Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label VCNVNguyenLyTuong. Show all posts
Showing posts with label VCNVNguyenLyTuong. Show all posts

Thursday, 31 August 2017

NGUYỄN LÝ TƯỞNG CHÍNH LÀ ĐỨA HỘI HỌP VỚI THỨ TRƯỞNG VC NGUYỄN THANH SƠN - BỊ CỘNG ĐỒNG VẠCH MẶT HẮN TA IM LẶNG KHÁ LÂU NAY LẠI NGO NGOE CHUI RA TỪ ĐỐNG PHÂN CỘNG./-TCL

 Ý Kiến Cùng CDB Nguyễn Lý Tưởng Về chuyện Vũ Thành An



Tôi Nguyễn Công Lượng ở tù tại trại 15NV sau đổi thành trại Cải Tạo Long Thành từ đầu, năm 1975 cho đến 3 năm thì chúng chuyển chúng tôi xuống rừng Xuyên Mộc, bắt chặt cây cất trại mới đặt tên là Trại CT Xuyên Mộc...
Những điều cựu Dân Biểu Nguyễn Lý Tưởng nói về Vũ Thành An tôi thấy có mấy sự việc không đúng:
1.     Vũ Thành An được bầu vào chức vụ “Ủy Viên Văn Thể Mỹ” là không đúng. Nói vậy thì xin hỏi ai bầu ?  tù nhân bầu hay cán bộ CS coi tù bầu ra ? Bọn coi tù chỉ căn cứ vào sinh hoạt hát xướng của những tù nhân có “tiếng” hay có “giao liên, giao tình...”  thì chỉ định mà thôi.
2.     Chuyện cán bộ coi tù gợi ý gì cho Vũ Thành An đặt bài hát thì tôi không biết, nhưng một bài hát mà Vũ Thành An đặt ra mà nhiều anh em hiện ở Hoa Kỳ đều nhớ, vì đêm nào chúng cũng bắt hát, là một bài chửi “Mỹ Ngụy”  với những lời như là: “...Nay biết rõ Đế Quốc Mỹ là quân xâm lược...Nay biết rõ Ngụy quyền là bọn tay sai... Bao nhiêu năm cúc cung tận tụy miệt mài cứ tưởng rằng mình lo việc nước...đâu có ngờ phản lại nhân dân....”. Việc nầy tôi nghĩ DB/NLT phải công nhận.
3.     Ngoài vai trò “Ủy Viên Văn Thể Mỹ” Vũ Thành An còn làm “Ủy Viên Trật Tự ” của toàn trại, còn có làm hại ai thì tôi không biết. Nhưng có những anh em bị dày đọa, như Trương Văn Anh (hiện nay ở” San Diego) bị chuyển đi một trại khác cùng 3 người nữa, và Trương Văn Anh sau 20 năm mới được thả ra mà chức vụ của Trương Văn Anh chỉ là Phó Quận ở tỉnh Quảng Ngãi.
Vừa qua trên mạng hình ảnh Vũ Thành An được về hát xướng nhiều nơi ở Việt Nam, trong khi có nhiều cựu tù nhân xin một cái ViSA để về thăm cha mẹ già chúng vẫn không cấp thì chúng ta đủ biết chẳng cần phải bàn luận nhiều.

Ngày 30.07.2017
Inbox
x




to ChinhNghiaViet, Khanh, Gia

BÀI NẦY CŨ RỒI 1995- ĐỒNG BỌN VIỆT CỘNG BINH NHAU LÀ CHUYỆN THƯỜNG ...

MẤY CHI TIẾT NLTƯỞNG NÊU RA GIÙM VT AN NẾU LÀ THẬT THÌ SAO CHÍNH VT AN KHÔNG TỰ NÊU RA???- NLTƯỞNG NGHĨ GÌ VỀ CHUYỆN MỚI ĐÂY 2017 VŨ THÀNH AN ĐÃ VỀ HÁT HÒ VỚI VIỆT CỘNG ??? NLTƯỞNG NGHĨ GÌ KHI CHÍNH NLTƯỞNG HỌP VÀ ỦNG HỘ VC NGUYỄN THANH SƠN ??? NLTƯỞNG ĐÃ BINH VỰC VT AN LÀ ĐỂ DỌN ĐƯỜNG TỰ BINH CHÍNH HẮN LIẾM VÁI NGUYỄN THANH SƠN VẬY !./-TCL
=============
Từ Nguyễn Chí Thiện đến Vũ Thành An...!!!
                                                                  GS Nguyễn Lý-Tưởng
     Trong mấy tháng gần đây, trên �Tin Paris� chuyển đi những tài liệu (viết từ 1995) về Vũ Thành An mà một số báo, diễn đàn đã tiếp tay phổ biến như là một bản cáo trạng về những tội lỗi mà Vũ Thành An đã phạm phải trong thời gian còn ở trong trại tù cải tạo của CS...Sự việc bùng nổ ra trong thời gian có cuộc vận động tổ chức ngày họp mặt tù nhân chính trị tại Dallas vào các ngày 3,4 và 5 tháng 10/2008 vừa rồi. Vũ Thành An hiện  nay là một Phó Tế của Giáo Hội Công Giáo tại Hoa Kỳ, một người đã tìm được  niềm tin và con đường cho cuộc đời mình vào lứa tuổi ngoài 60...So với những ngừơi khác, Vũ Thành An không phải là hạng ngừơi bỏ đi và cũng không phải là hạng ngừơi đáng bị nguyền rũa với những lời lẽ thậm tệ như �Antena, Sâu bọ làm ngừơi�...Phải chăng đây là một chiến dịch có ác ý?
     Chúng tôi cũng vừa nhận được tờ báo �Góp Gió� từ Seattle gửi đến với những luận điệu như trên...Có lẽ �người gửi� chưa từng đọc bài của chúng tôi lên tiếng trả lời ông Trần Trung Chính về trường hợp Vũ Thành An ?...Vì thế chúng tôi xin được đăng lại bài đã viết  đề ngày 12/12/1995 gửi đăng trên các báo. Ứơc mong được làm sáng tỏ một vài điều về Vũ Thành An...
     Kính mong các cơ quan ngôn luận vui lòng đăng tải giúp. Xin cám ơn.
                                Vài Góp Ý Với Ông Trần Trung Chính
qua bài của Ông viết về Vũ Thành An đề ngày 1/11/1995 đăng trên SàiGòn Nhỏ  số 233 xuất bản tại Orange County ngày 10/11/1995
     Nhân đọc bài của ông Trần Trung Chính viết về Vũ Thành An, đăng trên báo Sài Gòn Nhỏ, số 233, xuất bản tại Orange County ngày  10/11/1995, chúng tôi xin được góp một vài ý kiến với ông như sau:
     1. Năm 1975 - 1976, Vũ Thành An ở trại Long Thành với chúng tôi. An không  hề cóù mặt tại trại Long Giao như ông Trần Trung Chính nói. Năm 1975 có khoảng 3500 ngừơi bị giam giữ tại Trại tù cải tạo Long Thành, trong đó có chúng tôi. Trại trưởng lúc đó là tên Trung Tá Công An Việt Cộng Đặng Côn và cán bộ phụ trách giáo dục là tên Bào. Hồi đó, mỗi bùông cử ra một ngừơi gọi là �Uỷ viên Văn Thể Mỹ�. Vũ Thành An được bầu vào chức đó. Vũ Thành An phụ trách tập cho những quản ca hát những bài hát do cán bộ giáo dục của trại phổ biến. Quản ca đem về buồng tập lại cho anh em hát. Cán bộ còn gợi ý cho Vũ Thành An làm những bài hát đề cao sự lao động và học tập cải tạo, các quản ca góp ý sửa chữa...
     Vì là một nhạc sĩ có tên tuổi nên Vũ Thành An bị bắt buộc phải làm, không thể từ chối được. Giai đoạn nầy, đa số anh em thất vọng, mất niềm tin, cảm thấy bị bạn bè và Đồng Minh Hoa Kỳ phản bội, bỏ rơi...sợ bị trả thù, nhiều ngừơi đâm ra nghi kỵ lẫn nhau...nên ai cũng có thái độ vâng dạ cho qua...Không riêng gì Vũ Thành An mà có biết bao nhiêu Dân Biểu, Nghị Sĩ, Tướng lãnh, Tổng Bộ Trưởng, các lãnh tụ chính trị, tôn giáo,v.v...cũng đã phải chấp nhận hoàn cảnh như vậy. Ở đây, chúng tôi không múôn nêu lên những ngừơi đã công khai làm những điều tai tiếng và tên tuổi của họ đã đi vào những hồi ký, sách vở...tiếng xấu để đời. Một điều đáng chú ý là Vũ Thành An chưa bao giờ ở trại Long Giao với ông Trần Trung Chính như ông Trần Trung Chính đã nói. Do đó những chuyện xẩy ra ở Long Giao  hoàn toàn không liên hệ gì đến Vũ Thành An. Trong thời điểm 1975 - 1976, ở trại Long Thành chưa có vấn đề phạt kỷ luật, chưa có một anh em nào bị biệt giam, cùm một chân như ở các trại miền Bắc sau nầy. Có ngừơi chết, nhưng lý do vì bị bệnh không phải do Vũ Thành An báo cáo mà chết. Trong anh em cũng có ngừơi không ưa Vũ Thành An vì thái độ ngoan ngoản, vâng lời của anh ta đối với cán bộ, đặt một số bài hát,v.v...Tiếng đồn về Vũ Thành An từ đó mà ra. (Nguyễn Vạn Hùng đã một lần viết về vấn đề nầy trên Nguyệt san Dân Tộc Việt số 1 tháng 6, 1991).
     2. Ngừơi làm �Văn Hoá Thi Đua� ở trại Phú Sơn tên là Thu chứ không phải Vũ Thành An như ông Trần Trung Chính nói. Vũ Thành An chỉ là đội trưởng của đội Nông Nghiệp, đi lao động như anh em khác, không phải là trật tự hay văn hoá thi đua. Cựu Dân Biểu Trương Vỹ Trí không hề bị cùm tại trại Phú Sơn vì bị Vũ Thành An báo cáo.
     Khi đọc đến đoạn nầy trên báo, tôi rất ngạc nhiên. Tôi có hỏi nhiều người và tối 11 tháng 12, 1995, tôi có điện thoại cho Cựu Dân Biểu Trương Vỹ Trí ở Florida. Chính anh Trương Vỹ Trí xác nhận với tôi anh không bị cùm tại trại Phú Sơn. Nhưng anh cho biết anh có bị cùm tại Thanh Hoá, lúc đó Vũ Thành An đã đi trại khác rồi. Hồi đó, có ngừơi trốn trại, không trở về. Công an tìm không ra, có lẽ mất tích luôn...nên anh Trương Vỹ Trí bị nghi là có dự mưu và bị cùm một chân trong nhà kỷ luật. Việc nầy không phải do Vũ Thành An báo cáo.
     3.Vụ Đại Tá Sơn Thương chết , xảy ra trong đội của Nguyễn Minh Đăng, lúc đó, Vũ Thành An ở đội khác, buồng khác không liên hệ gì đến chuyện đó.
     Điều nầy tôi có hỏi nhiều ngừơi ở chung một đội, một buồng với Vũ Thành An và ngay cả anh Trương Vỹ Trí cũng xác nhận như vậy. Trong bài báo, ông Trần Trung Chính khẳng định Sơn Thương chết là do Vũ Thành An báo cáo. Xin ông hỏi lại anh em cho chính xác.
     4. Trong bài báo, ông Trần Trung Chính có nêu lên một biến cố xảy ra vào đêm 30 tháng 12/1980 tại trại Phú Sơn: Vũ Thành An đã lên sân khấu...Tôi không có mặt tại trại Phú Sơn lúc đó, nhưng cũng chính vào ngày 30/12/1980 Vũ Thành An đang có mặt tại buồng I trại Hà Tây ...Vũ Thành An chuyển từ trại Thanh Hoá về trại Hà Tây vào cuối năm 1979 trứơc biến cố nói trên một năm. Có cả ngàn anh em ở trại Hà Tây biết rõ điều nầy. Xin ông xem lại, có điều gì lầm lẫn không?
     5. Vấn đề báo cáo Trung Tá Nguyễn Văn Cử, cựu Dân Biểu là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng...Theo chúng tôi nghĩ, điều đó cũng bằng thừa vì Việt Cộng biết rất rõ  ông Nguyễn Văn Cử là con của Cụ Nguyễn Văn Lực (một trong những lãnh tụ của Việt Nam Quốc Dân Đảng). Chúng cũng biết rõ ông Nguyễn Văn Cử là ngừơi ném bom dinh Độc Lập thời TT Ngô Đình Diệm cùng với Phạm Phú Quốc và có biết bao nhiêu anh em VNQDĐ đã khai về ông Nguyễn Văn Cử...Và chính ông Nguyễn Văn Cử cũng được tha về trứơc nhiều anh em khác, có thể trứơc cả Vũ Thành An, trứơc chúng tôi.v.v... Vậy thì lời báo cáo của Vũ Thành An có giá trị gì?
     6. Từ cúôi năm 1979 đến tháng 3/1983, Vũ Thành An ở buồng I trại Hà Tây cùng buồng với chúng tôi, có Cụ Nguyễn Văn Mân (cựu Nghị Sĩ), Cụ Hoàng Văn Úy (hiện là Chủ Tịch Việt Nam Quốc dân Đảng) Cụ Phan Như Toản, Cụ Chu Tử Kỳ, anh Nguyễn Vạn Hùng (tác giả Vùng Đất Ngục Tù hiện ở Los Angeles), anh Bửu Uy, Cựu DB Trần Cảnh Chung,v.v...Từ đó về sau, chúng tôi không thấy Vũ Thành An làm điều gì có hại cho anh em. Vũ Thành An cũng không làm tổ trưởng, đội trưởng, buổng trưởng hay trật tự, văn hoá thi đua ở trại Hà tây cũng như ở Nam hà. Từ 1980, anh đọc Kinh Thánh, tìm hiểu đạo Công Giáo và đã trở lại đạo vào đêm 19 tháng 3 năm 1981. Những ngừơi được mời tham gia hôm đó có: Cụ Nguyễn Văn Mân (cựu Nghị Sĩ, ngừơi đỡ đầu cho Vũ Thành An theo đạo), anh Nguyễn Thành Tiên (ngừơi thực hiện nghi thức dội nước trên đầu Vũ Thành An), anh Nguyễn Văn Độ, bác Vũ Công Định (Phật Giáo), anh Ca Văn Dương (Hoà Hảo), anh Nguyễn Trung Tín (Tin Lành), cùng các anh Nguyễn Vạn Hùng, Huỳnh Văn Trứ (Cựu Dân Biểu), Nguyễn Văn Ngà, Phạm Ngọc Lâm và tôi, Nguyễn Lý-Tưởng (Cựu Dân Biểu). Chúng tôi cũng thông báo cho các cụ Hoàng Văn Úy, Phan Như Toản, Trương Đình Nam, Ngô Quốc Tượng (tức Chu Tử Kỳ),v.v. nằm cạnh đó biết và nh? họ canh chừng...Các Đại Tá Hồ Ngọc Tâm, Nguyễn Quang Thông, Đoàn Công Hậu, Võ Hữu Hạnh,v.v...cũng được thông báo trứơc để hiệp ý cầu nguyện...Chúng tôi nêu sự kiện nầy để xác nhận rằng Vũ Thành An đã tìm được niềm tin và đã thực sự thay đổi. Đó là điều đáng mừng!
     Vũ Thành An cũng đã âm thầm sáng tác một số �tù ca� trong thời điểm đó, nói lên cảnh tù đày của anh em trong trại Phú Sơn và Hà Tây, v.v...Những bài nầy đã được chuyển cho một số anh em hát. Ở Texas có Trung Tá Nguyễn Thế đã thuộc một số tù ca của Vũ Thành An. Cúôi 1980, Vũ Thành An được thăm nuôi, ngừơi nhà hát cho anh nghe mấy bài hát được sáng tác ở Hải Ngoại sau 30/4/1975. Anh đã học thuộc lòng, vào trại chép ra cho anh em hát...Tết năm 1981, Vũ Thành An lén đến khu vực cấm (khu F) nơi giam các tứơng và đại tá và hát cho họ nghe những bài nầy...Có hàng ngàn anh em ở trại Hà Tây và Nam Hà (từ tháng 3/1983 đến 1985) sống chung với Vũ Thành An, hiện số anh em đó có mặt khắp nơi trên đất Mỹ...nếu anh em cho rằng lời chúng tôi  nói đây là không đúng sự thật, xin cứ lên tiếng theo lương tâm của anh em.
     Kính thưa hai ông Trần Trung Chính và Trần Văn Chính (ở 4223 Colgate LN, Garland, Texas 75042), kính thưa tất cả anh em.
     Tôi cũng là nạn nhân của những tên antena trong trại tù cải tạo, ba lần bị cùm chân trong nhà kỷ luật, 7 tháng biệt giam tại Hoả Lò, Hà Nội, được tự do vào năm 1988 (13 năm tù) rồi bị bắt lại năm 1992, bị 13 tháng biệt giam ở 3 C Tôn Đức Thắng (bến Bạch Đằng Saigon), 4 Phan Đăng Lưu (Gia Định) và khu Kiên Giam, lao xá Chí Hoà (Saigon) cho đến tháng 7/1993 mới được tự do...Tôi sống giữa anh em ở trại Long Thành, Hà Tây, Nam Hà...Anh em biết tôi. Cha tôi cũng chết trong nhà tù CS, anh tôi bị CS giết, họ hàng bị VC cầm tù, sát hại, nhà cửa ruộng vừơn bị chúng tịch thu hết...Chúng tôi phải bỏ quê hương, bỏ mồ mả tổ tiên chạy vào Sài Gòn từ 1972. Do đó chúng tôi rất căm thù CS. Vì bọn Antena trong tù mà tôi phải trải qua nhiều lần bị biệt giam, bị cùm chân trong nhà kỷ luật. Tôi cũng căm thù bọn chúng như hai ông họ Trần căm thù. Trên nguyên tắc, tôi hoàn toàn ủng hộ lập trừơng của hai ông khi lên án bọn chúng.
     Chúng tôi tôn trọng quyền tự do ngôn luận của anh em. Anh em có quyền lên án, có quyền buộc tội. Nhưng phải chính xác, phải vô tư. Những điều mà chúng tôi vừa nêu trên, không riêng gì một mình tôi mà nhiều ngừơi cũng nhận thấy có sự nhầm lẫn việc nầy với việc khác, thời điểm nầy qua thời điểm nọ...Có những ngừơi trứơc đây đã làm tay sai, làm chó săn cho CS cho đến thời điểm 1987, 1988 vẫn còn tiếp tục. Nhưng Vũ Thành An, từ 1980 đã tìm về với Chúa trong niềm tin Công Giáo và anh đã sống với niềm tin của mình.
     Ai cũng mong muốn  được làm lại cuộc đời sau những biến cố đau thương: gia đình tan nát, quê hương điêu tàn, chúng ta đã trở thành kẻ vong quốc, nương thân nơi xứ ngừơi.
     Chúng tôi xin gửi đến hai ông Trần và tất cả anh em cựu tù nhân chính trị và đồâng hương một vài nhận xét như trên. Xin tuỳ sự suy nghĩ của mỗi ngừơi.
     Xin thành thật cám ơn qúy vị.
                                                               Nam Cali ngày 12/12/1995                                  
                                                                       Nguyễn Lý-Tưởng  
Teresa Charities P.O.Box 13237 Portland, OR 97213 vuthanhan.com 503 821 9848

