BÀI NẦY AI CŨNG BIẾT LÀ CHỐNG VŨ THÀNH AN NHƯNG MÀ TÁC GIẢ KHÔNG DÁM CHỐNG THẲNG THỪNG - GIẢ BỘ XÌU XÌU ỂNH ỂNH - CHO NÊN NÓ PHẢN TÁC DỤNG THÀNH RA NGẦM BINH VỰC VŨ THÀNH AN - NLGO GIẢ BỘ NGÂY THƠ HÒAI NGHI VỀ CHỮ "ĂNG TEN" KHIẾN CHO BÀI VIẾT TRỞ THÀNH BA MỚ .
(*Đọan mở đầu trong phần trích y nầy cho thấy NLGO trình độ lý luận rất EM BÉ QUÀNG KHĂN ĐỎ mà muốn tỏ ra là đứa biết NÝ NUẬN kiểu Trọng Lú.)./-TCL
==================
MÀN KỊCH ĐÃ HẠ
người lính già oregon
TRÍCH Y 1 PHẦN CHÍNH:
.......................
Nhiều lần, trước đây, bạn bè, người quen, và đồng hương Portland, Công giáo hay
không, vốn dị ứng với anh nhạc sĩ kiêm thầy tu này, cho anh là một tên đạo đức
giả thật. Biết tôi là con chiên trong giáo xứ Mỹ mà anh đang phục vụ, họ đã mớm
ý cho, và thúc giục, tôi viết một bài tố anh ta về ba tội: làm ăng-ten trong trại tù cải tạo, làm thầy sáu mà không
thuộc giáo lý, lợi dụng tiền bá tánh để làm giàu cá nhân… Tôi từ chối,
bác bỏ những lời buộc tội mà tôi cho hoặc quá cũ, hoặc thiếu bằng chứng cụ thể,
hoặc không đủ thuyết phục. Và qua đó, vô tình đóng vai luật sư bào chữa cho anh
ta –điều mà anh chưa hề biết. Như sau:
A. Làm
ăng ten trong tù?
Tôi nói với họ rằng tôi cũng đã ở tù tám năm ngoài Bắc, nhưng
không chung trại, chung đội với anh ta, nên không chứng kiến tận mắt, và
bởi vậy, không dám lên tiếng bàn bạc về điều gì mình không rõ, không thấy, mặc
dù đã đọc nhức mắt nhiều bài viết ký tên tác giả đường hoàng, và nghe rát tai
những tin đồn nặc danh, nửa thực nửa hư, thuộc loại tabloids, rất tiêu
cực về anh. Tuy nhiên, tôi thắc mắc, về từ ngữ, khi các tác giả, độc giả, và tù
nhân cải tạo gọi anh là ăng-ten, không biết có đúng (lắm) không. Bởi một lý do
đơn giản: hệ thống ăng-ten trong tù được bố trí ngầm –không, hoặc khó, có ai
phát giác được, và làm sao?– và đôi khi ăng-ten chính là thằng bạn tù tử tế,
hiền như ma sơ, nằm cạnh bên. Thông thường, bọn ăng-ten được giao phó nhiệm vụ
theo dõi và báo cáo, một cách bí mật, cho cán bộ trại về những hành động, và tư
tưởng, của đồng đội, đặc biệt âm mưu trốn trại –là điều mà bọn cai tù lo sợ
nhất. Nhưng để lập công, chúng báo cáo, hoặc bịa ra, đủ thứ chuyện, thượng vàng
hạ cám, kể cả thở dài trong đêm, ngủ gật trong giờ “học tập”, hay lén hôn vợ
trong nhà thăm nuôi v.v...
