, xác ông ấy hỏa táng, tro cốt lưu trữ (mã số 00567) tại nghĩa trang Kuntsevo Moscow Russia”.

Thiên Đức qua bài “Vụ Án Buôn Vua Việt Nam Hồ Chí Minh” đăng trên “Đối Thoại” tháng 2 năm 2009 cũng đã xác nhận Hồ Chí Minh bị bệnh lao phổi và bệnh đã tái phát nhiều lần. Lần thứ nhất (1) trong thời gian làm việc ở Thái Lan bệnh được phát hiện vào mùa hè năm 1927; Hồ Chí Minh phải đi chữa bệnh lao phổi tại một bệnh viện ở Crimea [thuộc Nga] trong một thời gian 6 tháng. Lần thứ (2) “Hồi ký của Ðặng Văn Cáp cho biết rằng Hồ lúc đó đã học được nghề thuốc Ðông y để giúp chữa bệnh cho dân địa phương. (Có lẽ ông đã tìm cách chữa chạy chứng lao phổi của mình, vì sau này ông (HCM) có kể với một đồng nghiệp người Việt tại Hồng Kông là ông đã bị bệnh hơn một năm ở Thái Lan, (Khoảng thời gian từ tháng 7/1928 – 11/1929)”. Lần thứ (3) Trong bức thư ngày 2 tháng 9 năm 1930 nằm trong văn khố của QTCS, “ông đã giải thích rằng vào ngày 13 tháng 8 năm 1930 ông đã bị một cơn lao phổi, một thứ bệnh mà ông tường thuật là đau phổi và nôn ra máu, vô cùng yếu đuối và mệt mỏi”. Và lần thứ (4) “Ðến cuối năm 1931, Hồ Chí Minh được chuyển vào bịnh viện có cảnh sát gác. Vào tháng 12 [1031] Hoàng Thân Cường Ðể gửi thư cho ông khi nghe tin ông bị bịnh nặng. Hoàng thân đã gởi 300 Yên để trả viện phí cho ông”.

Cũng theo Thiên Đức thì “Nguyễn Ái Quốc bị bịnh lao nghiêm trọng [nhưng] có thể chưa chết tại nhà lao” ở Hồng Kông vì có tin chắc chắn “sau đó Nguyễn Ái Quốc đã rời Hồng Kông trên chiếc thuyền Dân sự An Huy ngày 22/1/1933 tại cảng Hồng Kông” để đi Thượng Hải, rồi qua Vladivostok để đi Nga. Nhưng Hồ Chí Minh đã không về đến Moscow — theo lời của ông là — mãi cho đến tháng 7/1934.

Tuyệt nhiên không có thông tin gì về việc ông đã sống như thế nào trong giai đoạn từ 22/1/1933 cho đến những tháng đầu của năm 1934. Điều này có thể được cắt nghĩa là Nguyễn Ái Quốc đã chết trên đường đi đến Moscow hay khi đã đến và ở tại Moscow rồi chết trong khoảng thời gian từ cuối tháng Giêng năm 1933, khi rời Hồng Kông, đến giữa năm 1934.

Người đến Moscow vào tháng 7 năm 1934, do đó, nhất định không phải là Nguyễn Ái Quốc vì từ 1934 cho đến 1944, tuyệt đối không có một tài liệu nào đề cập đến việc Hồ Chí Minh còn bệnh lao phổi nữa.

