Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label VCNVTranTrungDạo BOSTON. Show all posts
Showing posts with label VCNVTranTrungDạo BOSTON. Show all posts

Wednesday, 26 July 2017

CON CHÓ THAY LÔNG VC NẰM VÙNG TRẦN TRUNG ĐM CHƠI TRÒ 2 MẶT CHỬI CỘNG CẦM CHỪNG VÔ TỘI VẠ ĐỂ RỒI LÂU LÂU NÓ LẠI CHỬI NGƯỜI VIỆT TỴ NẠN TÀN NHẪN VÀ THÔ BẠO GẤP NGÀN LẦN NÓ BÔI DẦU CÙ LÀ CHO VC./-TCL

Khi đạo đức thối rữa

Trần Trung Đạo


“…Nhìn bức hình các bà cụ đứng trong cơn mưa tầm tã để nhận một “bằng khen” trong khi chiếc dù duy nhất được dùng để che cho Nguyễn Xuân Phúc để thấy sự băng hoại, thối rữa về đạo đức trong xã hội Việt Nam…”
Hơn mười năm trước trên talawas tôi viết về cụ bà Nguyễn Thị Thứ, khi bà cụ còn sống:
“Cách quê tôi không xa, có một bà mẹ, cụ Nguyễn Thị Thứ, được phong danh hiệu “Bà Mẹ anh hùng” vì có đến 9 người con trai là liệt sĩ. Ngôn ngữ Việt Nam dù phong phú bao nhiêu cũng chẳng thể nào tả được nỗi đau trong lòng cụ khi nửa đêm thức dậy nhìn lên bàn thờ dựng 9 tấm ảnh của những đứa con trai mà cụ đã từng mang nặng đẻ đau. Tại ai? Tây? Mỹ? Quân đội miền Nam? Đảng Cộng sản? Hay tại những đứa con (chắc chắn trong đó có một số người bất hiếu) của cụ? Nhưng dù tại ai thì họ cũng đã ra đi và chỉ có nỗi đau là ở lại. Mỗi khi đọc tin về cụ tôi lại nghĩ đến nỗi đau, không phải chỉ vì cụ có 9 người con chết, mà đau hơn khi mỗi ngày, mỗi tháng trong phần đời còn lại, như một “bà mẹ anh hùng” cụ phải hãnh diện, phải tiếp tục cười tươi trên sự bất hạnh và bạc phước của chính mình.”
Bà Nguyễn Thị Thứ là một bà mẹ đáng thương, bạc phước nhưng không đại diện cho hình ảnh bà mẹ Việt Nam anh hùng dân tộc. Bà chỉ là một trong nhiều sản phẩm tuyên truyền của CS.

Saturday, 1 July 2017

CHỈ CÒN CÓ CÁCH ĐỊT MẸ THẰNG VC KHỐN NẠN TRẦN TRUNG Đ.M ĐỂ ĐỨNG DẬY ./-TCL

Đạo ơi vịn điếu cày đứng dậy ngó bộ thực tế hơn

2017-06-30 5:36 GMT-07:00 Hào Kiệt Bác Hai bachaihaokiet@gmail.com [ChinhNghiaViet] <ChinhNghiaViet@yahoogroups.com>:
 
Vịn cái đầu má của thằng vịt tanh quãng nôm Trần trung tiện mà đứng dậy!
Đổi cả thiên thu lấy Điếu cày!
Ánh sáng điếu cày cái mả cha thằng vịt tanh quãng nôm Trần trung tiện!


2017-06-30 15:44 GMT+10:00 'Patrick Willay' pwillay@orange.fr [ChinhNghiaViet] <ChinhNghiaViet@yahoogroups. com>:
 

Vịn lịch sử mà đứng dậy.
Lịch sử là vũ khí, là hành trang căn bản trong hành trình tranh đấu cho tự do dân chủ, cũng như để xây dựng đất nước sau này. Lịch sử là niềm tin. Niềm tin đó không thể mua bán. Niềm tin đó không thể đổi chác. Niềm tin đó không thể bị bỏ tù.

 
 

Vịn gì để đứng dậy?

Trần Trung Đạo

- Những lúc khó khăn như thế này, tôi lại nghĩ đến hai câu thơ của Phùng Quán:

Có những phút ngã lòng
Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy

Nhà thơ Phùng Quán đã kết luận như thế khi nhìn lại quãng đời 30 năm ông đã sống trong bóng tối của bạc đãi, đe dọa, sống trong cảnh lưu đày ngay giữa lòng Hà Nội, nơi đó, từ thuở thiếu thời, ông đã từng đổ máu để giữ gìn.