Riêng anh nhạc sĩ, qua lời của nhiều nhân chứng, có thời gian được cử làm thi
đua, và đội trưởng một đội, với nhiệm vụ báo cáo một cách công khai, hợp pháp,
về người và việc trong trại, trong đội, và mặc tình hành hạ đồng tù. Tôi nghĩ,
đã là công khai thì không còn bị gọi ăng-ten nữa. Phải chăng vì hành động hắc
ám, muốn lấy điểm với cai tù, mà anh đã bị những nạn nhân và nhân chứng quen
miệng gán cho cái nickname ăng-ten, là danh xưng nặng nề và bỉ ổi nhất,
mặc dù về hậu quả, tội làm ăng-ten hay làm đội trưởng, mà ác ôn, cũng ngang
nhau, bên tám lạng bên nửa cân? Hoặc giả, có thể ở trại này, anh ta làm
ăng-ten, ở trại nọ, làm đội trưởng ác ôn? Hoặc có thể ở cùng một trại, có lúc
anh làm đội trưởng ác ôn, có lúc làm ăng-ten, cho nên lẫn lộn về chữ dùng
chăng?
B. Làm thầy sáu dỏm?
1) Năm 1992, tôi đang nghỉ hè ở San José. Anh nhạc sĩ không
tên, lúc ấy mới qua Mỹ, dự định tổ chức buổi tái ngộ với những fans của
mình trong một hội trường gần đó và anh ta bị một số cựu quân nhân cảnh cáo,
tẩy chay, và dọa hành hung, và cửa hội trường bị họ chận, cấm không cho ai vào
dự, bởi bất mãn với thành tích “ăng-ten” của anh. Cho nên, tôi biết rất rõ. Anh
bèn chạy lên Portland, để tỵ nạn. Tại đây, theo tin đồn miệng, hay phổ biến
trên Mạng, nhưng không ai dám xác nhận: đầu tiên, anh ta vô chùa xin quy y. Bị
chùa từ chối, anh bèn nhảy sang nhà thờ Tin Lành. Bị từ chối nữa, anh chưa biết
đi đâu, thì bất ngờ được tiến cử lên LM chánh xứ La Vang bởi những người thân
cận của ông. Biết anh là nhạc sĩ nổi tiếng, LM chánh xứ nhận ngay, cho vào ca
đoàn và sau giữ chức “sứ vụ tông đồ mục vụ”
(?), nhưng anh rất mù mờ về giáo lý, khiến giáo dân bàn tán, khó chịu. Về sau,
không biết bằng cách nào, anh thuyết phục được ông LM chấp thuận cho học làm
thầy sáu, mà không qua thủ tục bắt buộc cho tất cả
ứng viên phó tế khác: phải
đi học lấy bằng MA về Thần học (theology) tại University of Portland. Vì
kém Anh văn, lại không có BA ở Mỹ, anh được Tòa Tổng Giám Mục Portland –thời
đó, còn quá dễ dãi– châm chước cho tham dự các lớp Kinh Thánh căn bản do
giáo phận tổ chức và học thần học “hàm thụ” tại chỗ với một LM trẻ, đệ tử của
LM chánh xứ, và với sự giúp đỡ làm homework của một giáo viên dạy giáo
lý tại La Vang. Năm 2001, anh được phong chức phó tế. Theo thiển ý, anh làm
thầy sáu ngang, tức là tắt, cũng như làm quan tắt, chứ không phải làm thầy sáu
chui hay dỏm, như dư luận dị nghị. Lúc ấy, LM chánh xứ đã đổi đi và một LM khác
lên thay, và với ý kiến của giáo dân, ông cha xứ mới này từ chối, không nhận
anh về giáo xứ La Vang, mặc dù đang rất cần một phó tế người Việt.
2) Rồi thầy sáu Việt Nam này được Tòa
Tổng Giám Mục Portland bổ nhiệm về phục vụ một giáo xứ Mỹ, từ 2001 cho đến hôm
nay.
