Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label VCNVTruongGiaVy. Show all posts
Showing posts with label VCNVTruongGiaVy. Show all posts

Sunday, 30 July 2023

NGUYỄN XUÂN HOÀNG THA THIẾT GỌI EM "VY" YÊU DẤU TỪ 1968- BÀ TA TÊN TRƯƠNG GIA VY - CHÁU RUỘT CỦA TRẦN BẠCH ĐẰNG (Trương Gia Triều.) - CẶP ĐÔI VC NẰM VÙNG NGUYỄN XUÂN HOÀNG- TRƯƠNG GIA VY LỘNG HÀNH Ở SAN JOSE TRƯỚC ĐÂY ... BẮT NGUỒN DÂY MƠ, RỄ MÁ TỪ TRƯỚC 1975 LẬN./-Mt68
____________

NGUYỄN XUÂN HOÀNG - Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu. 

 Nguyễn Xuân Hoàng 

 Em đừng hỏi giờ này tôi đang làm gì và đang ở đâu. Lúc này đây, khi viết những giòng chữ này cho em, tôi đang ngồi trong tòa soạn của một tạp chí nằm trên con đường Phạm Ngũ Lão. Con đường ấy, khá nhiều nhà in, nhà báo, nhà phát hành, chắc em đã biết, là một con đường nhỏ, đầy bụi và nhiều xe. Trên bàn làm việc của tôi hiện có một lá thư của “nhà-làm-kịch-không-bao-giờ-dựng-kịch” gửi cho tôi, nhưng tôi không hiểu gì cả. Có lẽ ông ta lầm tôi với một người nào khác có một cái tên tương tự. Những cái tên tương tự! Có bao nhiêu cái tên tương tự như tên của tôi, và tên của em trong cõi đời này. Và em, Vy của tôi, tên em phải viết i ngắn hay y dài? Và tại sao phải là y dài mà không là i ngắn?

Lúc viết những giòng này cho em, những người thợ sắp chữ vừa vỗ bản in truyện ngắn của tác giả Rừng Mắm đặt trên bàn tôi, cây quạt trần đang xoay theo một tốc độ chậm nhất, và mưa rơi ngoài kia. Mưa ào ạt như tiếng kêu thất thanh của một người bị săn đuổi, chờ chết. Tại sao lúc nào tôi cũng thích nhìn những trận mưa thúi trời thúi đất. Mưa điên cuồng, man dại; mưa ập xuống như cái thúng chụp không thương tiếc ngậm ngùi…

NguyenXuanHoang-Vy
Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng và Vy


Thế còn em, nơi em ở hiện giờ trời đang có mưa không? Những trận mưa đầu mùa nắng là những dòng nước được đợi chờ. Mưa luôn luôn làm tôi nhớ em. Nhớ những hôm nào em ngồi sau chiếc xe lambretta màu bạc của tôi. Hơi thở tình yêu của em đã thổi ấm xuyên suốt lưng tôi, hâm nóng một trái tim tưởng chừng đã nguội lạnh, thổi bay đi những đám mây buồn bã từ bấy lâu nay vẫn ám mãi xuống đời tôi. Ôi những trận mưa hân hoan tầm tã; mưa biển mưa rừng, mưa cao nguyên, mưa đồng bằng. Mưa chảy trong tôi tình yêu muộn màng, mưa xối trong em tình yêu vừa mới lớn. Những giọt nước mưa hy vọng đang ướt sũng cuộc đời chúng ta.

Bữa qua có tin từ mặt trận về cho hay chiến trường miền Trung đang hồi ác liệt, một bạn tôi vừa mất xác. Sáng nay trên cao nguyên báo xuống, một người bạn khác nữa của tôi mới vừa tử trận. Những tin tức ấy đã làm tôi chảy nước mắt. Bao nhiêu người ở tuổi tôi đang đối mặt với cái chết, tại sao tôi vẫn ngồi đây yên ổn. Và tại sao tình yêu của chúng ta? Có phải tôi là một người may mắn bất hạnh. May mắn mà sống sót, nhưng bất hạnh thay chưa sống đủ kiếp người.

Có phải là một điều nhảm nhí không khi ta nói đến tình yêu trong một thời đại mà người ta chỉ đề cập đến sự chết. Tôi vẫn nghĩ rằng con người càng đến gần với tình yêu chính là tiến gần đến cái chết. Yêu là chết. Và trước cái chết, người ta bao giờ cũng ham muốn sự sống. Và sự sống là gì nếu không là tình yêu? Ngụy biện quá, phải không?

Vy yêu, cho đến bây giờ tôi vẫn không thể nào mường tượng ra nổi nơi ăn chốn ở của em. Thành phố trên cao ấy đã một thời nhìn thấy tôi lớn lên, đã nghe tôi thở, đã thấy tôi yêu, đã chứng kiến những trận đòn thù trên Đồi Cù, đã dí tôi trong quán cà phê Huyền nửa đêm về sáng. Và giờ đây những dấu chân em in trên con đường đất đỏ dưới những cơn mưa tầm tã đang làm tôi thương nhớ em. Cánh cửa sổ từ căn phòng em ở mỗi sáng mở ra có thể nhìn thấy chăng đỉnh núi Langbiang? Quyển sách nào em đang đọc? Và tờ thư nào em đang viết dở cho tôỉ… Tôi đang nghĩ đến em, đến hơi thở em, khuôn mặt thần thánh em… Sẽ buồn biết bao nếu trí tưởng tôi không còn cái khả năng tưởng tượng ấy nữa, cái khả năng khiến cho đời sống tình cảm chúng ta giàu có hơn, màu sắc hơn…

Em có còn nhớ những quán nước quán ăn mà chúng ta đã đến: một chỗ sang trọng, một nơi tồi tàn; những cuốn phim ta đã cùng xem: đam mê, hung bạo, hay dịu dàng và thơ mộng; những khúc nhạc mà chúng ta đã từng nghe chung với nhau trong một tối nào: quyến rũ và lôi cuốn. Và hơi thở em tràn ngập trong lồng ngực tôi. Thân thể em trong vòng tay cuồng dại tôi.

Ừ, nhiều khi tôi ước phải chi chúng ta là cỏ cây hay loài vật, chúng ta sẽ yêu nhau như loài thú hoang giữa đất trời mà không sợ bóng dáng của Thần Tuyệt Vọng. Như loài thú, chúng ta rong chơi trong rừng, nằm dưới bóng mát của những tàn cây và ngủ an nhiên trên xác lá khô. Như cỏ cây ta không thèm mọc vội vàng. Ta lớn theo gió, và nắng và mưa sẽ làm ta rắn chắc hơn. Cái vòng tròn vàng óng buổi sáng sẽ đánh thức ta dậy, mặt trời đỏ hực buổi chiều sẽ gọi ta về, và trăng sao trên cao sẽ soi thấu tình yêu của chúng ta.