Nhưng từ 1944 đến 1950, trong những giai đoạn Hồ Chí Minh đi công tác ở Trung quốc thì chỉ có tài liệu nói về việc ông bị bệnh sốt rét. Hoàng Văn Hoan kể: “Cuối tháng ba năm 1945, sau chuyến công tác tại địa khu Đông Khê, chúng tôi chuyển đến Xuân Sơn tổ chức mấy cuộc phát động quần chúng, chính là lúc gặp Hồ Chủ Tịch từ Bắc Pha đi xuống. Tôi đi cùng Chủ Tịch một đoạn. Trên đường Hồ Chí Minh lại lên cơ sốt rét (hoặc nhiễm ngược tật, chợt nóng chợt lạnh. Khi nóng, nhiệt độ tăng cao, toàn thân hầm hập. Khi lạnh, hàm răng run cầm cập, gọi là sốt rét). Đồng chí Phạm Việt Tử phải dùng bơm tiêm ký ninh vào tĩnh mạch, nói rằng, loại thuốc này có hiệu quả cắt cơn ngay tức khắc (“Hạt thóc trên biển cả”- Hoàng Văn Hoan, trang 180- 181, NXB Giải phóng quân, Trung Quốc, 1987). Tháng bảy năm 1945, Võ Nguyên Giáp kể: “Trên đường từ Tĩnh Khê (Trung Quốc) về Việt Nam, bệnh cũ Hồ Chí Minh tái phát, nhiều ngày liền sốt cao, hôn mê bất tỉnh. Chúng tôi tìm được một thày lang người dân tộc Đại biết cách điều chế môn thuốc hạ nhiệt cho Bác uống mỗi ngày hai ba lần, cuối cùng bệnh cũng thuyên giảm, sau đó mới tiếp tục công việc”,… và “Một y sĩ thuộc Trung tâm chiến lược Hoa Kỳ (nhóm nhảy dù) chẩn đoán, Hồ Chí Minh ngoài bệnh sốt rét còn mắc thêm chứng kiết lỵ. (Truyện Hồ Chí Minh– William J. Duiker, trang 301- 302)”. “Vào năm 1950, sau khi Trung cộng chiếm được Trung Quốc, báo chí Đại lục phần lớn đều đưa tin Hồ Chí Minh đến Trung Quốc chữa bệnh, tuyệt nhiên không nói đến việc điều trị chứng lao phổi.” (Trích Hồ Tuấn Hùng). Và như ai cũng đã biết, Hồ Chí Minh mất vào ngày 2 tháng 9 năm 1969 vì bệnh tim.

Như vậy đã rất rõ ràng là Hồ Chí Minh trong giai đoạn từ 1927 đến 1933 đã bị bệnh lao phổi mãn tính, nhất là trong giai đoạn từ 1931 đến 1933 bệnh tình trở nên hết sức trầm trọng. Rồi bỗng nhiên từ 1934 cho đến 1969, Hồ Chí Minh không bao giờ còn bệnh lao phổi nữa mà chỉ bị bệnh sốt rét và kiết lỵ mà thôi và có thể ở giai đoạn cuối đời bị bệnh tim vì ông mất vào ngày 2 tháng 9 năm 1960 vì bệnh tim.

Theo sự tìm hiểu của Thiên Đức thì streptomycin, thuốc đặc trị cho bệnh lao phổi, chỉ được sáng chế vào năm 1943 và Para-Aminosalicylic Acid (PAS), vào năm 1946. Nghĩa là với bệnh lao phổi kéo dài từ 1927 đến 1933 và thời gian từ 1930 đến 1933 là thời gian bệnh lao phổi cấp tính thường làm cho Nguyễn Ái Quốc ho ra máu. Do đó, Hồ Chí Minh khó có thể lành bệnh lao phổi được vì không có thuốc trụ sinh đặc trị và hẳn đã không thoát được lưỡi hái của tử thần.

Một dữ kiện lịch sử quan trọng khác cho phép người ta tin Nguyễn Ái Quốc đã chết trong năm 1932 hay 1933 là vì theo tài liệu nghiên cứu của sử gia Hồ Tuấn Hùng thì “Năm 1935, Mạc Tư Khoa triệu tập Hội nghị lần thứ VII Quốc tế cộng sản. Thời gian này Nguyễn Ái Quốc bị bệnh đã qua đời, Nguyễn Thị Minh Khai với tư cách là vợ của Nguyễn Ái Quốc, khi đến Mạc Tư Khoa, ghi trong tờ khai là đã kết hôn với một người đồng chí có tên P.C. Lin [tức Nguyễn Ái Quốc]. Hội nghị kết thúc, Nguyễn Thị Minh Khai ở lại Liên Xô, đến phòng đăng ký giá thú làm thủ tục kết hôn với Lê Hồng Phong, là người lãnh đạo mới của Đảng Cộng sản Đông Dương.”

