Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label PhanNhatNam. Show all posts
Showing posts with label PhanNhatNam. Show all posts

Tuesday, 17 September 2024

*Phần kết PN Nam viết tên chồng của Cô Em là HQ Trung Úy Trần Nguyên Tuấn. Có lẽ PN Nam cố tình hư cấu, nêu tên giả vì lúc đó người chồng còn trong cải tạo sợ liên lụy với lai lịch người anh là Tướng VNCH chăng? 
Sau khi vợ chết, mấy năm sau chồng được thả ra và ANH CŨNG TỪ CHỐI KHÔNG ĐI H.O. VÀ ĐÃ QUA ĐỜI; trong QGHC ai cũng biết rõ câu chuyện thê lương nầy.
_________

EM GÁI PHAN NHẬT NAM LÀ CÔ GIÁO, CHỒNG LÀ QGHC, ĐS 10 (?) TÊN THÁI QUANG TRUNG, EM CỦA TƯỚNG THÁI QUANG HOÀNG- 
CẬN NGÀY 30/4 TQ TRUNG KHÔNG THEO ANH DI TẢN VÌ "VỢ KHUYÊN Ở LẠI" ĐỂ GẶP CHA TẬP KẾT VỀ SẼ AN TOÀN KHÔNG SAO!
SAU 30/4 TQ TRUNG TRÌNH DIỆN VÀ BỊ ĐƯA ĐI HỌC TẬP ... KÉO DÀI CHƯA BIẾT NGÀY VỀ. EM GÁI PN NAM ĐƯỢC CHA TÌM THĂM Ở PHAN RANG KHI ÔNG MỚI HỒI KẾT VÀ KHÁ LÂU SAU CÔ EM GÁI LẶN LỘI ĐI TÌM CHA ĐỂ CẦU CỨU. CHA PNN PHÁN "PHẢI ĐỂ CHO NÓ ĐI HỌC TẬP ĐỂ ĐƯỢC SỐNG DƯỚI QUANG VINH CỦA CÁCH MẠNG"- 
CÔ EM GÁI VỀ VIẾT THƯ XIN LỖI CHỒNG, ĐEM 4 CON THƠ ĐI GỞI GIA ĐÌNH BẠN VÀ CHỊ ẤY ĐÃ TREO CỔ TỰ TỬ..../-Mt68
_________________

Em tôi của nhà văn, người lính VNCH Phan Nhật Nam.

 