a. Trong buổi lễ chiều Chúa Nhật, có tôi, anh được cha xứ Mỹ
mời đứng lên tự giới thiệu, trước giáo dân Mỹ và thiểu số, gồm khá đông người
Mễ, Phi, Nga… và lèo tèo vài bổn đạo Việt Nam. Vì thế, anh tha hồ bốc phét,
khiếp quá, tuy không ác liệt như kho đạn Long Bình, hoặc văng miểng tới mây
xanh như vài vị thuộc hàng cự phách trong Làng Nổ Oregon, về thân thế và lý
lịch. Anh ta nói, và tôi còn nhớ rõ, tuy là một
Trung úy Phật tử, nhưng anh đã có ơn gọi đi tu theo Công giáo, từ lúc còn ở
Việt Nam trước 1975, sau khi một cô bạn gái dạy anh học kinh Kính Mừng, và đi
đánh trận [hồi nào?], nhờ đọc kinh Kính Mừng, anh đã nhiều lần thoát chết, và
sau 1975, trong tù VC, cũng nhờ đọc kinh ấy, anh đã khỏi bệnh mất ngủ [sic].
Nào là qua Mỹ, bị bệnh gần chết, anh đã nhờ Chúa và Đức Mẹ Maria cứu khỏi. Nào
là anh có bằng Cử Nhân Luật ở VN, đặt nhạc trữ tình, nhưng, anh thêm, với thiên
chức thầy sáu, từ nay anh sẽ quên đi “quá khứ sai lầm” đó. Nào là, động trời
hơn, chức vụ cuối cùng của anh, trước ngày Sài Gòn sụp đổ, là chỉ huy Bộ Thông Tin của chính
phủ Miền Nam và dùng chữ minister –bởi, tôi tự hỏi, anh cố tình
nổ sảng hay không hiểu chữ đó có nghĩa “bộ trưởng”? Nào là anh bị giam nhiều
năm tại những trại tù khắc nghiệt của VC, và ở đó được bạn bè rửa tội cho… Giáo
dân Mỹ tò mò lắng nghe, không phản ứng, một phần vì lịch sự, một phần vì không
ở trong chăn nên anh nói hươu nói vượn gì cũng tin tuốt luốt, một phần vì chỉ
hiểu lõm bõm, cũng như tôi, tiếng Anh đầy accent An Nam Mít của anh.
b. Trung bình mỗi tháng, anh đến nhà
thờ một lần để phụ giúp cha xứ làm lễ, và mỗi lần, trước và sau lễ, thấy tôi,
anh ta gật đầu chào, và ngược lại, nhưng không bắt tay nhau, bởi mặc cảm từ cả
hai phía. Tiếp xúc với anh, tôi cảm thấy khó thoải mái, nếu không muốn nói khó
chịu, vì cử chỉ và lời ăn tiếng nói, khiêm nhường, hay nhún nhường quá đáng,
của anh, có cái vẻ gì đó không thật, nếu không muốn nói giả tạo, làm tôi nghĩ
đến vở kịch và nhân vật của Molière. Càng khó chịu hơn khi, sau này, nghe tin
về một phép lạ, được ai đó
đồn ầm trên báo và Mạng Việt Nam, đã xảy ra cho cặp
kính mát của anh, nghĩa là giơ nó lên ánh
mặt trời người ta thấy có hình Đức Mẹ hiện ra rõ ràng. Phép lạ
nhảm nhí, lố bịch đó, ít lâu sau, không còn được ai nhắc nữa, nhưng nhiều người
vẫn nhớ, để kể lại với ít nhiều châm biếm, mỉa mai.
C. Làm giàu từ những
hoạt động từ thiện?
Tòa Tổng Giám Mục Portland và cha chánh xứ cho anh thời gian rộng rãi để lo cho
Hội Từ Thiện, mà anh sáng lập năm 2005, và quảng cáo rầm rộ trong một flyer
(đính kèm).
Phải công nhận anh điều hành Hội một cách khoa học và qui mô, gồm cả việc bán
điện thoại V247 và dược thảo chữa bách bệnh (trong đó có thuốc “tăng cường hạnh
phúc gia đình”) và đã kiếm được tiền một cách hợp pháp, ít ra theo giấy tờ và
báo cáo. Được tờ The Sentinel của Giáo phận và cha xứ nhiệt liệt ca
ngợi, và anh mặc nhiên trở thành thầy sáu cưng của Tòa Giám Mục Portland. Thậm
chí, cũng năm ngoái, 2016, cha xứ đã đi Manila, Philippines làm từ thiện, cùng
với anh ta.