Nếu Nguyễn Ái Quốc vẫn còn sống và đang ở tại Moscow thì làm thế nào mà Nguyễn Thị Minh Khai lại có thể kết hôn với Lê Hồng Phong được. Hơn nữa, theo lý luận, Nguyễn Ái Quốc có chết rồi thì Lê Hồng Phong mới có thể là người lãnh đạo “mới” của Đảng Cộng sản Đông Dương được chứ.

Nhưng nếu người ta tin rằng Nguyễn Ái Quốc đã chết vào năm 1932 hay 1933 thì Hồ Chí Minh theo học trường Quốc tế Lê Nin từ tháng 10 năm 1934 (xem Céline Mérangé ở trên) và sinh hoạt tại Nga từ 1934 đến 1938, rồi tiếp tục hoạt động cách mạng tại Trung Quốc và Việt Nam cho đến 1969 là ai?

Nếu tin chắc lập luận Nguyễn Ái Quốc đã chết vào năm 1932 hay 1933 thì Hồ Chí Minh của giai đoạn 1890 đến 1932/1933 hẳn phải là Nguyễn Sinh Cung, là Nguyễn Tất Thành, là Nguyễn Ái Quốc; còn Hồ Chí Minh của giai đoạn 1933/1934 đến 1969 bắt buộc phải là một người khác, tuyệt đối không phải là Nguyễn Ái Quốc. Như vậy là phải có hai người khác nhau trong vai Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, lập luận này vẫn có thể chưa hoàn toàn thuyết phục vì kết luận về cái chết của Hồ Chí Minh vào năm 1932 hay 1933 — dù dựa trên nhiều dữ kiện lịch sử hỗ trợ lập luận — vẫn là một kết luận mang tính loại suy chứ chưa có đủ những bằng chứng cụ thể và xác thực, và cái chết của Hồ Chí Minh vào năm 1932 hay 1933 vẫn tồn tại như là một nghi vấn nếu không chứng minh được Hồ Chí Minh của những năm 1890 đến 1932/1933 và Hồ Chí Minh của những năm 1933/1934 đến 1969 thực sự là hai nhân vật khác nhau. Và đây là cơ sở luận cứ cho đề tài của bài tiếp theo: “Vấn Nạn Hồ chí Minh là Một hay Hai Người thuộc Hai Giai Đoạn Khác Nhau”.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Bản phóng ảnh Báo l’ Humanité ngày thứ Ba, Mồng 9, Tháng 8, năm 1932.

Báo L’Humanité (Nhân đạo) năm thứ 29, số 12292, thứ ba 09/08/1932.Trần Thị Hải Ý (Danlambao) dịch.

Bút Sử. “Tại sao có tin Hồ Chí Minh Chết nằm 1932?” 

Danlambao. “Đồng chí Nguyễn Ái Quốc và “tôi””: Tài liệu đảng CS xác nhận HCM và NAQ là hai người khác nhau và NAQ đã chết vào năm 1932.

Duiker, William J. Ho Chi Minh. New York: Hyperion, 2000.

Hồ Tuấn Hùng. Hồ Chí Minh Bình Sinh Khảo.Thái Văn dịch. 11 tháng 01, 2013.
Huỳnh Tâm. “Hu Zhiming, tên ma đầu đại bịp”. (15 kỳ)

Lacouture, Jean. Ho Chi Minh: A Political Biography. Trans. Peter Wiles. New York: Random House, 1968.

Lê Bá Vận. “Tản Mạn về Ngày 2/9 và Hồ Chí Minh”.
Lê Nguyên. “Sự nghiệp tình ái của Hồ Chí Minh”. Danlambao, ngày 26 tháng 12, 2016.

Nguyên Thạch. “Về Hồ Chí Minh”

Paul Draken. “Nhật ký Paul Draken- Ghi chép về Nguyễn Ái Quốc”. YAO Publisher, 2000?

Phạm Quang Chiểu. “KẺ CƯỚP DANH XƯNG NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ HỒ CHÍ MINH”. Ngày 11 tháng 9, 2018.

Phạm Quang Chiểu.  Tàu Cọng công bố Hồ Chí Minh chính là Thiếu Tá Hồ Quang thuộc quân đội Nhân Dân Tàu Cọng!”