Những phút ngã lòng là lúc nhà thơ phải chọn một trong hai thái độ làm người: chịu đựng sự nguyền rủa, sự rẻ khinh, sự hoài nghi, xa lánh của bạn bè, sự lãng quên của bà con thân thuộc, chịu làm kẻ mất quê hương ngay trên chính quê hương mình, hay cúi đầu khuất phục như Chế Lan Viên, Xuân Diệu... tô son điểm phấn cho một chế độ đã phản bội xương máu đồng bào, phản bội ước mơ của dân tộc.

Nhà thơ Phùng Quán đã vịn câu thơ mà đứng dậy.

Nhưng nhà thơ Phùng Quán là một nhà thơ, trong lúc 90 triệu người Việt còn lại không phải là nhà thơ thì vịn gì để đứng dậy.

Vịn lịch sử mà đứng dậy.

Lịch sử là vũ khí, là hành trang căn bản trong hành trình tranh đấu cho tự do dân chủ, cũng như để xây dựng đất nước sau này. Lịch sử là niềm tin. Niềm tin đó không thể mua bán. Niềm tin đó không thể đổi chác. Niềm tin đó không thể bị bỏ tù.

Tại sao Phạm Hồng Thái phải nhảy xuống sông Châu Giang tự tử?
Tại sao các tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng... phải tự sát?
Các vị đó sợ hãi?
Không.
Các vị đó chỉ biết căm thù?
Không.
Các vị đó can đảm hơn người?
Không.

Các vị đó tuẫn tiết bởi vì các vị đó đã có một niềm tin quá lớn vào sự trường tồn của dân tộc, niềm tin đó lớn hơn cả mạng sống của chính họ.

Mỗi thế hệ có một nhiệm vụ phải hoàn thành. Nhưng dù không hoàn thành vẫn phải nhường lại con đường cho các thế hệ trẻ tiến lên. Các thế hệ trẻ hôm nay dù muốn hay không muốn cũng phải nhận lãnh trách nhiệm của mình trước lịch sử. Đất nước Việt Nam là của tuổi trẻ. Tương lai Việt Nam có được vinh quang hay phải tiếp tục chịu đựng độc tài, lầm than tủi nhục cũng là từ hành động của tuổi trẻ. Đứng trước giai đoạn đầy bóng tối của đất nước hiện nay, nhiệm vụ của tuổi trẻ đã trở thành một thử thách lớn lao. Để đi hết con đường quá khó khăn trước mắt mỗi người phải tự thắp sáng niềm tin dân tộc trong lòng mình.

Không có một chế độ độc tài nào tồn tại lâu dài. Đó không phải là những lời an ủi mà là sự thật.

Ngày 17 tháng 12, 1989, Nicolae Ceaușescu ra lệnh đàn áp không thương xót vào cuộc biểu tình của dân chúng Romania tại thành phố Timișoara, kết quả hàng ngàn người bị giết, hàng vạn người bị tù. Nhưng chỉ tám ngày sau, chính hai vợ chồng Nicolae Ceaușescu đã đền tội trước lịch sử Romania.

Chế độ CS tại Việt Nam rồi cũng thế. Một chế độ tồn tại bằng nhà tù, sân bắn sẽ phải sụp đổ. Những hành động thô bạo, dã man đối với Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, một bà mẹ trẻ, một phụ nữ chỉ có cây bút trong tay, là một cách thú nhận sự run sợ của đảng trước lòng dân đang lớn mạnh.

Chắc chắn một ngày, những người con yêu của mẹ Việt Nam sẽ gặp lại nhau tại một điểm hẹn huy hoàng của lịch sử. Đó là ngày phục hưng của dân tộc Việt Nam. Người Việt yêu nước, đang ở đâu và đang làm gì, hãy nỗ lực cho ngày đẹp trời đó. Những buồn đau chia cắt sẽ qua đi và một nước Việt Nam mới, tự do, dân chủ, nhân bản, khai phóng sẽ ra đời.

Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận trong giờ phút cùng cực của khổ đau hoạn nạn tại Cây Vông, Phú Khánh ngày 8-12-1975 đã viết những dòng thơ bi tráng và hùng hồn như trang sử:

Con có một Tổ Quốc: Việt Nam
Quê hương yêu quý ngàn đời
Con hãnh diện
Con vui sướng
Con yêu non sông gấm vóc
Con yêu lịch sử vẻ vang
Con yêu đồng bào cần mẫn
Con yêu chiến sĩ hào hùng
Sông cuồn cuộn máu chảy cuộn hơn
Núi cao cao, xương chất cao hơn
Đất tuy hẹp nhưng chí lớn
Nước tuy nhỏ nhưng danh vang
Con phục vụ hết tâm hồn
Con trung thành hết nhiệt huyết
Con bảo vệ bằng xương máu
Con xây dựng bằng tim óc
Vui niềm vui đồng bào
Buồn nỗi buồn của dân tộc
Một nước Việt Nam
Một dân tộc Việt Nam
Một tâm hồn Việt Nam
Một văn hóa Việt Nam
Một truyền thống Việt Nam.
(Thơ Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận)

Một ngày không xa, các em học sinh Việt Nam sẽ có cơ hội đọc lớn bài thơ của ngài trong giờ Việt Văn ở trường học các em, và bên ngoài cửa lớp, những cánh chim họa mi đang cất cao tiếng hót, báo hiệu mùa xuân đang về trên quê hương không còn hận thù, rẻ chia, ngăn cách.