Có một điều làm đồng hương chê bai: thành công như thế, nhưng anh không bao giờ tham gia sinh hoạt Cộng Đồng, không đóng
góp tài năng hay tài chánh cho Cộng Đồng khi cần. Nhưng sau hai mươi
năm, vẫn né, vẫn núp dưới chiếc veste đen và cổ cồn trắng, và những ngày
Chúa Nhật, dưới lễ phục –được sử dụng như một áo giáp vững chắc. Và rất tự tin,
tưởng rằng người ta đã quên.
Nhưng người ta vẫn nhớ. Tôi thành thật
nói với những kẻ còn căm ghét anh rằng, dù có tội gì chăng nữa, anh đã cải tà
qui chánh và chọn con đường tu rồi thì hãy cho anh ta một cơ hội làm lại cuộc
đời. Bằng
cách để yên cho anh tu hành, leave him alone, như người Mỹ thường nói.
Và tôi im lặng. Kiên nhẫn chờ đợi, và cầu mong, một ngày anh sớm thành “chánh
quả”.
II. Áo gấm về làng:
Đùng
một cái, có tin anh nhạc sĩ kiêm thầy tu này trở về Việt Nam làm một tua ra mắt
và bán sách (Chuyện tình không tên) viết kể lại chuyện tình “hàm thụ”
ngày xưa một cách vô duyên, lẩm cẩm, vớ vẩn (đối với một người trên bảy bó, quá
tuổi hồi xuân, nếu không vớ vẩn, lẩm cẩm, vô duyên thì còn là cái gì?), đồng
thời tổ chức hát những bài không tên cũ rích, cùng với những ca sĩ hải ngoại
cóc nhái, vô liêm sỉ, mùa chay nào cũng có nước mắt, cộng với vài ca sĩ lô-can
quốc nội, suốt tháng 8 này, tại Hà Nội, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Quảng Ngãi, và Sài
Gòn. Tin được tung ra, chuyền đi nhanh như tên bắn, làm mọi người sửng sốt,
thất vọng, nhưng không ngạc nhiên, vì bản chất là bản chất, ở đây, giả dối, và,
như VC nói, không bao giờ thay đổi. Đối với anh ta, vấn đề chỉ là thời gian cho
vở kịch bịp bợm, có lớp lang, dài đến hai mươi năm, hạ màn, trót lọt.
Hôm nay, tôi không còn chọn lựa, vì anh nhạc sĩ kiêm phó tế này đã vượt qua lằn
ranh đỏ (red line). Nhìn những bức ảnh của anh chụp ngày 28/7 tại phi trường
Nội Bài, và phổ biến tràn ngập trên Mạng, mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao,
hớn hở, khác xa hồi mới đến Portland, vào đầu thập niên 90, còn lẻ loi, lêu
bêu, bèo nhèo, và cười nói tươi rói với các ca sĩ địa phương, bạn bè và thân
nhân ra đón, tặng hoa, níu lấy tay, khiến những người tỵ nạn chống VC và các
cựu tù binh cải tạo hiện ở hải ngoại không khỏi thấy ngứa mắt và ứa gan.
Mặt nạ rơi xuống, anh ta hiện nguyên hình một Tartuffe bằng xương bằng thịt đã
đóng vai trò của mình quá xuất sắc, và bây giờ, cụ thể hơn, đã trở thành một công cụ ngu
ngốc, nhưng hãnh diện, của VC, trong việc thực thi Nghị quyết 36, cũng
như hơn bốn mươi năm trước, tại các trại tù, trong việc đối xử ác độc với các
sĩ quan VNCH đồng đội của anh. Vì sao?