Vy yêu, bây giờ là mười giờ. Buổi sáng trong một tòa soạn báo. Tiếng máy chạy ì ầm. Những bản vỗ ướt mực và ướt nước. Cơn mưa đã dứt. Trời trong suốt và nắng đang thổi luồn những hơi thở nóng hổi trên thành phố tôi đang ở. Có lẽ những con đường rợp bóng cây mà chúng ta đã đi sau trận mưa lớn đã ngập nước, vòm cong của những tàn me cụm đầu dài đến cổng trường Saint-Paul còn óng ánh chút nước mưa đã rơi trên đầu chúng ta theo từng cơn gió nhẹ. Giờ đây, tôi không biết mình đang đốt đến điếu thuốc thứ mấy trong ngày nhưng tôi biết là tôi đang nghĩ đến em.

Vy yêu, em có còn nhớ cái lối quảng cáo của người Nhật về những sản phẩm đặc chế của họ. Bất Cứ Lúc Nào, Bất Cứ Ở Đâu Cũng Chỉ Có Hai Ta. Ừ, cũng chỉ có hai ta.

Ngày mai, tôi sẽ phải vào bệnh viện trở lại. Những dấu hiệu tái phát của căn bệnh cũ đang bắt đầu lộ diện và đang hành hạ tôi. Bạn tôi bảo: “Mày chưa chết đâu. Đừng sợ... Sống thì khó chứ chết thì ai mà chẳng có phần.”

Buổi sáng hôm nay, sau cơn mưa mặt đường trước tòa soạn sạch trơn. Nhưng sao mà lòng tôi vẫn còn đầy chật hình bóng em. Nhớ em, nhớ những sợi tóc dài buộc chết đời tôi, nhớ hai con mắt màu nâu thầm lặng, nhớ cái mũi hếch kiêu căng, nhớ giọng nói sao mà ngọt ngào kỳ lạ. Nhớ nụ cười em tràn ngập cơn mê tôi, nhớ đôi chân dài quấn quýt, nhớ bờ ngực nặng, nhớ hơi thở nóng, nhớ hai bàn tay hốt hoảng của em,… Nhưng sao tôi vẫn có cảm tưởng như rồi ra chẳng bao giờ chúng ta còn có cơ hội gặp lại nhau nữa. Bởi vì, giữa tôi và em, chúng ta có bao nhiêu là sông núi, bao nhiêu là hố thẳm, bao nhiêu thung lũng, bao nhiêu biển trời. Có cả sương mù và sấm sét. Có đêm và ngày. Có cả “Khổng tử” và gia phong. Và…

Thư từ làm cái gì, chữ nghĩa cũng sẽ chỉ là điều vô ích, một khi người ta không còn muốn đọc nhau nữa.

Phải không?

Nguyễn-Xuân Hoàng
Tháng Chín 1968

____________________
Ông Trần Bạch Đằng qua đời
 
Ông Trần Bạch Đằng (ảnh chụp năm 2005)
Ông Trần Bạch Đằng từng làm Bí thư thành ủy Sài Gòn
Cây bút, nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng vừa qua đời hôm thứ Hai tại TP Hồ Chí Minh, sau một thời gian bị bệnh.

Ông Trần Bạch Đằng sinh ngày 15/7/1926 tại Giồng Riềng, Kiên Giang. Tên thật của ông là Trương Gia Triều. Ông nội của ông là Trương Gia Mô, một thân sỹ yêu nước.

Ông Trần Bạch Đằng đi theo cách mạng từ rất sớm, từng phụ trách tờ báo 'Chống Xâm Lăng' của Thành ủy Sài Gòn năm ông 20 tuổi.

Năm 1951 ông làm tổng biên tập báo Nhân Dân Miền Nam của Trung ương Cục.

Ông Trần Bạch Đằng cũng từng giữ nhiều vị trí quan trọng: bí thư Thành ủy Sài Gòn, phụ trách Ban tuyên huấn Trung ương Cục và Ủy viên đoàn Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Những năm sau 1975, ông Trần Bạch Đằng chỉ tập trung vào nghiên cứu và viết báo. Tuy nhiên, có nhận định ông là người vẫn giữ ảnh hưởng và quyền lực lớn sau hậu trường.


Saturday, 20 September 2014

3 THÁNG NỮA TỚI PHIÊN TRƯƠNG GIA VY KẾT THÚC VC NẰM VÙNG

NHƯ VẬY SAN JOSE SẼ BÌNH YÊN HƠN- HỘI LUẬT KHOA KHÔNG CÒN LO LẮNG VỀ VIỆC XẾP BÀN GIA VY GẦN SÂN KHẤU NỮA PHẢI KHÔNG LS SAN JOSE ? ./- Mt68

Nhà văng Nguyễn Xuân Hoàng ngủm củ tỏi.

SAN JOSE (NV) - Nhà văn, nhà báo Nguyễn Xuân Hoàng, sinh năm 1940, tại Nha Trang, Khánh Hòa, vừa qua đời tại San José, California, vào lúc 10:50 phút sáng Thứ Bảy, 13 Tháng Chín, 2014.

alt
Di ảnh nhà văn, nhà báo Nguyễn Xuân Hoàng. 
Hình: Blog Nguyễn Xuân Hoàng/VOA)

Bản tin của baocalitoday.com đưa tin cho biết, hiền thê của ông Nguyễn Xuân Hoàng, bà Trương Gia Vy, nói rằng chồng bà “ra đi rất thanh thản trước sự chứng kiến của gia đình,” gồm vợ, con trai, ba con gái cùng các cháu nội ngoại từ xa về kịp.

Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng sinh ngày 7 Tháng Bảy, 1940 tại Nha Trang. Ông từng theo học các trường Võ Tánh (Nha Trang), Petrus Ký (Sài Gòn).

Ông theo học và tốt nghiệp Ðại Học Sư Phạm, Ban Triết, tại Ðại Học Sư Phạm Ðà Lạt, năm 1961. Sau đó ông giảng dạy bộ môn này tại các trung học Ngô Quyền (Biên Hòa) và Petrus Ký (Sài Gòn).

Trong thời gian 2 năm, từ 1972 đến 1974, ông đảm nhiệm vị trí Thư Ký Tòa Soạn tạp chí Văn tại Sài Gòn.
Ông sang Hoa Kỳ định cư từ năm 1985.

Năm 1986, ông làm Tổng Thư Ký nhật báo Người Việt tại Quận Cam, California và đảm nhiệm vị trí này trong hơn 10 năm.

Từ năm 1998 đến 2005, ông chuyển về định cư tại San José và đảm nhiệm vai trò Tổng Thư Ký cho ấn bản Việt Mercury, thuộc San Jose Mercury News.