30.06.2017

 
Trần Trung Đạo

Friday, 21 April 2017

BÀI THƠ NẦY CHỈ CỐ Ý LĂNG NHỤC NGƯỜI LÍNH VNCH

Xót Thương Hay Lăng Nhục


Nhân Cách Hóa Khác Với "Súc Vật Hóa"



Vào một buổi tôi lên máy vào liên mạng kiểm  soát các emails trong ngày và thấy một email có đầu đề làm tôi chú ý:" Người Lính Gìa Vừa Chết Đêm Qua", tác giả Trần Trung Đạo. Khi đọc lướt qua mấy câu mang tính chất xúc phạm người lính, cộng đồng và cả xã hội trong bài thơ của Trần Trung Đạo.......flash back.....

Hai mươi mốt năm về trước, lần đầu tiên đi họp cộng đồng Hoa Kỳ tại San Jose năm 1996, sau một buổi sáng làm việc, nghỉ đi ăn trưa, về lại khách sạn họp tiếp, thấy một cậu Việt Nam vóc người thấp bé, đang đứng so vai rút cổ với một túi hành lý trước cửa khách sạn, bèn hỏi tại sao lại đứng đây không vào họp cộng đồng, cậu ta nói đợi bạn đến chở ra phi trường để về Boston. Sau vài lời thăm hỏi, được biết cậu ta tên Trần Trung Đạo sang đây ra mắt tập thơ từ hôm qua chứ không phải đi họp. Hỏi :”Tập thơ tên gì vậy cậu em?” Dạ! “Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười”. Nghe qua câu thơ sáo rỗng bèn cắc cớ hỏi lại: “Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười” nghĩa là thế nào vậy cậu em?...Đạo hơi biến sắc…. đó là lần gặp Trần Trung Đạo cách đây hơn 21 năm (không tin cứ hỏi TTĐ). Sau đó thì nhiều lần lên Boston chơi với anh em cầm bút mới thấy dòng văn thơ xứ Quảng sản xuất ra nhiều nhà thơ cùng những thi phẩm toàn những cái tên rất vang dội.. “ qua mấy trời sương mưa”, “đứng dưới trời đổ nát”, “bơi trên dòng nước ngược” v..v.. nhận thơ các tác giả tặng vì đíu ai mua, giở ra thấy chữ nghĩa hơi nhiều lỗi chính tả là đã muốn vứt mẹ vào sọt rác nhưng làm vậy thì bỉ mặt nhau quá nên đành đem về kê tủ…vì chẳng thưởng ngoạn nổi loại văn chương của họ. ....

Trong mỗi người Việt Nam hầu như đều có một nhà thơ nhưng thú thật từ khi nghe cái tên tập thơ rỗng, tôi ngán nên chưa bao giờ đọc hết bài thơ nào của Trần Trung Đạo. Có lẽ thơ của TTĐ chỉ dành cho Hội Ái Hữu Đồng Hương Quảng Nam Đà Nẵng áo thụng vái nhau mà thôi. Dân làm thơ thứ thiệt coi thơ đó thuộc loại thơ đồn điền. Vì thế tôi không rỗi hơi để bình loại thơ rỗng, tâm như ngựa hí nhưng vì đã chê cách SÚC VẬT HÓA CON NGƯỜI, bực mình cho sự ngu xuẩn của hắn trong bài thơ này nên viết một câu gần như chửi thề và báo động cho diễn đàn biết vì  thế sau mấy ngày ồn ào, phải đọc qua toàn bài và lại thêm buồn cười cho thơ với thẩn. Đầu đề nói lên chủ đích của bài thơ “Người Lính Gìa Vừa Chết Đêm Qua” nhưng sau khi dán nhãn con thú hoang lạc loài lên xác người lính già Việt Nam; nhà thơ đi dạo thẩn thơ, lang thang qua việc giới thiệu nhiểu kiểu chết khác nhau mãi rồi mới sực nhớ bỏ quên cái xác nằm như con thú hoang lạc loài ở đó khá lâu nên quay lại nhận anh em và hứa hươu, hứa cuội rồi kết thúc.
Thơ với thẩn, tu từ văn thể, thủ pháp văn chương chưa sạch nước cản nếu không phải là muốn hạ nhục con người được gọi là người lính gìa Việt Nam. Qua bài thơ này chắc hẳn độc giả thấy rợn người (nếu chất liệu của bài thơ là chuyện có thật) với sự bất nhân (vô cảm) của xã hội Mỹ cùng những người Việt Nam ở San Jose đối với một người di dân già nua homeless là đồng bào, chiến hữu bất hạnh của mình đau ốm nằm chết ngoài lề freeway trong một đêm mưa không ai đoái hoài..Ngoài nhà thơ xứ Quảng, Trân Trung Đạo thương cảm hạ bút xác nhận đó là  Người Lính Gìa Việt Nam  Như Con Thú Hoang Lạc Loài.