1) Thời điểm trở về (tự nguyện,
hay được VC mời dụ?) của anh rất phù hợp với “ý đồ” và kế hoạch thâm độc của VC
và tình thế hiện tại trong nước. Xin nhắc, tháng 8 là tháng VC kỷ niệm Hà Nội khởi
nghĩa (19/8/1945), còn gọi là “Cánh mạng tháng 8”. Không phải bởi trùng hợp, ngẫu
nhiên, hay tự phát, mà có đến hơn hai trăm người dân (ở không, rảnh quá sao?),
được gọi là fans, đội mưa hàng giờ để đón nhạc sĩ thần tượng, tại phi
trường, theo tin báo chí quốc nội – một vinh
dự hãn hữu mà từ trước đến nay, không có Việt Kiều nào được nhận lãnh…
VC là một lũ lưu manh, xảo quyệt, biết tận dụng mọi thủ đoạn. Khi cần đàn áp
biểu tình, hay đập phá nhà thờ, tu viện, chúng điều động hàng trăm côn đồ, thay
vì công an, và tuyên bố đó là “hành động tự phát” của nhân dân. Làm sao có một
“hành động tự phát” nào dưới chế độ độc tài, đảng trị hiện nay, mà không được
bọn lãnh đạo cho phép, sắp xếp, cổ võ, hoặc ngược lại, mà không bị ngăn chận,
trừng phạt, đàn áp dã man?
Vai trò của anh này rất cần thiết cho VC trong giai đoạn và bối cảnh hiện tại
bởi anh ta là một phó tế Công giáo và một nhạc sĩ nổi danh. Nhất cử lưỡng tiện.
Như sau:
a.
Về mặt nổi, anh ta trở về trong tư cách nghệ sĩ trình diễn, được nhiều người
hâm mộ tiếp đón –theo dàn dựng của VC, là chuyện thường tình đối với công luận.
Ngoài ra, VC ngu gì mà không biết anh là cựu sĩ
quan bị tù cải tạo nổi tiếng, nhưng vẫn cho phép về trình diễn, mà không qua
thủ tục kiểm duyệt khắt khe, cấm cản gì ráo, không bắt “cởi quần áo khám
nghiệm” như những ca sĩ, nhạc sĩ hải ngoại khác (nghĩa bóng) về nước trình
diễn, hay những cô gái quê (nghĩa đen) muốn lấy chồng Đại Hàn, Đài Loan, kể cả
những thằng ngưòi nửa điên nửa khùng, đui què sứt mẻ. Qua việc dành mọi ưu đãi
cho anh nhạc sĩ này, phải chăng chúng muốn tuyên truyền, một lần nữa, chính
sách “hòa hợp hòa giải”, “xóa bỏ hận thù” bịp bợm, mà chúng đã khổ công khua
chiêng gõ mõ ầm ỉ, nhưng vẫn thất bại, suốt bao năm qua?
b. Về mặt chìm, là
phó tế, anh bị dùng như
một đối trọng (contrepoids) với những vị linh mục và giáo dân dũng cảm trong nước,
từ mấy tháng nay, đã và đang ngày đêm xuống đường biểu tình chống tập đoàn
Formosa và bọn lãnh đạo tham nhũng bán nước cầu vinh, cũng như, ở hải ngoại,
chúng đang sử dụng những linh mục trẻ, quốc doanh, bố lếu bố láo, hay giả mạo,
tại Texas, Florida hay Connecticut –đã lợi dụng bục giảng để công khai tuyên bố
những lời mất dạy về VNCH và Ngày Quốc Hận 30/4. Cho phép một nhà tu
hành Công giáo, dù chỉ là phó tế, chức nhỏ nhất trong hàng giáo phẩm, về nước
ca hát, VC muốn chứng tỏ cho cả thế giới thấy rằng chúng không kỳ thị tôn giáo,
và qua đó, và cùng với sự im lặng của Hội đồng Giám mục Việt Nam, chúng có thêm
đồng minh và phương tiện để tiêu diệt một cách tinh vi và mạnh mẽ hơn những
linh mục và giáo dân đang biểu tình phản kháng chúng. Đã không ủng hộ họ thì
chớ, mà vô tình (hay nhận lệnh) anh thầy tu tắt này cũng không nhiều thì ít đã
đồng lõa, tiếp tay triệt tiêu sự chiến đấu đầy chính nghĩa của họ, trước công
luận?