 Năm em lên ba, bố tôi bỏ lại người vợ trẻ và hai đứa con thơ lên đường tập kết.
Tôi hơn em sáu tuổi. Chín tuổi con nhà nghèo khôn lắm, tôi đủ khôn để thấy khuôn mặt mẹ buồn hiu hắt, những tiếng thở dài và những giọt nước mắt âm thầm của mẹ trong đêm. Chín tuổi, tôi đã biết mình là người nam độc nhất trong gia đình, đã biết ẵm bồng đút cơm cho em và vỗ về em mỗi khi em khóc. Chín tuổi, tôi đã biết tắm rửa, thay áo thay quần cho em, cõng em đi chơi và dỗ cho em ngủ. Mỗi ngày, trời sập tối mẹ mới gánh hàng về, ba mẹ con ngồi ăn cơm bên ngọn đèn dầu, tôi và em hỏi han, an ủi mẹ. Mẹ kể cho chúng tôi nghe chuyện chợ búa như đang nói chuyện với người lớn, tôi ngồi nghe, nhìn đôi vai gầy của mẹ, nhìn mái tóc và đôi bàn tay khô của mẹ, mà thấy thương mẹ vô cùng.
Tôi phải bỏ học ở nhà hai năm để trông chừng em. Mẹ có một sạp bán rau cải ở chợ Cồn. Gọi là sạp chứ thực ra chỉ là một ô đất nhỏ, sáng mẹ ra đi thật sớm, lúc trời còn mờ sương, buổi trưa mẹ về nhà lo cho chúng tôi ăn, nằm nghỉ ít phút rồi trở dậy sửa soạn cho chuyến chợ chiều. Một tuần bảy ngày, mẹ đi đi về về trong nỗi cô đơn.
Năm em vừa tròn năm tuổi thì mẹ cho em vào mẫu giáo, tôi cũng trở lại trường, đám bạn cũ của tôi nay đã hơn tôi hai lớp, ngồi xung quanh tôi bây giờ là những khuôn mặt lạ, kém tôi hai, ba tuổi. Tôi là học trò lớn nhất và học khá nên được làm trưởng lớp. Gần cuối năm học lớp nhì, tôi nói với mẹ lên xin thầy Hiệu Trưởng cho tôi được thi nhảy tiểu học. Thầy bằng lòng. Tôi cắm cúi học luyện thi và kết qủa là tôi đã đổ được bằng tiểu học năm đó.
Vào lớp đệ thất trường Phan Châu Trinh, tôi tiếp tục học ngày, học đêm, năm đệ ngũ tôi thi nhảy một lần nữa lấy bằng Trung học. Đến niên học đệ tam thì tôi đã bắt kịp đám bạn cũ, tôi hân hoan nhập bầy chung với đám bạn ngày xưa. Đây là giai đoạn mà tôi cần tiền để mua sách học và may thêm quần áo, thời tiểu học và trung học đệ nhất cấp thì mặc sao cũng được, nhưng bây giờ đã lên đệ nhị cấp rồi, đã bắt đầu biết đỏ mặt khi nhìn những đứa con gái trường nữ, thỉnh thoảng đã biết theo bạn tập uống cafe, phì phà điếu thuốc. Tiền mẹ cho không đủ, tôi bắt đầu công việc kèm trẻ tư gia để kiếm thêm tiền. Học trò của tôi là mấy cô cậu đệ thất đệ lục, nghĩa là cũng chỉ thua tôi vài tuổi.
Ba mẹ con tôi vẫn ngày ngày đi về căn nhà nhỏ, căn nhà vẫn không thay đổi một chút nào từ ngày bố bỏ mấy mẹ con để ra đi .
Hết năm đệ tam, tôi nộp đơn thi Tú Tài phần nhất. Tôi đậu bình thứ. Một lần nữa, mọi người ngạc nhiên, nhưng tôi biết sức học của mình, tôi biết mẹ buôn bán tảo tần, tôi thấy những năm tháng gần đây mẹ trở bệnh hoài, mỗi sáng mẹ lục đục dậy thật sớm nấu cơm để dành cho anh em tôi, rồi lặng lẽ mang đôi quang gánh lên vai, những tối ngồi trầm ngâm bên ánh đèn dầu nhìn anh em tôi học bài và những đêm khuya mẹ trở mình húng hắng ho. Tôi thương mẹ và em đến ứa nước mắt, và càng thương mẹ thương em, tôi càng học như điên, như cuồng. Tôi ước gì Bộ Giáo dục cho tôi thi hai bằng tú tài cùng một lúc. Nhìn mái tóc mẹ đã lớm chớm sợi bạc, nhìn lưng mẹ mỗi ngày mỗi như còng xuống, nhìn hai vai gầy của mẹ mà lòng quặn đau, và cứ thế, tôi vùi đầu vào sách vở…
Em đã bắt đầu tuổi lớn, đã bắt đầu tuổi mộng mơ con gái, đã bắt đầu bước vào “tuổi ngọc”, nhưng tội nghiệp, biết nhà mình nghèo, biết mẹ mình buôn thúng bán bưng, biết anh mình vẫn chiều chiều đi kèm trẻ kiếm thêm tiền và cặm cụi học đốt giai đoạn cho chóng thành tài. Biết thế nên em ít khi nào xin mẹ, xin anh tiền may áo mới, hai chiếc áo dài trắng đủ cho em thay đổi. Em lớn lên thiếu tình của bố, nên tôi “quyền huynh thế phụ”. Nhiều lúc nhìn mẹ, nhìn em, tôi vẫn không hiểu tại sao bố lại đành đoạn dứt áo ra đi.
Tôi thi đỗ Tú Tài toàn phần năm 18 tuổi, và ra Huế học Đại học Văn khoa. Mẹ ở một mình với em ở Đà Nẵng. Mỗi cuối tuần, tôi theo xe đò về thăm mẹ và em, đến sáng thứ hai trở lại trường. Ở Huế, tôi tiếp tục công việc kèm trẻ tư gia. Với số tiền nhỏ nhoi kiếm được, tôi phụ mẹ nuôi em.
Qua sinh nhật thứ 13 của em mấy tháng, một chiều mẹ bỏ buổi chợ, về nhà than nhức đầu, tưởng là cảm nhẹ, mẹ sai em cạo gió và nấu cho mẹ bát cháo hành. Khuya đó mẹ lên cơn sốt, lảm nhảm nói mê, sáng hôm sau em nghỉ học chở mẹ vào nhà thương và nhờ người nhắn tin ra cho tôi ở Huế.
Lật đật trở vào Đà Nẵng bằng chuyến xe đò chót. Trời tối đã lâu, không kịp ăn uống, từ bến xe tôi đi thẳng đến bệnh viện. Trong căn phòng nhỏ, dưới ánh đèn vàng mờ đục, mẹ nằm thiêm thiếp trên giường bệnh, còn em đang ngồi ngủ gà ngủ gật cạnh giường. Đứng yên lặng nhìn mẹ xanh xao bất động, và khuôn mặt thơ dại của em, trong giấc ngủ hai khóe mắt vẫn còn long lanh giọt lệ, tôi nghe lòng mình quặn thắt.
Đánh thức em dậy, em ngơ ngác dụi mắt vài giây. Nhận ra tôi, em nhào tới ôm chầm và òa lên khóc, em cho hay là từ lúc đưa mẹ vào đây, mẹ chỉ tỉnh lại một vài phút vào khoảng giữa trưa, sau đó mẹ hôn mê trở lại. Tôi an ủi em, rồi cùng em ra văn phòng bệnh viện. Cô y tá trực cho hay mẹ bị đứt một tĩnh mạch ở đầu. Tôi bàng hoàng như bị ai nện một nhát búa vào ngực. Cô y tá bùi ngùi nhìn em, đôi mắt xót xa.
Tối đó, anh em tôi cùng ở lại với mẹ, em mệt mỏi, nên chỉ một thoáng là đã ngủ say. Trong giấc ngủ mệt nhọc, thỉnh thoảng em ú ớ mẹ ơi, mẹ ơi rồi nức lên mấy tiếng. Tôi nghe như dao cắt trong lòng. Suốt đêm không ngủ, tôi cứ ngồi nhìn mẹ nằm im lìm và bên chân mẹ em ngủ chập chờn. Tôi tự nhủ thầm với mình đừng khóc, đừng khóc …. nhưng sao nước mắt vẫn cứ trào ra, một tay ve vuốt bàn tay xanh xao của mẹ, một tay nắm lấy bàn tay nhỏ bé của em, tôi để mặc cho hai dòng nước mắt chảy nhạt nhòa trên má.
Mẹ thở hơi cuối cùng lúc năm giờ sáng, mẹ không tỉnh lại để trăn trối với hai con một lời gì. Mẹ đi trong yên lặng. Tôi nắm bàn tay mẹ và thấy tay mẹ lạnh dần. Tôi đánh thức em dậy. Hai anh em hôn lên trán mẹ giã từ. Em vuốt mắt mẹ. Mắt mẹ nhắm hờ. Em ôm chặt hai tay mẹ, ủ vào lòng mình miệng kêu lên nho nhỏ: mẹ ơi, mẹ ơi… Em khóc lặng lẽ, áp mình vào ngực mẹ nước mắt em tuôn ràn rụa làm ướt đẫm cả vạt áo me bạc màu. Những tiếng kêu nghẹn ngào của em như những viên đạn bắn thẳng vào tim, tôi ngồi bất động nhìn mẹ, nhìn em, lòng đau như muối xát. Tội nghiệp mẹ tôi, tội nghiệp em tôi. Em mới mười ba tuổi …
Chôn mẹ xong, tôi bỏ học. Còn lòng dạ nào mà học nữa. Nhưng em thì phải trở lại trường.
Bán đi căn nhà nhỏ xiêu vẹo và gom tóm tất cả vốn liếng của mẹ để lại, tôi đưa hết số tiền cho mẹ của Minh, một người bạn thân tôi . Minh có Hân, cô em gái cùng tuổi , cùng lớp với em. Tôi gửi em đến đó ở và đi học với Hân, cũng may, bố mẹ Minh coi anh em tôi như con. Tôi dặn dò em đủ điều. Số tiền tôi gởi cho mẹ Minh đủ để trả tiền ăn ở của em trong hai ba năm. Tôi còn đưa thêm cho em một ít để em mua sách vở, may áo quần, tiêu vặt. Tôi ôm em và hứa với lòng, hứa với vong hồn mẹ là sẽ lo lắng, sẽ bảo bọc em cho đến trọn đời.
Tôi vào trường Võ Bị Đà Lạt năm 20 tuổi, lương sinh viên sĩ quan ít ỏi, tôi tiết kiệm không dám xài nhiều, để dành gởi về cho em mỗi tháng. Tôi dặn em viết thư mỗi tuần kể cho tôi nghe chuyện học hành. Tôi bắt em hứa là không bao giờ dấu tôi một điều gì dù nhỏ bé. Em ngoan ngoãn vâng lời. Mỗi năm tôi được về phép một lần, hai anh em quấn quýt không rời. Tôi đưa em đi thăm mẹ. Chúng tôi lặng yên cầm tay nhau quỳ bên mộ mẹ, nước mắt lưng tròng.
Em lớn lên và ngày càng giống mẹ. Cũng khuôn mặt và cái nhìn nhẫn nhục, cũng đôi mắt xa xăm buồn hiu hắt. Bình thường em rất ít nói, có lẽ không cha, mồ côi mẹ quá sớm và anh lại ở xa đã làm em rụt rè. Cũng may, bên cạnh em vẫn còn có Hân. Lễ mãn khóa của tôi, em và Hân cùng lên tham dự, lúc này, em đã thi đổ vào trường Sư Phạm Qui Nhơn, hai năm nữa em sẽ trở thành cô giáo, tôi hãnh diện giới thiệu em và Hân với các bạn mình. Nhìn dáng em thẹn thùng e ấp, tôi thấy lòng mình rạt rào thương em. Tôi thầm gọi mẹ, mẹ ơi, hai con của mẹ đã trưởng thành và đã nên người.
Ra trường, tôi chọn binh chủng nhảy dù, có lẽ cũng chỉ vì tôi thích màu mũ đỏ. Em vào học và ở nội trú trong trường sư phạm. Tôi thấy mình yên tâm hơn. Mỗi tháng, tôi vẫn gửi về cho em một nửa tiền lương lính của mình để trả tiền phòng, tiền ăn. Tôi biết con gái cần nhiều thứ hơn con trai, như áo quần, son phấn… Em vẫn viết thư cho tôi mỗi tuần như em đã làm trong mấy năm qua. Em kể chuyện học hành, chuyện bạn bè, em lo sợ là tôi đi tác chiến nhỡ có ngày bố con gặp nhau ở chiến trường, làm sao nhận ra nhau, em không nói thêm, nhưng tôi cũng hiểu, tên đạn vô tình, nếu nhỡ.
Hai năm em học Sư Phạm trôi qua thật nhanh. Em bây giờ đã là một cô giáo trẻ. Em được đổi về dạy tại một trường tiểu học gần thị xã Phan Rang. Em thuê nhà chung với hai cô giáo khác. Mỗi ngày ba cô giáo ngồi xe lam đi đến lớp, chiều về cả ba cùng quây quần nấu nướng. Em viết thư cho tôi và khoe có quen với Tuấn, một Sĩ quan Hải quân đồn trú ở Phan rang. Em khen Tuấn hiền lành, ít nói. Em kể thêm là Tuấn chỉ còn có mỗi một mẹ già.
Chiến tranh ngày thêm khốc liệt, đơn vị tôi hành quân liên miên, có khi cả năm chúng tôi mới được về hậu cứ một lần. Tôi bị thương hai lần trong cùng một năm. Tôi dấu em, không cho em biết sợ em lo lắng. Trong những tuần lễ nằm bệnh viện và ở hậu cứ dưỡng thương, tôi bắt đầu viết bài đăng trên các báo và tạp chí. Tôi kể lại những trận đụng độ kinh hoàng giữa đơn vị tôi và giặc Cộng, tôi kể lại những “kỳ tích ” của bạn tôi, của Mễ, của Lô ….