Trong cuộc sống, ngôn ngữ, tiếng nói là phương tiện giao tiếp chung trong xã hội nhân quần. Thường người ta không cần phải có học lực hay bằng cấp cao, chẳng cần nghiên cứu tham khảo cũng có thể nói chuyện với mọi người về mọi vần đề trong cuộc sống thường nhật. Nhưng vốn ngôn ngữ do quen dùng trong giao tiếp xã hội nhiều lúc không thể dùng vào những lĩnh vực chuyên môn cao hơn nếu không tìm hiểu nghiên cứu học hỏi cặn kẽ sẽ  dẫn tới trường hợp “xấu hay làm tốt dốt hay nói chữ “. Vì  thế trong đối thoại chúng ta thấy những kẻ nói nghe có vẻ là người hiểu biết nhưng thật ra những gì họ nói hoặc viết ra đều vô nghĩa và rỗng tuếch vì bản thân người nói hay viết đó chưa hiểu  ý nghĩa căn bản của từng chữ mà mình đang sử dụng (Trần Trung Đạo, Đinh Nguyệt, Hương Tấn Thinh, Trương Kiên). Đây là những trường hợp bắt chước, thấy người ta nói mình cũng nói nhái theo như một con vẹt, hoặc cảm thấy có sự tương đồng giữa hai sự việc nhưng do không có căn bản kiến thức nên phóng bút bậy bạ, hoặc không nhận ra được sự khác biệt giữa hai sự việc, hai thủ pháp văn chương nên đưa ra vặn vẹo một cách ngu đần.
Việc dùng các vật kiện, muông thú, cậy cỏ, sông núi làm hình tượng diễn tả một tính chất đặc thù đầy rẫy trong văn chương, nghệ thuật, báo chí mọi ngành. Trong quân đội việc đặt cho các đơn vị  những cái tên Quái Điểu, Kình Ngư  thành biểu tượng do những con thú đó có những phẩm chất đặc biệt như dũng cảm, khôn ngoan, hùng mạnh, lì lợm đã trở thành tập quán đó là thủ pháp NHÂN CÁCH HÓA và ĐIỂN HÌNH HÓA trong văn chương. Ngoài ra văn, thi giới cũng thường ví con người thành rồng thành hạc, thành núi cao, sông rộng để biểu thị tính cách thâm uyên,  thanh cao, thiêng liêng cho mục đích khoa trương.
Trong lĩnh vực văn học, hiện tượng các tác giả hư cấu cho đồ vật, cây cỏ, muông thú biết nói tíếng người, có tính người, có đời sống của con người trong những chuyện cổ tích  (Lục Súc Tranh Công), ngụ ngôn  (như ngụ ngôn của La Fontaine) là chuyện rất bình thường  nhưng thủ pháp đó gọi là NHÂN CÁCH HÓA khác với trò SÚC VẬT HÓA CON NGƯỜI của Trần Trung Đạo.  Như vậy nhân cách hóa là nâng "vật kiện" lên làm người,  ghép cho chúng có tính người, tình người, nói ngôn ngữ của loài người. Ngược lại việc ví con người với loài thú hoang trong trường hợp và văn cảnh của bài thơ đó là cố tình lăng nhục, súc vật hóa người  lính Việt Nam (Cộng Hòa).
Người có kiến thức văn học, biết làm thơ, viết văn hầu hết đều biết cách sử dụng những biện pháp tu từ, thủ pháp văn chương như chúng tôi đã viết trên đây. Và khi đã cầm bút trở thành tác giả một bài thơ, hay là người dựng một câu chuyện, tạo ra nhân vật, hình tượng,  nội dung, tình tiết diễn biến câu chuyện, hay bài thơ nên tphải biết sử dụng thủ pháp văn chương đúng chiêu thức và dùng chữ nghĩa sao cho  đắc địa.
Tôi tin chắc  không bao giờ một tác giả quốc gia tỵ nạn dám xử dụng hai câu thơ (Người lính già Việt Nam. Như thú hoang lạc loài) vì người  lính già Việt Nam là một người đã đóng góp tuổi thanh xuân của ông vào cuộc chiến vệ quốc dù ông ta hiện nay  bị xã hội đương thời lãng quên hay ruồng bỏ thì người lính vẫn là một con người phải được trân trọng, trừ phi biết rõ người lính đấy bị tù tội vì những tội lỗi đáng ghê tởm như hiếp dâm, giết người cướp của, lừa bịp bày trò giúp đỡ thương phế binh (cô nhi quả phụ) để ăn chặn tiền quyên góp.
Người lính già là người làm nhiệm vụ và đã tận hiến cho thể chế VNCH. Họ không phải là đám thanh niên, sinh viên trong thời  kỳ chiến tranh Việt Nam chịu ảnh hưởng, bắt chước lối sống của các nhân vật trong những tác phẩm thuộc các trường phái hiện sinh của Albert Camus, Jean Paul Sartre cho sự tồn tại của mình là phi lý, xem địa ngục là tha nhân , thế giới là vũng lầy, sùng bái  tự do cá nhân, tự do luyến ái, nổi loạn bước qua ranh giới của đạo lý, tôn giáo, chối bỏ trường lớp, giảng đường, tham gia biểu tình bãi khóa, xuống đường phản chiến sống như phong trào "hippy" thời đoạn 1960 tự nhận bản thân là loài thú hoang.
Trong những điện thư  phê phán Trần Trung Đạo có nhiều lời lẽ nặng nể, nhắc lại bài (chính luận!?!)  “Ánh Sáng Điếu Cày” và nêu ra nghi vấn tại sao Trần Trung Đạo ca tụng thằng bộ đội phát vãng Hải Cụt bị tù vì bất mãn do bị thua thiệt khi tranh chấp cái mái tôn nhà hắn “như vầng hào quang soi sáng con đường tranh đấu của Trần Trung Đạo” mà lăng nhục cái chết của một người lính VNCH như con thú hoang lạc loài đơn độc, kiệt sức, do đói rét, bệnh tật giữa một xã hội và cộng đồng bất nhân.