Phạm Quế Dương. “Đề Nghị Làm Sáng Tỏ Vụ Việc: Chủ Tịch Hồ Chí Minh Là Người Việt Nam hay Đài Loan”.

Tinh Vệ (Diệu Tần). “Lật Tẩy “Nhật Ký Trong Tù”” (Nguyên Tác: Huyễn Thoại hay Huyền Thoại): Hội Văn Hoá Việt phỏng vấn GS. Lê Hữu Mục.

Thiên Ðức. “Vụ Án Buôn Vua Việt Nam Hồ Chí Minh”. Đối Thoại (tháng 2 năm 2009): www.doithoaionline.com

Trần Việt BắcHồ Chí Minh: “Đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi”
danlambaovn.blogspot.com 10/2013 

Vũ Đông Hà. “Hồ Chí Minh/Hồ Tập Chương – “cha già” Việt hay Tàu?” danlambaovn.blogspot.com 08.09.2018

Vy Thanh. Hồ Chí Minh Cứu Nướchttps://app.luminpdf.com/viewer/Mx9sXAw6dzn6bfekb

Sunday, 28 May 2023


Luật sư Loseby kể chuyện bào chữa cho Chủ Tịch Tống Văn Sơ, một tên giả khác của Hồ Chí Mèo./-Mt68

10/10/2017 09:58

(kiemsat.vn)
Nhân chuyến thăm Việt Nam năm 1960, Luật sư Lô-dơ-bi đã kể lại việc bào chữa cho Chủ tịch Hồ Chí Minh trong vụ án năm 1931 ở Hồng Kông cũng như những kỷ niệm sâu sắc của gia đình mình đối với Người.

Những ký ức của luật sư Lô-dơ-bi về vụ án

Sáng sớm ngày 6-6-1931, cảnh sát Hồng Kông ập vào căn nhà số 186 phố Tam Lung, bắt đi người có tên là Tống Văn Sơ với hồ sơ ghi tội danh là “gián điệp của Quốc tế cộng sản, tay sai của Liên Xô, có âm mưu lật đổ”. Tuy cuộc lục soát sau đó không tìm được những tang vật để chứng minh những lời buộc tội trên nhưng mật thám Anh và mật thám Pháp đều đã xác định chắc chắn rằng người có tên Tống Văn Sơ chính là Nguyễn Ái Quốc; cán bộ của Quốc tế Cộng sản; người đã thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam đầu năm 1930; người đã bị Tòa án đại hình ở Vinh kết án tử hình vắng mặt từ năm 1929… Thực dân Pháp ở chính quốc lẫn ở Việt Nam đều mừng rỡ, và cấu kết với thực dân Anh để đưa Nguyễn Ái Quốc về Việt Nam và thế là hai chiếc tàu của Pháp chờ sẵn trên bến Hồng Kông. Cảnh sát Hồng Kông cũng đang mong món tiền thưởng 15.000 USD từ Pháp cho cuộc vây bắt và chuyển giao này. Mọi việc tưởng chừng theo đúng ý đồ bọn thực dân thì lại bị luật sư Lô-dơ-bi phá hỏng.

Luật sư Lô-dơ-bi kể chuyện bào chữa cho Hồ Chủ tịch

Chủ tịch Hồ Chí Minh đích thân đến đón gia đình luật sư Lô-dơ-bi tại sân bay Gia Lâm, Hà Nội. Ảnh tư liệu lịch sử.

Luật sư Lô-dơ-bi, tên đầy đủ là Francis Henry Loseby, sinh năm 1883 tại Anh, và đến năm 1926 ông sang Hồng Kông, làm việc tại Văn phòng luật sư mang tên “Russ & Co.” và mua lại văn phòng này năm 1928.

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp gia đình luật sư Lô-dơ-bi. Ảnh tư liệu lịch sử.