Sau một lần bị thương nhẹ ở tay, tôi lấy mấy ngày phép ra Phan Rang thăm em. Em mừng rỡ ôm lấy anh, nhưng khi thấy cánh tay băng bột em xót xa bật khóc. Tôi an ủi em là biết đâu sau chuyến bị thương này tôi sẽ được về làm việc hậu cứ. Ngày hôm sau, nghe tin, Tuấn đến thăm. Thoạt nhìn, tôi đã có cảm tình với Tuấn, đúng như em nói, Tuấn trông rất hiền lành. Trong suốt tuần lễ ở Phan rang, em vẫn phải đi dạy, nhưng may là có Tuấn, mỗi ngày Tuấn tới chở tôi đi ăn sáng, trưa Tuấn và tôi lang thang ra chợ bạ gì ăn đó đợi giờ ba cô giáo đi dạy học về. Buổi tối, em đi ngủ sớm, Tuấn ngồi lại nói chuyện với tôi cho tới khuya. Bên ly cafe, tôi kể cho Tuấn nghe chuyện của mình. Những hình ảnh yêu dấu, xót xa như một cuộn phim cũ quay chầm chậm. Tôi rưng rưng kể lại ngày mẹ mất. Tuấn lấy tay chùi mắt, trong đêm tối , tôi thấy mắt Tuấn long lanh …
Bảy ngày phép cũng trôi nhanh. Tôi trở về Saigòn, lòng cảm thấy vui và nhẹ nhàng vì đã có dịp gặp Tuấn. Tôi tin Tuấn sẽ không làm khổ em. Ba tuần sau, tôi nhận được thư Tuấn, trong thư Tuấn kể về gia đình (mặc dù tôi đã nghe em kể trong các lá thư). Tuấn muốn tiến tới với em. Tuấn xin phép được đưa mẹ Tuấn đến gặp tôi. Tuấn hứa là sẽ săn sóc và thương yêu em. Đọc thư Tuấn tôi ứa nước mắt vì mừng. Mừng cho em may mắn không gặp những trắc trở trên đường tình ái, mừng cho em gặp được một người chồng hiền hậu. Tôi viết thư cho em và Tuấn, bảo hai em lo thế nào cho tiện, chỉ cố làm sao cho giản đơn vì cả hai đứa cùng nghèo.
Bốn tháng sau, Tuấn và em làm đám cưới, nhà gái ngoài tôi còn có thêm mấy thằng bạn trong đơn vị, ông hiệu trưởng, thầy cô giáo và rất đông học trò. Nhà trai ngoài mẹ Tuấn, mấy gia đình anh chị họ còn thêm một số bạn bè Hải quân cùng đơn vị. Nhìn em xúng xính trong bộ đồ cưới, tươi cười đứng bên cạnh Tuấn, tôi gọi thầm mẹ ơi, mẹ ơi, về đây dự đám cưới của em.
Tôi theo đơn vị lội thêm hai năm nửa ở vùng giới tuyến, thì “tai nạn” xảy ra. Trong một lúc nóng giận vì thấy ông xếp của mình sao ngu và bẩn quá, tôi không giữ được lời và đã xúc phạm đến ông, kết qủa là tôi bị đưa ra hội đồng kỷ luật và tống ra khỏi binh chủng nhảy dù.
Sau một thời gian ba chìm bảy nổi, tôi đổi về cục Tâm lý Chiến, thời gian này tôi đã khá nổi tiếng, những bút ký chiến trường về Tết Mậu Thân, Bình Long. An Lộc … đã làm vinh danh binh chủng cũ của tôi. Tôi được giải thưởng văn học với bút ký “Mùa Hè Đỏ Lửa”. Tiền thưởng và tiền bán sách tôi gửi hết cho em. Tuấn và em dùng tiền này mua được một căn nhà nhỏ ở ngoại ô Phan rang, gần trường em dạy.
Mới ngày nào đó còn thẹn thùng nấp bên vai Tuấn mà bây giờ em đã mấy con. Mỗi dịp rảnh rỗi, tôi lại ra Phan rang ở chơi với em, với cháu. Tôi ôm cháu, hôn vào hai má phúng phính, hít vào phổi mùi thơm của trẻ thơ mà thấy lòng mình dịu lại, những cay đắng, cực nhọc của đời theo tiếng cười lanh lảnh giòn tan của cháu mà bay xa, bay xa. Tôi nhìn hai vợ chồng em, nhìn bầy cháu nhỏ lẫm chẫm quây quần bên chân mẹ mà lòng vừa vui mừng vừa hãnh diện. Tôi ao ước mẹ tôi nhìn thấy được cảnh này .
Biến cố tháng 4 /75 tới như một định mệnh oan nghiệt, cả Tuấn và tôi đều phải ra trình diện cải tạo. Em ở lại một mình với một bầy con nhỏ, đứa lớn nhất chưa đầy sáu tuổi và đứa nhỏ nhất còn nằm trong bụng mẹ. Trong trại, tôi cứ đứt ruột nghĩ về em và bầy cháu nhỏ. Mẹ của Tuấn đã quá già, làm sao lo phụ với em đây. Rồi em còn phải lo lắng về số phận chồng, số phận anh. Tôi quay quắt như ngồi trên đống lửa, tôi nghĩ đến lời hứa với vong hồn mẹ hôm nào mà lòng đau như xé, con đã thất hứa với mẹ, mẹ ơi, con đang ở đây tù tội thì làm sao lo được cho em …
Năm 76 tôi bị đưa ra Bắc. Tôi mất liên lạc với em và Tuấn từ tháng 5/75. Làm sao em biết tôi ở đâu mà thư từ thăm gửi. Không biết em có biết Tuấn ở đâu không, trại tù mọc lên như nấm từ Nam ra Bắc. Hồi còn ở trong Nam, từ Trảng lớn, qua Suối máu, đâu đâu tôi cũng cố dò hỏi tin Tuấn nhưng vô hiệu. Tù nhân đông quá …
Trại cải tạo Sơn La, sau đợt cho viết thư về gia đình đầu tiên, ba tháng sau tôi nhận được thư em. Thư em đến tay tôi vào giữa năm 77. Hơn 2 năm 1 tháng tôi mới nhìn lại nét chữ của em. Run run bóc thư, mắt tôi cay nồng, nhạt nhòa. Em cho hay là Tuấn đang cải tạo ở Long Thành, Tuấn có thư về và cho biết vẫn bình an, mẹ Tuấn dạo này yếu lắm vì cụ đã quá già, em vẫn đi dạy, hai cháu nhỏ ở nhà với bà nội, hai cháu lớn theo mẹ vào trường, em cho hay đứa con gái út em đặt tên Tâm, Trần thị Minh Tâm, cháu sinh ngày 12 tháng 9 năm 75, gần 4 tháng sau ngày bố cháu và bác cháu vào tù.
Gần cuối thư, em báo tin là bố còn sống và hồi đầu năm 76 có tìm đến gặp em, làm sao bố tìm ra địa chỉ thì em không biết, nhưng hôm ấy bố đến, bố tự giới thiệu tên mình. Em ngỡ ngàng, ngày bố ra đi em mới tròn ba tuổi, hơn hai mươi năm sau gặp lại làm sao em nhận được, bố xoa đầu đám cháu ngoại đang trố mắt nhìn người đàn ông lạ, bố hỏi về anh, về Tuấn, khi em hỏi lại bố là làm sao để biết anh và Tuấn đang bị giam giữ ở trại cải tạo nào, bố lắc đầu không nói gì. Bố cho hay là bố đang có gia đình ở Bắc, ngoài ấy bố có thêm hai trai và hai gái. Đứa trai lớn nhất thua em bốn tuổi.
Bố mang vào cho em hai mươi ký gạo và một chục cam. Bố ở chơi một ngày rồi trở về Hà nội. Lúc bố về em có tặng bố cái radio-cassette của anh cho ngày nào. Bố thích lắm, bố hứa sẽ đến thăm anh trong trại tù. Từ hồi trở ra Bắc dến giờ bố chưa liên lạc lại với em, và em cũng không có địa chỉ của bố ở ngoài ấy.
Tôi đọc thư lòng thấy phân vân, tôi cũng như em, không hình dung ra nổi bố tôi hình dáng mặt mũi ra sao, hai mươi mấy năm, tôi tưởng bố tôi đã chết.
Tháng 12 năm 77, tại trại cải tạo Sơn La, bố đến thăm tôi.
Đứng trong văn phòng viên sĩ quan trưởng trại một người đàn ông trung niên, tóc muối tiêu và gương mặt xương. Bộ áo quần dân sự khá thẳng thớm, và sự lễ phép của tên đại úy trưởng trại tiết lộ về địa vị không nhỏ của người này. Thấy tôi vào, viên trưởng trại quay qua nói nhỏ một câu gì đó rồi bước ra ngoài. Tôi im lặng đứng nhìn người đàn ông xa lạ.
Bố đến bắt tay tôi, tự xưng tên mình, bố gọi tôi bằng anh, bố kể là đã gặp em ở Phan rang, bố hỏi tôi học tập thế nào, bố không hề nhắc đến mẹ, có lẽ ông đã biết về cái chết của mẹ. Bố nói là có đọc văn tôi. Tôi ngồi yên nghe bố nói, sau cùng, bố đứng dậy, móc trong xách ra một gói nhỏ bảo đó là đường và thuốc lá, trao cho tôi, khuyên tôi cố gắng học tập tốt để sớm được khoan hồng. Tôi nhìn vào mắt bố, lòng thấy dửng dưng. Tôi bắt tay bố rồi về lại lán mình.
Đó, cuộc hội ngộ của bố con tôi sau hơn hai mươi năm là thế đấy. Chắc cuộc tái ngộ giữa bố với em cũng tẻ nhạt như thế. Có cái gì đó ngăn cách, có cái gì đó phân chia, có cái gì đó tôi không hiểu và không diễn tả được. Bây giờ tôi hiểu vì sao cái tin quan trọng đến thế mà em lại chỉ đề cập một cách ngắn ngủi ở cuối thư.
Lần đó là lần đầu và cũng là lần duy nhất tôi gặp bố trong suốt 13 năm lang thang trong các trại tù biệt giam miền Bắc.
Tháng 12/78, chuyển trại lên Yên Bái, tôi nhận thêm được hai lá thư của em, trong bức thư gần nhất, em viết vào tháng 8/78. Em cho hay tình trạng rất khó khăn, phụ cấp đi dạy không đủ nuôi một mẹ già và bốn con thơ, em đã bán lần mòn hết những đồ trang sức và luôn cả những đồ vật trong nhà. Em vẫn chưa đi thăm nuôi Tuấn được một lần nào. Không thể để bốn cháu nhỏ ở nhà cho bà nội vì cụ bây giờ đã quá yếu, mỗi buổi ăn, Uyên, cháu lớn phải đút cho bà. Ngoài ra, mỗi tối, từ lúc chạng vạng em và Hoàng, hai mẹ con phải ra đầu ngõ, ngồi bán bắp nướng đến khuya để kiếm thêm tiền đong gạo. Em than là dạo này mất ngủ, sức khỏe yếu lắm, em sợ nhỡ có mệnh hệ nào …
Tôi thẫn thờ cả buổi vì bức thư em, ngày xưa tôi chỉ lo cho có mỗi mình em, còn bây giờ em phải lo cho bốn đứa con thơ và một mẹ già, kể luôn người chồng và ông anh đang tù tội là bảy, bảy cây thập giá đời đang đè nặng lên đôi vai gầy guộc, nhỏ bé của em. Tôi viết thư về an ủi, khuyên em cố gắng, tôi vỗ về em là có thể Tuấn sẽ được tha về sớm với em, với cháu, vì Tuấn đi hải quân và lon còn thấp, không có tội với cách mạng nhiều. Rồi tôi viết thêm cho em hai ba lá thư nửa mà vẫn không thấy hồi âm. Lòng tôi cồn cào, nóng như lửa đốt, những ngày dài tù tội, tôi không nghĩ đến cái đói, cái khổ của mình mà chỉ nghĩ đến em và mấy cháu, không biết giờ này, em và bốn cháu thơ dại đang có gì ăn ?
Tháng 6/79, một sáng trên đường lên rừng đốn nứa, tôi nghe loáng thoáng câu chuyện giữa các bạn tù. Họ nghe từ các bà vợ đi thăm nuôi kể lại, rằng ở Phan Rang có một chị có chồng đang đi cải tạo, chị chết đi, để lại bốn con thơ, đứa bé nhất mới lên ba, còn đứa lớn nhất chưa đầy chín tuổi . Tội nghiệp, họ hàng nội ngoại không có một ai. Tôi bỗng dưng thấy lạnh toát cả sống lưng, lại gần hỏi thêm thì người bạn tù cho hay là nghe nói chị ấy làm nghề cô giáo, có chồng sĩ quan hải quân đang đi tù cải tạo ở đâu đó trong Nam. Người chồng, trung úy hải quân trước cũng đóng ở Phan Rang. Trần Nguyên Tuấn, hải quân trung úy Trần nguyên Tuấn.
Tôi thấy đất trời đảo lộn, tôi thấy mặt trời nổ tung trong óc, tôi hụt hơi, miệng há hốc đứng như trời trồng giữa núi rừng Yên Bái, bên cạnh tôi tiếng người nói lao xao. Tôi không nghe gì hết, tai tôi lùng bùng, mắt tôi mờ đi, tôi đang nhìn thấy xác em nằm co quắp trên manh chiếu, bốn đứa cháu của tôi, cháu Minh Tâm chưa đầy ba tuổi đang lấy tay lay lay xác mẹ, cháu lớn Thu Uyên chưa đủ chín tuổi đang ôm chân mẹ khóc lóc ủ ê, hai đứa kia, Hoàng và Châu ngơ ngác đứng nhìn. Trời tháng 6 mùa hè Yên bái mà sao tôi thấy thân mình lạnh buốt. Tôi tê dại, tôi hóa đá, tôi không còn cảm xúc, tôi muốn hét lên cho tan vỡ cả vũ trụ này. Trong lung linh màu nắng vàng buổi trưa Yên Bái, tôi thấy bóng em nhập nhòa, chập chờn. Em của tôi, đứa em côi cút của tôi …
Mũi súng AK thúc vào cạnh sườn, người vệ binh chắc cũng ngạc nhiên không hiểu sao bỗng dưng tôi đứng như trời trồng giữa lộ. Anh quắc mắt nhìn tôi dò hỏi, tôi không nói gì, im lặng nhập vào dòng tù. Nước mắt chảy dài trên hai má hóp, tôi bước đi như kẻ mộng du …
Phan Nhật Nam