Saturday, 24 January 2015

SAU VỤ HOUSTON NGUYỄN LÝ TƯỞNG NẰM IM COI NHƯ ĐÃ CHẾT- NHƯNG GẦN ĐÂY NGUYỄN LÝ TƯỞNG NGO NGOE TRỞ LẠI VÌ ĐƯỢC VIỆT CỘNG CHO UỐNG THUỐC PHÓNG XẠ,/- Mt68

THƯ LÊ PHÁT MINH LMDC GỞI CHO NGUYỄN LÝ TƯỞNG.

Kính gởi anh Nguyễn Lý Tưởng,

 Trong thời gian qua tôi thấy trên các diễn đàn có phổ biến bản ghi âm họp kín của anh và anh em nội bộ Đại Việt Cách Mạng của cố cụ Hà Thúc Ký, do anh lãnh đạo hiện nay. Tôi không biết đây là cuộn ghi âm thật hay ngụy tạo, nhưng mãi tới nay không thấy anh lên tiếng về vấn đề này. Sự thật đây là vấn đề nội bộ của đoàn thể anh đáng lẽ tôi không có ý kiến gì. Tuy nhiên trong một đoạn ghi âm có đề cập đến Liên Minh Dân Chủ Việt Nam tại Houston có tham gia cuộc tiếp xúc của tên Thứ Trưởng Việt Cộng Nguyễn Thanh Sơn, nhân dịp đến Houston, Texas, trước đây, như đoạn dưới đây: "có chuyện Nguyễn Thanh Sơn nó tiếp xúc với Hoàng Duy Hùng và một vài người, trong đó có Hoàng Nam Hùng là con của ông Hoàng Văn Uý, Hoàng Văn Uý là Chủ Tịch Việt Nam Quốc Dân Đảng Liên Châu là bạn thân với tôi. Ông chết rồi. Rồi cũng có các phe phái khác. Trong đó có Liên Minh Dân Chủ,tức hậu thân của Tân Đại Việt của Nguyễn Ngọc Huy nhưng mà Nguyễn Ngọc Huy chết rồi nhưng mà những cái anh đó, những anh đó ở Houston" Vì vậy, để làm sáng tỏ vấn đề nên tôi phải viết thư này gởi đến anh qua các diễn đàn mà bản ghi âm này đã gởi đi, nếu có gì không hài lòng xin anh miễn thứ cho: 1.- Như anh biết Liên Minh Dân Chủ Việt Nam suất xứ từ đảng Tân Đại Việt và Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến ở trong nước, do cố GS Nguyễn Ngọc Huy lãnh đạo. Trong thập niên 90 chúng tôi có những anh chị em cán bộ tại quốc nội đứng lên trực diện tranh đấu trong lòng chế độ độc tài CSVN, và những cán bộ đàn anh đứng ra thành lập Phong Trào Thống Nhứt Dân Tộc và Xây Dựng Dân Chủ đã từng bị đàn áp, giam cầm tù tội nhiều năm, anh và đồng bào hải ngoại đều biết rõ tin tức này. Một số cán bộ lãnh đạo đàn anh đã qua đời nhưng còn nhiều cán bộ vẫn còn sống tại Việt Nam. Do đó, Liên Minh Dân Chủ Việt Nam không có nhu cầu tiếp xúc các viên chức CSVN ra hải ngoại. Bởi, nếu nhà cầm quyền CSVN thực tâm muốn tạo đoàn kết Dân Tộc, tiến tới thể chế chính trị Tự Do Dân Chủ và Tôn Trọng Nhân Quyền để qui tập sức mạnh toàn dân Quốc Nội cũng như Hải Ngoại hầu cùng nhau bảo vệ Lãnh Thổ, Hải Đảo và Lãnh Hải của Tổ Quốc VN trước hiễm họa xâm lăng của Trung Cộng. Thì đảng và nhà cầm quyền CSVN phải Hòa Giải, Hoà Hợp Dân Tộc trong nước trước, tiếp xúc với các Lực Lượng Dân Chủ trong nước, trong đó có các chiến hữu của Liên Minh Dân Chủ Việt Nam trong nước để tìm một lối thoát cho vấn nạn phân hóa hàng ngũ dân tộc do cuộc chiến xâm lăng của họ gây nên, chứ không phải các tổ chức đấu tranh ở Hải Ngoại. 2. Chúng tôi hiểu rõ âm mưu phân hóa hàng ngũ Cộng Đồng và các đoàn thể Đấu Tranh Chống Cộng của Người Việt Nam không Cộng Sản ở hải ngoại qua Nghị Quyết 36 của nhà cầm quyền CSVN, nên không bao giờ tin lời đường mật ve vuốt của họ. Điển hình trong buổi gặp gở hỏi ý kiến của LS Hoàng Duy Hùng tại nhà của anh Phạm Thông, chủ nhiệm kiêm chủ bút Nguyệt San Con Ong Texas, gồm có tôi Lê Phát Minh, các anh Nguyễn Tấn Trí, Nguyễn Hoàng Thắng (đại diện Ủy Ban các Chánh Đảng tại Houston, trong đó có Phong Trào Quốc Gia Hành Động của LS Hoàng Duy Hùng) và nhà báo Phạm Thông. Mở đầu buổi nói chuyện, LS Hoàng Duy Hùng cho biết Thứ Trưởng CSVN sẽ đến Toà Thị Chính Houston để thảo luận việc kết nghĩa hai thành phố Houston và Đà Nẵng, nhân dịp này muốn tiếp xúc với các đoàn thể và Cộng Đồng Việt Nam tại Houston, ý kiến chung của 4 anh em chúng tôi ( LPM, NTTr, NHTh, PTh) là không đồng ý có cuộc tiếp xúc này, vì thấy không có lợi mà hại nhiều, sẽ là nguyên nhân gây phân hóa Cộng Đồng Người Việt Nam tị nạn CS của chúng ta. LS Hoàng Duy Hùng nói những ý kiến của 4 anh em chúng tôi chưa thuyết phục được chú. Tôi nói: “Chú hỏi ý kiến thì anh góp ý kiến chứ không có vấn đề thuyết phục ở đây, nhưng anh nói cho chú biết, chú bị một số đoàn thể và cá nhân ở đây chống đối trong thời gian qua, nhưng đa số đồng bào thầm lặng trong Cộng Đồng Houston và Vùng Phụ Cận vẫn ủng hộ anh em chú, vì đa số thấy anh em chú dám dấn thân phục vụ Cộng Đồng và làm được việc. Nhưng chú đừng quên đây là những người Chống Cộng, nếu chú tiếp xúc với Nguyễn Thanh Sơn, đồng bào sẽ quay lựng lại với chú, chú hãy nhớ lời khuyên này của anh, còn quyền quyết định là của riêng chú”. Anh Nguyễn Tấn Trí giận nói: "Tôi sẽ chống tới cùng việc tiếp xúc này". Tôi chận anh Trí lại: “Không anh Trí, chúng ta không ủng hộ và không tán đồng việc tiếp xúc này, nhưng mỗi đoàn thể có quyền quyết định của riêng đoàn thể đó”. Và buổi họp hôm đó chấm dứt, chúng tôi không để ý đến chuyến đi của Nguyễn Thanh Sơn, mãi sau này thấy trên các diễn đàn phổ biến hình ảnh cuộc họp của Nguyễn Thanh Sơn với một số