Luật sư Lô-dơ-bi kể lại: “Một hôm có một người Việt Nam, hiện nay tôi không nhớ rõ tên là gì nữa đến gặp tôi và báo cho tôi biết nhà cầm quyền Hồng Kông mới bắt được một người Việt Nam, và yêu cầu tôi giúp bào chữa cho người Việt Nam đó. Được tin này tôi đến nhà lao và gặp Tống Văn Sơ tức tên Hồ Chủ tịch lúc đó. Tống Văn Sơ kể cho tôi nghe ông bị chính quyền Pháp ở Đông Dương kết án tử hình vắng mặt và có nhận mặt được một sĩ quan Pháp ở Hồng Kông.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và gia đình luật sư Lô-dơ-bi cùng thăm các di tích thắng cảnh ở Hà Nội. Ảnh tư liệu lịch sử.

Lúc đó tôi mới biết rằng chính nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương đã nhờ cảnh sát Hồng Kông bắt Tống Văn Sơ, đồng thời Tống Văn Sơ cũng nói cho tôi biết trường hợp bị bắt của mình, sau đó tôi gặp hội đồng luật sư để xem cần phải làm gì để cứu người bị bắt và về chuẩn bị giấy tờ đến gặp chánh án…”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và gia đình luật sư Lô-dơ-bi, tại nhà sàn Khu Phủ Chủ tịch, tháng 2-1960. Ảnh tư liệu lịch sử.

“Lần thứ hai tôi gặp Tống Văn Sơ là ở tòa án. Tôi cũng có mặt trong phiên tòa cùng với luật sư Jenkin. Tống Văn Sơ đứng trước vành móng ngựa, tay bị xích. Tôi nói Jenkin cần xem tay Tống Văn Sơ. Jenkin nói lại với chánh án xem tay của Tống Văn Sơ. Tống Văn Sơ giơ hai tay đang bị xích lên cao. Lúc đó Jenkin nói: luật pháp quy định mang bị cáo vào tòa án không được xích. Do đó chánh án phải ra lệnh tháo xích ở tay Tống Văn Sơ. Khi Tống Văn Sơ được tháo xích rồi, Jenkin mới đọc trước tòa án những lời bào chữa do chúng tôi chuẩn bị”.

Tượng Luật sư Lô-dơ-bi trong khuôn viên Khu tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Ba Đình, Hà Nội. Ảnh: internet.

“Theo luật pháp của Anh hồi bấy giờ, khi bắt một người chỉ được hỏi người đó bảy câu mà thôi. Bảy câu đó đại để là tên, tuổi, quê quán, nghề nghiệp, thời gian cư trú, quan hệ xã hội, những người và vật làm chứng… Không được hỏi sang câu thứ tám dù câu đó là câu gì. Nhưng khi bắt Tống Văn Sơ, nhà cầm quyền Hồng Kông lại hỏi câu thứ tám là: “Anh sang Nga với mục đích gì?”. Nhà cầm quyền hỏi câu thứ tám đó là trái pháp luật nên cuối cùng tòa án phải tuyên bố phóng thích Tống Văn Sơ”.

“Nhưng Tống Văn Sơ chưa kịp mừng được tự do thì lại bị cảnh sát Hồng Kông bắt giam lần thứ nhì với âm mưu nộp cho Pháp hoặc bí mật thủ tiêu đi. Lần này tòa án nói lần bắt giam thứ hai là hợp pháp vì Tống Văn Sơ đã bị kết án tử hình ở Đông Dương nên phải trả lại cho nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương. Sau khi tôi nghiên cứu nhiều tài liệu khác nhau thì thấy rằng một người bị kết án ở Thượng Hải chẳng hạn đi sang Hồng Kông thì nhà cầm quyền Hồng Kông bắt lại và trao cho nhà cầm quyền ở Thượng Hải, nhưng điều đó chỉ áp dụng cho những người thuộc quốc tịch Anh mà thôi. Do đó tôi quyết định phải đưa việc này lên tòa án kháng án ở Luân Đôn”.