Monday, 28 March 2022

BÀI CŨ NHƯNG Ý NGHĨA VẪN MỚI KHI NHÌN LẠI 30-4-1975./-TCLãnh

 Phan Nhật Nam vạch mặt các tên VC nằm vùng bên Mỹ.

(Tuỳ nghi mà suy ngẫm … và nhìn chung quanh!)

 

 

Hôm nay, Tôi phải trở lại câu chuyện cũ để xác nhận một điều cay đắng Chúng Ta đã bị bức hại bởi chính kẻ nội thù nguỵ trang trong đội ngũ Chúng Ta – những tên VC nằm vùng.

 

I – Vụ Thứ Nhất

 

A person in a suit and tie

Description automatically generated with medium confidence

 

Trong nỗi nhục rã rời sau ngày 30/04/1975, khi lâm cảnh tại những trung tâm đăng ký trình diện hoc tập cải tạo, Chúng Tôi còn phải gánh chịu thêm tình trạng bàng hoàng của kẻ bị lừa gạt, khi nhận ra những người hôm qua còn là huynh đệ, bằng hữu, nay thoắt trở thành cán bộ với những y phục xa lạ thô kệch, chiếc nón cối chùm hụp và đôi dép râu quê mùa.

 

Lẽ tất nhiên những kẻ nầy không quên đeo trên người khẩu K 54 và chiếc băng đỏ. Tôi và Triệt, người bạn cùng khoá, gặp Lưu Thừa Chí ( cũng chung khoá 18 Ðà Lạt ) trong tình thế bẽ bàng đáng hổ thẹn nầy. Chí ngồi ghi danh người đến đăng ký với lon Thượng Uý – ba ngôi sao và một vạch ngang, địa điểm trường Trần Hoàng Quân, Chợ Lớn.

 

Thật sự, Anh Ta cũng có vẻ ngượng khi Triệt hỏi gằn với cách mỉa mai:

– Mầy làm cái gì mà kỳ cục như thế nầy ?

– Ờ … ờ tại vì kỳ làm ở Phong Dinh, tao có vài liên hệ với họ nên bây giờ họ nói tao giúp trong buổi chuyển tiếp. Tôi đứng xa chỉ nghe Triệt đến kể lại.

– Thôi kệ nó, mầy và tao lần nầy lại ở chung với nhau như 14 năm trước trên trường Ðà Lạt, chỉ khác bây giờ là trại tù Việt Cộng, đất trời tính ghê quá, con người không biết đâu mà lường.

 

Ngày 23/06/1975, Chúng Tôi vào trại Long Giao, Long Khánh, câu chuyện về một người gọi là Thiếu Tá an ninh Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà mang lon thượng uý Cộng Sản ngồi ghi danh, Anh Em không ai muốn nhắc lại, vì hiện tượng phản trắc đã lộ mặt và cùng khắp.

 

Tồi tệ hơn, những kẻ thay màu áo nầy hãnh diện với sự nghiệp tráo trở của mình – thành tích có công với cách mạng. Chữ nghĩa được dùng với toàn bộ tính đê tiện khinh miệt nhất. Tôi và Triệt mất liên lạc với nhau khi chuyển ra Bắc, sau chuyến đi địa ngục trên tàu Sông Hương, khởi hành từ Tân Cảng, Sàigòn, đúng Ngày Quân Lực 19 tháng Sáu, 1976.

 

Mười tám năm sau, 1994, tôi và Triệt lại gặp nhau ở Houston, đường Beechnut. Hai Chúng Tôi đã thật sự ở tuổi già sau 30 năm tuổi tù và tuổi lính, nhưng Triệt vẫn giữ nguyên cách thẳng thắng mạnh mẽ của người miền Nam như đang kỳ trai trẻ.

 

Lần gặp gỡ bắt đầu với câu hỏi gay gắt như đã chực sẵn từ lâu:

 

– Mầy nhớ vụ thằng Chí khoá mình trình diện năm 1975 không?

– Thằng Chí Thiếu Tá An Ninh Quân Đội, cũng là Thượng Uý Việt Cộng chứ gì? Tôi cũng sẵng giọng không kém.

– Hắn qua Mỹ rồi đó, HO, đi trước khi Mầy ở tù về, bây giờ đang ở DC, kỳ đại hội Võ Bị tháng 07 vừa rồi, Nó có mặt trong Ban Tổ Chức!!

– Mầy có giỡn không, Nó là Việt Cộng chính gốc, sao lại đi HO?

 

Câu chuyện được kể lại với những chi tiết bất ngờ, cho dẫu kẻ có trí tưởng tượng phong phú cũng khó lường phần bố cục.

 

Bắt đầu từ những năm đầu của thập niên 80, một số ít Sĩ Quan miền Nam thuộc những đơn vị chuyên môn như hành chánh tài chánh, quân cụ, quân nhu lần lượt được trở về chịu sự quản chế của địa phương sở tại.

 

Khoá Chúng Tôi do một may mắn hiếm có ( chỉ xẩy ra một lần với khoá 18 ), vào giai đoạn ra trường ( cuối năm 1963 ), khi chiến tranh tăng cường độ, tổ chức quân đội mở rộng nên cần một số Sĩ Quan về các đơn vị chuyên môn.

 

Những người may mắn nầy sau 1975 nhận thêm một lần hên, Họ được thả sớm hơn so với những người bạn ở các đơn vị tác chiến, mà theo đánh giá của cán bộ Cộng Sản thì món nợ máu của nhân dân chia ra 4 cấp:

Nhất Pháo, nhì Phi, tam Rằn Ri, tứ Chính Trị ( ý nói, lính pháo binh, phi công, biệt kích, nhảy dù, biệt động, thuỷ quân lục chiến và chiến tranh chính trị là những đơn vị đứng hàng đầu tội phạm ).