Saturday, 13 September 2014

THÊM MỘT THÀNH TÍCH HIỂN LINH VỀ LỜI NGUYỂN RỦA VC CHẾT HẾT, CHẾT THẢM CỦA LS SAN JOSE

THÊM 1 THẰNG VC NẰM VÙNG ĐÃ RỬA ĐÍT VỀ VỚI WC LĂNG BA ĐÌNH- CON MỤ TRƯƠNG GIA VỊ CŨNG SẼ BYE BYE SOON THÔI./- Mt68

Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng vừa mới ra đi

Theo chị Trương Gia Vy cho biết, anh Nguyễn Xuân Hoàng đã ra đi rất thanh thản trước sự chứng kiến của gia đinh gồm Chị Trương Gia Vy, con trai và 3 người con gái cùng các cháu nội ngoại từ xa về kịp. Lễ hoả thiêu sẽ được thực hiện theo ước nguyện của người quá cố.
Cali Today News - Được chị Trương Gia Vy gọi điện thoại thông báo cho biết nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng vừa mới từ trần vào lúc 10:50 sáng hôm nay, thứ Bảy 13/9/2014 tại nhà Dưỡng Lão (Nursing Home) Mission De La Casa trên đường Alvin, San Jose, California, hưởng thọ 74 tuổi, sau một thời gian dài lâm trọng bệnh. Anh sinh ngày 7 tháng 7, năm 1940 tại Nha Trang, Khánh Hòa. Cũng có nguồn tin rằng anh sinh vào năm 1937 (Theo nhà thơ Du Tử Lê)
alt
Dù bị bệnh nặng, nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng vẫn cố ra quán tiếp an hem từ xa hay gần đến thăm viếng. Ảnh: Nguyễn Xuân Nam
Theo chị Trương Gia Vy cho biết, anh Nguyễn Xuân Hoàng đã ra đi rất thanh thản trước sự chứng kiến của gia đinh gồm Chị Trương Gia Vy, con trai và 3 người con gái cùng các cháu nội ngoại từ xa về kịp. Lễ hoả thiêu sẽ được thực hiện theo ước nguyện của người quá cố.
Chúng tôi sẽ cập nhật thêm tin  tức về tang lễ sau.
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, Nguyễn Xuân Hoàng (nhà văn) tốt nghiệp Đại học Sư phạm Đà Lạt, viết nhiều tác phẩm mà tác phẩm nổi bật là “Ý nghĩ trên cỏ”.
alt
Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng trong những ngày tháng cuối. Ảnh: Nguyễn Xuân Nam
Theo Wikipedia, “Thời niên thiếu, ông học ở trường Võ Tánh (Nha Trang), trường Petrus Ký (Sài Gòn).
Ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm Đà Lạt, khoa Triết (1958-1961), rồi giảng dạy môn Triết tại trường trung học Ngô Quyền ở Biên Hoà (1961-1962), tại trường Pétrus Ký ở Sài Gòn (1962-1975). Ngoài ra, ông còn làm thư ký tòa soạn tạp chí Văn ở Sài Gòn (1972-1974).
Năm 1985, ông đến Hoa Kỳ và định cư tại San Jose.
Năm 1986-1997, ông làm tổng thư ký báo Người Việt Daily News (California).
Năm 1989- 1994, ông còn là tổng thư ký tạp chí Thế kỷ 21 (California) thuộc công ty Người Việt.
Năm 1994, ông làm trong ban chủ biên tạp chí Văn Học. Tháng 9 năm 1996, ông làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tạp chí Văn [2], đồng thời ông làm tổng thư ký cho báo Việt Mercury trực thuộc nhật báo San Jose Mercury News của Hoa Kỳ từ tháng 11 năm 1998 đến tháng 11 năm 2005.
alt
Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng và nhà văn Huy Phương. Ảnh: Nguyễn Xuân Nam
Ngoài ra, ông cũng từng là giảng viên (lecturer) giảng dạy môn Văn học Việt Nam đương đại tại Đại học California-Berkeley.

Wednesday, 23 July 2014

NHỚ XẾP BÀN CHO TRƯƠNG GIA VY CHÁU TRẦN BẠCH ĐẰNG GẦN SÂN KHẤU NHÁ

ĐÂY LÀ THE LAST SUPPER CỦA CON ĐIẾM NẰM VÙNG TRƯƠNG GIA VY TRƯỚC KHI NÓ CHẾT KHÔNG KỊP NGÁP 1 NGÀY KHÔNG XA./- Mt68


HỘI NGỘ MÙA THU LUẬT KHOA
                                6070 Blossom Ave , San Jose , Ca 95123
 
Sau đó, chúng tôi sẽ gởi Thiệp Mời và Vé Tham Dự đến tận nhà của qúi vị.
 
Ðể giúp Ban Tổ Chức tiện sắp xếp, thời hạn chót mua vé tham dự dạ tiệc Hội Ngộ là 
ngày 15-9-2014
 
Rất mong được gặp quí  giáo sư, các đồng môn và thân hữu  trong ngày Hội Ngộ.
 
Trân Trọng.
 
 
 BAN TỔ CHỨC:
Ban Cố Vấn: Gs Quách Thị Nho, Ts Trần An Bài, Ls Ngô Văn Tiệp, Ls Nguyễn Duy Tiếp
- Ban Điều Hành: Nguyễn Vạn Bình, Mã Phương Liễu, Phạm Mạnh Tuấn, Dương Thị Tiến, Nguyễn Mạnh Hùng, Mai Lê Hạnh, Hà Kim Tinh, Nguyên Trung, Cao Ánh Nguyệt,  Đoàn Phúc Hữu, Ngô Kỳ, Quách Huệ Anh, Nguyễn Tòan , Dương Bích Trâm, Hà Đình Huy, Trì Ngọc Bình, Lê Trung Tâm, Phạm Thanh Ðồng,  Nguyễn Bạch Yến, Nguyễn Hoàng, Trần Chiêu Hiền,  Lê Truật, Vũ Thị Xuyến, Châu Minh Hoàng, Trịnh Như Bằng, Nguyễn Hùng, Trương Gia Vy, Phan Xuân Hương, Nguyễn Xuân Sơn,Thái Hà, Nguyễn Thanh Hương.
 