Thursday, 19 June 2014

TÊN VC NẰM VÙNG NGUYỄN LÝ TẸO NẦY NÓ CHUI XUỐNG ỐNG CỐNG SAU VỤ LIẾM DÁI NGUYỄN THANH SƠN Ở HOUSTON

NÓ TRỐN KHÁ LÂU trong cầu tiêu SAU VỤ HÒANG GIAN HÙNG - GIỜ NÓ ĐÓI PHÂN VC LẠI NGOE NGUẨY CÁI ĐUÔI LÀM BỘ CA TỤNG VNCH ĐỂ PHỈNH THIÊN HẠ./- Mt68

Giáo sư Nguyễn Lý Tưởng
Phát Biểu tại Tượng Đài Việt-Mỹ, ngày 19.6.2014
Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

Trong tinh thần biết ơn các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh để bảo vệ tổ quốc và bảo vệ đồng bào, hôm nay, đứng trước TƯỢNG ĐÀI nầy là nơi địa linh, tôi xin kính cẩn nghiêng mình trước vong linh các chiến sĩ và các vị tiên liệt anh hùngdân tộc. Tôi xin tri ân anh chị em cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa đã có một quá khứ chiến đấu anh hùngvì dân vì nước. Tôi lớn lên tại miền Nam Việt Nam và đã hưởng được những ngày tự do, no ấm, sống bình an với gia đình, làng xóm...cũng là nhờ sự hy sinh bảo vệ tổ quốc và bảo vệ đồng bào của anh chị em, người đã khuất cũng như người còn sống. Chúng tôi xin phát biểu mấy ý kiến sau đây:

1. Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa
    là Quân Đội của Quốc Gia:
Cuộc chiến đấu chống lại chủ nghĩa Cộng Sản, chống lại Việt Minh Cộng Sản do Hồ Chí  Minh lãnh đạo, đã có tại Việt Nam trước khi quân đội Pháp trở lại Đông Dương (1945, 1946) và trước khi quân đội Đồng Minh Hoa Kỳ đổ bộ lên Đà Nẵng (1964). Nhờ sự tranh đấu của những người quốc gia không Cộng Sản (trong đó có các tôn giáo và chính đảng) đứng lên đòi  người Pháp phải trả độc lập cho Việt Nam, nên năm 1949, Pháp chính thức trả độc lập cho Việt Nam, chính quyền quốc gia ra đời dưới sự lãnh đạo của Quốc Trưởng Bảo Đại. Từ đó , Quân Đội Quốc Gia được thành lập và sau đó, nền đệ nhất Cộng Hòa ra đời với Tổng Thống Ngô Đình Diệm và nền đệ nhị Cộng Hòa với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cho đến ngày 30/4/1975.
Quân đội Việt Nam Cộng Hòa chiến đấu vì tổ quốc, vì đồng bào, tuyệt đối không phải là thành phần tay sai thực dân Pháp hay đế quốc Mỹ như Cộng Sản đã tuyên truyền. Chúng ta phải phân biệt  rõ ràng điều đó. Chúng ta luôn luôn hãnh diện về sự hy sinh xương máu của tập thể chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa của chúng ta. Các sử gia sau nầy phải biết phân biệt rõ ràng điều đó, và phải viết vào sử sách điều đó để con cháu chúng ta không bị lừa dối bởi sách vở của Cộng Sản và những cá nhân hay tổ chức "mù quáng" nghe theo luận điệu tuyên truyền của Cộng Sản.
Quân đội Việt Minh năm 1945 hay Quân Đội Nhân Dân của Cộng Sản hiện nay là một quân đội của Đảng Cộng Sản. Quân Dội đó chỉ biết "trung với Đảng" không phải là một Quân Đội của Quốc Gia. Quân Đội đó theo lệnh của Đảng để đàn áp nhân dân, đàn áp những người yêu nước, để củng cố quyền lực cho chế độ độc tài Cộng Sản. Ngày nào Quân Đội đó chưa thực sự là quân đội quốc gia, chiến đấu bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ quốc gia, bảo vệ đồng bào, chống xâm lăng Trung Cộng phương Bắc thì chúng ta không thể gọi Quân Đội đó là Quân Đội của Quốc Gia 
Việt Nam, Quân Đội của Nhân Dân Việt Nam được.
2.  Chúng ta đang tiếp tục tranh đấu cho khát vọng Tự Do,
     Dân Chủ và Nhân Quyền của Dân Tộc Việt Nam.
Một chế độ tự do, dân chủ, nhân quyền là niềm ước mơ và là khát vọng chính đáng của con người qua mọi thời đại. Kể từ khi nước Việt Nam bị người Pháp xâm lăng, dân tộc chúng ta phải sống dưới chế độ độc tài, áp bức bất công, mọi quyền tự do dân chủ và nhân quyền bị chà đạp. Do đó, toàn thể dân tộc chúng ta đã đứng lên tranh đấu cho tự do dân chủ và độc lập dân tộc. Những bậc tiền bối cách mạng đã nêu gương bất khuất qua các cuộc khởi nghĩa chống Pháp, các phong trào Duy Tân, Đông Du...và các cuộc vận động dân chủ.  Năm 1945, đảng Cộng Sản Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, với chiêu bài giải phóng dân tộc, đã lợi dung khát vọng tự do, dân chủ và nhân quyền của toàn dân, để đưa đất nước và dân tộc Việt Nam vào vòng nô lệ của chủ nghĩa Cộng Sản độc tài, chà đạp các quyền tự do dân chủ và nhân quyền của con người, trong đó quyền tự do tôn giáo là tối thượng...
Ngay sau khi Hồ Chí Minh cướp được chính quyền tại Hà Nội (19/8/1945), các tôn giáo và chính đảng quốc gia đã liên tục chống lại tập đoàn cộng sản độc tài, phi nhân tức Mặt Trận Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh đạo. Hàng triệu tín đồ các tôn giáo và thành viên các chính đảng quốc gia đã bị Cộng Sản giam cầm, thủ tiêu, giết hại từ 1945 đến nay...Từ sau 30/4/1975 cho dến nay (2014), không một nơi nào cũng như không một thời điểm nào mà không có những người yêu nước đứng lên tranh đấu cho tự do dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam để chống lại tập đoàn Cộng Sản dã man, tàn bạo. Linh Mục Nguyễn Văn Lý là một trong những gương mặt tranh đấu bền bỉ nhất. Sự tranh đấu bất bạo động của LM Nguyễn Văn Lý cũng như của các nhà lãnh đạo tôn giáo và các nhà đấu tranh dân chủ trong nước đã được sự 
hậu thuẫn mạnh mẽ của đồng bào trong nước cũng như hải ngoại. 

Tình hình Việt Nam hiện nay đòi hỏi phải có một cuộc cách mạng dân chủ, đòi hỏi phải 
thực hiện các quyền tự do dân chủ cho dân mà ưu tiên là 
1. Quyền Tự Do Tôn Giáo
2. Quyền Tự Do Ngôn Luận 
3. Quyền Tự Do Chính Trị, đa nguyên, đa đảng, tam quyền phân lập 
4. Quyền tư hữu của người dân
đặc biệt phải ưu tiên trả lại tài sản của các Giáo Hội đã bị Cộng Sản tịch thu sau ngày 30/4/1975 tai Miền Nam cũng như sau 1954 tại Miền bắc (cụ thể là các nơi thờ tự, các sở văn hóa giáo dục, xã hội, từ thiện). Muốn có đoàn kết, muốn có sức mạnh để bảo vệ tổ quốc, bảo vệ đồng bào, muốn có hòa giải dân tộc thì phải giải tán đảng Cộng Sản Việt Nam, từ bỏ chế độ độc tài, bỏ điều 4 Hiến Pháp để chuyển qua một chế độ dân chủ như các nước Tây Phương. Từ đó, Việt Nam mới có hậu thuẫn của thế giới tự do để tồn tại bên cạnh chủ nghĩa Đại Hán bành trướng xâm lược của Trung Cộng phương Bắc.