 

Nhóm Sĩ Quan may mắn của khoá 18 kia vào ngày 23/11/1981 ( kỷ niệm ngày mãn khoá học mười tám năm trước, 23/11/1963 ) tập trung tại nhà Nguyễn Ngọc Anh, biệt thự gia đình vợ, đường Pasteur cũ. Mười mấy anh, chị, lôi thôi, tơi tả vì trận đòn thù từ 1975 đến nay vẫn chưa hồi tỉnh, tính sổ lại 198 mạng cùi của ngày mãn khoá nay chỉ còn không tới 20, với 50 người tử trận vĩnh viễn không về, mươi kẻ tỵ nạn, vượt biên, số lớn còn lại hiện sống, chết không nên dạng người nơi các trại tù trong Nam, ngoài Bắc.

 

Trong giây phút mừng tủi của lần hội ngộ, bỗng nhiên, Lưu Thừa Chí xuất hiện. Mọi người đồng im bặt. Sau cùng, có người gắng gượng hỏi:

– Anh còn đến với Chúng Tôi làm gì?

– Tôi cũng đi cải tạo như các bạn, ở trại Cây Trâm!

 

Chí giả lả làm hoà, hắn đưa Giấy Ra Trại để làm bằng, và đề nghị được góp phần tiền lớn để cùng mua thức ăn, đồ uống về chung vui buổi họp mặt. Không khí hoá nặng nề, từng người lặng lẽ rút lui.

 

– Mầy có mặt hôm đó không? Tôi nôn nóng hỏi Triệt, cố tìm nên đầu mối.

– Có, năm đó tao mới về, về được một tháng thì Tết Tây.

– Thế thì nó cũng đi tù như bọn mình sao?

– Tù chỗ nào, sao Mầy ngu vậy, Thiếu Tá An Ninh Quân Đội thì phải đi ra Bắc chứ ; với lý lịch an ninh quân đội thì chẳng phải cần đến cấp Tá, chỉ Thiếu-Trung Uý hoặc Hạ Sĩ Quan nó còn tìm cớ để bắn chết không cần xét xử như ở trại Xuân Phước, Tiên Lãnh ngoài Trung. Thiếu Tá An Ninh Quân Đội nào để lại ở trại Cây Trâm, Bình Dương như thằng nầy ! Triệt gắt cao giọng lộ vẻ bực tức vì tôi vẫn chưa rõ đầu mối câu chuyện.

– Trại Cây Trâm ở đâu, ngày ở Long Giao không nghe ai nói đến.

– Ðó là trại tụi hình sự, cũng có Sĩ Quan, nhưng chỉ có cấp thiếu, Trung Uý, mà là thành phần gây vụ việc sau 1975, chứ không là đám tập trung tháng 05, tháng 06/1975 như bọn mình.

– Rồi sao nữa? Tao ngao ngán.

– Sao nữa, đm nó đi HO trước hơn ai hết, kỳ đại hội 7 vừa rồi ở DC, nó góp 1000 đô la cho ban tổ chức.

– Tiền đâu mà một thằng HO có ngay một ngàn để đóng?

– Mầy tìm nó mà hỏi!! Triệt gầm gừ chấm dứt câu chuyện với cách chưởi thề chậm rãi từng tiếng một.

 

Những nhân sự như Lưu Thừa Chí kể trên sẽ mãi mãi ở trong bóng tối với khả năng tầm thường, đối tượng công tác hạn chế riêng của nó, và giá như bị phát hiện ( như đã từng bị nhận ra lý lịch ), thì người quốc gia cũng chỉ giải quyết bằng biện pháp đóng cửa dạy nhau, coi như trường hợp xử lý nội bộ ( nói theo cách Cộng Sản ), bởi người phe quốc gia vốn dễ tính, không chấp nhứt đối với những kẻ tráo trở, bội phản, cũng do những kẻ nầy lỡ đã một lần là bạn bè cùng khoá, cùng hội, cùng trường.

 

Nói ra sợ xấu hổ cả đám, nhưng, vì năm 1994 kia, tôi mới qua Mỹ được mấy tháng, lòng còn đang sôi sục những chuyện cần được kể lại, với ý hướng ngây thơ – người bên ngoài cũng đang muốn nghe về những câu chuyện kia – dẫu những vụ việc nói ra gây nặng lòng, cau mặt.

 

Ba mươi khoá Ðà Lạt, trước và sau khoá 18 ( khoá Chúng Tôi bao gồm Lưu Thừa Chí ), không hề có trường hợp: Thiếu Uý tốt nghiệp trường Ðà Lạt được chọn đi ngành An Ninh Quân Ðội ngay lúc mãn khoá. Bởi, Sĩ Quan ngành tình báo nầy phần đông, nếu không nói hầu hết do ngành an ninh tuyển chọn từ các đơn vị, được huấn luyện ở những trung tâm quân báo, tình báo trong nước và ngoại quốc, sau một quá trình sưu tra an ninh đặc biệt ( thời Ðệ Nhất Cộng Hoà, trách nhiệm sưu tra thuộc một bộ phận của Văn Phòng Nghiên Cứu Chính Trị của Cố Vấn Ngô Ðình Nhu ). Thế nên, sự kiện viên Thiếu Uý tên gọi Lưu Thừa Chí được tuyển chọn đi ngành An Ninh Quân Đội từ ngày 23/11/1963, không thuộc thẩm quyền chỉ định của Ban Tham Mưu Trường Võ Bị, cũng không thuộc Phòng Tổng Quản Trị / Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH

 

– Nó xuất phát từ cấp độ cao hơn. Cao đến chỗ nào, Chúng Ta không thể biết, cũng không hề có khả năng được biết những bí mật quốc gia từ dinh Tổng Thống, dinh Thủ Tướng, bộ Quốc Phòng.

– Những bí mật hằng được đám tình báo chiến lược Việt Cộng nắm rõ đầu mối, ngọn nguồn.

 

Chúng Tôi không hề quan trọng hoá một sự kiện nhỏ nhặt, vì sau nầy, khoảng năm 1972, Chí để lộ cơ sở công tác: Y thả một nữ cán bộ Cộng Sản bị bắt giam tại Ty An Ninh Quân Ðội Phong Dinh. Âm mưu vỡ lở, Trung Tá Nguyễn Hữu Khiếu, Tiểu Khu Phó thụ lý nội vụ. Chí cầu cứu Trung Tá Khiếu với lý lẽ: Bị mê hoặc bởi sắc đẹp cô gái, chứ không phải do công tác nội tuyến.

 

Trung Tá Khiếu nay ở Montréal, kể lại câu chuyện nầy với Hội Võ Bị địa phương ngày 20/10/1996, có cá nhân tôi tham dự.

 

Năm 1960-1963, ông Khiếu là Ðại Uý dạy vũ khí ở trường Ðà Lạt. Do bản chất trung hậu, và cũng có phần tin, Chí lỡ dại do dáng dấp quê kệch, xấu trai nên ông Khiếu che chở Chí vì tình thầy trò ở giai đoạn 1972 kia.

 

 

II – Vụ Thứ Hai

 

Năm 1957 – xin nhắc lại, trước năm 1975 mười tám năm trước, trước vụ việc Lưu Thừa Chí như vừa kể trên gần một thập niên – một thanh niên tuổi chưa tới 20, lội qua sông Bến Hải vượt tuyến vào Nam.

 

Anh Ta đến khai cùng đồn Cảnh Sát Gio Linh là em ruột của viên Tướng Tư Lệnh Quân Khu 2, đóng tại Huế. Viên Tướng cho người ra đón Em, đem về hỏi lý do vượt tuyến.

 

Anh thanh niên tỏ bày, vì có anh là Tướng Lãnh miền Nam, nên gia đình ngoai Bắc bị vây khổn chính trị ngặt nghèo, bản thân Anh Ta không được đi học và chịu cảnh sống cơ cực kinh tế, hoặc người anh Cả ( anh ông Tướng ) vốn là Trung Tá binh chủng Phòng Không Không Quân bộ đội Miền Bắc, dẫu có công trận lớn vẫn không được thăng cấp.

 

Ðược anh nuôi ăn học, người thanh niên sau bậc trung học, tình nguyện đi lính với hoài bão nói ra lời: cũng muốn được sự nghiệp vinh quang trong quân đội như anh. Anh Ta tốt nghiệp khoá Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức, đổi về binh chủng Hải Quân, Bộ Tư Lệnh vùng 4 Sông Ngòi ở Mỹ Tho. Những năm 70, anh lên Thiếu Tá, được mệnh danh là VC Killer, do thành tích, cuối mỗi cuộc hành quân, anh kéo xác Việt Cộng sau tàu chạy dọc bến sông để biểu dương ý chí chống Cộng!

 

Những ngày cuối tháng 04/1975, viên Tướng cho người em Út, Phó Quận Hành Chánh quận Tân Bình, Gia Ðịnh về Mỹ Tho, kêu vị Thiếu Tá VC Killer về Sài Gòn để cùng gia đình lớn đi Mỹ. Thiếu Tá VC Killer mạnh mẽ khẳng định với người Em:

– Tui chỉ là Thiếu Tá, Chú là Quốc Gia Hành Chánh, có gì mà phải sợ cách mạng, Ông Ấy là Tướng mới cần đi Mỹ, còn Chú với Tôi thì ở lại xây dựng đất nước, hoà bình thống nhất rồi Ta còn mong ước gì hơn.