 
 

Nguyen Van Binh 
dacsanydan@att.net 
dacsanydan@yahoo.com 
(408) 410-3379 

Wednesday, 16 July 2014

NHÂN ĐỌC MẤY CÂU THƠ NẦY XIN HỎI TRƯƠNG GIA VY

TRẠI CẢI TẠO KINH LÀNG THỨ 7 - THUỘC U-MINH THƯƠNG TỈNH KIÊN GIANG - CÓ CÁC MÓN ĂN CHƠI NHƯ: 

VÔ RỪNG ĐỐN TRÀM CUNG CẤP LÀM NHÀ CHO CÁN BỘ- KHAI HOANG RỪNG SẬY ĐỂ LÀM RUỘNG - ĐÀO KINH , MƯƠNG , VUÔNG NUÔI CÁ- 

KÉO GỖ TRONG RỪNG SÂU RA BÌA RỪNG RỒI DÙNG XUỒNG NHÔM CỦA MỸ (Lọai làm phao bắc cầu dã chiến) CHỞ TẬP TRUNG VỀ TRẠI và nhiều món linh tinh khác 

*** KHÔNG HIỂU 
"CÒNG LƯNG ĐẨY XÁNG" LÀ CÔNG VIỆC GÌ CỦA TÙ CẢI TẠO ??? 
Mt68 ( Một tù cải tạo, Trại Kinh Làng Thứ 7, U-Minh Thượng)


*Trích thơ của TRƯƠNG GIA VY
....
Áo bà ba, chân guốc mộc, con nước lớn chiếc thuyền trôi vật vờ như chiếc lá,
Tháng bảy mưa hoài, em lặn lội thăm nuôi, sợ hãi nhìn ngầu đục nước phù sa.
Đường đi Mỹ Tho, đường sang Rạch giá, cùng về cả miền Tây, nhưng lại hai ngả rẻ.
Một mình em, non nớt giữa đời vẫn phải chọn cả hai.
Một giỏ nuôi chồng, một xách thăm cha, hai bên đều nặng gánh.
Mưa tháng bảy chắc cũng không nhiều bằng nước mắt em trong lúc vắng anh.
Buổi sáng, gió lạnh đón xe đò đi thăm cha nơi cửa Đại, tội cho anh biết bao nhiêu đang còng lưng đẩy xáng nơi Kinh làng thứ Bảy. Ngậm ngùi nhớ mãi câu ngâm:
          “Sông dài, cá lội bặt tăm,
          Phải duyên chồng vợ, ngàn năm em vẫn chờ…”
Đêm khuya, nằm phơi sương trước hàng hiên nhà người, chờ giờ nước lớn con xuồng lá nhỏ đưa đi gặp chồng, thương các con đang bơ vơ nằm nhà với bà mẹ vú, đầu quẩn quanh với câu mẹ ru ngủ thuở xưa:
          “Con cò lặn lội bờ sông,
          Gánh gạo nuôi chồng, tiếng khóc nỉ non…”
Trương Gia Vy
San Jose

***Ghi Chú: 
Trại Kinh Làng Thứ 7 có đến 3 lọai tù: Cựu Viên chức VNCH, Tù hình sự trộm cướp và Tù Vượt biên - Vậy ông Hòang chồng Gia Vy thuộc tù nào???./- Mt68

Sunday, 22 June 2014

VỀ TRƯƠNG GIA KỲ SANH CHA CỦA TRƯƠNG GIA VY VC NẰM VÙNG

Trương Gia Kỳ Sanh: 
Dân Biểu VNCH- VC Nằm Vùng.

Kim Âu

Tuần vừa qua diễn đàn sôi lên vì cuộc tranh luận có liên quan đến cựu dân biểu Trương Gia Kỳ Sanh. Dư luận hai chiều bên bênh, bên chống. Một bên nói ông Trương Gia Kỳ Sanh là Việt Cộng nằm vùng, là anh em của Trần Bạch Đằng tức Trương Gia Triều. Một bên ra sức bác khước.
Một sự việc sôi nổi như vậy thiết tưởng cần được làm rõ để đi tới một kết luận thỏa đáng. Qua tổng hợp nhiều độc gỉa, netters đóng góp và tài liệu truy cập được chúng tôi trình bày cụ thể dưới đây mời quý vị quan tâm dành chút thời gian theo dõi…..

Theo lời cô Trương Gia Vy xác nhận năm 1950 ông Trương Gia Kỳ Sanh bị thủ hiến Phan văn Giáo hãm hại nên bị ném vào vùng Việt Minh, Lúc đó  ông Trúc Viên đang là Hiệu Trưởng trường Duy Tân ở Phan Rang.Thủ hiến Trung kỳ Phan văn Giáo chỉ đương chức (từ 16-4-1948 đến 5-10-1949). Việc Đại tá Nguyễn văn Vỹ thả dù ông Trương Gia Kỳ Sanh xuống vùng an toàn khu Việt Minh vào đầu năm 1950  là chi tiết quan trọng đáng chú ý vì đại tá Nguyễn văn Vỹ vốn là tình báo quốc tế của Đồng Minh thời Đệ Nhị thế chiến, ông Vĩ là người cùng Edward G.Lansdale nhảy dù xuống vùng Thập vạn đại sơn bên Tàu để giúp lực lượng của chính phủ Trùng Khánh chống Nhật. Ông Vỹ đã quyết định như vậy tất phải có lý do liên can đến tình báo. Điều đáng để cho mọi người suy nghĩ là ông Truơng Gia Kỳ Sanh làm thế nào để trở về miền Nam được. Câu chuyện này nằm trong vòng bí ẩn, ly kỳ đáng được gọi là "kỳ sanh". Phải chăng ông được trao trả như tù binh năm 1954? Hay là ông vượt ngục? Việc này không có câu trả lời. Hoa chăng chỉ có thể tìm thấy trong tài liệu của cục phản gián Hà Nội.
Theo ông Nguyễn Lý Tưởng dân biểu đồng viện với ông Trương Gia Kỳ Sanh cho biết khi ông Nguyễn Lý Tưởng kể chuyện có cha và người anh ở tù ở tại Hà Tĩnh, ông Kỳ Sanh liền nhận ông ta có ở tù chung với hai người này và gọi ông Nguyễn Lý Tưởng bằng cháu.Thật ra ông Trương Gia Kỳ Sanh hoàn toàn bịa ra câu chuyện này để giữ thế bề trên hầu lấy tình bạn tù với cha và anh để kiếm sự hậu thuẫn của ông Nguyễn Lý Tưởng trong đấu tranh nghị trường.
Vì thực tế cho thấy, Đại tá Vỹ ném Trương Gia Kỳ Sanh xuống vùng Vĩnh Phú gần an toàn khu trung ương của Việt Cộng vào năm 1950. Khi nhảy dù xuống, theo ông Trương Gia Kỳ Sanh kể là bị chém vào trán (có vết sẹo) do dân trong vùng tưởng ông ta là gián điệp của Pháp. Trường hợp đúng là gián điệp thật chắc chắn ông ta không thể sống để trở về miền Nam. Khi biết là tưởng lầm thì ông ta phải được tự do chứ tại sao lại bị ở tù, nhưng vào thời đó mà chuyển tù từ Vĩnh Phú (Vĩnh Yên, Phúc Yên, Phú Thọ) vào tận Hà Tĩnh thì quả là chuyện phong thần. Rồi từ một người tù ở tận Hà Tĩnh, ông Trương Gia Kỳ Sanh xuất hiện trở lại ở Phan Rí rồi trở thành dân biểu đồng viện với ông Nguyễn Lý Tưởng, quả là câu chuyện xuất quỷ nhập thần của điệp viên James Bond 007. Điều đặc biệt theo như ông Nguyễn Lý Tưởng hé lộ là ông dân biểu Trương Gia Kỳ Sanh lúc nào cũng chống đối chính quyền quốc gia của ông Thiệu và năm 1973 dân biểu Nguyễn Lý Tưởng đi khắp các quận Phan Thiết để nói chuyện về hiệp định Paris 1973 mới được những người làm công tác an ninh của Cảnh Sát Quốc Gia, An Ninh Quân Đội cho biết, ông Trương Gia Kỳ Sanh đang bị theo dõi vì có nhiều liên lạc với Việt Cộng. Cựu dân biểu Nguyễn Lý Tưởng còn cho biết thêm thời gian đó Trương Gia Kỳ Sanh đang tích cực hoạt động cho Lực Lượng Hoà Giải – Hòa Hợp Dân Tộc
Tiện đây chúng tôi trích một đọan tài liệu nói về mục đích, âm mưu của lực lượng hoà giải hoà hợp.