GS Nguyễn Lý-Tưởng
Cựu Dân Biểu Việt Nam Cộng Hòa
Chủ Tịch Đại Việt Cách Mạng Đảng (2012-2016)

Tuesday, 22 April 2014

THẰNG NGÁO NGUYỄN LÝ TƯỞNG LIẾM DÁI NGUYỄN THANH SƠN - CHỦ TRƯƠNG TRỰC TIẾP HỨNG PHÂN TỪ HẬU MÔN VIỆT CỘNG NHƯ ĐỒNG BỌN HÒANG GIAN HÙNG - BÀY ĐẶT PHÁT BIỂU LUNG TUNG - CÂM CÁI MÕM ĐEN NGÒM THÌ HAY HƠN - NÓ MUỐN CHO NGUYỄN THANH SƠN VÒ ĐẦU CHỨ GÌ ???./- Mt68

Tình hình Miền Nam Việt Nam trước ngày 30/4/1975.
Về mặt chính tri:
Sau khi lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm (1/11/1963), các tướng lãnh thay nhau lãnh đạo Miền Nam Việt Nam (tức Việt Nam Cộng Hòa). Các cuộc chỉnh lý rồi đảo chính xảy ra liên tục. Các phong trào tranh đấu của sinh viên và Phật tử chống chính phủ quân nhân  mà ai cũng biết đàng sau các phong trào nầy là các nhà sư… đặc biệt là hai Thượng Tọa Thích Trí Quang và Thích Thiện Minh gốc  Miền Trung lãnh đạo, với những yêu sách không bao giờ thoả mãn. (Báo chí thời đó thường gọi là Phật Giáo Ấn Quang, để phân biệt với Việt Nam Quốc Tự do hai Thượng Tọa gốc Bắc Kỳ di cư là Thích Tâm Châu và Thích Tâm Giác không cùng lập trường.... điển hình là biến cố mùa Hè 1966 bàn Phật xuống đường tại Huế, Đà Nẵng, Quảng Trị).
Chính Phủ do Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ lãnh đạo đã cương quyết dẹp tan các phong trào tranh đấu tại Miền Trung vào mùa Hè 1966 và đã tổ chức bầu cử Quốc Hội Lập Hiến sau đó (1966) cho đến ngày 1/4/1967, Hiến Pháp của nền Đệ II Cộng Hoà ra đời và các cuộc bầu cử Tổng Thống, Phó Tổng Thống, Dân Biểu Nghị Sĩ đã tạm thời ổn định tình hình chính trị tại Miền Nam Việt Nam.
Tuy nhiên, trong cuộc bầu cử Tổng Thống ngày 3/9/1967, Liên danh của Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu và Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, mặc dầu đang nắm chính quyền, vẫn không đạt được số phiếu đắc cử trên 50% (mà chỉ đạt được trên 30% sự tín nhiệm của cử tri). Điều đó chứng tỏ các vị tướng lãnh không được đa số nhân dân Miền Nam Việt Nam ủng hộ. Sự chia rẽ trong nội bộ Miền Nam Việt Nam sau cuộc bầu cử Tổng Thống 1967 đã làm tan nát hàng ngũ những người quốc gia chống Cộng.
Mấy tháng sau cuộc bầu cử là cuộc tổng tấn công, tổng nổi dậy của Việt Cộng trong Tết Mậu Thân. Trước tình thế đó, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cần có sự hợp tác của các lực lượng chống Cộng có hậu thuẫn quần chúng tại Miền Nam Việt Nam để tạo đoàn kết quốc gia, ổn định tình hình và có được hậu thuẫn chính trị trong nước trước khi đi gặp Tổng Thống Nixon (mới đắc cử vào năm 1968) tại Honolulu.
Mặt trận 6 đảng ra đời có tên là “Mặt Trận Quốc Gia Dân Chủ Xã Hội” do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu là
Chủ Tịch của Chủ Tịch Đoàn với 6 vị lãnh tụ chính trị là các ông 
--Vũ Hồng Khanh (Việt Nam Quốc Dân Đảng), 
--Hà Thúc Ký (Đại Việt Cách Mạng Đảng), 
--Nguyễn Gia Hiến (Lực Lượng Đại Đoàn Kết tức Công Giáo Bắc Di Cư), 
--Trương Công Cừu (Việt Nam Nhân Xã Cách Mạng Đảng gọi tắt là Nhân Xã 
                  tức hậu thân của Đảng Cần Lao), 
--Trình Quốc Khánh (Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng gọi tắt là Hoà Hảo Dân Xã)
-- và ông Nguyễn Văn Hướng (Tổng Thư Ký Phủ Tổng Thống với 
    Lực Lượng Tự Do Dân Chủ)…
Với hậu thuẫn chính trị của Mặt Trận 6 đảng nầy, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã đi gặp Tổng Thống Hoa Kỳ Richard Nixon và sau đó, đã cử phái đoàn tham dự hội nghị Paris (cũng gọi là hoà đàm Paris) gồm có 4 bên: Hoa Kỳ, Việt NamCộng Hòa và Hà Nội-MTGPMN ….
Từ 1970, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và những người ủng hộ ông, đã nhìn thấy tình hình an ninh được vãn hồi sau Tết Mậu Thân, kế hoạch Phượng Hoàng đã loại trừ được các cơ sở nằm vùng của Việt cộng trong thành phố cũng như ở nông thônViệc thực hiện chính sách Chiêu Hồi đã có kết quả, bộ đội Việt cộng bị bắt hoặc rời bỏ hang ngũ trở về với Việt Nam Cộng Hòa đã lên đến con số 300.000 người…Sự hiện diện của quân đội Mỹ với những vũ khí tối tân, sự yểm trợ của pháo đài bay B.52 tại Miền Nam cũng như oanh tạc miền Bắc…Điều đó đã làm cho những người có  chính quyền trong tay an tâm tin tưởng vào sự vững mạnh của chính quyền và không lo sợ Việt cộng nữa. Từ đó họ nghĩ đến cách làm giàu và hưởng thụ. Tình trạng tham nhũng lan tràn từ trên xuống dưới, tạo nên sự bất công trong xã hội.
Sau khi củng cố được quyền lực, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã quay lưng với Mặt Trận 6 Đảng và chuyển dần qua chế độ độc tài, độc đảng. Cuộc bầu cử Tổng Thống 1971, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ứng cử độc diễn, không có ai ra ứng cử tranh với ông (mặc dầu đã có sự vận động để có tối thiểu là một liên danh đối lập trong cuộc bầu cử Tổng Thống 1971). Đảng Dân Chủ do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ Tịch đã chính thức ra đời khiến cho 6 đảng trong Mặt Trận Quốc Gia Dân Chủ Xã Hội đương nhiên quay lưng lại với ông và Mặt Trận nầy đã tự động tan rã không kèn không trống.
Hiệp định Paris ký kết ngày 27/1/1973 với mục đích để cho Mỹ rút quân khỏi Việt Nam Cộng Hòa. Hiệp định không đề cập đến sự hiện diện của quân Bắc Việt tại Miền Nam Việt Nam và cũng không có điều khoản nào bắt buộc Hà Nội phải rút quân ra khỏi Miền Nam Việt Nam và trở về phía Bắc vĩ tuyên 17, trở lại tình trạng Hiệp Định Geneve 1954. Như thế là Mỹ đã đạt được mục đích và sau đó họ không thực hiện lời hứa với Việt Nam Cộng Hòa là sẽ viện trợ quân sự, vũ khí, súng đạn và cho B.52 ném bom ngăn chận sự tái xâm nhập của quân đội Bắc Việt nhằm xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa. Như thế, nhìn từ hiệp định Paris, chúng ta thấy, Việt cộng hoàn toàn thắng lợi và Việt Nam Cộng Hòa hoàn toàn thất bại về cả hai mặt quân sự lẫn chính trị.
Sau hiệp định Paris, Hội Đồng Giám Mục Miền Nam Việt Nam đã cho phổ biến một bức thư lên tiếng về tình trạng tham nhũng và bất công xã hội. Dựa vào tinh thần bức thư đó, LM Trần Hữu Thanh (thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Saigon) đã cho ra đời Phong Trào Chống Tham Nhũng và Kiến Tạo Hoà Bình. Phe Phật giáo miền Trung (thường được báo chí gọi là Phật Giáo Ấn Quang) đã cho thành lập “Lực Lượng Hoà Giải Dân Tộc” do Nghị sĩ Vũ Văn Mẫu tự nhận là thuộc “thành phần thứ ba” lãnh đạo đã vận động thực hiện hiệp định Paris, đòi Mỹ rút hết quân đội khỏi Miền Nam Việt Nam, đòi lập chính phủ ba thành phần, và ủng hộ ông Dương Văn Minh trong vai trò lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa thay thế Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Đồng thời, các chính đảng, nhân sĩ trí thức, các tôn giáo, truyền thông báo chí cũng như một số Dân Biểu, Nghị Sĩ cũng ngã theo khuynh hướng đối lập với chính quyền.
Sinh hoạt trong Quốc Hội dần dần tẻ nhạt, khối Dân Biểu, Nghị Sĩ thân chính chí biết giơ tay biểu quyết theo lệnh của Phủ Tổng Thống, mọi quyền lợi đều ưu tiên cho khối thân chính trong Quốc Hội mà không nghĩ gì đến phía đối lập. Để củng cố quyền lực, Tổng Thống Thiệu đã dựa vào khối đa số (Thân chính) để ban hành các luật thất nhân tâm: sưu cao thuế nặng, luật uỷ quyền, luật quy chế chính đảng mới, luật tu chính Hiến Pháp. Mãi đến giai đoạn chót của tình hình trước 1975, các Dân Biểu, Nghị Sĩ thân chính dưới sự chỉ đạo của ông phụ tá Nguyễn Văn Ngân mới họp nhau để viết ra một bản điều trần về tình hình đất nước. Nghị sĩ Trần Trung Dung đại diện nhóm thân chính trong Quốc Hội (lưỡng viện) trực tiếp trình bày nội dung bản điều trần nầy với Tổng Thống. Nhưng thiện chí của quý vị nầy xem như đã quá muộn màng và Tổng Thống Thiệu đang trong cơn khủng hoảng không còn sáng suốt để kịp thời cứu vãn tình hình được nữa.
Về mặt quân sự
Sau hiệp định Paris, cộng sản Hà Nội vẫn tiếp tục xâm nhập Miền Nam Việt Nam. Năm 1974, Việt cộng tấn công Phước Long và chiếm luôn tỉnh lỵ nầy, đó là bước đầu của một cuộc thăm dò và cũng là để chứng minh sức mạnh của họ. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa ở trong tình trạng thụ động, không phản công tái chiếm. Do đó, cộng sản Hà Nội càng tăng cường xâm nhập qua đường Trường Sơn (thường gọi là đường mòn Hồ Chí Minh) một cách ào ạt nào xe tăng, vũ khí, đạn dược và binh lính… mà Việt Nam Cộng Hòa không có khả năng ngăn chận. Mỹ không thực hiện lời hứa sẽ cho B.52 ném bom ngăn chặn sự xâm nhập của quân Bắc Việt. Năm 1975, Mỹ cũng từ chối viện trợ bổ túc 300 triệu dollars vũ khí và nhiên liệu cho Việt Nam Cộng Hòa. Nói tóm lại, sau khi rút chân ra khỏi Miền Nam Việt Nam, Mỹ để mặc cho số phận Miền Nam Việt Nam ra sao thì ra. Như thế, rõ ràng là Mỹ chủ trương bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa.