 

Sau 30/04/1975, Thiếu Tá VC Killer, người Em Quốc Gia Hành Chánh đồng hồ hởi, phấn khởi trình diện học tập cải tạo. Người Em vào trại Long Thành, Biên Hoà ; Thiếu Tá VC Killer ra trại 1, Ðoàn 776, xã Việt Hồng, Hoàng Liên Sơn.

 

Gặp tôi đi vác nứa giữa đường vào Cốc, Thiếu Tá VC Killer đưa tay ngoắc thân ái và hỏi thăm về người Em Quốc Gia HànhCchánh – cũng là em Rể, lấy em gái tôi, Phan Ph Kh.

 

Một năm sau, khoảng mùa Hè 1977, một cán bộ mặc thường phục từ Hà Nội đến Bộ Chỉ Huy Đoàn 776, gặp viên Chính Uỷ Đoàn.

 

Thiếu Tá VC Killer được tha ra khỏi trại, về Ban Mê Thuột hành nghề giữ xe đạp với căn cước mới: Thiếu Tá nguỵ quân học tập tiến bộ, trở về do chính sách khoan hồng nhân đạo của cách mạng.

 

Chỉ có một điều không ghi vào lý lịch, ấy là, đối tượng công tác của Thiếu Tá Hải Quân Nguỵ – VC Killer trong giai đoạn mới là những ai. Hoặc là thành phần Fulro phản động đang âm mưu nổi loạn ở Tây Nguyên, cũng có thể là đám cán bộ Cộng Sản mới được bố trí vào Tây Nguyên mà thành phần chưa đồng nhất, nên cần phải theo dõi, báo cáo công tác theo hệ thống riêng của Cục Bảo Vệ Chính Trị thuộc quyền chỉ huy trực tiếp duy nhất của Ban Tổ Chức Trung Ương Ðảng – Cơ quan bao trùm cả Bộ Nội Vụ, lẫn Cục Tình Báo Hải Ngoại.

 

Thiếu Tá VC Killer hay người thanh niên vượt tuyến là Thái Quang Chức ;
– người Anh Cả là Trung Tá Thái Quang Hồng, binh chủng Phòng Không Không Quân bộ đội miền Bắc ;

– người Anh Thứ là Thiếu Tướng Thái Quang Hoàng, Tư Lệnh Quân Khu 2.

 

Từ năm ấy đến nay, trên đất nước Việt Nam, nơi Hải Ngoại, hằng vạn, triệu người đã chết. Chỉ một số còn sống, nhưng vẫn – giữ nguyên bí số – Những người như Thái Quang Chức, Lưu Thừa Chí và rất nhiều – rất rất nhiều nữa – những kẻ vô danh, tầm thường, chuyển công tác theo hệ thống ngang – từ nhân viên Cục Bảo Vệ Chính Trị lên thành nhân viên Cục Tình Báo Hải Ngoại – dưới quyền chỉ đạo nhất quán thuộc hệ thống dọc bất khả thay thế: Ban Tổ Chức Trung Ương ÐCSVN.

 

 

III – Vụ Thứ Ba

 

Bắt đầu mùa Hè năm 1990, chương trình ODP được thực hiện với đối tượng cựu tù nhân cải tạo qua kế hoach H ( Chỉ danh nầy bị hiểu nhầm một cách có ý nghĩa thành HO ), cá nhân tôi cũng nộp hồ sơ theo thủ tục chung tại Trung Tâm Xuất Nhập Cảnh 333, Nguyễn Trải, Sài Gòn ( trước Tổng Nha Cảnh Sát đường Võ Tánh cũ ).

 

Sau thời gian chờ đợi, trung tâm trả lại hồ sơ với lý do: trên chưa có quyết định về những trường hợp thuộc diện như cá nhân tôi. Sau vài lần vượt biên không thành, hơn nữa các trại tỵ nạn cũng đang có kế hoạch đóng cửa, Nhạc Mẫu Tôi thử cố gắng thêm một lần nhân chuyến ra Bắc thăm họ hàng, với đầu mối – Trung Tâm Trung Ương, Cục Xuất Cảnh, Bộ Nội Vụ, 40 A Hàng Bài Hà Nội. Trung tâm ra giá, 500 000 đồng tiền Việt, cụ tặng thêm 100 000 đồng cho nhân viên làm biên lai thâu nhận hồ sơ.

 

Ngày hôm sau, trung tâm Hàng Bài trả lại hồ sơ với lý do tương tự của đường Nguyễn Trãi. Cuối cùng, HÐ Ngoạn và PÐ Vượng, ( hai người bạn thân, biết hầu hết nhân sự và vụ việc của Sài Gòn trước lẫn sau năm 1975, do đường giây giang hồ riêng ) chỉ cho tôi đến địa chỉ 206 Nguyễn Trãi, cạnh rạp chớp bóng Khải Hoàn, sát cổng xe lửa số 1.

 

Cơ sở không bảng hiệu, nhân viên mặc thường phục đón khách với thái độ Chúng Tôi đã biết rõ tất cả. Mà quả thật như thế, người tiếp tôi bắt đầu với câu chào anh Nam có mạnh khoẻ không? Anh Ta đứng dậy, mở tủ, nói với vẻ tự tin:

– Tôi biết anh nhiều lắm!!

 

Rồi anh cho coi Chứng Chỉ Nhảy Dù do Trung Tâm Huấn Luyện Sư Ðoàn Nhảy Dù cấp, Trung Tá Trần Văn Vinh ấn ký, với lời giới thiệu: Trung Uý Trần Trung Phương, gốc Đại Đội 33 Tiểu Ðoàn 3 Dù, và đơn vị cuối, Biệt Ðội Quân Báo Ðiện Tử Sư Đoàn.

 

Nhưng, Trần Trung Phương không chỉ là Sĩ Quan nằm vùng nơi Biệt Ðội Ðiện Tử Sư Ðoàn Dù, mà còn là nhân viên đặc vụ của sở phản gián Bộ Nội Vụ Cộng Sản, nên Anh Ta đã có kết luận mau chóng: Tôi có thể làm hồ sơ để anh ra khỏi nước trong vòng tám tháng là tối đa, gia đình anh tại Mỹ trả 2000 đô la cho người Chúng Tôi bên đó, và thêm một vài điều kiện khác

 

Lẽ tất nhiên, tôi không thể thực hiện những đề nghị của Phương, từ 2000 đô la đến những điều kiện khác.

 

Sau nầy, năm 1993, để giúp một người quen giải quyết một khó khăn tương tự, tôi đi tìm Trần Trung Phương ở địa chỉ mới, một văn phòng trong khách sạn góc đường Nguyễn Văn Trỗi ( Cách Mạng cũ ) và Trần Quang Diệu. Nhân viên văn phòng nầy cho biết Phương đã có mặt ở Nam Cali, vùng Westminter với nhiệm sở mới là một văn phòng dịch vụ du lịch.

 

Những bãi đáp đổ quân, vị trí hoả tập tiên liệu, toa độ dội bom B52 của Sư Ðoàn Nhảy Dù trong chiến dịch Hạ Lào Lam Sơn 719 đã bị quân báo Cộng Sản giải mã từ nhiều đầu mối.

 

Một trong những đầu mối hiểm nghèo kia có sự tham dự rất tích cực và hiệu quả từ Biệt Ðội Ðiện Tử và Phòng Hành Quân của sư đoàn. Và tại cơ quan hành quân tối mật nầy đã không cần đến một Sĩ Quan nằm vùng với cấp bậc Trung Uý như Trần Trung Phương, nhưng chỉ cần một Hạ Sĩ Quan vẽ phóng đồ hành quân – viên Hạ Sĩ Nhất mà tôi đã từng thấy mặt, luôn làm việc im lặng, chăm chỉ của phòng 3 khi đơn vị còn mang phiên hiệu Lữ Ðoàn Nhảy Dù, năm 1963.

 

Ngày 30/04/1975 viên Hạ Sĩ Quan nầy hướng dẫn Trung Tá Nguyễn Văn Tư, Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh Sư Ðoàn qua Camp Davis, Tân Sơn Nhất gặp cán bộ Cộng Sản để bàn giao hồ sơ trận liệt của đơn vị mà Y đã lưu giữ, cập nhật từ 10-20 năm qua.

 

 

Lời Khẩn Cầu Viết Với Giá Máu

 

Tôi đã quá tuổi để bắt đầu một dự định mới, cho dẫu kế hoạch dự trù ấy cần thiết, cấp bách đến bao nhiêu, bởi thời gian còn lại không cho phép và việc chưa hoàn tất lại quá nhiều. Nhưng tôi phải có bổn phận chỉ đích danh những cá nhân tác hại điển hình như

* Lưu Thừa Chí,

* Trần Trung Phương,

* TQ Chức,

* những viên Hạ Sĩ Quan, những Công An Cộng Sản ( đi theo diện ghép với những gia đình HO, ODP ) như vừa kể trên ( hiện tràn lan khắp cộng đồng Người Việt Hải Ngoại ).

 

– Một nhiệm vụ không thể trì hoãn và khoan thứ, vì đây không là sự việc liên hệ giữa những cá nhân, nhưng là sự tồn vong sinh mệnh chính trị của một tổng thể rộng lớn. Không phải chỉ khối Người Việt Miền Nam mà là toàn Việt Nam khổ nạn. Bởi Chúng Ta, người Việt Không Cộng Sản – không bao giờ là đảng viên Cộng Sản – đã lần lượt thua những trận quyết định liên quan đến vận mệnh toàn dân tộc, lần tháng 08/1945, và lần 20/07/1954, và lần cuối cùng 30/04/1975.