 trích
"3. Lực Lượng Hòa Giải Dân Tộc :
Ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris vừa được ký kết thì ngày 31/1/1973, một nhân vật khác hiện ra, TT Thic'h Thiện Minh, đã vội phổ biến một thông bạch tuyên bố thành lập Lực Lượng Hòa Giải Dân Tộc, cử luật sư Vũ Văn Mẫu làm Chủ tịch với nhiệm vụ đòi "nghiêm chỉnh thực thi ngưng bắn" và tiến tới lập chính phủ hòa hợp hòa giảị
TT Thích Mẫn Giác cho biết việc thành lập lực lượng nói trên là do quyết định của Hội Đồng Viện Hoá Đạo theo đề nghị của Nghị sĩ Vũ Văn Mẫụ  HT Thích Trí Thủ, TT Trí Quang và TT Thiện Minh đã yểm trợ mạnh mẽ cho quyết định này ?  Viện Hoá Đạo GHPG Ấn Quang đã lập lực lượng nói trên để làm gì ?
Điều 12 của Hiệp định Paris dự liệu thành lập tại miền Nam VN một Hội Đồng Quốc Gia Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc sau khi ngưng bắn.  Hội Đồng này gồm 3 thành phần : VNCH, MTGPMN và các thành phần ở giữa.  Lúc đầu Hà Nội cương quyết đòi Hội Đồng này phải được tổ chức từ trung ương đến địa phương như một chính quyền song hành với chính phủ VNCH.  Nhưng sau khi Hoa Kỳ ném bom B52 xuống Hà Nội 12 ngày đêm, Hà Nội mới chịu giới hạn quyền của Hội Đồng vào việc tổ chức bầu cử mà thôị  Hà Nội tin rằng trong 3 thành phần của Hội Đồng, họ sẽ chiếm 2 thành phần là MTGPMN và các tổ chức thân Cộng trong thành phần thứ ba, nên sẽ thắng khi cuộc tổng tuyển cử được tổ chức tại miền Nam. 
TT Thích Thiện Minh được chỉ thị thành lập "thành phần thứ ba" gồm các tổ chức thân Cộng để tham gia Hội Đồng, đó là Lực Lượng Hòa Giải Dân Tộc nói trên. Thông bạch do TT Thích Thiện Minh công bố đã bị các đảng phái quốc gia và báo chí công kích nặng nề nên lực lượng này không hoạt động được." 
hết trích

Theo tài liệu mới nhất do ông Nguyễn Lý Tưởng đánh máy lại y nguyên văn đã đăng trong Niên Giám Hạ Nghị Viện 1967-1971 từ trang 147 đến 150... chúng tôi xin trích lại một đoạn

trích tài liệu của cựu Dân Biểu Nguyễn Lý Tưởng:
    5-Từ 1946 đến 1949: ở vùng kháng chiến liên khu 5 vừa điều khiển nhiều ngành sản xuất, vừa hoạt động trong liên đoàn văn hoá kháng chiến Miền Nam Trung Bộ, nhưng vẫn giữ vững tinh thần quốc gia, nên bị bắt giam nhiều lần.
     6-Từ 1950 đến 1954: lập ba trường trung học đầu tiên ở các tỉnh Miền Nam Trung Việt (Phan Bội Châu tại Phan Rang, Bồ Đề tại Phan Rí, Nam Tiến tại Phan Thiết), vừa dạy học, vừa giúp đồng bào chống bọn Việt gian ác ôn tay sai của Pháp. Với tư cách Chủ Tịch Hội Đồng tỉnh Ninh Thuận (Phan Rang) chống nhiều việc lạm quyền của Phan Văn Giáo, Thủ Hiến Trung Việt, nên ngày 1-5-1954, bị bắt chở lên máy bay, đem thả dù xuống Hà Tĩnh, bị Việt Minh chém suýt chết. Sau hiệp định Genève, về Sài Gòn.
    7-Do sự tổ chức của Việt Nam Phục Quốc Hội, diễn thuyết tại Sài Gòn và nhiều tỉnh Miền Trung, hô hào dân chúng kết hợp thành những tổ chức chính trị lớn mạnh, tranh đấu chống tham nhũng, độc tài, để xây dựng dân chủ.
    8-Ngày 4-5-1955: ngay trong dinh Độc Lập, phổ biến kiến nghị chống Ngô Đình Diệm và đòi triệu tập Quốc Hội lâm thời (gồm đại diện các Hội Đồng Đô Thành, Tỉnh, Thị Xã) để chọn một Thủ Tướng mới, thay thế Diệm, rồi tổ chức bầu cử Quốc Hội Lập Hiến (giữa một hội nghị gồm các tay sai của Diệm, do Diệm triệu tập để truất phế Bảo Đại, đưa Diệm lên địa vị độc tôn). May được sự bảo vệ của một bạn học cũ, cố Trung Tướng Nguyễn Ngọc Lễ (lúc ấy là Tổng Giám Đốc Cảnh Sát, Công An), nên khỏi bị thủ tiêu như nhiều anh em khác (Lê Công Tri, Nguyễn Nhơn Ứng,v.v...)
     9-Từ 1955 đến 1963: Ở Phan Rí, vừa dạy học vừa buôn bán vừa liên tục chống Diệm (hợp tác với báo Thời Luận trong lúc ấy hiên ngang đối lập, liên lạc các với nhóm đối lập như nhóm Phan Khắc Sửu ở Sài Gòn), giúp đồng bào chống bọn cường hào ác bá ở địa phương. Vì vậy, bị đàn áp đủ cách: bị mất ghế giáo sư, bị bọn tay sai tổ chức biểu tình đả đảo, bị bao vây kinh tế (tẩy chay), bị bọn lưu manh giả làm Việt Cộng bắn phá nhà máy điện,v.v...
    10-Suốt thời gian Phật Giáo chống Ngô Đình Diệm, đã lãnh đạo cuộc tranh đấu của Phật Giáo tại Bình Thuận với Đại Đức Thích Chánh Lạc, cư sĩ Lê Văn Tho, Trần Tâm Trực. Bị bắt ngày 25-8-1963.
    11-Sau cuộc đảo chánh 1-11-1963, luôn luôn khước từ lời mời tham dự tất cả các Hội Đồng mà thành phần do Chính Phủ chỉ định. Luôn luôn đòi hỏi: tổ chức phổ thông đầu phiếu để thành lập các cơ cấu dân chủ, giao trả chủ quyền lại cho nhân dân.
    12-Viết báo Thiện Chí, mở rộng chiến dịch đòi hỏi tổ chức bầu cử Quốc Hội Lập Hiến.
    13-Tổ chức nhiều cuộc biểu tình tại Bình Thuận chống Hiến Chương Vũng Tàu (16-8-1964) của Tướng  Nguyễn Khánh. Vì vậy, tháng 12-1964, bị bắt giam.
    14-Tháng 3-1965, trong đại hội dân chánh toàn qúôc tại Sài Gòn, cực lực phản đối lề lối độc đoán của Phó Thủ Tướng Trần Văn Tuyên: không cho đại hội thảo luận một kiến nghị do Phó Thủ Tướng Trần Văn Tuyên đưa ra bắt buộc đại hội chấp thuận.
    15-Với tư cách Chủ Tịch Hội Đồng Tỉnh Bình Thuận (Phan Thiết) phản đối việc thành lập Hội Đồng Tư Vấn xây dựng Dân Chủ (do Chánh phủ chỉ định) để sọan thảo Hiến Pháp. Đòi hỏi bầu cử Quốc Hội Lập Hiến. Đã gặp Trung Tướng Vĩnh Lộc (Tư lệnh vùng II Chiến thuật) và Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu (Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia) tranh luận về vấn đề này.
     hết trích tài liệu của cựu Dân Biểu Nguyễn Lý Tưởng
        Đối chiếu những tài liệu cho thấy có những điều còn chìm trong nghi vấn nhưng chỉ cần xem xét kỹ trường hợp một người đã từng bị thả dù xuống vùng cộng sản, từng ở tù cộng sản trước khi có Hiệp Định Geneve thì ngay việc ông ta trở về vùng tự do bằng cách nào cũng đã khó giải thích đã thế còn hoạt động chống quốc gia, tham gia phong trào hòa hợp hòa giải với Việt Cộng như vậy là mọi chuyện quá rõ ràng: cựu dân biểu VNCH Trương Gia Kỳ Sanh chính là một nhân viên tình báo chiến lược, được bố trí trở về miền Nam hoạt động nằm vùng cho Việt Cộng.
        Muốn biết căn nguyên nào để Trương Gia Kỳ Sanh trở thành tình báo chiến lược của Cộng Sản chúng ta hãy xem lại nguồn gốc gia đình của ông Trương Gia Kỳ Sanh qua bản tiểu sử của ông thân sinh của ông ta là cụ Nghè Mô, chúng tôi trích lược dưới đây:

Trích:
Trương Gia Mô (1866 - 1929) hiệu Cúc Nông, tên tự lúc đầu là Sư Thánh, sau đổi là Sư Quản, biệt hiệu Hoài Huyền Tử, khi làm quan ở Huế, còn được gọi là Nghè Mô, là một nhà nho, nhà thơ Việt Nam ở những năm đầu của thế kỷ 20.
Trương Gia Mô, nguyên quán ở Gia Định nhưng sinh quán tại làng Tân Hào, chợ Hương Điểm, huyện Bảo An, tỉnh Vĩnh Long, nay thuộc huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.
Cha của ông là Trương Gia Hội (1822 – 1877), từng làm Tri phủ Hoằng Trị dưới thời Tự Đức, được thăng chức Binh bộ lang trung, về sau làm Tuần vũ Thuận Khánh (Bình Thuận và Khánh Hòa). 
Năm 1867, khi Pháp chiếm luôn ba tỉnh miền Tây, ông theo cha tỵ địa ở Bình Thuận.Năm 1877, cha mất, ông sống với mẹ. Vào năm 1892, đời vua Thành Thái, nhờ cha làm quan nên ông được tập ấm làm thừa phái bộ Công ở Huế. Chính vì có quan tước, cộng với sức học uyên thâm [1] nên nhiều người lầm tưởng, gán cho ông học hàm Tiến sĩ và gọi ông là Nghè Mô.
Ngoài 20 tuổi, ông cùng Nguyễn Lộ Trạch mưu tính chuyện xuất dương, nhưng không thành. Sau khi ông Trạch chết, ông về dạy học ở Tân An và đi khắp nơi. Từ Tân An, ông lại quay về Bình Thuận, ngụ tại làng Hà Thủy-Duồng (xã Chí Công, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận ngày nay).
Năm 1904, Phan Châu Trinh từ quan rồi với bạn là Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp cùng nhau Nam du vào năm 1905. Khi đến Bình Thuận, Phan Châu Trinh đã kết bạn với Trương Gia Mô rồi cả nhóm cùng với các nhà nho ở đây tổ chức công ty Liên Thành, Trường Dục Thanh để truyền bá việc duy tân, cải cách [2].
Năm Mậu Thân (1908) một cuộc đấu tranh lớn của nhân dân nổ ra ở Trung kỳ, nhằm chống chính sách xâu thuế của Pháp và Nam triều. Kết cuộc, hàng loạt nhân sĩ bị lưu đày, bị tử hình, bị tù tội. Trong thời điểm đó, Trương Gia Mô cũng bị tù giam ở ngục Khánh Hòa vì tội đã tham gia “đảng kín”. Bị giam một thời gian rồi được thả, ông trở lại Bình Thuận, khi tuổi đã ngoài bốn mươi.
Năm 1910, một thanh niên tên Nguyễn Tất Thành (sau này là Hồ Chí Minh) cầm thư giới thiệu của cha là ông phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đến gặp ông ở làng Hà Thủy, tổng Đa Phước, tỉnh Bình Thuận. Được sự gửi gắm của bạn, lại thấy Tất Thành có chí hướng, nên ông viết thư giới thiệu Thành với ông Hồ Tá Bang - một trong các sĩ phu sáng lập viên của Liên Thành Thương Quán và trường Dục Thanh ở Phan Thiết. Sau đó, ông Hồ Tá Bang đã cho người ra đón Nguyễn Tất Thành vào dạy học tại Trường Dục Thanh.
Tháng 3 năm 1911, ông Hồ Tá Bang và Trần Lê Chất đưa Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn để tìm cách sang Pháp.
Trở lại Nam, Trương Gia Mô đi khắp miền Tây, liên hệ với nhiều bạn chí sĩ, nhà thơ, bạn cũ như Nguyễn Sinh Sắc, Trần Chánh Chiếu, Nguyễn An Cư, Nguyễn An Khương, Đông Hồ..."