Sự việc này dù mấy nhà thơ văn xứ nẫu nặng óc bè phái, địa phương đến cỡ nào cũng chỉ có cách chửi bừa chứ không thể nào bào chữa từ lời văn đến ý tưởng của hai câu : “Người lính già Việt Nam. Như con thú hoang lạc loài”, trừ trường hợp các anh là những kẻ đứng ở bên kia lằn ranh nên hí hửng, khoái trá với việc sỉ nhục những tên lính già bất hạnh.

Trong khi thực tế cho thấy, những người lính già Việt Nam Cộng Hòa đang sống trên nước Mỹ hầu hết đều có tiền "retired" hoặc an  sinh khi đến tuổi và được xã hội Mỹ chăm sóc đầy đủ. Thậm chí có những tên chuyên nghiệp ăn welfare, foodstamp sống bám xã hội như bọn vẫn thường tụ tập nói láo ở quán cà phê Factory tại Nam Cali, đến khi chết chính phủ vẫn chôn cất tử tế nếu đồng bọn chúng bỏ rơi. Vì vậy nguồn gốc, xuất xứ của bài thơ này cũng cần phải xem lại. Cái chết của người lính già này nếu có thật cũng là chuyện rất khó xảy ra, dựa vào chỉ một trường hợp độc đáo này để đưa cảnh ngộ bi thảm trở thành một bài thơ phê phán xã hội liệu có đáp ứng nhu cầu chân thiện mỹ nào không; khi kiểu chết đường, chết chợ (lộ thượng mai thi) nơi xứ người là nỗi bất hạnh chứ không phải là cái chết bi hùng.

Douglas Mac Athur có câu nói về thân phận người lính già rất nhân bàn và trí tuệ:  “Old soldiers never die they just fade away.” Đã là người có ai tránh khỏi cái chết, người lính già tất phải chết, nhưng vì cái chết mang vẻ đẹp bi tráng của người lính là chết ở chiến trường chứ không phải chết vì già lão hay chết trên giường bệnh.
Thống tướng Mac Arthur đã trí tuệ sâu sắc và sự kính trọng dành cho người lính già những ngôn từ đẹp nhất để bướcvào cõi vĩnh hằng – they just fade away – những người lính già không bao giờ chết, họ chỉ phai dần theo thời gian.
Văn chương hư cấu ( fiction) thường không nói lên sự thật mà đôi lúc còn dựng lên những câu chuyện bịa đặt rất bất nhân, đâm sau lưng chiến sĩ để thỏa mãn lòng tự ái của kẻ ngoại cuộc, kinh niên hèn nhát.

Tuy nhiên  kẻ chủ trương bôi  bác sự ra đi của những người lính già chưa đáng trách bằng những tên lính già vô lại tự nhận cái chết của mình như cái chết của con thú hoang lạc loài.