Trong khi đó, Liên Xô và Trung Cộng chủ trương bành trướng chủ nghĩa cộng sản khắp thế giới nên đã viện trợ dồi dào vũ khí, đạn dược, nhiên liệu, xe tăng… cho Hà Nội để thực hiện mộng xâm lăng của họ. Trên thực tế, hoả lực của Việt cộng mạnh hơn Việt Nam Việt Nam Cộng Hòa rất nhiều. Trong khi Việt Nam Việt Nam Cộng Hòa phải rải quân ra để bảo vệ lãnh thổ thì Việt cộng lại tập trung lực lượng để tấn công vào một điểm nhất định. Tại vùng II chiến thuật, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đã cho tập trung quân để bảo vệ Pleiku thì tháng 3, 1975, Việt cộng lại tấn công Ban Mê Thuột. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và Bộ Tổng Tham Mưu chẳng những không ra lệnh phản công tái chiếm Ban Mê Thuột là vị trí chiến lược quan trọng, lại còn cho lệnh rút quân khỏi Pleiku làm cho tan rã một Quân Đoàn, gây hỗn loạn trong quân đội và dân chúng, làm hoang mang các nơi khác, làm suy sụp tinh thần chiến đấu của binh sĩ khắp nơi.
Sau khi chiếm được Ban Mê Thuột và các tỉnh Cao Nguyên, Việt cộng lại đánh chiếm Mỹ Chánh, phần đất còn lại phía Nam tỉnh Quảng Trị sau 1972, uy hiếp Huế. Cũng trong tháng 3, 1975, quân đội Việt Nam Cộng Hòa rút khỏi Huế, hàng trăm ngàn người  thi nhau chạy về Đà Nẵng và tìm cách về Sài Gòn, gây khủng hoảng trầm trọng cho Đà Nẵng cũng như Trung Ương Sài Gòn. Cuối cùng, trước áp lực của VC, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng và Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I phải bỏ Đà Nẵng. Các tỉnh vùng II rút về Quy Nhơn, Nha Trang và cuối cùng cũng đã bỏ Quy Nhơn, Nha Trang…để chạy về Sài Gòn. Các thành phố Miền Trung bỏ ngõ, Việt cộng chưa đến mà quân đội và chính quyền đã rút lui, chứng tỏ các cấp chỉ huy không có một tinh thần trách nhiệm nào và binh sĩ thì đã không còn tinh thần để chiến đấu trước  kẻ thù. Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghị, nguyên là Tư Lệnh Quân Đoàn IV ở Cần Thơ, bị mất chức vì bị tố cáo tham nhũng…đã tình nguyện ra trấn giữ Phan Rang chiến đấu bên cạnh các đơn vị địa phương , để lập công…Nhưng ví quá cô thế, ông cũng đã thất bại và đã bị Việt cộng bắt làm tù binh.
Thừa thắng, Hà Nội huy động toàn lực Miền Bắc tiến thắng vào Nam trên Quốc Lộ I (từ Bắc vào Nam) mà không gặp trở ngại nào. Các tỉnh vùng IV (đồng bằng sông Cửu Long) vẫn còn toàn vẹn, chưa bị tan rã. Mặt trận Long Khánh vẫn còn quyết liệt, Tướng Lê Minh Đảo và Sư Đoàn 18, bước đầu bảo vệ được ngõ vào Sài Gòn. Nhưng từ ngày 19/3/1975 trở đi, đồng bào cũng đã bỏ nhà cửa, tài sản kéo nhau chạy về Saigon. Sau ngày 20/4/1975 kể như Long Khánh đã bị Việt cộng tràn ngập và Tướng  Lê Minh Đảo cũng phải rút về Sài Gòn.
Sài Gòn ngày 30/4/1975
Lúc bấy giờ tại Sài Gòn có dư luận cho rằng sở dĩ Mỹ không viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa vì Mỹ không ủng hộ TT Thiệu và muốn TT Thiệu phải ra đi…Sau đó,  Thủ Tướng Trần Thiên Khiêm đã cùng Phó Thủ Tướng Nguyễn Lưu Viên chính thức gặp TT Nguyễn Văn Thiệu, yêu cầu Tổng Thống từ chức để giải quyết tình hình. TT Thiệu trả lời: Theo Hiến Pháp thì Thủ Tướng từ chức chứ Tổng Thống không từ chức.  
Vào những ngày đầu tháng 4, 1975, sau khi mất các tỉnh vùng I và Vùng II, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm từ chức. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu chọn ông Nguyễn Bá Cẩn, Chủ Tịch Hạ Nghị Viện lên làm Thủ Tướng, lập một chính phủ gọi là “đoàn kết”. Nội các Nguyễn Bá Cẩn tồn tại được 13 ngày (từ 14/4/75 đến 27/4/75).
Tối 21/4/1975, TT Thiệu lên Đài Phát Thanh Sài Gòn tuyên bố từ chức để trao quyền lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương (theo Hiến Pháp). Tối 22/4/75, Tổng Thống Thiệu và Cựu Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm được Đại Sứ Mỹ Martin đưa lên máy bay rời Saigon.Ngày 23/4/1975, Tân Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn xin từ chức. Tân Tổng Thống Trần Văn Hương yêu cầu ông tiếp tục xử lý thường vụ cho đến khi có Chính Phủ mới.
Lực lượng Hoà Giải Dân Tộc của NS Vũ Văn Mẫu được hậu thuẫn của Thượng Toạ Thích Trí Quang (Phật Giáo khối Ấn Quang) đang vận động ráo riết để cho Đại Tướng Dương Văn Minh thay thế Cụ Trần Văn Hương. Trong lúc đó, Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến họp đại hội vào ngày 27/4/1975 ra tuyên bố “sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm trước lịch sử” và cá nhân GS Nguyễn Ngọc Huy (Tân Chủ Tịch Phong Trào Quốc gia Cấp Tiến thay thế Giáo sư Nguyễn Văn Bông bị ám sát chết mấy năm trước đây) cũng đã đích thân vận động với Tổng Thống Trần Văn Hương cử ông làm Thủ Tướng thay thế ông Nguyễn Bá Cẩn sau khi được tin Tổng Thống Thiệu đã rời khỏi Việt Nam.
Trung Tướng Trần Văn Đôn, Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng trong chính phủ Nguyễn Bá Cẩn cũng muốn cái ghế Thủ Tướng…Ngày 26/4/1975, TT Trần Văn Hương đến trình bày trước Quốc Hội Lưỡng Viện đề nghị các Dân Biểu Nghị Sĩ chấp thuận trao quyền cho Đại Tướng Dương Văn Minh thay ông làm Tổng Thống để nói chuyện với phía cộng sản. Các DB thuộc đảng Tân Đại Việt (Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến) như Nhan Minh Trang, Nguyễn Ngọc Tân…đã lên diễn đàn chống việc trao quyền cho Đại Tướng Dương Văn Minh trong khi đó, DB Lý Quý Chung lại xin Quốc Hội Lưỡng Viện chấp thuận trao quyền cho ĐT Dương Văn Minh và ông tuyên bố ĐT Dương Văn Minh là một quân nhân, nhất định sẽ chiến đấu bảo vệ Việt Nam Cộng Hòa, không đầu hàng cộng sản.
Ngày 27/4/1975, phái đoàn do Đại Tướng Cao Văn Viên (Tổng Tham Mưu Trưởng) và Trung Tướng Trần Văn Đôn (Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng)… đến trình bày tình hình quân sự trước Quốc Hội đề nghị Quốc Hội chấp thuận trao quyền cho ĐT Dương Văn Minh…Những dân biểu nghị sĩ không đồng ý đã phát biểu rằng :“ theo Hiến Pháp, nếu Tổng Thống và Phó Tổng Thống đều mệnh một hay từ chức thì người kế vị để lãnh đạo quốc gia sẽ là Chủ Tịch Thượng Nghị Viện".
Ông Dương Văn Minh không có tư cách dân cử và đã một lần lên nắm chính quyền sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ và đã chứng tỏ không có khả năng gì để ổn định tình hình, trái lại còn giúp cho cộng sản phát triển nhanh chóng và lấn chiếm Miền Nam…Nhiều người biết rõ ông Dương Văn Minh có người em là sĩ quan cao cấp trong hàng ngũ cộng sản và cả hai bên đã nhiều lần liên lạc với nhau…” Nhưng cuối cùng, Quốc Hội cũng đã chấp thuận trao quyền cho ĐT Dương Văn Minh mặc dù biết làm như vậy là vi hiến.
Trước khi Quốc Hội biểu quyết, những nghị sĩ và dân biểu bất đồng ý kiến…đã bỏ phòng họp ra đi. Họ trở về nhà và lo tìm đường chạy thoát trước khi cộng sản tiến vào Sài Gòn. Tại Thượng Nghị Viện, sau khi tan họp, Ông Chủ Tịch Trần Văn Lắm cũng đã bí mật rời khỏi Việt Nam và trao lại cho Trung Tá Nguyễn Bá Tường (Chánh Văn Phòng) một cái xách tay trong đó có chìa khoá văn phòng và con dấu Chủ Tịch TNV. Ngoài ra còn một mảnh giấy viết tay của ông Trần Văn Lắm gửi cho ông Trần Trung Dung, Đệ I Phó Chủ Tịch/Thượng Nghị Viện “uỷ quyền cho ông Trần Trung Dung thay thế ông Trần Văn Lắm xử lý thường vụ Chủ Tịch Thượng Nghị Viện”…
Tối 28/4/1975, trong cuộc bàn giao giữa Tổng Thống Trần Văn Hương và Đại Tướng Dương Văn Minh tại Dinh Độc Lập, ông Dương Văn Minh đã trình diện Nội Các  tạm thời chỉ có 3 người là: Cụ Nguyễn Văn Huyền (Phó Tổng Thống) và Giáo sư Vũ Văn Mẫu (Thủ Tướng)…những chức vụ khác trong Chính Phủ chưa có. Việc lập Nội Các mới vào ngày hôm sau cũng chưa hoàn thành.  (Theo lời Trung Tướng Nguyễn Hữu Có kể lại: Ngay sau đó, Ông Dương Văn Minh đã nhờ Thượng Toạ Thích Trí Quang liên lạc với vc, đồng thời đã cử một phái đoàn do cụ Nguyễn Văn Huyền vào gặp Việt cộngtại trại David trong phi trường Tân Sơn Nhứt, đưa đề nghị ngưng chiến để thương lượng.
Nhưng tất cả mọi người đã bị cộng sản lừa gạt. Các tướng lãnh có trách nhiệm đều đã bỏ trốn, Bộ Tổng Tham Mưu vắng vẻ, không còn một người nào. Ông Dương Văn Minh đã cử các tướng Vĩnh Lộc, Lâm Văn Phát, Nguyễn Hữu Có, Đỗ Kế Giai, v.v….đứng ra tổ chức lại quân đội nhưng đã quá muộn. Việt cộng đang tiến vào Sài Gòn và lên tiếng trên đài phát thanh “Giải Phóng” kêu gọi Dương Văn Minh đầu hàng vô điều kiện và trao quyền lại cho họ. Tân Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu đã lên tiếng yêu cầu người Mỹ hãy rút ra khỏi Việt Nam để nội bộ người Việt Nam tự giải quyết với nhau trong tinh thần huynh đệ.
Trở lại tình hình nước Mỹ trước ngày 30/4/1975, trong khi tinh hình Việt Nam rất đen tối thì tại Hoa Kỳ, Tổng Thống Nixon rồi Phó TT Agnew phải từ chức vì vụ Watergate, Quốc Hội Mỹ đã đề cử ông Geral Ford lên làm Tổng Thống. Tân Tổng Thống Ford đã cam kết tiếp tục chính sách của TT Nixon, sẽ không bỏ rơi Việt Nam. Nhưng Quốc Hội Mỹ đã từ chối viện trợ bổ túc về quân sự cho Việt Nam…Và dư luận báo chí Mỹ lúc đó đang nghiêng về phong trào phản chiến, chủ trương tìm một giải pháp chính trị cho Việt Nam và chấm dứt chiến tranh. Điều đó hoàn toàn bất lợi cho Việt Nam Cộng Hòa và tất nhiên là có lợi cho cộng sản…Trong những ngày cuối cùng trước khi Sài Gòn rơi vào tay cộng sản, Mỹ đã di tản nhân viên của Toà Đại Sứ và các cơ quan quân sự của họ ra khỏi Việt Nam bằng máy bay…
Đại sứ Pháp tại Sài Gòn, ông Merillon và Tướng Vanuxem đã đứng ra liên lạc với Việt cộng cũng như với ông Dương Văn Minh, đề nghị một giải pháp chính trị cho Việt Nam. Ông cũng đề nghị ông Dương Văn Minh kêu gọi 13 quốc gia ký tên bảo đảm cho việc thi hành hiệp định Paris trong đó có Trung Cộng, hãy trực tiếp can thiệp để ngăn chận sự xâm lăng của Hà Nội, để bảo đảm cho Miền Nam một chế độ trung lập với ba thành phần…Nhưng Dương Văn Minh và những người chung quanh ông ta lúc đó đã chủ trương đầu hàng cộng sản nên đã từ chối lời đề nghị này.