hết trích

       Qua trích đoạn thượng dẫn, độc gỉa thấy rằng cụ nghè Trương Gia Mô là một nhân vật đã tiếp tay đưa Nguyễn Tất Thành xuất dương. Đây chính là chi tiết quan trọng để Trương Gia Kỳ Sanh được sống sau khi bị thả dù vào an toàn khu của Việt Cộng, nhờ là con của cụ nghè Mô nên ông ta được bố trí, cấy “sinh tử phù”, tạo vỏ bọc an toàn trở về hoạt động tại miền Nam. Cụ Nghè Trương Gia Mô là nhân vật yêu nước, là người đã tiếp tay tạo nên Nguyễn Tất Thành chắc chắn cụ không bao giờ nghĩ vì con người đó mà đất nuớc rơi vào thảm họa. Ông Trương Gia Kỳ Sanh thừa kế huyết thống của thân phụ, hoạt động trên tinh thần ái quốc nên ông cũng trở thành nạn nhân của cuộc lừa đảo vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam. Bằng chứng ông ta cũng tìm cách trốn khỏi Việt Nam năm 1976 để lánh nạn cộng sản (hay tiếp tục hoạt động?).
 Thảm nạn của dân tộc Việt Nam hiện nay xuất phát từ sai lầm của những thế hệ tiền bối trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Những lực lượng quốc gia quá sai lầm khi không thanh toán bọn đầu sỏ VC và Hồ Chí Minh khi chúng mới mò về Hà Nội. Năm 1945, người theo cộng sản thì bị lừa vì ngọn cờ giải phóng của chủ  nghĩa cộng sản quốc tế. Người quốc gia bị lừa vì trò hòa hợp hoà giải, chính phủ Liên Hiệp ba thành phần. Sau cùng lại cả tin vào sự giúp đỡ của ông bạn đồng minh để đặt bút ký vào bản hiệp định Paris 27-1-1973.
Ngoài ra việc Trần Bạch Đằng có quan hệ thế nào với Trương Gia Kỳ Sanh cũng đã có kết luận. Trần Bạch Đằng không phải là anh em của Trương Gia Kỳ Sanh mà là cháu ruột của ông Nghè Mô tức là anh bà con của cô Trương Gia Vy.
Dưới đây là một trích đoạn chúng tôi truy cập được về lai lịch của Trần Bạch Đằng:

trích
“Trần Bạch Đằng (15 tháng 7 năm 1926 — 16 tháng 4 năm 2007) là một nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà báo Việt Nam. Ông còn là một nhà chính trị lão thành của Việt Nam đã tham gia hoạt động cách mạng từ trước năm 1945. Ông cũng là tác giả của quyển tiểu thuyết viết về một nhân vật tình báo bí ẩn trong lịch sử Chiến tranh Việt Nam: Đại tá Phạm Ngọc Thảo, với bút danh Nguyễn Trương Thiên Lý. Ông tên thật là Trương Gia Triều, sinh ngày 15 tháng 7 năm 1926 tại xã Hòa Thuận, huyện Giồng Riềng, Kiên Giang. Ông là cháu nội nhà chí sĩ yêu nước Trương Gia Mô (còn gọi là cụ Nghè Mô)…”
hết trích

Xã hội Việt nam vào thời phong kiến hay ngay cả hiện nay việc năm thê bảy thiếp là chuyện thường, việc con rơi, con rớt của mấy ông bôn ba hoạt động cách mạng cũng quá phổ biến nên anh em cùng cha khác mẹ kẻ ở Hà Nội, người ở Huế hay ở tận Thái Lan cũng không có gì lạ.
Cô Trương Gia Vy thực sự có thể  nói không biết gì về những chuyện này vì tuổi tác tách cô ra khỏi những chuyện có thế làm phương hại cho chính quyền quốc gia trước năm 1975.
Quá khứ , giòng dõi có thể ngủ yên nếu ngày hôm nay không có những hiện tượng khiến những người đương thời buộc phải "ôn cố tri tân".