Kim Âu
April 19/2017

Monday, 17 April 2017

BẰNG CHỨNG TRẦN TRUNG ĐẠO CÓ NGƯỜI GỌI LÀ TRẦN ÂM ĐẠO./-



ĐIẾU CÀY ANH HÙNG DÂN TỘC! 
Ánh sáng Điếu Cày
Trần Trung Đạo (Danlambao) - Khi trục xuất anh Điếu Cày ra khỏi Việt Nam, lãnh đạo CS nghĩ họ trục xuất anh sang Mỹ. Với lãnh đạo CS đó là một chọn lựa khôn ngoan. Bởi vì, theo họ, tên anh gắn liền với các phong trào chống chủ nghĩa Đại Hán Bá Quyền Trung Cộng; phong trào do anh lãnh đạo chẳng những không bị dập tắt dần theo năm tháng tù đày của riêng anh nhưng đã mỗi ngày một phát triển rộng; để anh ở lại là một mối lo canh cánh bên lòng.
Thật ra, đảng nghĩ vậy là lầm.

Từ lâu Việt Nam đã hình thành hai khối, Việt Nam CS và Việt Nam Tự Do. Đảng không đẩy anh qua Mỹ mà đã đẩy anh về phía Việt Nam Tự Do đang có mặt ở khắp bốn phương trời kể cả tại Việt Nam. Thả một con chim như Điếu Cày bay vào bầu trời tự do, con chim đó sẽ không biền biệt cuối chân mây nhưng một ngày sẽ bay về ngậm theo những hạt lúa mới. Hạt lúa dân chủ, khai phóng, nhân bản và tình người.
Khác với nhiều người tranh đấu trước anh, có thể ra đi vì chính kiến, ra đi vì quan điểm, ra đi vì gia đình, Điếu Cày ra đi vì trái tim khát vọng nồng cháy. Chính kiến có thể thay đổi, quan điểm có thể thỏa hiệp nhưng khát vọng độc lập, tự do dân tộc phát xuất từ trái tim của một con người chỉ có chết mới thôi.
Khát vọng độc lập, tự do dân tộc như đã chứng minh trong suốt dòng lịch sử Việt Nam, là ngọn lửa không bao giờ tắt. Hơn một ngàn năm trong bóng đêm nô lệ nhà Hán, nhà Ngô, nhà Đường với bao nhiêu cực hình đày đọa, sáng xuống bể tìm ngọc châu, chiều lên non săn ngà voi, trầm hương, châu báu, nhưng dân tộc Việt vẫn bảo vệ được tính độc lập, vẫn giữ được bản sắc văn hóa Việt trong sáng và thuần nhất. Đất nước chúng ta đã hơn một lần bị mất đi và giành lại được, Thăng Long đã từng bị đốt cháy nhưng chúng ta hãnh diện nói lớn rằng dân tộc Việt Nam chưa bao giờ bị mất gốc.
Hiếm có trên một đất nước nào, ở đó, tên của một con sông, một ngọn núi, một thôn làng, cũng có thể làm cho người dân khi nhắc đến phải rơi nước mắt. Những Phong Hóa, Nam Quan, Mê Linh, Bạch Đằng, Vạn Kiếp, Thiên Trường, Diên Hồng, Chi Lăng, Lam Sơn, Đống Đa, v.v... không phải chỉ là những địa danh, mà hơn thế nữa, còn là là nơi giữ gìn anh linh hùng khí của dân tộc Việt Nam.