Giờ chót Tướng Vanuxem gặp Trung Tướng Vĩnh Lộc phía sau lưng nhà thờ Đức Bà Saigon…Ông đã khóc khi báo tin cho Trung Tướng Vĩnh Lộc biết “sứ mạng của ông ta đã thất bại” và khuyên Trung Tướng Vĩnh Lộc hãy tự lo cho bản thân. Trung Tướng Vĩnh Lộc liền đến gặp Đại Tá Hải Quân Nguyễn Văn Tấn và Đại Tá Tấn đã giúp cho ông và gia đình lên tàu hải quân tại bến Bạch Đằng (Sài Gòn) di tản ra khỏi Việt Nam. Trong khi Đại Tá Tấn cùng gia đình đã bước lên tàu nầy thì phu nhân của Đại Tá lên cơn đau tim phải đưa vào cấp cứu ở trong bệnh viện Grall của Pháp gần đó. Vì thế Đại Tá Tấn và gia đình đã kẹt lại và sau đó phải đi trình diện “học tập cải tạo” vì chiếc tàu kia không thể chờ đợi được, đành phải nhổ neo cho kịp giờ…(Thời gian gặp nhau trong nhà tù cộng sản sau 1975, chính Đại Tá Nguyễn Văn Tấn đã kể lại cho Nguyễn Lý Tưởng chi tiết nầy)
Sáng 30/4/1975, trong lúc cộng sản trên đường tiến vào Sài Gòn thì Dương Văn Minh đã tuyên bố trên đài phát thanh Sài Gòn “đầu hàng cộng sản” và kêu gọi quân đội ngưng chiến. Xe tăng của cộng sản tiến vào Dinh Độc Lập, nơi đó, Dương Văn Minh và những người ủng hộ ông đang có mặt để trao quyền lại cho cộng sản…
Tại Cần Thơ, ngay khi được tin ông Dương Văn Minh thay thế Cụ Trần Văn Hương làm Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đã tiếp một phái đoàn của Cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ từ Sài Gòn đến bằng máy bay trực thăng. Ông Nguyễn Cao Kỳ và các chính khách Sài Gòn đã đề nghị ông Nguyễn Khoa Nam với tư cách Tư Lệnh vùng IV (đồng bằng sông Cửu Long) cương quyết giữ vững Vùng IV để cho anh em khắp nơi chạy về đây góp sức nhau tạo thành một lực lượng tự vệ hầu có thể thương lượng với cộng sản. Nhưng ông Nguyễn Khoa Nam trả lời: “Tôi là một quân nhân, tôi không làm chính trị, tôi chỉ biết chấp hành mệnh lệnh của cấp chỉ huy. Trước đây Tổng Thống Thiệu là cấp chỉ huy của tôi và bây giờ Đại Tướng Dương Văn Minh là cấp chỉ huy của tôi…”. Phái đoàn của ông Nguyễn Cao Kỳ thất vọng trở về Saigon, sau đó, mạnh ai nấy chạy thoát thân.
Sau khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, các tướng Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ…đã tự tử…
2.
Lạc Việt: Xin Giáo sư cho biết: Tại sao chúng ta phải bỏ nước ra đi?
Giáo sư Nguyễn Lý-Tưởng (trả lời):
Khi nghe tin Duong Van Minh đã đầu hàng và bộ đội cộng sản đang tiến vào Sài Gòn, đồng bào mạnh ai nấy chạy, tìm đường thoát khỏi chế độ cộng sản bằng đủ mọi phương tiện: máy bay, tàu thuỷ, ghe thuyền…Trong lịch sử Việt Nam, từ xưa tới nay chưa hề có sự kiện “người Việt Nam bỏ nước ra đi”, dù trải qua một ngàn năm bị người Tàu đô hộ hay gần 100 năm dưới chế độ thực dân Pháp. Trứơc đây, khi có sự thay đổi chế độ, thay đổi triều đại, thay đổi người cai trị thì người Việt vẫn sống trên quê hương của mình. Ngay cả khi bị ngoại quốc xâm lăng, người Việt vẫn không bỏ quê hương. Chỉ có dưới chế độ Cộng Sản mới có chuyện bỏ nước ra đi, chấp nhận cái chết để đổi lấy tự do.
Biến cố 1945 dẫn đến cuộc di cư 1954 của cả triệu người Việt Nam bỏ nhà cửa, tài sản, bà con họ hàng, mồ mả tổ tiên, bỏ quê hương miền Bắc để di cư vào miền Nam. Nhưng miền Nam cũng là nước Việt Nam, không phải là một nước khác ngoài nước Việt Nam. Bây giờ đây với biến cố 30/4/1975, càng to lớn hơn, bi đát hơn: hàng triệu người bỏ nước ra đi, tìm đường thoát khỏi chế độ Cộng Sản bằng đủ mọi phương tiện: máy bay, tàu thủy, ghe thuyền.
Một số lớn đã chết trên sông, trên biển, trong rừng;  bị bắt, bị hành hạ trong các trại giam, bị chính quyền cộng sản tịch thu hết tài sản, bị hải tặc cướp của, giết người, hãm hiếp...Họ chấp nhận sự nguy hiểm, hy sinh cả tính mạng để đổi lấy tự do. Báo chí thường gọi họ là những “thuyền nhân.”
 Như vậy, những người còn ở lại trong nước không phải vì chấp nhận chủ nghĩa Cộng Sản, chấp nhận chế độ Cộng Sản mà ở lại...nhưng vì không có cách nào thoát được, nên đành phải ở lại.
 3.
Lạc Việt: Sau hiệp định Paris (27/1/1973), người ta nói nhiều đến vấn đề “hòa hợp, hòa giải dân tộc”...Tại sao sau ngày 30/4/1975 lại có hàng triệu người bị bắt buộc phải vào nhà tù cải tạo của Cộng Sản? Như vậy có phải là “hòa hợp, hoà giải dân tộc” không ?
-GS Nguyễn Lý Tưởng trả lời:
Hiệp định Paris có đề cập đến vấn đề hoà hợp, hòa giải dân tộc và việc thành lập một chính phủ gồm ba thành phần: Thành phần thứ nhất là Việt Nam Cộng Hoà (tức chính quyền của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu); thành phần thứ hai là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và thành phần thứ ba là những người không thuộc về hai thành phần trên. Vấn đề hòa giải dân tộc không phải mới được đặt ra từ khi có hội nghị Paris về chiến tranh Việt Nam mà đã có từ năm 1945, khi Hoàng Đế Bảo Đại tuyên bố thoái vị và trao đất nước lại cho ông Hồ Chí Minh lãnh đạo. Trong chiếu thoái vị, ngài chỉ mong ước một điều là phía ông Hồ Chí Minh và Mặt Trận Việt Minh phải “thực hiện đại đoàn kết dân tộc, tránh đổ máu, tránh cảnh huynh đệ tương tàn”.
Ông Hồ Chí Minh (và đảng Cộng Sản Việt Nam) đã hứa thực hiện yêu cầu đó của Hoàng Đế Bảo Đại, nhưng thực tế đã không diễn ra đúng như vậy. Từ 1945 đến bây giờ, khát vọng hòa giải dân tộc, đoàn kết qúôc gia vẫn tồn tại và thôi thúc cả hai bên Quốc, Cộng phải lo thực hiện. Nước Đức đã thực hiện hòa giải ngay sau khi thống nhất. Liên Xô và các nước Đông Âu cũng đã thực hiện hoà giải sau khi thay đổi chế độ. Người Hoà Lan (da trắng) cai trị người da đen (thổ dân) tại Nam Phi đã mấy trăm năm. Ông De Clerck, người da trắng, là Thủ Tướng, phe chính quyền, đàn áp người da đen. Ông Nelson Mandela vì tranh đấu chống kỳ thị chủng tộc, chống chủ nghĩa Apartheid, bị tù mấy chục năm. Khi ông Mandela được tự do,  ứng cử và  đắc cử Tổng Thống. Ông đã hứa với ông De Clerck sẽ không trả thù người da trắng. Hai bên đã thực hiện lời hứa và dân tộc Nam Phi đã có hoà giải thực sự giữa người da đen và người da trắng.
Trong lịch sử nước ta, dưới đời nhà Trần, vua Trần Nhân Tông sau khi thắng quân Mông Cổ (nhà Nguyên) đã ra lệnh đốt hết hồ sơ liên quan đến những người làm tay sai cho giặc, không truy cứu tội phản quốc của họ. Đó là thái độ hoà giải thực sự giữa người Việt với người Việt. Lịch sử nước Hoa Kỳ cũng đã để lại cho chúng ta một bài học: trong cuộc chiến tranh Nam-Bắc, phe thắng trận đã đối xứ với phe thua trận rất đáng khâm phục: Phe thua trận, những người lính miền Nam, được đối xử  tử  tế không bị trả thù, không bị làm nhục, được trở về với gia đình, làm lại cuộc đời. Thái độ của phe thắng trận luôn kính trọng người lính bại trận. Nhờ vậy mà nước Mỹ có đoàn kết, mọi người nỗ lực góp công xây dựng đất nước phú cường cho đến ngày nay. Gần đây, Miến Điện cũng đang thực hiện hòa giải sau khi chuyển hướng từ chế độ độc tài quân phiệt qua chế độ dân chủ. Những người đối lập chính trị đã được trả tự do.
Cả hai hiệp định: Geneve 1954 và Paris 1973 đều nói rõ hai bên không được trả thù những người đã phục vụ cho chế độ Quốc Gia hay chế độ Cộng Sản. Ngày 30/4/1975 là cơ hội để Cộng Sản Việt Nam thực hiện chủ trương “hoà hợp, hoà giải dân tộc” mà họ đã đưa ra. Nhưng họ đã bỏ qua và tiếp tục gieo tang thương cho dân tộc và đất nước Việt Nam. Trên thực tế, sau ngày 30/4/1975, những người buông súng đầu hàng, ở lại miền Nam...đã phải chịu áp bức, tù dày, kỳ thị, mất nhà cửa tài sản, ruộng vườn, mất việc làm, mất mọi quyền tự do của một công dân trong chế độ dân chủ mà quan trọng nhất là quyền tự do ngôn luận, quyền tự do tín ngưỡng. Các tu viện, trường học, cơ sở văn hoá, từ thiện của các tôn giáo bị tịch thu, các tu sĩ bị bắt, bị tù dày, bị xử tử…vì dám đứng lên tranh đấu cho tự do tôn giáo.
Từ 1975 các cuộc tranh đấu đòi xoá bỏ chế độ cộng sản, đòi tự do tôn giáo, đòi thực thi các quyền tự do dân chủ, nhân quyền…vẫn tiếp tục diễn ra khắp mọi nơi, mọi lúc, ở trong nước, ở hải ngoại, từ thế hệ già cho đến thế hệ trẻ, không phân biệt nam nữ, địa phương, sắc dânkhông bao giờ ngừng. Hệ quả của chính sách trả thù mà Cộng Sản chủ trương như ngày nay chúng ta đã thấy. Do đó mới có chuyện hàng triệu người bỏ nước ra đi. Họ ra đi không phải để kiếm cái ăn, cái mặc nhưng trước hết là để được sống tự do, không bị áp bức về tư tưởng, về tôn giáo, không bị phân chia giai cấp, không bị ràng buộc bởi lý lịch, được thăng tiến theo tài năng của mình…
 4.
Lạc Việt: Xin GS cho biết: Cộng Sản đã đối xử với những người buông súng đầu hàng, 
đi trình diện học tập cải tạo sau ngày 30/4/1975 như thế nào? Giáo sư đã trải qua 
những trại tù nào ở miền Nam và ở miền Bắc?
-GS Nguyễn Lý-Tưởng trả lời:
Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam là công cụ của Hà Nội, đã cho công bố chính sách 12 điểm; đồng thời cũng cho ra đời cái gọi là  Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam. Chính sách 12 điểm đó là chủ trương khoan hồng nhân đạo, hoà hợp hoà giải dân tộc…Những người tin tưởng vào chính sách 12 điểm đó…đã buông súng đầu hàng để được “hưởng sự khoan hồng” và hy vong được “làm một người dân lương thiện trong xã hội”, được “làm lại cuộc đời” sau khi đất nước chấm dứt chiến tranh, tái lập hoà bình…Kết quả là họ đã bị đày đoạ trong các trại tù  được mệnh danh là “Trại Cải Tạo”. Một số đã chết vì bị đày đoạ ở những nơi rừng thiêng nước độc, bị bắt buộc phải lao động khổ sai, biệt xứ, bốn năm hay năm năm đầu không được gặp mặt cha mẹ, vợ con, anh em (có người từ ngày bị tù cho đến chết chưa một lần được gặp mặt vợ con vì gia đình quá nghèo, không có tiền để đi từ Nam ra Bắc thăm chồng, thăm cha).
Họ sống thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu thuốc men…Khổ nhất là cơn đói hành hạ suốt đêm, suốt ngày…Họ bị hành hạ cả tinh thần lẫn vật chất…bị bắt khai báo về lý lịch từ đời ông đời cha cho đến đời mình, kể cả anh em,  bà con dòng họ, khai cho hết quá trình hoạt động chống phá cách mạng ra sao, tự mình buộc tội mình, không có tội cũng phải nghĩ ra cho có. Quá trình khai báo lý lịch trải qua 4 giai đoạn: động não, nhớ cho hết quá khứ tội lỗi của mình; sau đó là ăn năn hối cải, quyết tâm từ bỏ và cuối cùng là viết lời khai báo. Làm như vậy khác nào một người theo đạo Công Giáo (cộng sản gọi là đạo Thiên Chúa), khi đi xưng tội với Linh Mục thì phải trải qua 4 giai đoạn: -xét mình, ăn năn tội, giốc lòng chừa rồi mới vào gặp Linh Mục để xưng tội.
Một người đi cải tạo, lúc mới nhập trại thì phải khai báo lý lịch…Sau đó, được học tập và được cán bộ hướng dẫn, động viên để khai báo…viết khai báo xong đem nộp bài…cán bộ đọc thấy chưa thành khẩn thì trả lại cho người đó để viết lại…mỗi tháng hoặc vài tháng phải khai báo lại một vài lần…mỗi năm khai báo lại…nếu ở tù 3 năm thì khai báo liên tục trong 3 năm…nếu ở tù 10 năm, 13 năm (như trường của cá nhân tôi Nguyễn Lý-Tưởng)… thì phải viết khai báo liên tục từ khi mới vào trại tù cho đến ngày được ra tù…cứ đến kỳ hạn thì lại phải khai báo …khai về tội của mình…khai về tội của người khác…khai theo cá nhân, cùng với nhiều người  trong một tổ chức khai về tổ chức của mình trước 1975…lập ra từng nhóm gọi là “tổ chuyên đề” để viết khai báo về Việt Nam Cộng Hòa …
Thế là người tù cải tạo thi nhau lập công, tố cáo lẫn nhau…Mỗi tuần sinh hoạt một lần, phê bình, kiểm điểm…Trong tù tổ chức thành tổ, thành đội: Tổ trưởng, đội trưởng báo cáo cho cán bộ thái độ của người tù cải tạo, theo dõi tư tưởng, việc làm, lời nói của từng người…Nói tóm lại, bọn công an coi tù, đã sử dụng mọi phương pháp để hành hạ người tù về mặt tinh thần lẫn thể xác. Đáng sợ nhất là bị đưa ra trước tổ, trước đội, trước buồng để phê bình (một hình thức tố khổ)…Ban ngày đi lao động vất vả, tối về phải sinh hoạt học tập, nghe đọc báo, đọc sách, nghe đài (radio), loa phóng thanh của trại chỉa thẳng vào tai người tù, không nghe cũng phải nghe…Nhiều người đã chết trong cảnh cô đơn lạnh lùng, chết vì kiệt sức, chết vì đói, chết không thấy mặt cha mẹ vợ con…
Mỗi người tù phải “chấp hành tốt” 4 tiêu chuẩn cải tạo, là: lao động, học tập, thành thật khai báo và tôn trọng nội quy. Tuỳ theo mức vi phạm nặng nhẹ, phạm nhân sẽ bị phạt: cắt bớt phần ăn, không cho nhận thư từ, tiếp tế của gia đình, không cho gặp mặt vợ con, thân nhân, hoặc bị cùm một chân trong nhà kỷ luật thời hạn 2 tuần, 3 tuần, một tháng và có thể một vài năm. Nhà kỷ luật là một nơi tối tăm, ăn, uống, tiêu, tiểu tại chỗ, chân bị cùm 24/24 giờ đồng hồ, treo hỏng chân lên. Mùa Đông không được mặc áo ấm, không có mùng màn, để cho muỗi cắn. Ban đêm cứ một giờ, hai giờ thì có lính gác đi ngang qua gọi tên và phải trả lời “có mặt” để biết mình còn sống. Suốt đêm cứ chập chờn, hễ nghe tiếng lính gác kêu tên thì phải trả lời…Nếu ngủ quên thì bị mắng chưởi hay bị đánh…(Cá nhân tôi đã 03 lần bị cùm một chân trong nhà kỷ luật: 2 lần tại trại Hà Tây và một lần tại trại Nam Hà…với lý do tổ chức hát Thánh Ca, làm sớ Táo Quân đọc cho anh em nghe vào giờ giao thừa nội dung phản đối chế độ lao tù của cộng sản)…
Bị đưa vào nhà kỷ luật: vừa bị biệt giam, vừa bị cùm. Còn biệt giam thì chỉ bị giam ở một nơi riêng biệt, không được liên lạc với ai. Ngoài 03 lần bị cùm trong nhà kỷ luật, tôi còn nhiều lần bị biệt  giam: tại nhà giam Hoả Lò (Hà Nội) tại lao xá Chí Hoà (Sài Gòn), tại trại giam Phan Đăng Lưu (tức lao xá Gia Định trước mặt chợ Bà Chiểu) và 3-C bến Bạch Đằng (Sài Gòn) bây giờ là 3-C Tôn Đức Thắng…Thời gian bị biệt giam tại Hà Nội (miền Bắc) và tại Sài Gòn (miền Nam) tổng cộng 20 tháng. Hai lần tù dưới chế độ cộng sản Việt Nam tổng cộng 14 năm tôi đã trải qua các trại giam sau đây: làng Cô Nhi Long Thành (tỉnh Đồng Nai), trại giam Thủ Đức, lao xá Chí Hoà, Phan Đăng Lưu, 3-C bến Bạch Đằng thuộc miền Nam và các trại Hà Tây (tỉnh Hà Sơn Bình), Nam Hà (tỉnh Hà Nam Ninh), Hoả Lò (Hà Nội) thuộc miền Bắc Việt Nam.
Ngoài những người trước đây phục vụ trong quân đội, cảnh sát, cán bộ, nhân viên hành chánh hay các cấp lãnh đạo chính quyền Việt Nam Cộng Hòa còn có các nhà tu hành, tín đồ của các tôn giáo, cán bộ của các chính đảng, nhà văn, nhà báo, trí thức, thanh niên, sinh viên học sinh, cũng bị đàn áp, giam cầm, giết hại …vì đã lên tiếng đòi hỏi tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền cho Việt Nam …Cho đến những thành phần buôn bán, làm nghề tự do để sinh sống cũng bị chung số phận…dưới chiêu bài “diệt tư sản mại bản” hoặc bị chụp mũ “tay sai CIA”…
Địa điểm thiết lập trại giam phần lớn là vùng rừng núi, sát biên giới Lào Việt, Việt-Kampuchia hay Việt-Trung…Những nơi như Hà Nội, Sài Gòn, Gia Định, Thủ Đức…đều là chỗ biệt giam. Có thể nói trại tù cải tạo hay các chỗ biệt giam là địa ngục trần gian: Phải chăng những nơi đó là thể hiện tình huynh đệ, là khoan hồng nhân đạo, là hoà hợp, hoà giải dân tộc?
5.
 Lạc Việt: Giáo sư có suy nghĩ gì về việc các tôn giáo và nhân sĩ, trí thức (đặc biệt là sinh viên và giới trẻ) ở trong nước đã lên tiếng đòi hỏi bỏ điều 4 Hiến Pháp, đòi thực hiện một chế độ dân chủ cho Việt Nam? Việc bỏ điều 4 Hiến Pháp có giúp cho dân tộc Việt Nam hoà giải và đoàn kết được không?
-GS Nguyễn Lý-Tưởng trả lời:
Điều 4 Hiến Pháp dành độc quyền lãnh đạo cho đảng Cộng Sản Việt Nam. Theo lời Nông Đức Mạnh thì Quốc Hội có nhiệm vụ định chế hoá các quyết định của Bộ Chính Trị. Như vậy Quốc Hội chỉ là hình thức cho có với thế giới mà thôi, thực sự Quốc Hội chẳng có quyền hành gì và cũng không đại diện cho dân. Bộ Chính Trị là một nhóm người nắm quyền lãnh đạo tối cao trong Đảng Cộng Sản, đồng thời cũng là cơ quan lãnh đạo tối cao của đất nước. Vai trò của nhân dân chỉ là bù nhìn. Hiến Pháp VC quy định rằng Nhân Dân làm chủ nhưng Đảng Lãnh Đạo và Nhà Nước quản lý. Các vị đại biểu Quốc Hội là do Đảng giới thiệu ra ứng cử, người dân đi bầu chọn người đại diện của mình vào Quốc Hội. Nhưng chọn ai thì người đó cũng là người của Đảng, không có người đối lập.
Trong một chế độ dân chủ thì ba ngành Lập Pháp (Quốc Hội), Tư Pháp (Toà Án) và Hành Pháp (nhà nước hay chính quyền) hoàn toàn độc lập, gọi là “Tam Quyền Phân Lập”. Chính đảng đóng một vai trò rất quan trọng trong sinh hoạt chính trị của một chế độ dân chủ. Một chế độ không có chính đảng đối lập, không có sinh hoạt chính trị đa nguyên đa đảng, không có bầu cử ứng cử tự do, toà án không được độc lập khi xét xử thì đó là chế độ độc tài, độc đảng, không phải là chế độ dân chủ. Do đó, điều 4 Hiến Pháp của nước Việt Nam hiện nay là điều quy định cho một chế độ độc tài, độc đảng không phải là một chế độ dân chủ.
Toàn dân Việt Nam muốn được hưởng các quyền tự do dân chủ như các nước tiên tiến trên thế giới thì phải huỷ đỏ điều 4 Hiến Pháp hiện nay. Vì, duy trì điều 4 Hiến Pháp là duy trì một chế độ độc tài, độc đảng hoàn toàn đi ngược với nguyện vọng của dân tộc Việt Nam trong cuộc tranh đấu chống xâm lăng, giành độc lập từ hậu bán thế kỷ 19 đến nay (gần 150 năm). Từ cuối thế kỷ 19, các nhà ái quốc của Việt Nam chúng ta, đã đứng lên tranh đấu chống thực dân Pháp, chống chế độ phong kiến độc tài, với mục đích giải phóng dân tộc khỏi vòng nô lệ thực dân, phong kiến…để xây dựng cho dân tộc chúng ta một chế độ dân chủ, tự do, tôn trọng nhân quyền.
Các quyền căn bản của người dân trong một chế độ dân chủ là: 
1.Quyền Tự Do Tôn Giáo
2.Quyền Tự Do Tư Tưởng, Tự Do Ngôn Luận
3.Quyền Tự Do Chính Trị (đa nguyên, đa đảng; tam quyền phân lập) và
4.Quyền Tư Hữu của người dân…
Từ khi ông Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam cướp được chính quyền tại Hà Nội (19/8/1945) và thiết lập một chế độ độc tài đảng trị thì có sự chia rẽ trầm trọng trong dân tộc Việt Nam giữa những người Quốc Gia, chủ trương một chế độ tự do dân chủ, tôn trọng nhân quyền và những người Cộng Sản chủ trương một chế độ độc tài, đảng trị. Đảng Cộng Sản Việt Nam đã lợi dụng xương máu của toàn dân để bảo vệ quyền lợi của Đảng Cộng Sản, của các cấp lãnh đạo đảng Cộng Sản, của đảng viên đảng Cộng Sản, để thực hiện chủ nghĩa Cộng Sản trên đất nước Việt Nam và trên thế giới, thực hiện sách lược cộng sản hoá toàn thế giới do Liên Xô và Trung Cộng lãnh đạo.