Kim Âu
15-9-2010

Saturday, 21 June 2014

TÊN DAO CHĨA VŨ HEO NỌC NẤY

THẤY CHỖ NÀO CÓ NHÚC NHÍCH LÀ NÓ NHÀO VÔ KIẾM PHÂN TƯƠI - BẮC THANG LÀM HỌ NGAY-

NÓ CHƠI CẬN CHIẾN VỚI TRƯƠNG GIA VY LÀ VÌ TRƯƠNG GIA VY CHÁU CỦA TRẦN BẠCH ĐẰNG (*Tên thật TRƯƠNG GIA TRIỀU- 1926-2007) ĐẤY./- Mt68
Đôi lời gửi Nguyễn Xuân Hoàng
                                                      Giao Chỉ, San Jose.
         (Viết để chia xẻ với các bạn của Hoàng-Vy tại San Jose)
Giọt nắng cuối chiều chưa vội tắt, mà lời từ biệt đã lên môi.
Câu thơ chẳng biết của ai mà ghi lại cũng chẳng biết có đúng không. Nhưng thực sự rất gần với hoàn cảnh của ông thầy dạy Triết, Nguyễn Xuân Hoàng. Anh Nguyễn Xuân Hoàng cũng là nhà văn tên tuổi trên văn đàn và báo giới. Tổng thư ký báo Văn, báo Người Việt, Viet Mercury và Viet tribune hiện nay tại San Jose. Mấy tháng nay anh bị đau rất nặng, phải ra vào nhà thương nhiều lần. Thân hữu chúng ta ai cũng biết và hết sức ngậm ngùi. Mới đây bác sĩ Ngô Thế Vinh có viết về tiểu sử và bệnh tình của anh Hoàng.Tôi xin kể thêm về chút tình cảm riêng tư như sau. Anh được cô Vy, vợ Hoàng đưa về nhà như là giọt nắng cuối chiều. Nắng chiều chưa tắt, nhưng trước sau cũng đến lúc phải hoàng hôn.. Từ nhà thương cô Vy điện thoại qua nước mắt. Pa báo cho Măng biết là Stanford quyết định cho nhà con về nằm nhà để chờ. Bác sĩ và nhà thương ở đây chịu thua rồi. Con đang ký giấy nhận chàng về. Con về trước đến nhận giường điều trị nhà thưng cho đưa tới. Xe nhà thương sẽ chở Hoàng về chiều nay. Nói Măng không còn gì phải lo nữa. Không cần cấp cứu. Xe nhà thương chuyến về không phải mở đèn và thổi còi. Con sẽ không còn phải gọi 911 nữa. Sau cùng thì chàng cũng trở về với em trong những ngày sau cùng. Sau khi nhận được tin, vợ chồng tôi lên thăm anh chị Nguyễn Xuân Hoàng và Trương Gia Vy. Có người hỏi là hai gai đình họ hàng ra sao mà cô Vy cứ gọi bà Lộc là Măng. Có phải là mẹ nuôi không. Đâu có họ hàng bà con gì đâu. Cô Vy là dân Sài Gòn, con ông Trương gia Kỳ Sanh. Bà Lộc, khuê danh Quan Thị Châu, cháu ông Quan Công bên Tầu, sinh quán Rạch Giá. Chẳng có bà con xa gần gì cả. Vài chục năm xưa, hai người gặp nhau, tình cờ mặc áo giống nhau. Tưởng như hai chị em. Người nọ khen người kia mặc áo đẹp. Chưa biết thưa gửi ra sao. Bà cụ mang họ Quan Công hỏi cô Vy bao nhiêu tuổi mà đóng vai vợ Nguyễn Xuân Hoàng. Cô Vy khai là con thua chàng hơn một giáp. Nhà tôi nói, vậy cháu ngang tuổi con gái lớn của bác. Vy bèn gọi mẹ ơi, rồi tuyên xưng chính thức danh nghĩa mẹ con. Vy gọi chúng tôi là Pa và Măng. Cha mẹ Trương gia Vy không còn nữa, cô gọi chúng tôi như là một tình cảm thay thế cho tiếng gọi lòng sâu thẳm của đứa con gái cô đơn. Phận chúng tôi cũng cố gắng không làm điều gì cho con gái.. phải hổ thẹn. Nhưng chuyện này chỉ giới hạn với cô Vy mà thôi. Đối với anh Nguyễn Xuân Hoàng, cá nhân tôi chỉ hơn anh 7 tuổi, mãi mãi chỉ là thân hữu. Quê hương thân phụ Hoàng ở Nam Định, quê tôi cũng Nam Định. Nếu có họp hội đồng hương thì sẽ ngồi cùng bàn. Hoàng là giáo sư viết văn, dậy triết. Tôi suốt đời đi linh. Dù là cầm bút, nhưng văn tôi dưới đất, văn của Hoàng trên trời, Người đi trên Mây. Người lính đi bộ. Cõi trần gian đã không gặp nhau. Cõi văn chương cũng không gặp nhau. Không có dịp cùng nhau tâm sự. Không cùng ngồi uống cà phê để làm thơ. Không ở bên nhau uống rượu mà làm báo. Chúng tôi chỉ biết nhau tại San Jose. Tôi viết báo, Hoàng duyệt qua rồi cho đăng. Duyên nợ thấm thoát cả chục năm dài. Nhưng sao vẫn còn đủ cho tình cảm tràn đầy. Để tôi kể các bạn nghe câu chuyện bên nhau khi anh chị mới ở nhà thương về. Vợ chồng tôi và anh chị Hoàng cùng ngồi trên giường bệnh. Trừ lúc trong cơn đau, còn lúc thường Hoàng khỏe mạnh, tỉnh táo. Cô Vy nói sẽ kể cho Pa và Măng nghe đầu đuôi buổi họp cuối cùng tại nhà thương. Mặc dù không cần thông dịch nhưng nhà thương vẫn đưa thông dịch viên Việt Ngữ hiện diện. Chẳng có gì phải dấu diếm người bệnh và thân quyển. Bác sĩ nói rằng bệnh ung thư của Hoàng không điều trị được nữa. Chỉ còn nằm chờ và uống thuốc cho khỏi đau. Nhà thương sợ cô Vy vì quá thương yêu nên không nói thực với anh Hoàng. Vy và Hoàng cùng muốn biết là sẽ chờ đợi bao lâu. Bác sĩ trả lời là hàng tuần hàng tháng và hàng năm. Khi bác sĩ nói, cô Vy nghe chữ years có s rõ ràng mà bà thông dịch chỉ nói là hàng tuần và hàng tháng. Chữ years có s rất quan trọng. Nhà tôi góp tin tức với kinh nghiệm đã làm nhà thương Việt Nam 20 năm rồi làm cho Hồng thập tự Hoa kỳ 21 năm. Bác sĩ cũng không tin được 100%. Bà chị dâu của má, nhà thương cho về nằm nhà gần 5 năm mới ra đi. Nói chuyện bệnh tật nhà thương mãi cũng chán, tôi thay đổi không khí nói rằng vừa mới thấy tấm hình giáo sư Nguyễn Xuân Hoàng chụp với các em nữ sinh trung học Ngô Quyềnở Biên Hòa. "Anh" giáo sư triết lại là nhà văn đứng chung với các cô học trò lớp 12. Quả thực là một bức hình đẹp và tình không thể chịu được. Ông thấy trẻ tuổi, đẹp trai muốn nằm trong vòng tay học trò là được ngay thôi. Bây giờ anh Lộc nhìn mà còn thấy ghen tức. Ngày xưa lúc anh đang lội rừng mà thấy cậu Hoàng sung sướng như thế này thì sẽ giận đời bất công biết chừng nào.


Giữa văn chương và dạy học Hoàng thấy thế nào. Nguyễn Xuân Hoàng cho biết Văn là ý nghĩa chính của cuộc đời. Đi dậy chỉ là phụ. Cô Vy nói thêm. Nhưng cái phụ nuôi cái chính. Dạy học mới có tiền nuôi vợ con và nuôi văn chương. Mà lại là thầy dậy có giá. Nhiều trường trả tiền gấp đôi. Tôi nói, nếu như vậy cậu Hoàng sống trọn vẹn quá rồi. Hoàng nói, em có phàn nàn gì đâu. Ra đi không sợ, chỉ sợ đau và sợ cô Vy khóc.. Vy lấy tay gạt nước mắt nói rằng. Con có khóc đâu.. Nhà tôi nói rằng. Vy ơi, thôi mày lo cho thân mày đi. Sửa ngay cái chuông trước cửa. Làm cho anh Hoàng cái chuông đầu giường. Có gì thì còn gọi. Vy nói. Nhà thương nói là sẽ gọi chỗ khác, không gọi 911 nữa. Măng nói ngay. Gọi 911 là lo cho cô chứ không phải 911 cho cậu Hoàng. Bố Giao Chỉ nói là dù sao cũng phải chờ một thời gian. Đến 20 tháng 7-2014, kỷ niệm 60 năm giã từ Hà Nội. Rồi đến 30 tháng tư năm 2015. Kỷ niệm 10 năm tạm biệt Sài Gòn. Nhớ Hà Nội thì sẽ có ngày gặp Mai Thảo. Nhớ Sài Gòn thì tìm gặp Nguyên Sa. Khi ta ra đi, có anh sợ ít có anh sợ nhiều. Nhưng tất cả kẻ đi người ở, ai cũng có nỗi buồn như nhau. Nguyễn Xuân Hoàng may mắn lấy vợ trẻ. Trong tiếng khóc có cả tiếng cười.