Hình ảnh những chiếc búa, những chiếc rìu, những mũi thương, mũi đao, mũi tên bằng đồng đào được ở vùng Trung Châu, Bắc Việt, ở Sông Bạch Đằng, dọc Ải Nam Quan không chỉ là những cổ vật mà còn là chứng tích của bao nhiêu trận mạc, bao nhiêu cuộc chiến đấu, bao nhiêu máu xương và nước mắt của tổ tiên đổ xuống trước tham vọng của các triều đại Bắc phương xâm lấn.
Trong lúc sự kính trọng dành cho hàng trăm nhà dân chủ đang bị tù dày bao giờ cũng sâu đậm, tình cảm của đồng bào trong và ngoài nước dành cho anh Điếu Cày, đặc biệt trong thời gian anh tuyệt thực đã vượt lên trên. Tình cảm đồng bào dành cho anh giống như tình cảm của anh dành cho đất nước: thiêng liêng, thân thương và trong sáng.
Anh Điếu Cày không phải là nhà thơ, nhà văn, nhà chính trị, nhà cách mạng, nhà lý thuyết, nhà hùng biện, nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp. Không phải là nhà nào cả. Anh chỉ là Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, cái tên một lần nghe rất lạ nay đã trở thành quen thuộc và gần gũi, đặc biệt trong lòng tuổi trẻ Việt Nam.
Anh Điếu Cày không phải là Nelson Madela của Nam Phi, Aung San Suu Ky của Miến Điện, Vaclav Havel của Tiệp. Anh là một người Việt Nam bình thường, đơn giản như hạt gạo, củ sắn, củ khoai, con mắm, ngọn rau nhưng cũng vô cùng cao quý bởi vì anh nói lên khát vọng độc lập tự chủ của dân tộc Việt Nam trong thời đại ngày nay.
Nỗi đau trong lòng anh là nỗi đau của một dân tộc định cư hơn bốn ngàn năm trên bán đảo Đông Dương trải dài 3260 cây số nhưng nay chỉ còn bờ mà không còn biển. Phải dành lại biển Đông, phải giành lại những hòn đảo mang tên Việt Nam, phải giành lại những tài nguyên trong lòng biển mà cha ông đã đổ máu để giữ gìn. Anh bước đi trên con đường quê hương gai góc, con đường nhiều người khác không dám đi: con đường chống Trung Cộng xâm lăng.
Mẫu số chung hôm nay là dân tộc và dân chủ. Mẫu số chung thiêng liêng đó vượt lên trên mọi hiệp định, mọi vĩ tuyến, mọi chia cách, mọi tôn giáo, thế hệ, trong hay ngoài nước. Mẫu số chung thiêng liêng đó không chỉ giá trị đối với những người đã từng hy sinh, từng đổ máu để bảo vệ miền Nam mà còn cho cả nhiều triệu đồng bào đã bị khủng bố từng ngày, từng đêm trên đất nước.
Không giống như 70 ngàn người Nga lưu vong ở Paris sau cách mạng CS năm 1917 hay hàng trăm ngàn người Việt lưu vong ngay sau CS chiếm VNCH năm 1975, người Việt Nam tự do hôm nay không còn mang tâm trạng lưu vong nữa. Thời đại hôm nay là thời đại của những người chết đang bắt đầu sống lại và người đi đang lần lượt quay về. Anh Điếu Cày cũng vậy, trong lòng anh không có khái niệm lưu vong, anh ra đi là để quay về. Và chúng ta sẽ về.
Cuộc cách mạng tin học, cách mạng kinh tế toàn cầu, sự sụp đổ của hệ thống CS Liên Xô và chư hầu Đông Âu đã xóa bỏ nhiều cách ngăn, biên giới, thu ngắn thời gian và thu hẹp không gian. Anh Điếu Cày rời nhà tù, anh ra phi trường, anh lên máy bay, anh xuống máy bay, đối với người Việt quan tâm đến đất nước và anh, tất cả điều đó như đã diễn ra trong cùng một không gian và cùng một múi giờ dù ở chúng ta ở đâu trên mặt đất này. Bởi vì, không gian là trái tim Việt Nam và thời gian được tính bằng nhịp đập của trái tim Việt Nam.
Ngày cáo chung của chế độ CS toàn trị tại Việt Nam chỉ là vấn đề thời gian. Ngay cả những lãnh đạo cao cấp nhất của đảng CS cũng biết điều đó. Những cường hào ác bá cai trị đất nước ngày nay không phải là những người làm nên lịch sử mà chỉ là những kẻ làm công việc giải thích, ăn cắp, bóp méo lịch sử cho phù hợp với tham vọng xích hóa Việt Nam của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản trước đây, và tiếp tục sống huy hoàng trên nỗi thống khổ triền miên của dân tộc Việt Nam. Họ phải bị lật đổ.
Trước ngày 25 tháng 12 năm 1991, đảng CS Liên Xô cai trị một vùng đất có diện tích 22 triệu 400 ngàn kilomet vuông, rộng hơn cả thời huy hoàng nhất của Đế Quốc Nga và một đạo quân 5.3 triệu lính, nhưng không cứu vớt được Liên Xô.
Sự sụp đổ của Liên Xô phát xuất từ nhiều lý do nhưng sâu xa nhất vẫn là từ khát vọng độc lập tự do của các dân tộc Estonia, theo chân là Lithuania, Latvia và lan dần sang các dân tộc khác như Azerbaijan, Armenia, Tajikistan và Uzbekistan. Những dân tộc bị trị chiếm hai phần ba dân số của Liên Xô và đã đấu tranh không ngừng nghỉ ngay từ ngày đầu bị cưỡng chiếm.
Câu chuyện bi hùng về phong trào du kích Anh Em Rừng (Forest Brothers) của các dân tộc vùng Baltics chống lại CS Liên Xô từ sau thế chiến thứ hai là một bằng chứng hùng hồn. August Sabbe, người Estonia, kháng chiến quân cuối cùng của Anh Em Rừng bị KGB khám phá hơn 30 năm sau, ngày 27 tháng 9 năm 1978, nhưng chúng không giết được anh. Anh đã nhảy xuống sông Vohandu tuẫn tiết mang theo khát vọng tự do thiêng liêng. Phạm Hồng Thái của Việt Nam trước đó đã hy sinh như thế. Cuối cùng, tinh thần dân tộc và khát vọng dân chủ tự do của dân tộc Estonia đã thắng KGB và vượt qua được chính sách tẩy não vô cùng thâm độc của chủ nghĩa CS.
Biển Thái Bình hôm nay là sông Bến Hải trước đây. Và thuận lợi hơn trước thời điểm năm 1975, bên kia Thái Bình Dương, cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đất nước, vì quyền sống của con người đang bùng lên trên mọi ngã đường, mọi giới, mọi thế hệ. Quá khứ dù có khó khăn, hiện tại còn vất vả nhưng tương lai tươi đẹp rồi sẽ đến. Dòng sông dù còn vẩn đục nhưng nước đang trôi nên sẽ có một ngày trong. Cánh cửa đã mở. Ánh sáng đã rọi vào. Những người mang ánh sáng đang có mặt trên khắp ba miền đất nước. Họ còn ít, còn yếu nhưng họ là ánh sáng, ánh sáng Điếu Cày.
Boston, 22 tháng 10, 2014