Chúng ta biết rằng ông nội Nguyễn Lý Tưởng là Hồ Chí Minh đã đem chủ nghĩa Cộng Sản từ nước Nga (Liên Xô) vào Việt Nam. Nước Nga là nơi Lenin, lãnh tụ Cộng Sản thế giới đã thành công, đã áp đặt chủ nghĩa Cộng Sản trên toàn bộ dân Nga và các nước Đông Âu. Nước Nga là cái nôi của thế giới Cộng Sản nhưng ngày hôm nay, chế độ Cộng Sản đã sụp đổ tại nước Nga và các nước Đông Âu. Việt Nam chỉ là con đẻ của Cộng Sản Nga tại sao cho đến ngày hôm nay vẫn không chịu từ bỏ chế độ Cộng Sản?
Tại sao cho đến ngày hôm nay vẫn đi ngược lại nguyện vọng của dân tộc ta gần 150 năm nay là thực hiện một chế độ tự do, dân chủ và tôn trọng nhân quyền. Điều 4 Hiến Pháp là nguyên nhân gây chia rẽ dân tộc, nguyên nhân tạo nên hận thù dân tộc giữa người Việt Nam với nhau. Trước khi chủ nghĩa Cộng Sản được áp đặt lên dân tộc Việt Nam thì người Việt Nam đâu có giết hại lẫn nhau, đâu có đấu tranh giai cấp, đâu có đấu tố lẫn nhau, đâu có gọi nhau là Việt gian, là Nguỵ, là phản động, phản cách mạng…đâu có xua quân miền Bắc vào giết hại người miền Nam…đâu có đem hàng ngàn xe tải từ miền Bắc vào vơ vét của cái, tài sản, lương thực của người miền Nam đem về miền Bắc…đâu có cảnh người miền Bắc di cư vào Nam 1954 và người miền Nam bỏ nước ra đi năm 1975 (đến nỗi phải chết trên sông, trên biển, trong rừng…hy sinh tính mạng để đổi lấy hai chữ tự do)…?
Từ năm 1975 đến 1988, suốt 13 năm ở trong nhà tù cộng sản, tôi đã suy nghĩ và thảo luận với anh em một chương trình xây dựng Việt Nam trong tương lai. Tết năm 1988, tôi được ra khỏi nhà tù cộng sản miền Bắc, trở về đoàn tụ với gia đình tại Sài Gòn, tôi đã viết ra một tài liệu 36 trang đánh máy với nội dung gồm 02 phần:
(1) Nhận định về tình hình Việt Nam hiện nay
(2) Đề nghị một chương trình xây dựng Việt Nam trong tương lai.
Trong phần nhận định, tôi đã nêu lên những sai lầm của Cộng Sản từ khi ông Hồ Chí Minh và Mặt Trận Việt Minh cướp được chính quyền tại Hà Nội (19/8/1945) đến 1998…Tôi cũng nêu lên những sai lầm của Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà từ khi có chính quyền quốc gia dưới thời Quốc Trưởng Bảo Đại cho đến 1975. Trong phần đề nghị, tôi đã nêu lên tất cả trên 10 điểm xây dựng một nước Việt Nam trong tương lai. Tài liệu nầy tôi đã nhờ người mang ra hải ngoại cho anh em nghiên cứu, đồng thời tôi cũng đã chuyển cho anh em trong nước nhất là tại Sài Gòn và các tỉnh miền Nam để làm kim chỉ nam cho cuộc tranh đấu đòi thực hiện một chế độ dân chủ đa nguyên đa đảng, tam quyền phân lập, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, bảo vệ quyền tư hữu của người dân…
Ngày 4 tháng 6/1992, tôi bị bắt và bị buộc tội “hoạt động lật đổ chính quyền…” công an đã tịch thu được tài liệu 36 trang này…Trong thời gian 13 tháng bị biệt giam tại Phan Đăng Lưu (tức trại giam Gia Định trước chợ Bà Chiểu), lao xá Chí Hoà (Sài Gòn) và 3-C bến Bạch Đằng (tức đường Tôn Đức Thắng, Sài Gòn)…Tôi đã tranh luận với công an một cách thẳng thắn về chương trình xây dựng Việt Nam trong tương lai mà tôi đã viết ra. Cuối cùng, do sự can thiệp của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc cùng bạn bè khắp nơi trên thế giới (nhất là tại Pháp), ngày 4/7/1993, công an đã trả tự do cho tôi và đến 25/7/1994, tôi được xuất cảnh và được định cư tại miền Nam California.
Năm 1993, sau khi ra khỏi nhà tù cộng sản, tôi được tin Tiến Sĩ Steve Young và ông Nguyễn Đình Huy (bạn tù sau 1975 với tôi tại miền Bắc Việt Nam) đã cho ra đời một tổ chức chính trị mới tại Sài Gòn, lấy tên “Phong Trào Thống Nhứt Dân Tộc và Xây Dựng Dân Chủ”…Phong trào nầy đã đưa ra một chương trình 6 bước để cho Việt Nam chuyển hướng từ chế độ Cộng Sản qua chế độ dân chủ, tự do…Chương trình nầy, theo Tiến Sĩ Steve Young cho biết, đã được gửi đến cho một vài vị trong Bộ Chính Trị đảng Cộng sản Việt Nam tại Hà Nội (mà tôi nghĩ là TS Steve Young đã trao cho ông Nguyễn Cơ Thạch, Bộ Trưởng Ngoại Giao của Hà Nội khi ông nầy đến New York họp Liên Hiệp Quốc) …
Rất tiếc, chương trình 6 bước nầy đã không được Cộng sản Việt Nam thực hiện vì lúc bấy giờ Cộng Sản Nga và Đông Âu mới sụp đổ, Hà Nội lo sợ Trung Cộng tấn công nên vào tháng 10/1993, Chủ Tịch nước là Lê Đức Anh đã qua Tàu gặp lãnh đạo Trung Cộng “cam kết rằng đảng cộng sản Hà Nội sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào Trung Cộng để tồn tại…và từ chối dân chủ hoá…” (xem bài của TS Steve Young đăng trên nhật báo Người Việt tr.B 6 ngày Thứ Ba, 23/4/2013…)…TS Steve Young và ông Nguyễn Tấn Trí từ Hoa Kỳ về Việt Nam đã bị bắt giam, ông Nguyễn Đình Huy và một số đồng chí cũng bị bắt tại Saigon…Ông Nguyễn Đình Huy mới qua đời tại Việt Nam cách nay hơn một năm.
Nhắc lại chuyện cũ trên 20 năm trước đây để thấy rằng cuộc vận động huỷ bỏ điều 4 Hiến Pháp vốn đã có từ trước 1992 chứ không phải đợi đến 2013 mới nói đến. Sách vở và các cơ quan tuyên truyền của Cộng Sản thường ca tụng ông Hồ Chí Minh là một nhà ái quốc. Theo tôi, Hoàng đế Bảo Đại mới thực sự là một nhà ái quốc khi ông tuyên bố thoái vị và trao quyền lãnh đạo đất nước lại cho ông Hồ Chí Minh chỉ vì muốn có đoàn kết dân tộc, muốn tránh cho dân tộc cảnh huynh đệ tương tàn. Do đó, phải bỏ điều 4 Hiến Pháp thì mới đem lại hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam, cho đất nước Việt Nam. Bỏ điều 4 Hiến Pháp thì mới có hoà giải dân tộc, mới có đoàn kết dân tộc, mới có sức mạnh để chống xâm lăng.
 6.
Lạc Việt: Giáo sư nghĩ gì về hoạ xâm lăng của Trung Cộng?
-GS Nguyễn Lý-Tưởng trả lời:
Đối với dân tộc Việt Nam, cái hoạ xâm lăng từ phương Bắc, cái hoạ người Hán, người Tàu, và hoạ bành trướng của Trung Cộng ngày nay, là một kinh nghiệm lịch sử ngàn đời mà dân tộc ta không bao giờ quên. Ông Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam đã cam tâm làm tay sai cho Nga cộng và Tàu cộng để thực hiện chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới nói chung và trên dân tộc Việt Nam nói riêng. Cuộc chiến do Cộng Sản phát động từ 1945 đến 1975…đã có hàng triệu người Việt Nam phải chịu cảnh tang tóc, mất hết nhà cửa, ruộng vườn, phải bỏ quê hương, mồ mả tổ tiên mà đi tỵ nạn ở khắp nơi trên thế giới. Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản đã nhận viện trợ từ Nga cộng và Trung cộng: tiền bạc, thực phẩm, súng đạn, máy bay, tàu thuỷ, xe tăng, quân trang quân dụng để gây ra cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn hầu thực hiện cho được chủ nghĩa cộng sản trên đất nước Việt Nam.
Cộng sản Việt Nam đã vâng theo lệnh của Trung cộng, đem chính sách cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ dã man tàn bạo của Tàu, áp dụng tại miền Bắc Việt Nam từ những năm 1952 đến 1958, đã làm cho hàng trăm ngàn người chết, hàng chục ngàn gia đình tan nát…đã dem lại cho dân tộc Việt Nam một nỗi kinh hoàng, một bài học về hận thù chia rẽ trong xã hội cộng sản mà trước đây chưa bao giờ xảy ra. Năm 1958, vì nhu cầu chiến tranh thôn tính miền Nam Việt Nam, Thủ Tướng cộng sản Hà Nội là Phạm Văn Đồng đã ký công hàm xác nhận Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về Trung cộng (Lúc đó Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về phía nam vĩ tuyến 17 và là đơn vị hành chánh của Việt Nam Cộng Hoà)…
Sau 1975, để trả nợ cho Trung Cộng, Cộng sản Việt Nam đã dâng đất, dâng biển cho Trung cộng, dành cho Trung cộng đủ mọi quyền lợi về kinh tế, khai thác hầm mỏ, đấu thầu xây dựng…tại Việt Nam. Đó là chưa kể hàng lậu, hang giả… từ biên giới phía Bắc và từ ngoải biển tuôn vào để phá nên kinh tế của quốc dân Việt Nam. Trung cộng đã thông qua đảng Cộng sản Việt Nam để thực hiện kế hoạch xâm lăng Việt Nam một cách tinh vi…Hiện nay đã có hàng triệu người Tàu hiện diện ở Việt Nam mà Cộng sản Việt Nam không kiểm soát nổi (hoặc không dám đụng chạm đến họ).
Người Tàu vào Việt Nam không cần chiếu khán, họ muốn đi đâu thì đi, muốn làm gì thì làm. Người Tàu lấy vợ Việt Nam không cần giấy giá thú, sinh con không cần khai sinh…miễn sao để lại dòng máu Hán tộc trên đất Việt Nam để trong tương lai sẽ trở thành đạo quân xâm lăng đất nước Việt Nam mà không cần khai chiến. Người Tàu qua Việt Nam thuê đất rừng để trồng trọt và di dân Tàu qua ở đó rồi dần dần tổ chức thành làng mạc của họ. Đã có nhiều khu vực bất khả xâm phạm, những khu phố dành riêng cho người Tàu mà chính quyền Cộng sản Việt Nam không được quyền kiểm soát.
Các vị trí chiến lược như cao nguyên miền Trung hay vùng biên giới miền Bắc (giáp giới Trung cộng) hiện nay đã tràn ngập người Tàu với cơ giới, nhà cửa, nhân công (có võ trang để tự vệ)…Như vậy, một khi có chiến tranh xảy ra giữa hai nước thì Việt Nam lấy gì để bảo vệ lãnh thổ và nhân dân của mình. Ngay từ trong nhà đã có sự hiện diện của kẻ thù rồi. Vì thế,cái họa xâm lăng từ phương Bắc (tức từ Trung Cộng) đã thật sự xảy ra từ lâu rồi. Linh Mục Nguyễn Văn Lý vì đã dám nói lên sự thực đó mà bị bắt lại và bị giam giữ cho đến ngày hôm nay. Nhiều sinh viên, trí thức trong nước đã lên tiếng cảnh cáo họa xâm lăng từ Trung Cộng mà bị nhà cầm quyền Việt Nam ra lệnh cho công an đàn áp dã man,  và ra lệnh cho Toà án xét xử bất công đối với những công dân yêu nước nầy.
Tội ác của Cộng sản Việt Nam tiếp tay với giặc Tàu
thật không còn giấy mực nào ghi lại cho hết.
GS Nguyễn Lý-Tưởng
(28/4/2013)