– Và nếu hôm nay, Chúng Ta không điều chỉnh sách lược để nhìn rõ địch tình thì e rằng khí thế của lần Cali Vùng Dậy Cờ Vàng 1999, những Ðêm Tuổi Trẻ Thắp Nến sẽ trở nên vô ích, gây tàn lụi nguồn hy vọng bức thiết từ Xuân Lộc, Long Khánh, Thái Bình.

– Chúng Ta sẽ mãi mãi là Người Việt Xấu Xí trước mắt thế giới do âm mưu từ một kẻ nội thù hiểm độc. Nhưng, cũng phải nói rõ thêm một lần hay bao nhiêu lần mới đủ:

– Ðây là lỗi từ Chúng Ta. Cứ sẵn khắc nghiệt cáo buộc, chụp mũ, tranh chấp cùng nhau để rảnh tay cho kẻ thù, cũng đồng nghĩa vô tình tiếp tay kẻ nghịch, bức hại Anh Em – với biện pháp cuối cùng và độc nhất – cáo buộc người bạn của minh là Cộng Sản, do sau khi đã không tìm ra được nơi bạn mình một lỗi lầm nhỏ nhặt nào. Cuối cùng, chính bản thân ta đơn độc nguy khốn, vì lẽ đã tự tay phá huỷ vũ khí đoàn kết của chính mình. Ðau đớn bao nhiêu. Uất hận bao nhiêu!

 


Phan Nhật Nam

-----------------------------------------------

 

Việt cộng nằm vùng khắp nơi

 

 

Theo VOA tiếng Việt, một trong những nguyên nhân đưa đến thất bại của VNCH là do sự lũng đoạn và phá hoại của bọn gọi là "thành phần thứ ba". Vài tháng trước tôi có đọc một số tài liệu, sách, hồi ký của nhiều tác giả khác nhau, trong một đoạn nào đó, các tác giả có đề cập đến thành phần "thứ ba".

 

Rất tiếc khi ấy không định viết về đề tài này vì vậy không ghi lại đầy đủ chi tiết và xuất xứ, nguồn gốc trích dẫn. Xin bạn đọc thứ lỗi. Đoạn nào nhớ tên tài liệu, chúng tôi sẽ ghi chú để bạn đọc tham khảo thêm. 

 

Trong bài có thông tin thâu lượm qua quen biết trong gia đình, hoặc tiếp xúc tình cờ, tất cả đều là tên thật, người thật không viết tắt, bọn "thứ ba" công khai ra mặt thời VNCH và sau khi VC chiếm cứ miền Nam, không lý do gì phải bao che cho chúng hay phải viết tắt.

 

Trong số thầy dạy ở trường Huỳnh Khương Ninh có Lê Minh Lương, Nguyễn Văn Hai tự Nguyễn Huy bị cầm tù vì hoạt động cho CS thời Đệ I Cộng Hòa. Mãn án, cả hai trở lại dạy học, Lê Minh Lương dạy nhạc và công dân giáo dục. Nguyễn Huy dạy công dân giáo dục và Quốc văn lớp đệ tam. Lê Minh Lương mệt mỏi và giảm tham gia với CS. Nguyễn Huy vẫn chê bai chính phủ, chỉ trích xã hội, bớt xông xáo hơn trước. Nhưng vẫn thích tiện nghi do VNCH mang lại: "Xe Honđa rất tốt. Con tao còn nhỏ, mỗi tối đã biết bật nút TV cho cả nhà xem chương trình truyền hình".

 

Nguyễn Văn Hợi là người Bắc di cư, dạy môn Vạn Vật, CS cực đoan. Sau khi VC chiếm miền Nam, hắn lộ mặt, vào làm ban An ninh nội chính (công an), lần hồi xin chuyển qua Sở Ngoại vụ, tha hồ nhận hối lộ, bóc lột những ai muốn ra đi hợp pháp. 

 

Nguyễn Văn Bảy hoạt động cho CS mạnh, luôn nhồi sọ học sinh với ngôn ngữ CS: "Kìa chiếc máy bay bỏ bom đồng bào...", CS thưởng công cho làm trưởng phòng Giáo dục quận Nhất một lượt với Lương Lê Đồng (sẽ đề cập sau). Nguyễn Văn Bảy bỏ vợ, lấy cô học trò tên Tùng (không nhớ họ) lúc ấy tuổi hắn đã hơn gấp đôi tuổi cô Tùng. Thời CS ai dám phàn nàn "đạo đức" mất dạy của bọn chúng!

 

Cổ tấn Văn Luông dạy sử địa đệ tứ, đệ nhị, từng giữ chức Bí thư chi ủy trường Huỳnh Khương Ninh (trước năm 1975), tuyên truyền cho CS như sau: "Kỹ sư ngoài bắc rất giỏi, biết ghép cây bông vải của Ai cập vào phần trên của cây bông vải Việt Nam, nhờ thế miền bắc sản xuất dư thừa bông vải Ai cập". Nếu đúng như thế, tại sao quân CS Bắc Việt và sau này thường dân Bắc vào Nam vơ vét, mua nhiều vải vóc, kể cả vải nội hóa (do các nhà mày dệt ở Sài Gòn sản xuất) mang về bắc? 

 

Ông này có người em là sĩ quan Thủy quân Lục chiến VNCH tử trận, sau thời gian ở với CS, ông nhận ra bị CS lừa, tương tự như Nguyễn Huy, sinh ra bất mãn. Nhưng chỉ dám bày tỏ qua phần "thắc mắc" trong các buổi nhồi sọ chính trị (ngành giáo dục), chứ chẳng dám làm gì hơn. Con trai ông Văn Luông, cho đi vượt biên và định cư tại Úc, gia đình ông Văn Luông qua Úc do bảo lãnh của người con. Xong một đời hoang phí theo đuổi chủ nghĩa CS rồi thất vọng, uất hận.

 

Nguyễn Văn Đức dạy Lý Hóa, thích cộng, chống bất cứ chính phủ nào của VNCH, mạnh miệng tuyên truyền: "Ở ngoài bắc tự do và sung sướng hơn, chỉ có dân Việt với nhau...". 

 

Sau vài tháng nếm mùi đi họp ở địa phương hằng đêm cuối đầu nghe bọn nhóc con CS tuyên truyền "chiến thắng" và sự "nghèo khổ" của miền Nam, hay xếp hàng mua gạo, bánh mì khô, khoai lang lúc nửa đêm, Nguyễn Văn Đức nhìn thấy tận mắt sự nghèo nàn, ngu dốt, hống hách và luôn khủng bố tinh thần dân chúng của bọn cán bộ CS, Đức chỉ biết nói:

 

"Sao kỳ vậy, không giống như đảng nói trước đây!". Khi hiểu CS đã quá muộn, tròng nô lệ "Liên Xô, Trung Quốc vĩ đại" đã siết chặt quanh cổ.

 

Hiệu trưởng Lương Lê Đồng, người Huế bạn đồng học trường Pellerin Huế với ba tôi, tuy đồng tuổi nhưng ông này học sau ba tôi vài lớp (theo lời ông nói). Ông Lương Lê Đồng vào tù ra khám thời Đệ I Cộng Hòa và Đệ II Cộng Hòa do hoạt động chống đối chính phủ. Do đó trường Huỳnh Khương Ninh dung túng nhiều thầy giáo CS hoặc chống đối chính phủ VNCH.

 

Có lần bị bắt tại nhà riêng đường Nguyễn Phi Khanh, một học trò cũ của ông là Đại úy cảnh sát, đến gõ cửa nói: "Thầy ơi, lần nầy thầy đi 6 tháng", rồi anh thong thả đứng đợi trước cổng trong khi ông Lương Lê Đồng sửa soạn áo quần, từ biệt vợ con.

 

Người học trò cũ - Đại úy cảnh sát, trân trọng mời “thầy” lên xe ngồi phía trước cạnh tài xế, chính anh lên ngồi cạnh “thầy”, không cho còng tay thầy cũ và cũng không cho ngồi băng sau như những tội phạm khác. 

 

Học trò thấm nhuần giáo dục VNCH mới đối xử với kẻ địch và là thầy học cũ như vậy. Với CS, kẻ địch phải giết, phải đánh, phải "mầy tao" không lễ nghĩa, lịch sự chi cả.

 

Tuy vẫn treo cờ VNCH trước cổng, thoả thuận của Lương Lê Đồng, Nguyễn Huy cùng Cổ tấn Văn Luông lẳng lặng không cho học sinh chào cờ VNCH mỗi sáng thứ hai như ở các trường khác, thay vào đó gọi là chào "Hiệu đoàn kỳ trường Huỳnh Khương Ninh" và hát "Hiệu đoàn ca Huỳnh Khương Ninh", không hát quốc ca VNCH. Một âm mưu có tính toán sâu xa nhằm đẩy học sinh ra xa VNCH, chen lẫn tuyên truyền trong lúc giảng bài của mấy "thầy" luôn binh vực miền bắc "xã hội chủ nghĩa", hay thêu dệt hình ảnh một xã hội CS hoàn hảo.