Sunday, 16 April 2017

BÀI THƠ NẦY TÒAN LÀ NHỮNG LỜI MẠT SÁT NGƯỜI LÍNH VNCH - CHỨ KHÔNG PHẢI LÀ NHỮNG LỜI CA TỤNG LÍNH VNCH ....


THẰNG TRẦN TRUNG ĐM NẦY ĐÃ LỘ DIỆN VC NẰM VÙNG TỪ KHUYA - NAY NÓ LẠI CÔNG KHAI TỰ XÁC NHẬN CHÍNH NÓ MỚI LÀ THÚ VẬT - KHÔNG PHẢI NGƯỜI LÍNH VNCH NHƯ NÓ CỐ TÌNH BÔI NHỌ ĐỂ XIN THÊM PHÂN CỘNG - MỘT TÊN KHỐN NẠN ĂN CƠM QUỐC GIA RỒI ĐỔI QUA ĂN PHÂN TƯƠI VIỆT CỘNG./-TCL

================

Người lính già vừa chết đêm qua

Trần Trung Đạo

Người lính già Việt Nam
Vừa mới chết đêm qua
Trên đường phố San Jose bụi bặm
Anh đã đi bao nhiêu nghìn dặm
Ðến nơi đây chỉ để chết âm thầm
Không một phát súng chào
Không cả một người thân
Không ai nói với anh một lời tiễn biệt.Người lính già Việt Nam
Như con thú hoang lạc loài
Trên freeway nhộn nhịp
Một tiếng rên thảng thốt chảy trong mưa
Một chiếc lá cuốn đi theo cơn gió cuối mùa
Một tiếng nấc rã rời trong đêm vắng.Vợ anh đâu?
Sao không về đây vuốt mắt
Con anh đâu?
Sao không đến vấn khăn tang
Anh ra đi như anh đến
Rất vội vàng
Chẳng còn ai trên đời để khóc.Nhân loại văn minh có nhiều cách sống
Nhưng đồng bào tôi có những kiểu chết rất lạ đời
Người vợ mang thai
Ôm lấy chồng cùng nhảy xuống biển khơi
Ðể khỏi phải rơi vào tay giặc Thái
Cho sóng biển Ðông nghìn năm còn ru mãi
Một bài ca chung thủy vọng về Nam
Ðể mỗi sớm chiều khi thủy triều dâng
Tổ quốc sẽ được bồi thêm
Bằng máu anh thịt chị.Có những bà mẹ nửa đêm thức dậy
Ði bán máu mình mua gạo nuôi con
Ðường về chưa tới đầu thôn
Bà gục chết không kịp nhìn mặt con lần cuối
Ðứa con út cũng chết dần trong cơn đói
Miệng còn thì thào hai tiếng “Mẹ ơi !”
Những giọt máu tươi đã giết chết hai người
Sẽ đọng lại trong nghìn trang lịch sử
Cho nước sông Hồng bao giờ cũng đỏ
Như màu máu Mẹ Việt Nam.Ðêm qua thêm một đứa con
Vừa mới chết trên đường phố San Jose nhộn nhịp
Anh không chết ở Hạ Lào, Bình Long, Cửa Việt
Anh không chết ở Hàm Tân, Suối Máu, Hoàng Liên Sơn
Chết ở đây đất lạ sẽ thêm buồn
Trên mộ bia anh thêm một dòng chữ MỹMột người Việt Nam sinh nhầm thế kỷ
Và chết cũng nhầm nơi
Ðêm nay bên kia bờ trái đất xa xôi
Quê hương anh vẫn còn chìm trong lửa đỏ.Tôi gởi anh đôi dòng thơ
Từ trái tim của một thằng em nhỏ
Cũng lạc loài lưu lạc như anh
Chúng ta, hai chiếc lá chung cành
Bay phơ phất trước từng cơn bão tố
Ngủ đi anh bình yên nơi chín suối
Ðau thương nầy em sẽ viết thay anh.

 Trần Trung Đạo
__._, _.___