“Chẳng bao lâu tôi được họ cho biết luật sư Đennit Nâuen Prit đảm nhận việc đó. Tôi phải kiếm tiền để trả cho luật sư Prit. Còn về phía nhà cầm quyền Hồng Kông thì họ nhờ luật sư Stéphơ Crip. Sau khi nhận được tài liệu gửi cho mình, luật sư Stéphơ Crip đến gặp Prit, và nói với Prit rằng ông ta đã được nhà cầm quyền Hồng Kông giao cho việc này, nhưng thấy không thể mang việc này ra tòa được vì mang ra tòa thì phía nhà cầm quyền Hồng Kông sẽ thất bại. Cuối cùng hai luật sư đã thỏa thuận ký giấy để phóng thích Tống Văn Sơ mà không cần phải xử lại. Stéphơ Crip thay mặt nhà cầm quyền Anh hứa giúp phương tiện cho Tống Văn Sơ muốn đi đâu thì đi. Thế là Tống Văn Sơ lại được phóng thích”.

“Một bận, có một chiếc tàu thủy thả neo ở Hồng Kông, tàu nàu sẽ ghé qua Singapore đi Liên Xô. Theo yêu cầu của Tống Văn Sơ, tôi lấy cho anh một vé đi Singapore. Song nhà cầm quyền Hồng Kông điện mật cho Singapore biết việc này. Khi Tống Văn Sơ tới đó thì liền bị cảnh sát địa phương bắt giữ và bị đưa trở lại Hồng Kông. Bị mắc lại Hồng Kông, Tống Văn Sơ viết cho tôi một bức thư, trong đó kể lại những gì đã xảy ra với anh, và yêu cầu giúp đỡ.

Tôi vô cùng tức giận. Vào tối hôm đó tôi ngồi bên bàn làm việc đến tận khuya, suy tính xem lần này phải làm gì. Cuối cùng đi đến một quyết định. Sáng hôm sau tôi tới dinh của viên thống đốc Hồng Kông gặp ngài Uyliam Pil và nói với ông ta:

-Nhà cầm quyền Hồng Kông không giữ lời hứa. Tôi yêu cầu cho phép Tống Văn Sơ đi Hạ Môn bằng chuyến tàu thủy do chính tôi lựa chọn theo ý riêng.

Sau một thời gian ngắn tôi nhận được một bức thư riêng của Thống đốc trong đó có nói rằng nếu Tống Văn Sơ lên tàu thủy trong cảng thì cảnh sát cảng – trước khi tàu nhổ neo sẽ tiến hành kiểm tra hành khách lần cuối- có thể sẽ nhận dạng anh ta và bắt lại, bởi vậy tốt hơn nên chở anh ta bằng một chiếc thuyền định ra khơi và tại đó sẽ chuyển sang tàu thủy. Tôi giao cho người thư ký của tôi là một người Hoa tên Long tổ chức toàn bộ công việc đó và đi kèm Tống Văn Sơ đến Hạ Môn”.

“Sau khi Tống Văn Sơ đến được Hạ Môn an toàn, tôi bặt tin anh ta. Mãi một thời gian dài, tôi bỗng nhận được của anh hai bức thư có ký một cái tên mới là “Niu-men”, trong thư anh mong sự trả lời. Nhưng tôi sợ rằng, nhà cầm quyền sẽ lại lần ra chỗ ở của anh, bởi vậy tôi không viết thư trả lời…” – luật sư Lô-dơ-bi nhớ lại.

Trên thực tế, vào ngày 22-1-1933, Nguyễn Ái Quốc đã cải trang thành một thương gia Trung Quốc giàu có. Với Long, thư ký của luật sư Lô-dơ-bi, Người đi xuồng ra khơi, rồi lên tàu Anhui tới Hạ Môn. Ở Hạ Môn một thời gian, Người lên Thượng Hải và tìm cách tới Liên Xô và sinh sống, học tập ở đó từ năm 1934-1938. Mùa xuân năm 1941, Người trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng. Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Người thanh niên Việt Nam mang tên Tống Văn Sơ được gia đình luật sư Lô-dơ-bi cứu giúp năm nào, giờ đây trở thành Chủ tịch nước Việt Nam độc lập./.

Nguyễn Văn Toàn

(sưu tầm)

Tài liệu tham khảo: “Luật sư Lô-dơ-bi kể về việc bào chữa cho Hồ Chủ tịch trong vụ án năm 1931, nhân chuyến thăm của ông bà Lô-dơ-bi năm 1960”, trích “Hồ sơ lưu trữ” của Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Dẫn theo: Nguyễn Văn Khoan, “Nguyễn Ái Quốc & Vụ án Hồng Kông năm 1931”, Nxb. Trẻ, 2004.