2) Ngoài ra,
khi về VN trình diễn nhạc đời, mà là nhạc tình sa đọa, đương nhiên anh ta đã tự
lột bỏ chức thánh cao quý và chiếc áo tu hành mà anh, một Xuân Tóc Đỏ mới, đã
may mắn vớ được –đã tạm thời che chở anh trước cơn thịnh nộ của những đồng
hương tỵ nạn và các sĩ quan tù nhân cải tạo, một thời là nạn nhân trực tiếp,
hay gián tiếp, của anh.
Thêm nữa, phải chăng vì chóa mắt trước danh và lợi, và lòng trần chưa dứt bỏ
được tham sân si, anh ta đã vi phạm trầm trọng lời
thề hứa, với Chúa, mà trong vai trò Tartuffe, anh thường lớn tiếng rêu rao, khi
có dịp, là từ bỏ những bài
trữ tình, dù có tên hay không tên, của anh?
Nhân tiện, NLGO tôi, trong tư cách một khách thưởng ngoạn, xin có lời bàn nhỏ
về những bài không tên: nhạc thì ủy mị, rên siết, sướt mướt, nghĩa là tầm
thường, và nội dung bài nào, nhất là bài không tên cuối cùng, cũng xúi giục
người đàn bà có chồng ngoại tình, trong tư tưởng, với thằng bồ cũ rất bựa, rất
nham nhở, rất cà chớn và rất độc ác đã công khai khoe khoang thành tích chơi gái,
không biết giữ gìn thanh danh, bảo vệ hạnh phúc gia đình cho người đã (lỡ dại)
trao thân cho nó. Tôi thực tình không hiểu nổi, về mặt nghệ thuật, và nhất là
đạo đức, não trạng nào đã khiến người ta, ở hải ngoại hay trong nước, có thể mê
mẩn những bài hát có nội dung vô luân đến thế, đến nỗi phải tiến cử anh ta học
làm thầy sáu, hoặc phải đứng hàng giờ dưới mưa, chờ đón anh ta trở về nước,
hoặc phải tranh nhau để được hát chung trong cuộc lưu diễn này. Trước 1975,
chẳng hạn, một con bé hàng xóm của tôi, mới mười tuổi, thường nghêu ngao hát
những câu, “mưa bên chồng có làm em khóc… có làm
em nhớ những khi mình mặn nồng…”. Đúng là bệnh hoạn!
Tôi nghĩ rằng Tòa Tổng Giám Mục Portland và cha xứ họ đạo Mỹ chưa biết mục đích
thật sự về VN lần này của anh. Nhưng tôi tin rồi họ cũng sẽ biết, kể cả việc
làm “ăng-ten”, bức hại đồng đội trong tù, và việc rửa tội chui, còn là một nghi
vấn đối với nhiều người. Vì tôi tin vào công lý tuyệt đối của Thiên Chúa, hay
luật nhân quả (karma) trong đời thường. Còn anh dại gì mà khai thật. Họ cứ
tưởng anh về VN lần này, cũng như mọi lần trước (và chắc chắn đã được nêu lên
trong đơn xin phép của anh), là để làm từ thiện.
III. Thay cho lời kết:
Có lẽ sau bài viết này, tôi sẽ phải đi lễ tại một nhà thờ khác trong khu vực.
Lý do duy nhất là để tránh nhìn thấy bộ mặt tởm lợm của một kẻ mà từ nay sẽ
tiếp tục là chỗ trú ẩn an toàn cho sự lừa bịp và gian dối hóa thân. Một Tartuffe thời đại, mà những hành vi vừa qua tại Việt
Nam có hậu quả rất khốc hại và lâu dài trên cả nước –còn tồi tệ hơn chính nhân
vật đạo đức giả trong vở kịch của Molière.
Portland,
24/8/2017
NLGO