 

Sau khi VC chiếm miền Nam, Lương Lê Đồng được cho giữ chức Chánh sở giáo dục Sài Gòn của chính phủ (bù nhìn) Cộng hòa miền Nam Việt Nam (tức là chính phủ của bọn tự xưng là Giải phóng miền Nam, cờ nữa đỏ, nữa xanh dương đậm và có ngôi sao vàng ở giữa). Chẳng qua là bước đầu của CS đưa đám "nhân sĩ" thân cộng miền Nam ra, xoa dịu dân miền Nam không muốn CS Bắc Việt xâm chiếm. Không đầy một năm, Lương Lê Đồng mất chức và "được" cho gia nhập Mặt trận Tổ quốc của VC. 

 

Khoảng năm 1978, gặp lại một thầy khác, ông cho hay Lương Lê Đồng đau bệnh nặng nhiều năm, vắng mặt trong Mặt trận tổ quốc VC, sau đó đi chầu Marx.

 

Mặt trận Tổ quốc, công cụ hạng bét của CS Bắc Việt, bao gồm mọi thành phần không thể cho vào tổ chức nòng cốt của đảng CS. Thầy chùa thân cộng, sư cái, sư đực VC, linh mục VC, nhân sĩ, trí thức thân cộng, bám đuôi CS đều cho vào nồi cháo heo, thập cẩm, tả pí lù: Mặt trận Tổ quốc, dễ kiểm soát, kềm chế và trừng phạt khi cần. Vài thí dụ điển hình: sư cái Huỳnh Liên, linh mục VC: Phan Khắc Từ, Trương Bá Cần, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Huỳnh Công Minh, hay bọn biểu tình phá rối: Ngô Bá Thành, Cao Thị quế Hương, Huỳnh Tấn Mẫm, Trịnh Đình Ban, Lê Văn Nuôi...

 

Tại sao Bộ Giáo Dục, Bộ Nội vụ, Cảnh sát quốc gia không làm gì trường Huỳnh Khương Ninh?

 

Lý do:

 

- Trường đào tạo nhiều thế hệ học sinh từ đời Pháp thuộc (khi ấy chưa bị CS thao túng), các cựu học sinh nâng đỡ trường như Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, ông Phạm văn Phàng (Chánh văn phòng Phủ Thủ tướng VNCH). Ông Phạm Văn Phàng từng dạy học tại trường lâu về trước, nhưng vẫn cố giúp đỡ trường nơi hai con ông theo học. Uy tín của ông làm bên cảnh sát nhẹ nhàng hơn với trường Huỳnh Khương Ninh.

 

Người miền Nam nói chung coi trọng tình nghĩa, đó là kẻ hở để CS lợi dụng. 

 

- Các thầy giáo khác chỉ dạy học và làm ngơ không theo CS, rất nhiều thầy cô ở vào loại này, cũng là khuyết điểm của dân miền Nam trước đây, muốn yên thân, không đụng chạm chuyện người khác, tự nhủ "không làm chính trị", hoặc "việc của cảnh sát, của chính phủ, mình chỉ là thường dân!"

 

- Thầy Khánh Trương, xin được chân dạy toán ngay ổ CS Huỳnh Khương Ninh. Ông rất trẻ, đẹp trai, đi dạy học bằng xe mô tô loại lớn. Giữa giờ học, một tên VC lạ mặt bước vào lớp, chĩa súng vào ông Khánh Trương, tên này tuyên truyền CS trước cả lớp, sau cùng hắn nói với ông Khánh Trương: "Tụi tôi biết anh là CIA, lần này chỉ cảnh cáo". Xong hắn chạy ra khỏi trường. Câu chuyện lan truyền từ lớp này sang lớp khác, nhốn nháo cả trường vài ngày.

 

Ai mở cửa trường trong giờ học để VC vào đe dọa thầy giáo? Tên VC lạ mặt chỉ vào ngay lớp của thầy Khánh Trương, tất nhiên phải có chỉ điểm của VC trong trường. Có thật ông Khánh Trương là CIA hay không, hay đó là luận điệu muôn đời của VC. Hoặc ông được Cảnh sát quốc gia giao theo dõi hoạt động bọn thầy giáo CS, nên chúng phải loại ông ra.

 

Hết niên học, thầy Khánh Trương nghỉ luôn.

 

Gặp thầy Vương Gia Khánh ở hải ngoại, ông nói - bọn CS trường Huỳnh Khương Ninh từng móc nối ông hoạt động cho chúng. Ông Khánh - cựu học sinh của trường, thiếu úy hiện dịch giải ngũ vì bị thương, không còn khả năng chiến đấu. Theo ông, VC cho rằng ông là đối tượng tốt nhất, cựu sĩ quan QLVNCH, thương phế binh, nếu hoạt động cho VC, sẽ ít bị nghi ngờ. Ông Khánh từ chối, chỉ dạy học không tham gia chính trị. Ông mỉa mai gọi ông Lương Lê Đồng là trái chanh VC đã vắt sạch nước, xong ném vào thùng rác. Thân phận chung của bọn nằm vùng ngu ngốc tin theo CS chỉ có thế, chứ không khá hơn.

 

Nói đến CS nằm vùng không thể bỏ qua Thích Trí Quang, tức Phạm Quang, có khi gọi là Phạm Văn Bòng (hay Bồng), tên trong lúc hoạt động là Đinh Văn Tánh.

 

Theo lời của chính hắn trong “Trí Quang tự truyện (2011)”, hắn nghiên cứu Bản tường trình thành lập Việt Minh năm 1941 của tên CS Trường Chinh soạn theo lịnh Hồ Chí Minh, và rất thích ý niệm đó (trang 10/40).

 

Trước năm 1963, Trí Quang có thương lượng với Tổng Thống Ngô Đình Diệm - hắn muốn chính phủ cắt phân nửa vườn Tao Đàn giao cho hắn xây chùa làm trụ sở, đồng thời chính phủ phải cung cấp 5 triệu đồng VNCH làm phương tiện hoạt động (khi ấy xe Mercedes mới, nhập cảng của Đức chỉ có 200 ngàn đồng tiền VNCH/chiếc). 

 

Tổng Thống Diệm trả lời - cả hai việc đó Tổng Thống lo không nổi theo đòi hỏi của Trí Quang (Trí Quang tự truyện trang 34/40).

 

Tìm hiểu thêm gốc gác của Trí Quang, (Thích) Trí Độ là thầy dạy đạo cho Trí Quang, (Thích) Thiện Minh, (Thích) Thiện Siêu...

 

Năm 1953 Trí Độ được Việt Minh cho làm Ủy viên Ủy ban Việt Nam Bảo vệ Hòa bình Thế giới (sic), sau khi Việt Nam chia đôi đất nước, Trí Độ ra bắc và cầm đầu Phật giáo miền Bắc cho đến lúc chết năm 1979. Trí Độ giữ chức Uỷ viên thường vụ quốc hội và Uỷ viên Chủ tịch đoàn Mặt trận tổ quốc tả pi lù của bắc Việt. Trí Độ được tưởng thưởng hai huy chương của CS.

 

Trí Quang và các bạn đồng học chịu ảnh hưởng tuyên truyền của Trí Độ. Sự liên lạc và cấu kết đã có từ lâu giữa Trí Độ và các môn sinh, giật dây điều khiển hoạt động của Trí Quang, Thiện Minh... trong chiến lược phá hoại nội tình VNCH, ẩn núp dưới danh nghĩa "bảo vệ đạo pháp".

 

Có người không tin Trí Quang là tay chân của CS, sau khi VC chiếm miền Nam, Trí Quang và đồng bọn không hề lên tiếng về sự đàn áp tôn giáo, ngược đãi sĩ quan QLVNCH trong các trại tù từ Nam ra bắc? Không hề biểu tình, không dọn bàn thờ ra đường phản đối, không “tuyệt thực nhưng vẫn uống sâm”, không tự thiêu, tự đốt, tự chặt tay chặt chân. Cũng không thấy ủy ban "tranh đấu" cho tù nhân được đối xử nhân đạo hay "cải thiện" chế độ lao tù thời CS.

 

Tất cả chẳng qua là "nhiệm vụ" phá hoại miền Nam đã làm xong, gây chia rẽ chính trị miền Nam đã hoàn tất. Cao Đăng Chiếm, và trùm khủng bố mười Hương tuân lịnh Phạm Hùng phải triệt hạ Trí Quang tức khắc, cô lập và loại bỏ đám lâu la thân cận từ thời trước CS, bọn nầy đội lốt tu hành (sic), cư sĩ hay "phật tử" để yểm trợ chiến dịch phá hoại VNCH, mỗi tên bị theo dõi thường xuyên, giam lỏng. Kể cả Tri Quang, không được ra khỏi chùa Già Lam, mọi hành động đều bị theo dõi. 

 

Thêm một trường hợp trái chanh hết nước phải vất thùng rác.

 

Danh sách bon CS nằm vùng phá hoại VNCH còn rất dài, lần hồi chúng tôi sẽ trình bày với bạn đọc, có chi tiết bạn đã biết rồi, cũng có chi tiết bạn đọc chưa biết.

 

Mục tiêu chính yếu là rút ra một bài học từ thất bại của VNCH. 

 

Những người chống cộng ở mọi lứa tuổi, mọi thành phần, có dịp suy gẫm thêm và không để CS lừa bịp lần nữa.

 

12.05.2020