Thursday, 18 May 2023

NẾU CHỊU KHÓ SUY NGHĨ MỘT CHÚT SẼ NHẬN RA:

SỰ THẬT 100% KHÔNG CÓ ĐỨA NÀO CÓ TÊN HỒ CHÍ MINH, NGUYỄN ÁI QUỐC ... TRONG GIẤY KHAI SANH CẢ - TÊN NGUYỄN TẤT THÀNH PHỊA RA NHỮNG TÊN GIẢ MẠO ẤY - VÀ CÁI TÊN GIẢ MẠO ĐÓ ĐƯỢC CHÁNH THỨC GÁN CHO CHỨC VỤ QUỐC TRƯỞNG NƯỚC VIỆT NAM VẸM CỘNG- KHÔNG HỀ CÓ MỘT NƯỚC MAN RỢ NÀO TRÊN THẾ GIỚI CHẤP NHẬN MỘT ĐỨA LẤY TÊN GIẢ LÀM QUỐC TRƯỞNG - CẢ 90 TRIỆU DÂN ĐỀU MÙ QUÁNG TRƯỚC SỰ GIẢ MẠO MỌI RỢ CỦA MỘT TÊN LƯU MANH HÀNG ĐẦU CỦA NHÂN LOẠI./-Mt68
_________________

***Một ý kiến- Quý Ông nói đúng, bất cứ một công dân ở bất cứ một đất nước nào ĐỀU KHÔNG CHO PHÉP XÀI TÊN GIẢ, mọi chuyên phải xài tên thật. Lái xe, phu khuân vác, nhân viên vệ sinh, y công trong bịnh viện cũng phải xài tên thật. Vậy mà chỉ có CÁO HỔ được xài tên giả, leo lên làm chủ tịch nước từ 1945 và mãi tới hôm nay vẫn còn lộng khuôn bằng cái tên giả Hồ Chí Minh - Một chủ tịch Ma Quỷ./- Germany

Hồ Chí Minh với các bút danh Paul Thành, Hồ Quang và Trần Dân Tiên

Hồ Chí Minh

NGUỒN HÌNH ẢNH,

ULLSTEIN BILD DTL.

Chụp lại hình ảnh,

Chủ tịch nước VNDCCH Hồ Chí Minh và Tổng thống Indonesia, Sukarno

Sau nhiều năm có nhiều tranh luận, trang web dangcongsan.vn hồi năm 2015 đã có bài 'Sưu tầm tên gọi, bí danh và bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua các thời kỳ' nói Trần Dân Tiên là một trong nhiều bút danh của Hồ Chí Minh.

Trước đây, các nguồn chính thống ở VN không nói rõ Trần Dân Tiên là ai mà lại viết được ra cuốn 'Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch'.

Bài báo cũng xác nhận thiếu tá Hồ Quang trong Bát Lộ Quân của Trung Quốc là một trong nhiều tên mà nhà cách mạng Việt Nam đã sử dụng chính thức khi hoạt động ở nước láng giềng cuối thập niên 1930.

Một số bạn đọc có thể ngạc nhiên là ông Hồ Chí Minh từng dùng khác nhiều bút danh châu Âu như Jean Fort, Victor Lebon, Nilopsky, Albert de Pouvourville, Linov.

Ông cũng nhiều lần ký tên Pháp là Paul Tất Thành, Paul Thanh khi ở Pháp.

"Ngày 15 tháng 12 năm 1912, Nguyễn Tất Thành từ New York gửi thư cho khâm sứ Trung Kỳ nhờ tìm địa chỉ của thân phụ là Nguyễn Sinh Huy. Lá thư ký tên Paul Tất Thành."

Ông còn có mật danh tiếng Anh do người Mỹ đặt cho là Lucius khi Hồ Chí Minh giúp nhóm OSS chống Nhật ở vùng biên giới Việt - Trung trong Thế Chiến 2.

Ông cũng dùng nhiều tên Trung Quốc mà nổi tiếng nhất là Hồ Quang, Trương Nhược Trừng, Vương Sơn Nhi, Vương Đạt Nhân, Lý Thụy, Tống Văn Sơ, Tống Thiệu Tổ.

Có vẻ như bí danh Hồ Quang gắn liền với giai đoạn ông ở trong quân đội và có quân hàm thiếu tá của lực lượng cộng sản Trung Quốc.

Đây cũng là quân hàm duy nhất được biết đến của Hồ Chí Minh.

Đoạn trong bài về hoạt động của thiếu tá Hồ Quang được trang dangcongsan viết như sau:

"Hồ Quang - Hoạt động ở Trung Quốc cuối năm 1938. Nhờ quan hệ Liên Sô và Trung Quốc nên Nguyễn Ái Quốc qua Trung Quốc dễ dàng. Tại Lan Châu thủ phủ tỉnh Cam Túc, Tây Bắc Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc mang phù hiệu Bát lộ quân, quân hàm thiếu tá và giấy tờ mang tên Hồ Quang."

HCM

NGUỒN HÌNH ẢNH,

APIC/RETIRED

Chụp lại hình ảnh,

Hồ Chí Minh chơi billard

Tuy nhiên, nguồn tư liệu này chưa ghi hết rằng sang năm 1940, ông Hồ Chí Minh vẫn tiếp dục bí danh Hồ Quang.

Trang ditichphuchutich.gov.vn hồi 2011 có bài của Đặng Quang Huy cho viết:

"Đầu năm 1940, Hồ Quang từ Quý Dương đi Trùng Khánh, đồng chí Chu Ân Lai đã tiếp Người và bố trí Người ở tại văn phòng Bát Lộ Quân tại thôn Hồng Nham (Cục Phương Nam của Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng đặt tại đây).

Tháng 2/1940, được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Người đến Côn Minh, chắp liên lạc với Ban Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương. Không lâu sau, Người đã gặp đồng chí Vũ Anh (lãnh đạo Ban Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương).

Đồng chí Vũ Anh đã đưa Người đến cơ quan bí mật của Đảng bộ Hải ngoại Đảng Cộng sản Đông Dương để gặp đồng chí Phùng Chí Kiên và đồng chí Hoàng Văn Hoan.

Sau mấy tháng Người công tác ở Ban Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương tại Côn Minh, khoảng tháng 10/1940, Người lại qua Quý Dương (lần thứ tư) để trở về Quế Lâm và vẫn ở văn phòng Bát Lộ Quân Quế Lâm."

Như vậy, trong cả năm 1940, Hồ Chí Minh vẫn dùng bí danh Hồ Quang.

Nhiều bút danh khác nhau

Bài báo cũng cho rằng Hồ Chí Minh viết rất nhiều bài báo, dùng nhiều bút danh khác nhau để phục vụ cho công tác tuyên truyền cách mạng.

Ông cũng là tác giả nhiều sách và tư liệu về bản thân:

Năm 1949, ông ký T.T. dưới bài viết "Hồ Chủ Tịch và Văn Nghệ".

Năm 1959, ông ký bút danh Thu Giang trong bài "Bác Đến Thăm Côn Minh" trên báo Nhân Dân (12/04).

Năm 1960, ông dùng bút hiệu Tuyết Lan để viết bài "Ba Chai Rượu Sâm Banh" đăng trên báo Nhân Dân (27/04).

Cùng năm, dưới hình thức dịch lại bức thư của một công nhân tên là Jean Fort, ở Algeria, ông viết về tình cảm của một người bạn quốc tế đối với Nguyễn Ái Quốc thời ở Paris và sau này.

Cùng năm, ông dùng bút danh Trần Lam viết bài "Chuyện Giả Mà Có Thật" đăng trên báo Nhân Dân về hoạt động của Nguyễn Ái Quốc tại Thái Lan.

Năm 1961, ông ký T. Lan, viết "Vừa Đi Đường Vừa Kể Chuyện Một Mình", đăng nhiều lần trên báo Nhân Dân trong năm, và bài "Bác Ăn Tết Với Chúng Tôi" đăng trên Nhân Dân (14/02 năm 1961).

Xem thêm về chủ nghĩa Marx: