Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label QGHCTruongVinhQuang(TruongPhuThu). Show all posts
Showing posts with label QGHCTruongVinhQuang(TruongPhuThu). Show all posts

Friday, 14 October 2022

 MẤY HÔM NAY CÓ NHIỀU CÂU HỎI VỀ LUẬT SƯ TRƯƠNG PHÚ THỨ - CŨNG CÓ TIN TÊN THẬT LÀ TRƯƠNG VĨNH QUANG QGHC 15- ÔNG NẦY LÀ AI MÀ DÁM CẢ GAN "VÓI TAY XA" QUÀNG VAI BÀ NGÔ ĐÌNH NHU LÀM HỌ HÀNG NGƯỜI NHÀ???./-Mt68 (*Ghi chú: Trong bài Trương Phú Thứ cho biết đã định cư ở Seattle từ Mùa Đông 1975- thuộc di tản- chứ không phải Boat people sau nầy./-Mt68)

___________________

CHUYỆN TRÒ VỚI BÀ NGÔ ĐÌNH NHU


Trương Phú Thứ

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, kể từ ngày chế đô. Đệ Nhất Cộng Hòa bị ngoại bang thuê đám quân nhân

làm đảo chánh và ám sát dã man Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu, đây là lần đầu

tiên Bà Ngô Đình Nhu tiếp xúc với một người Việt Nam và qua cuộc chuyện trò này, chúng ta được biết

một phần nào sự thực cuộc sống hiện tại của bà Ngô Đình Nhu, Tiếng Dân chép lại bài này từ nguyệt san

Dân Chúa Mỹ Châu số 332, tháng 10/2004 cống hiến độc giả để rộng đường dư luận. Phần nhận xét xin

dành cho người đọc.

Tôi đến thăm Bà Ngô Đình Nhu vào lúc 2 giờ trưa ngày 16 tháng 3 năm 2002 tại kinh thành Paris của

nước Pháp. Nắng êm dịu vừa lên sau buổi sáng ẩm ướt của những ngày đầu Xuân và Paris thì lúc nào

cũng chật ních những người và xe. Thành phố có cả một kho tàng bảo vật và huyền thoại. Ở đây người đi

bộ đầy đường với những tiệm ăn và quán cà phê nối tiếp chạy dài cả dẫy phố. Người Paris nhà h5 và ham

muốn hưởng thụ, chậm chạp nhưng thon thẻ hơn người Seattle. Cuộc sống thư giãn chậm chạp của những

ông Tây bà Đầm là niềm ước mơ của những người luôn phải vội vã lập cập với tốc độ từ sáng sớm đến

nửa đêm ở Cali hay Texas.

Bà Nhu ở một mình trong một đơn vị gia cư (apartment) của một tòa nhà mới xây gần tháp Eiffel. Nói là

mới để phân biệt với những chung cư san sát ở Paris đã được xây cả đến vài ba thế kỷ với những đường

nét hoa văn cổ kính. Chung cư Bà Nhu ở có những nét kiến trúc đương đại giống như một cái hộp khổng

lồ bằng kính, có lẽ đã được tạo dựng từ 30 đến 40 năm. Bà Nhu là sở hữu chủ hai (02) đơn vị gia cư ở

trên tầng lầu thứ 11 của tòa nhà cao tần ở khu vực có địa thế rất đẹp và đắt tiền nhất thủ đo. Paris, ngay

giữa cái nôi của văn hóa và chính trị thế giới. Nơi đây , một tấc đất chẳng biếg giá tới mấy chục hay mấy

trăm tấc vàng. Cả vùng này hầu như là nơi cư ngụ của các nhân viên và phái đoàn ngoại giao trên đất

Pháp. Bà Nhu ở một đơn vị và cái thứ hai cho thuê để lấy tiền sinh sống. Đó là lợi tức duy nhất của Bà,

cũng tiệm tạm đủ sống và không cần nhờ vả đến các con. Bà sống ản dật, đi về lẻ loi thầm lặng đến nỗi

một khuôn mặt quen thuộc của cộng đồng người Việt quốc gia ở Paris là cựu Trung Tướng Trần Văn

Trung vẫn nghĩ là Bà Nhu sống ở bên Ý.

Trên đường đến tham Bà Nhu, tôi vẽ ra trong đầu óc qua hình ảnh của những chung cư đắt tiền ở New

York hay San Francisco đã xem trên những tạp chí chuyên về địa ốc ở Mỹ và nghĩ là nơi cư ngụ của Bà

Nhu chắc phải sang trọng lắm. Những apartment của Jacqueline Kennedy hay Joyn Lennos ở New York

và của các tay tài phiệt ở San Francisco gợi cho tôi một náo nức mong chờ. Các cụ mình ngày xưa vẫn

nói "ăn cơm Tàu, ở nhà Tây" thì chắc là đã có một so sánh cẩn trọng. tôi bước đi vội vàng với những lung

linh nơi lãnh địa của giới thượng lưu. Những dòng họ quý tộc từ bao nhiêu đời cấu trúc nên vẻ hào

nhoáng phong nhã của kinh thành Ánh Sáng và dân cư ngụ dù ở chân trời góc biển nào lưu lạc tới đây

cũng được nhận lãnh ấn tích của người Paris.

Chiếc thang máy nhỏ hẹp vừa đủ chỗ đứng cho một ông Mỹ quá khổ đưa tôi lên tầng 11 của tòa nhà cao

tầng. Bà Nhu mở cửa đón khách trong chiếc áo kimono Nhật mầu xanh nước biển, khuôn mặt trang điểm

kỹ lưỡng với giọng nói đặc Huế không vồn vã mà cũng chẳng qua lạnh nhạt. Bà Nhu sắp vào tuổi 80

nhưng rất khỏe mạnh. Bà đi đứng nhanh nhẹn, lưng thẳng, đôi mắt to và sáng. Có người nói từ năm 1963

đến nay Bà chẳng già đi chút nào. Thật ra đó chỉ là một lối nói để diễn tả sức khoẻ sung mãn của một

người tuy đã nhiều tuổi đời nhưng vãn giữ được vóc dáng linh hoạt và nét mặt không có những nếp nhăn

theo thời gian. Tuy nhiên "cái già" cũng vất vưởng đậu đó trên khoé mắt vành môi. Khi Bà cười thì khuôn

mặt trông rất tươi trẻ phô bầy bộ răng trắng vẫn còn đầy đủ trong tình trạng hoàn hảo.

Chỗ ở của Bà Nhu tuy không nghèo nàn nhưng chẳng có gì đáng nói, ngay cả không bằng cái apartment

mà tôi thuê mướn ở ngoại ô thành phố Seattle vào mùa Đông năm 1975 khi vừa đến Mỹ. Đơn vị gia cư

của Bà Nhu rất tầm thường giống như những apartment rẻ tiền ở Mỹ với hai phòng ngủ và một diện tích

nhỏ làm phòng khách. Phía tay trái lối đi từ cửa ra vào là nhà bếp. Trên tường phòng khách treo vài

khung hình lớn có những tấm hình Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Đức Cha Ngô Đình Thục, Ông Cố Vấn

Ngô Đình Nhu, cô trưởng nữ Ngô Đình Lệ Thủy và nhiều người thân tộc đã quá vãng. Khoảng trống phía

bên tay phải là phòng khách có một bộ xa lông, bên cạnh kê bàn ăn với 6 cái ghế. Bộ bàn ghế này và cài

cái tủ nhỏ kê ngoài phòng khách làm bằng gõ gụ mầu đen với những nét chạm trổ Việt Nam quen thuộc.

Bà Nhu cho biết trước kia thân sinh là ông Bà Trần Văn Chương có một apartment ở Paris và những đồ

đặc này được mang từ Việt Nam qua, lâu lắm rồi. Khi hai cụ thân sinh bán cái apartment đi thi cho Bà


2


Nhu bộ bàn ăn và hai cái tủ nhỏ này. Tôi đã đọc mấy bài báo nói về khiếu thảm mỹ của Bà Nhu qua việc

sắp xếp và trang hoàng Dinh Độc Lập. Giờ này được đứng ngay giữa cơ ngơi của riêng Bà mà chẳng thấy

một "công trình" nào xem cho bắt mắt, có thể vì điều kiện tài chánh hay thời trưng diện của Bà đã qua.

Đứng ở nhà bếp nhìn ra ngoài có cảm tưởng như tháp Effeil sát ngay bên cạnh khung cửa kính. Tôi tiếc

thầm, phải như phòng khách mà được xếp đặt ở chỗ này thì đẹp biết bao. Ngồi đây nhâm nhi ly cà phê

nhìn thiên hạ từ khắp nơi trên thế giới đổ xô đến chân tháp chờ lên thang máy nhìn cả kinh thành Paris.

Ngày như đêm lúc nào cũng là hội hè đình đám. "Vui với cái vui của thiên hạ" chắc lòng mình cũng phần

nào đỡ trống trải. Có lẽ cũng vì vậy mà phòng ngủ bên cạnh nhà bếp có kê một bộ xa lông để bù đắp lại

sự thiếu sót to lớn của người thiết kế khu chung cư. Phòng ngủ thứ hai là chỗ làm việc của Bà Nhu với đủ

loại sách báo. Cả đơn vị gia cư của một người sống lẻ loi một mình không có c9d61n một cái giường nhỏ.

Buổi tối Bà Nhu trải một cái chăn trên nền nhà, ở một chỗ nào đó trong "căn hộ" nhỏ hẹp để nghỉ qua

đêm. Bà không ngủ trên giường nệm nên mặc dầu đã lớn tuổi mà vẫn giữ được lưng thẳng và đi đứng

nhanh nhạn mạnh dạn.

Bà Nhu mời tôi ngồi trên một cái ghế ngay đầu bàn ăn cạnh khu phòng khách. Bà ngồi ghế đối diện, chân

trái gác lên một chiếc ghế thấp hơn. Bà nói kỳ này khí hậu thay đổi bất thường nên cái chân hơi bị đau vì

vết thương ngày trước. Bà Nhu bị gẫy chân trái trong vụ hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử

ném bom Dinh Độc Lập vào ngày 27 tháng 2 năm 1962. Sau này bà đang đi bộ thì trượt chân ngã và cũng

cái chân trái này gi. gẫy lần thứ hai. Mặc đầu Bà không gặp khó khăn gì khi đi đứng nhưng đôi khi cũng

thấy khó chịu.

Đối với tôi đây chỉ là một cuộc thăm viếng thường tình giữa người đồng hương nơi xứ lạ. Tôi không có ý

định phỏng vấn Bà Nhu và và chắc chắn Bà sẽ không được tự nhiên, thoải mái khi phải đóng khung trong

những câu hỏi của một cuộc phỏng vấn. Phần khác tôi cũng không muốn khơi lại những đau thương mà

Bà phải gánh chịu trong cơn bão táp lịch sử và bể oan cừu cay nghiệt của cuộc đời. Tôi muốn cuộc thăm

viếng không bị gò bó và trói buộc vào một chủ đề, đồng thời cũng không muốn tìm tòi những gì mà cá

nhân tôi và rất nhiều người được nghe đủ loại chuyện tốt xấu về Bà mà chẳng biết hư thực ra sao, và từ

những mù mờ đó đã có biết bao câu hỏi về một người đàn bà một thời xe ngựa thênh thang. Tôi muốn câu

chuyện được tự nhiên và để Bả chủ động bất cứ những gì Bà muốn nói. Tôi có thể dùng những tiểu xảo

của kỹ thuật phỏng vấn "gài" Bà vào những sơ hở để thỏa mãn những gì tôi muón biết hoặc chỉ nghe đồn

thỗi. Tôi đã không làm như vậy vì lòng kính trọng đối vơi Bà và lương tâm ngay lành của tôi.

Tôi mở đầu câu chuyện bằng mấy lời xã giao thông thường, kính chúc bà luôn được mạnh khỏe an vui.

Bà bắt đầu nói về lai lịch nơi hiện cư ngụ. Rất nhiều người biết qua báo chí chuyện một người Pháp giầu

có biếu Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục một món tiền lớn và Đức Cha Thục đã cho Bà Nhu để mua

một đơn vị gia cư trong tòa nhà cao tầng này và sau đó Bà dành dụm mua thêm được một đơn vị nữa. Sự

thật không phải như vậy. Bà Như trực tiếp nhận được một số tiền rất lớn từ một vị ân nhân ẩn danh. Có

tiền trong tay, Bà đã nhờ một cựu bộ trưởng thời chính phủ De Gaulle giúp mua liền một lúc hai đơn vị

gia cư này. Vào những năm mà người Việt vượt biển ra đi một cách rầm rộ gần như công khai, Bà Nhu

cho mấy thanh niên mới bơ vơ đến Pháp tạm trú ở đơn vị gia cư thứ hai và không lấy tiền thuê mướn hay

bất cứ chi phí điện nước nào cả. Một thời gian sau những thanh niên này tìm được thân nhân hay vì nhu

cầu công việc ra đi tạo lập đời sống mới thì Bà Nhu cho một nhà ngoại giao Nhật Bản thuê mướn cho đến

ngày nay. Vị ân nhân tặng Bà Nhu số tiền kếch xù đó là Bà Capaci, một cư dân thành Milan nước Ý và

cũng là một trong bẩy người phụ nữ giầu nhất thế giới. Bà Nhu chưa được một lần gặp vị ân nhân này và

mãi đến bốn năm sau khi Bà Capaci tạ thế Bà Nhu mới được biết tên cũng như thanh thế và sự nghiệp

của người đã gia ân cho mình.

Trên bức tường ngăn phòng khách và nhà bếp có treo tấm hình đen trắng ngôi nhà của Ông Bà Nhu ở

Đàlạt, tôi kể cho Bà nghe chuyến đi về Việt Nam nhân dịp Tết Tân Tỵ, lần đầu tiên sau 26 năm vội vã ra

đi lánh nạn cộng sản. Tôi đã đi ĐàLạt, ghé lại thăm ngôi nhà xưa của thời trung học, bước qua đướng

đứng nhìn nhà Ông Bà Nhu một lúc lâu. Ngôi nhà của Ông Bà Nhu hiện không có người ở nhưng được

bảo quản khá tốt, không thấy những đổ vở hoang tàn vì thời gian hay qua những biến động. Hiện nay Bà

Nhu không có ý định về thăm Việt Nam mặc dầu Bà được nhà cầm quyền Hà Nội đánh tiếng cho biết là

nếu Bà muốn về thì cũng chẳng có trở ngại gì. Những kỷ niệm về một nơi chốn thân thương xa xưa gợi

lại miền ký ức dấu ái, Bà nói "tôi gặp Ông Cố Vấn năm 16 tuổi, đến năm 18 tuổi thì làm đám cưới". Bà

có vẻ buồn khi nói đến ngôi nhà ở Đà Lạt. Một vùng trời mộng mơ với những kỷ niệm của ngày tháng êm

đềm nơi sứ sương mù vẫn còn vương vất đâu đây. Khi nói về những người con thì Bà Nhu có vẻ bẳng

lòng với chút hãnh diện. Tôi cố tình không hỏi gì về trưởng nữ Ngô Đình Lệ Thủy đã bị chết thảm trong


3


một tai nạn xe cộ trên xa lộ vòng đai của Paris. Rất có thể đây là một âm mưu quốc tế còn nhiều nghi vấn

chưa được sáng tỏ và tôi cũng không muốn khơi lại những kỷ niệm đau buồn để rồi những giọt nước mắt

của bà mẹ lại một lần nữa ướt đẫm trên khuôn mặt đã có quá nhiều khỗ đau. Ông con trai lớn Ngô Đình

Trác tốt nghiệp kỹ sư canh nông, năm nay cũng đã 55 tuổi, lấy vợ người Y và có bốn con, ba trai một gái.

Bà Nhu nói về những đứa cháu nội, con trai của Ông Trác, trong niềm vui "cao một mét tám, to lớn và

đẹp trai lắm". Vợ ông Trác thuộc giòng dõi quý tộc rất giầu có. Ông Trác rất đam mê công việc trồng trọt

chăn nuôi và đã chế tạo được nhiều dụng cụ nông cơ thích hợp cho biệc canh tác những thủa đất nhỏ. Gia

đình Ông Trác sỡ hữu một biệt thữ to và rất đẹp trong nội thành La Mã. Ngôi biệt thự này có cách cấu

trúc và đáng dấp như một tu viện. Bà Nhu đã ở đấy nhiều năm nên rất nhiều người lầm tưởng rằng Bà đã

tá túc ở một tu viện Công giáo trong khoảng thời gian dài.

Người con trai thứ hai là Ngô Đình Quỳnh cũng đã trên 50 tuổi, tốt nghiệp trường ẸS.ẸC. (École

Supérieure de l’Econmie et du Commerce) chứ không phải trường H.ẸC. (Hautes Etudes Commerciales)

như rất nhiều báo chí và sách vở đã sai lầm. ẸS.ẸC. là trường tư đào tạo các chuyên gia kinh tế và tài

chánh cao cấp, có học trình gay gắt và học phí rất cao. Sinh viên được nhận vào học trường này phải vượt

qua những cuộc thi cử cam go và sau khi tốt nghiệp được các cơ quan kinh tế và tài chánh trên toàn thế

giới trọng vọng . Khi Ngô Đình Quyền hoc trường này Bà Nhu đã không đủ khả năng trả học phí nên phải

làm giấy xin nợ tiền học. Hiện ông quỳnh làm đại diện thương mại cho một số công ty Hoa Kỳ ở

Bruxelles, thủ đô nước Bỉ. Ông Quỳnh không lập gia đình. Bà Nhu cười nói "Ông Quỳnh giống Bác",

hàm ý xống độc thân như Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Đang lúc tôi nói chuyện với bà Nhu thì một thiếu

nữ người Pháp gõ cửa bước vào với một xấp hình trên tay. Cô bé 17 tuổi này vừa trở về sau chuyến đi

làm công việc thiện nguyện giúp các thanh nữ Phi Luật Tân bị bệnh AIDS. Tất cả chi phí cho chuyến đi

của cô bé này do ông Ngô Đình Quỳnh đài thọ. Cô bé có những lọn tóc mầu hạt dẽ khoe những tấm hình

chụp chung với các nạn nhân của căn bệnh thời đại và ước mong sẽ được trở lại thủ đô của nước Phi Luật

Tân để tiếp tục công viêc bác ái. Bà Nhu nói ông Quỳnh sống đạm bạc và rất tích cực trong những hoạt

động từ thiện nên ước vọng của cô bé chẳng phải là một giấc mợ

Cô con gái út Ngô Đình Lệ Quyên có bằng tiến sĩ Luật từ trường đại học Roma. Lệ Quyên là một luật gia

ngành Công Pháp rất nổi tiếng nhưng chỉ được mời thỉnh giảng và tham luận ở phân khoa Luật của đại

học Roma mà thôi. Lý do đơn giản là Lệ Quyên không chịu vào quốc tịch Ý. Luật lệ nước Ý không cho

phép những người không có quốc tịch được quyền giảng dậy một cách chính thức trong học trình. Lệ

Quyên thường xuyên được mời dự các hội nghị quốc tế và có nhiều bài tham luận xuất sắc làm sửng sốt

các "cây đại thụ" của ngành công pháp thế giới. Lệ Quyên có chống người Ý nhưng đứa con trai 7 tuổi lại

chính thức mang họ mẹ trên giấy tờ hộ tịch. Bà Nhu hãnh diện nói tên cháu bé là Ngô Đình Sơn, một tự

hào dòng họ hay là sự gìn giữ gốc rễ gia tộc.

Mỗi buổi sáng sớm, bất kể thời tiết. Bà Nhu đều "xuống đường" đi bộ chừng độ 10 phút đến nhà thờ Saint

Léon dâng thánh lễ hằng ngày. Cũng tại ngôi thánh đường này, lần đầu tiên vào tuần lễ đầu tháng 11 năm

2001, Ba Nhu tổ chức lễ tưởng niệm Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Thông thường sau thánh lễ Bà ở lại

giúp dọn dẹp nhà thờ và xếp đặt trưng bày hoa nến. Ngày chú nhật Bà phụ trách dậy lớp thánh kinh cho

các trẻ nhỏ. Bà gia nhập đạo Công giáo khi lập gia đình, nhưng lúc thiếu thời được giáo dục trong các

trường Công giáo nên có thể nói là Bà đã lớn lên và trưởng thành trong tín lý của đạo Chúa. Trong câu

chuyện, Bà Nhu nhiều lần biểu lô. Đức Tin tuyệt đối nơi sự an bài của Đấng Tối Cao. Khi nghe tôi nói có

thân nhân đang bị bệnh và rất muốn trở về Mỹ sớm hơn, Bà Nhu đi vào phòng làm việc lấy cho tôi một

tượng ảnh Đức Mẹ Maria đúc bằng kẽm to hơn đồng một xu Mỹ kim. Bà nói mang tượng ảnh về cho

bệnh nhân thì Đức Mẹ sẽ cứu giúp và chữa khỏi. Tôi nghĩ là vì có Đức Tin mạnh mẽ như vậy nên Bà đã

vượt qua được bao cơn sóng gió ba đào mà sống mạnh khỏe đến ngày nay.

Trên đường từ nhà thờ về Bà Nhu cụng thỉnh thoảng ghé lại tiệm bán hoa và cây cảnh, mua vài bông hoa

hay một chậu cảnh trang hoàng trong nhà. Ít khi Bà phải nấu nướng vì ăn rất ít và những bà bạn người

Pháp thương mang đồ ăn đến cho nên cũng chẳng bận rộn gì việc bếp núc. Trước kia tôi nghe có người

nói Bà Nhu chỉ ăn qua loa, hai ba lần một tuần. Tôi nghĩ là nếu ăn uống như vậy thì làm sao mà. thở

được. Bây giờ tôi nghe chính Bà Nhu nói "hai ngày nay tôi chưa ăn gì cả, vì tôi không ăn nên không có

bệnh". Các vị tu sĩ An Độ giáo rất ít khi ăn uống nhưng người nào cũng mạnh khỏe và sống lâu trăm tuổi.

Ở các nước Âu Mỹ đa phần người ta chết vì ăn chứ có ai chết vì đói.

Bà Nhu hầu như không đi sắm sửa quần áo giầy dép. Mỗi năm một bà bạn người Nhật gởi qua cho vài cái

áo kimono đủ mặc trong nhà, có việc đi đâu thì mặc mấy cái quần áo cũ cũng còn tâm được. Nói đến

quần áo, Bà có vẻ đăm chiêu "ở Sàigòn nóng quá nên tôi mặc áo dài hở cổ, Tổng Thống không bằng


4


lòng". Chiếc áo dài hở cổ được đặt tên là"kiểu áo Bà Nhu" đã một thời là "mốt" của các thiếu nữ Sai Gòn

và cũng là một đề tài xôn xao của những người vô công rồi nghề. Bà kể chuyện trước kia phải đại diện

chính phủ tiếp đón phu nhân các vị quốc khách mà chẳng có đến một món trang sức nên thấy thiếu sót.

Nhân có bà vợ một ông bộ trưởng muốn bán mấy món đồ trang sức làm bằng đá đỏ (ruby), Bà Nhu có

trình và xin Tổng Thống số tiền sáu ngàn đồng bạc Việt Nam để mua lại. Tổng Thống nghe lời giãi bầy

cũng hợp lý nhưng yêu cầu người bán phải viết một tờ giấy biên nhận với đầy đủ lai lịch của những món

đồ trang sức này. Bà Nhu nói đó là lần duy nhất Tổng Thống cho tiền và cung chẳng còn nhớ những đồ

trang sức đó bây giờ thất lạc nơi đâu.

Trong lúc nói chuyện, thỉnh thoảng Bà Nhu cũng đề cập đến những diễn biến chính trị, kinh tế và xã hội

toàn cầu. Bà có những phân tích, lượng giá vấn đề một cách chi tiết và hợp lý đồng thời đưa ra những kết

luận làm người nghe dẽ dàng bị thuyết phục. Điều này chứng tỏ tuy sống khép mình trong một căn phòng

nhỏ bé những Bà vãn theo dõi thời cuõc một cách cẩn thận. Bà vẫn còn giữ những liên lạc cần thiết với

gfiới ngoại giao quốc tế trong một giới hạn cẩn trọng. Nhớ lại Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới năm xưa, Bà

nắm hai tay trước mắt nhìn lên trần nhà nói bằng tiếng Pháp "phụ nữ phải được giải phóng, phụ nữ phải

được tôn trọng". Giấc mơ của Bà là người phụ nữ phải có chỗ đứng vá tiéng nói trong xã hội. Ước vọng

của Bà là người phụ nữ phải có những cơ hội thuận tiện để thăng tiến trong mọi lãnh vực của đời sống.

Tiếng nói của Bà rõ ràng , chắc nịch, lên xuống với những cảm xúc làm người nghe rất dễ bị lôi cuốn rồi

nhiệt tình ủng hộ.

Trong cả một buổi chiều, lúc nói chuyện này và đột nhiên nói sang chuyện khác nhưng Bà không hề đả

động gì đến nước Mỹ mặc dầu Bà biết tôi đến từ một tiểu bang ở vùng Tây Bắc nước Mỹ. Nhiều người

nói Bà Nhu căm thù Mỹ lắm vì những sai lầm trong chính sách đối với Việt Nam và nhất là đối với Đệ

Nhất Cộng Hòa Việt Nam. Vào những ngày tháng cuối năm 1963, cả thế giới đã kinh ngạc nghe và nhìn

Bà Nhu mạt sát nước Mỹ và những nhà lãnh đạo của siêu cường này ở tại một địa điểm chỉ cách Tòa

Bạch Ốc một quãng đường. Tôi nghĩ là Bà dã không còn mang những "hận thù" đó trong tim óc nữa và

thực sự muốn quên hết để mọi chuyện nhẹ nhàng đi vào lịch sử. Bà kể chuyện vào mùa Xuân năm 1975,

sau khi Cộng Sản Bắc Việt cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Hòa, hệ thống truyền thanh NBC của Mỹ có xin

phỏng vấn trong 30 phút. Lý do Bà chấp nhận lời yêu cầu của NBC vớ đòi mười ngàn (10,000) Mỹ kim

thù lao cộng với hai vé máy bay khứ hồi hậng nhất Paris - Washington DC, vì lúc đó Lệ Quyên rất nhớ và

muốn đi gặp ông bà ngoại. Bà Như không có tiền trang trải cho chuyến đi nhưng vì thương con nên bằng

lòng trả lời cuộc phỏng vấn để có tiền đưa con gái đi gặp Ông Bà Trần Văn Chương ở thủ đô của nước

Mỹ. Đối với một tổ hợp truyền thông to lớn như NBC thì những điều kiện đó thật quá nhỏ bé và họ đã vội

vàng thực hiện cuộc phỏng vấn. Đó là lần duy nhất Bà đi Mỹ và cũng là lần duy nhất Bà tiếp xúc với giới

truyền thông quốc tế sau năm 1963. Ngoài ra, Bà chưa từng gặp gỡ hoặc tiếp xúc với báo giới Việt ngữ

dưới bất cứ hình thức nào. Trong quá khứ đã có vài tờ bào ở Đức quốc và California đăng tải bài phỏng

vấn Bà Ngô Đình Nhụ. Tất cả những bài "phỏng vấn" đó đều là những ngụy tạo mà độc giả rất dễ dàng

nhận ra tính chất giả dối và bịa đặt của người viết.

Bà Nhu cũng không nói gì về vụ phản loạn 1.11.1963 và những người được ngoại bang thuê mướn sát hại

chống Bà. Tôi có nói xa gần đến đám quân nhân phản loạn để dò xét phản ứng của Bà nhưng không trong

chờ ở một sự tức giận thường tình của một con người vì thời gian đến gần 40 năm cũng đã làm nguôi

ngoai cơn thịnh nộ. Bà có vẻ buồn, nhìn qua khung cửa sổ nói một cách nhỏ nhẹ bằng tiếng Anh "đó là

một bọn ngu đốt".

Đồng hồ chỉ tám giờ rưỡi tối. Những ngọn đèn của Paris kết nối làm thành một biển ánh sáng và thành

phố đã bắt đầu đi vào cuộc sống ban đêm. Hơn sáu giờ đồng hồ ngồi nói chuyện, tôi đã uống hết hai ly

nước bưởi 5o nhưng tuyện nhiên không thấy Bà Nhu uống một chút nước nào. Tôi sợ ngồi lâu quá Bà sẽ

mệt mỏi những thực sự thì chính tôi là người đã thấm mệt. Bà Như không tỏ ra mệt mỏi hay có một dấu

hiệu nào biểu hiện sự rã rời sau một buổi chều dài chuyện trò. Trước khi tôi xin cáo từ Bà Nhu có nói đến

cuốn sách của Bà. Theo chỗ tôi được biết thì cuốn sách của bà. Theo chỗ tôi được biết thì cuốn sách này

sẽ được phát hành cùng một lúc tại nhiều nơi trên thế giới bằnhg bốn thư ngôn ngữ: Việt Nam, Anh, Pháp

và Ý. Bà viết bằng tiếng Pháp và tự dịch sang tiếng Anh và Ý. Bản dịch tiếng Việt đang trong giai đoạn

nửa chừng. Cũng vì vậy mà tôi hạn chế bài viết này trong một kích thước vừa đủ, những gì độc giả muốn

biết hay những gì gọi là "bí mật lịch sử" sẽ rất có thể được nói đến hoặc phân giải trong cuốn sách mà rất

nhiều người chờ đợi. Tôi chợt nghĩ đến "ông tướng phương chèo" Nguyễn Khánh. Ông này đi đến đâu

cũng cầm cuốn vở học trò huyênh hoang có nhật ký của Bà Nhu trong tay. Tôi nghĩ rất có thể Ông này

lượm được cuốn vở Bà Nhu ghi chép những chuyện vụn vặt của một người nội trợ trong gia đình nhu


5


hôm nay đi chợ cần phải mua những món gì, đến bao giờ thì phải đóng tiền trường cho con. Ngoài ra

chẳng có gì đáng nói tới hay có một giá tri gì cả. Tôi cũng không hiểu được lý do tại sao khi bị đuổi ra

khỏi nước mà đương sự còn ôm theo "báu vật" đó để làm gì. Đặt trường hợp "báu vật" đó mang lại danh

vọng và lợi lộc hoặc là một thứ vũ khí để để mạt sát nhục ma. Bà Nhu thì chắc chắn độc giả đã được đọc

từ lâu rồi.

Tôi bước ra chỗ thang máy để xuống phố lang thang với người Paris mà trong lòng xôn xao niềm vui vì

không ngờ một "bà cụ" gần 80 tuổi đã vật vã với bao sóng gió phủ phàng của cuộc đời mà lại còn có một

sức khoẻ thật sung mãn, trí óc minh mẫn đến như thế. Ở vào tuổi đời như vậy mà còn giữ được thể chất

và tinh thần trong một tình trạng gần như lý tưởng thì thật là hiếm có. Bà Nhu đã thực sự lánh xa những

tục lụy phù phiếm của trần gian. Bà sống trong hơi thở nhịp tim của đời sống tận hiến và phó dâng với

niềm cậy trong tuyệt đối nới sự quan phòng của Đấng Tạo Hóa. Tôi cầu chúc Bà luôn mạnh khỏe, an vui.

TRƯƠNG PHÚ THỨ

Friday, 30 March 2018

KHÔNG BIẾT NGUYỄN KIM LỘC LÀ AI ?...

 NHƯNG ĐỌC TỚI PHẦN CUỐI CÓ ĐỀ CẬP ĐẾN TÊN TRƯƠNG PHÚ THỨ (TÊN THẬT LÀ TRƯƠNG VĨNH QUANG- KHÓA ĐS 15 QGHC) NHƯ LÀ 1 NHÂN VẬT RẤT THÂN CẬN RUỘT THỊT VỚI BÀ NHU - SỰ THẬT TÊN TRƯƠNG VĨNH QUANG KHÔNG PHẢI LUẬT SƯ, LẬT SƯ GÌ CẢ- HẮN CHỈ LÀ 1 TÊN CÓ BẰNG BUSINESS VÀ LÀM DỊCH VỤ KHAI THUẾ KIẾM ĂN TẠI SEATTLE- HẮN TA KHÔNG PHẢI LÀ NGƯỜI BIÊN HÒA VÀ CHẲNG CÓ CHÚT QUAN HỆ GÌ VỚI GIA ĐÌNH BÀ NHU CẢ- HẮN LÀ 1 TÊN BÀI BẠC TỪ THỜI CÒN SINH VIÊN - NÊN TỰ KHOE LÀ THÂN NHÂN CỦA BÀ NHU CHỈ LÀ LÁO KHÓET- MÚA MỎ NƠI KHÔNG CÓ AI BIẾT HẮN LÀ AI THÔI !!! KHÔNG TIN CỨ HỎI CỰU QGHC KHÓA 15 THÌ RÕ./-TCL

====================

 

Bà Trần Lệ Xuân-Một Thời Sóng Gió Vẻ Vang Và Nửa Đời Thầm Lặng Trong Vinh Diệu

Parent Category: ROOT Category: Thư Viện
Nguyễn Kim Lộc (Chicago, Illinois. USA)
ba-ngodinhnhuNgày 01-11-1963 đánh dấu sự sụp đổ của nền Đệ Nhất Cộng Hoà Miền Nam, do Tướng Dương Văn Minh, với tư cách đứng mũi chịu sào, danh xưng Chủ Tịch Hội Đồng Tướng Lãnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà với sự hỗ trợ đắc lực của Tướng Trần Thiện Khiêm, người được mô tả là linh hồn của cuộc đảo chánh, từ hiến kế, sắp xếp, liên lạc thuyết phục các tướng lãnh trong quân đội và gần như toàn quyền quyết định việc lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, để mở trang sử mới… cũng là ngày bà Ngô Đình Nhu, khuê danh Trần Lệ Xuân, vỡ mộng chính trường…
Dư luận cho rằng, lý do sụp đổ của nền Đệ Nhất Cộng Hoà là do chính sách gia đình trị và việc đàn áp Phật Giáo của chính quyền đương thời và sự thiếu sáng suốt - cả nể của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, để thân tộc chen sâu vào lãnh vực chính trị, và hoạt động kinh tài… “Đức cha Thục đứng trong bóng tối điều khiển người thân tín khai thác lâm sản, mua thương xá Tax, làm chủ nhà sách Albert Portail.v.v...; ông Ngô Đình Cẩn, tự phong là Cố Vấn Chỉ Đạo Miền Trung về mặt an ninh và đoàn thể, đồng thời trực tiếp điều khiển Đoàn Công Tác Đặc biệt do Dương Văn Hiếu phụ trách”, nên Quân Đội phải lãnh sứ mạng đảo chánh để bảo đảm quyền tự do dân chủ cho nhân dân miền Nam Việt Nam, nhưng ít ai biết được nguyên nhân sâu xa của cuộc chính biến lịch sử nầy …Nhờ những tài liệu được giải mật của Mỹ và hồi ký của những người tham gia cuộc đảo chánh nói trên, người dân Việt Nam đã hiểu rõ nguyên nhân sụp đổ nền Đệ Nhất Cộng Hoà. Một lý do rất đơn giản - Tổng Thống Ngô Đình Diệm không đồng ý cho Hoa Kỳ đổ quân Mỹ ào ạt vào miền Nam Việt Nam, vì sợ dân chúng hiểu lầm miền Nam Việt Nam đã bị Mỹ chiếm, làm ảnh hưởng đến chính nghĩa và tinh thần của người Việt quốc gia chống Cộng Sản; tạo cái cớ cho Cộng Sản Miền Bắc tuyên truyền xuyên tạc, khơi dậy lòng căm thù trong dân chúng đối với Mỹ và chính quyền Đệ Nhất Cộng Hoà, hầu lôi kéo quần chúng về phía Cộng Sản, đồng thời kêu gọi dân chúng nổi dậy “đánh Mỹ cứu nước”, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Nguỵ nhào”.- Cũng khoảng thời gian đó, cơ quan Tình Báo Mỹ phát hiện ông Ngô Đình Nhu đi đêm với Cộng Sản Bắc Việt ở một khu rừng thuộc tỉnh Bình Tuy để tìm cách giải quyết vấn đề nội bộ Việt Nam; chuyện nầy không biết có phải là một đòn chính trị nhằm thăm dò phản ứng của Hoa Kỳ và tìm hiểu đường hướng chủ trương của Cộng Sản Bắc Việt hay không (?), vẫn làm cho chánh quyền Mỹ khó chịu, và sự việc nầy, hẳn nhiên là trật với đường lối và kế hoạch giải trừ khối Cộng Sản Quốc Tế của Mỹ; nên CIA Mỹ (nhân vật nổi bật là Lucien Conein) nhận lãnh trách nhiệm liên lạc thuyết phục hoặc mua chuộc thành phần tướng lãnh Việt Nam Cộng Hoà dưới nhiều hình thức và đạo diễn cuộc đảo chánh chế độ Ngô Đình Diệm.Lịch Sử đã sang trang, chắc có người thầm trách tôi khơi lại làm gì, khi hình ảnh ngày 01-11-1963 đã phai mờ dưới bao lớp bụi thời gian, đã hơn bốn mươi bốn năm thắm thoát trôi qua, hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bị Quân Nhân Cách Mạng bắn chết trên thiết vận xa M113, trên đường từ nhà thờ Cha Tam về Bộ Tổng Tham Mưu.Thi thể được an táng vào lúc giữa đêm trong khuông viên trại Trần Hưng Đạo, cạnh chùa Ấn Quốc, trước sự chứng kiến của một linh mục người Pháp, ông bà Trần Trung Dung (một thời là Bộ Trưởng, Phụ Tá Quốc Phòng thời Đệ Nhất Cộng Hoà, và bà Dung gọi ông Diệm bằng cậu ruột) và Trung Tá Nguyễn Văn Luông (Trưởng Ban Mai Táng). Đến năm 1964, hai quan tài của ông Diệm và ông Nhu được di dời đến nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi (Sài Gòn), chôn một cách sơ sài , không xây mộ và cũng chẳng dựng bia….và đến sau ngày 30-4-1975, hài cốt của hai ông Diệm và Nhu, một lần nữa, được cải táng tại nghĩa trang Lái Thiêu thuộc tỉnh Bình Dương. Và Ngô Đình Cẩn cũng đã bị Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng thời Đại Tướng Nguyễn Khánh xử tử lúc 6 giờ 30 sáng ngày 09-5-1964 tại sân sau khám Chí Hoà Sài Gòn, trước sự chứng kiến của Luật Sư Biện Hộ Võ Văn Quang - ông Quang bùi ngùi vì việc biện hộ không mang lại kết quả… và chỉ xin được cặp kính còn một tròng của người tử tù, đem về làm kỷ niệm ...
Tất cả những người vừa kể đã yên mồ… nhưng còn một phụ nữ Việt Nam đáng thương hơn là đáng trách, đáng phục hơn là đáng khinh, đó là Bà Ngô Đình Nhu khuê danh Trần Lệ Xuân. Bà có một phần đời vươn đến đỉnh cao quyền lực, với quyết tâm chống Cộng Sản và xây dựng tốt đẹp xã hội miền Nam Việt Nam trong tự do, dân chủ và công bằng, nhưng ước vọng đã không thành…. và nửa cuộc đời còn lại sống lưu vong trong cảnh cô đơn, thầm lặng, vinh diệu ở Châu Âu.Trở về quá khứ một chút...Ngày 10-9-1963, Bà Nhu hướng dẫn một phái đoàn Dân Biểu Việt Nam đi dự Hội Nghị Quốc Tế Nghị Sĩ tại Nam Tư, đồng thời lãnh trách nhiệm giải độc dư luận ở Hoa Kỳ và một số nước ở Âu Châu về tình hình Phật Giáo và chính trị Việt Nam, thì một biến cố quan trọng xảy ra - chế độ Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hoà bị lật đổ. Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu bị sát hại vào ngày 02-11-1963, trong khi bà Nhu và cô con gái Ngô Đình Lệ Thuỷ đang ở tại khách sạn Wilshire thuộc Beverly Hill, Los Angeles, California, Hoa Kỳ. Bà Nhu đã bàng hoàng khi nghe tin vừa kể.
Ngày 15-11-1963, bà Nhu và con gái rời Mỹ đi Roma (Ý), sau khi tuyên bố: “Tôi không thể cư ngụ ở Mỹ, vì lý do đơn giản chính phủ của họ đã đâm sau lưng tôi”.Vào năm 1964, bà Ngô Đình Nhu đã một lần xin về thăm lại quê hương Việt Nam để lo mồ mả cho chồng, ông Ngô Đình Nhu và anh chồng là cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nhưng bị cấp lãnh đạo nền Đệ Nhị Cộng Hoà bác đơn (?)… Có quê hương, mà vì hoàn cảnh phải bỏ đi tỵ nạn ở xứ người là một điều đau khổ, lại bị từ chối không cho về thăm quê hương lại càng đau khổ hơn, nhất là đối những người có tuổi, càng về già càng da diết nhớ quê hương, càng nhớ nhiều về quá khứ, cội nguồn, tổ tiên, dân tộc…
Tôi chẳng bà con họ hàng gì với bà Trần Lệ Xuân, chỉ biết thấp thoáng bà có họ hàng với ngôi nhà Từ Đường Họ Trần ở góc đường Quang Trung và Phan Châu Trinh Biên Hoà. Ngôi nhà nầy do thân tộc của bà Trần Lệ Xuân, xây cất từ đời ông cố của bà Nhu là ông Trần Văn Tứ, tiếp đó ông nội của bà Nhu là ông Trần Văn Thông từng là Tổng Đốc Nam Định thời xa xưa, là người nguyên quán tỉnh Biên Hoà…
Và nhân dịp đọc được nhiều trang báo đề cập đến Bà là một phụ nữ tân tiến, tài ba, dám dấn thân hoạt động chính trị, hơn hẳn nhiều nghị sĩ và dân biểu thời Đệ Nhất Cộng Hoà, với tấm lòng quyết tâm chống Cộng Sản và xây dựng xã hội miền Nam Việt Nam, nhưng giấc mộng của Bà đã tan theo khói súng cuộc đảo chánh 01-11-63, do một nhóm tướng lãnh chủ trương, và bà đã phải sống lưu vong nơi hải ngoại gần năm mươi năm; bà an phận trong cuộc đời goá bụa, giữ tròn tiết hạnh đối với chồng và cố gắng nuôi các con ăn học thành tài, có địa vị xã hội cao nơi xứ người… khiến cho tôi vô cùng cảm kích, ngưỡng mộ và kính trọng Bà.
Bà Ngô Đình Nhu là một phụ nữ có tài, nhưng tài nghệ của bà không thể nào so sánh với hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, đánh đuổi Tô Định về Tàu, giành độc lập, xưng vương năm 40, đóng đô ở Mê Linh…và sau đó bị Mã Viện đánh bại, nên hai Bà trầm mình xuống sông Hát Giang mà tự tử vào năm 43; cũng không thể so sánh với Bà Triệu khởi nghĩa năm 248 tại quận Cửu Chân đánh thắng quân Tàu nhiều trận, nhưng sau cùng thế yếu, Bà tự tử tại làng Bồ Điền (Thanh Hoá) …nhưng có một phụ nữ Việt Nam nào có bản lĩnh hơn Bà Nhu, trong lịch sử cận đại, dám dấn thân vào lãnh vực chánh trị, phụ chồng (ông Ngô Đình Nhu) và giúp anh chồng (ông Ngô Đình Diệm) trong việc cùng lo bảo vệ chế độ Cộng Hoà Miền Nam, chống lại Cộng Sản Miền Bắc hay không? - Xin thưa rằng không. Tôi không có ý nói bà Trần Lệ Xuân là người học cao…. Bà chỉ học đến bậc Tú Tài Pháp, nhưng bà rất thông minh, lịch lãm, dám tham gia hoạt động chính trị; là vợ của một quân sư lỗi lạc và thường thủ vai Đệ Nhất Phu Nhân thời Đệ Nhất Cộng Hoà, mỗi khi có cuộc tiếp tân, chào đón các mệnh phụ phu nhân của nhiều quốc gia trên thế giới đến thăm viếng Việt Nam.Ngoài các công việc vừa kể, bà Ngô Đình Nhu còn đãm trách nhiều chức vụ quan trọng khác…* Dân Biểu Quốc Hội Đệ Nhất Cộng Hoà (Đơn vị quận Đức Hoà/Long An), Bà mạnh dạn đề nghị chính phủ đóng cửa hai sòng bạc Kim Chung (Sài gòn) và Đại Thế Giới (Chợ Lớn) do lực lương Bình Xuyên-Bảy Viễn đỡ đầu và khai thác, vì nhận thấy nơi đây là nguồn gốc gây ra tệ đoan xã hội; đồng thời đề nghị đóng cửa thanh lâu “Bình Khang” ở ngã ba Vườn Lài (Sài Gòn), nơi mà người phụ nữ bị khinh khi nhất, bị người đời mỉa mai làm nghề bán trôn nuôi miệng…* Thủ Lãnh Thanh Nữ Cộng Hoà, trong ý hướng nâng cao vai trò phụ nữ, tạo điều kiện cho người phụ nữ dự phần bảo vệ quốc gia, Bà gây ý thức “giặc đến nhà đàn bà phải đánh”. Bà làm sống lại tinh thần Trưng Trắc Trưng Nhị: “Bà Trưng quê ở Phong ChâuGiận người tham bạo thù chồng chẳng quênChị em nặng một lời nguyềnPhất cờ nương tử thay quyền tướng quân….Hồng quần nhẹ bước chinh yên. Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên Thành Kinh kỳ đóng cõi Mê Linh Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta”.
Bà làm sống lại tinh thần Triệu Trinh Nương:
“Tôi chỉ muốn cưỡi có gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người”
“Ru con con ngủ cho lành
Để mẹ gánh nước rửa bành ông voi
Muốn coi lên núi mà coi
Có bà Triệu Tướng cưỡi voi đánh cồng
Túi gấm cho lẫn túi hồng
Têm trầu cánh kiếm cho chồng ra quân”
“Tùng Sơn nắng quyện mây trời
Dấu chân Bà triệu rạng ngời sử xanh”
* Là Phu Nhân của Cố Vấn Chính Trị Ngô Đình Nhu, nhưng Bà và thường mặc nhiên thủ vai Đệ Nhất Phu Nhân thời Đệ Nhất Cộng Hoà trong công tác ngoại giao quốc tế, tiếp đón các nữ chính khách của nhiều nước trên thế giới, đến viếng nước Việt Nam…do đó, giá trị và tư cách của Bà được nâng cao Bà luôn làm tròn nhiệm vụ được giao phó.
* Chủ Tịch Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới Xã Hội. Bà bênh vực quyền lợi của người phụ nữ và tạo cơ hội cho người phụ nữ tham gia công tác xã hội….vì Bà hiểu rõ thân phận của người phụ nữ Việt Nam qua từng giai đoạn lịch sử, luôn bị coi thường, tháng ngày chỉ quanh quẩn trong phạm vi gia đình trách nhiệm nuôi con, lo việc bếp nút và thường bị người chồng chèn ép về nhiều mặt…Bà đã mạnh dạn đề nghị Quốc Hội ban hành Luật Gia Đình (1958) ngầm xoá bỏ cảnh trai năm thê bảy thiếp, để bảo đãm hạnh phúc gia đình một vợ một chồng; Bà muốn làm một cuộc cách mạng, nâng cao vai trò phụ nữ Việt Nam, xoá hẳn câu “Nhất Nam Viết Hữu, Thập Nữ Viết Vô”, trọng nam khinh nữ, một quan niệm sai lầm do ảnh hưởng tập quán nước Tàu đã lỗi thời, mà vẫn còn một thiểu số người còn bám níu. Bà kêu gọi phu nhân các vị tướng tá và các công chức cao cấp tham gia công tác xã hội, thường xuyên thăm viếng các cô nhi quả phụ và uỷ lạo các thương bịnh binh trong các quân y viện...
Bà chấp nhận đi Mỹ và Âu Châu, giải độc dư luận về vụ đàn áp Phật Giáo dẫn đến việc Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu, mà theo bà hiểu… đó là một âm mưu do Cộng Sản chủ trương với sự đồng loã của CIA Mỹ, nhằm bức tử Hoà Thượng Thích Quảng Đức dưới hình thức tự thiêu vì đạo pháp, để làm ngọn đuốc giả tạo, đấu tranh cho Phật Giáo với mục đích khuynh đảo chế độ của nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hoà và Bà sẵn sàng chấp nhận mọi sự phản đối của nhiều người Mỹ và cũng như một số người Việt Nam Thật sự, lúc bấy giờ, có một số đông dân chúng, gồm cả nhiều người trí thức rất ngây thơ về mặt chính trị, nên bị Cộng Sản lừa gạt, dụ dỗ thoát ly vào rừng hoạt động như Bác Sĩ Dương Quỳnh Hoa, Kiến Trúc Sư Huỳnh Tấn Phát, Luật Sư Nguyễn Hữu Thọ... và hầu hết các kháng chiến quân miền Nam và sau cùng đều bị bạc đãi; họ ngậm đắng nuốt cay và thú nhận đã lầm đường… kể cả thi sĩ Vũ Hoàng Chương, sống tại miền Nam tự do, làm giáo sư, dạy môn Việt Văn, cũng lầm và đã viết bài thơ “Lửa Từ Bi”…. ca ngợi sự tự thiêu vì đạo pháp của Hoà Thượng Thích Quảng Đức…để rồi sau ngày 30-4-1975, Vũ Hoàng Chương được Việt Cộng chiếu cố mời vào khám Chí Hoà nghỉ mát đến lúc gần chết mới được thả về.
LỬA TỪ BI
Kính dâng lên Bồ Tát Quảng Đức
Vũ Hoàng Chương
Lửa, lửa cháy ngất toà sen!
Tám chín phương nhục thể tràn tâm
Hiện thành thơ, quỳ cả xuống
Hai vầng sáng rưng rưng
Đông Tây nhoà lệ ngọc
Chắp tay đón một Mặt-Trời-mới-mọc
Ánh Đạo Vàng phơi phới đang bừng lên, dâng lên
Ô đích thực hôm nay trời có mặt
Giờ là hoàng đạo nguy nga
Muôn vạn khối sân sì vừa mở mắt
Nhìn nhua: tình huynh đệ bao la.Nam mô Đức Phật Di Đà
Sông Hằng kia bởi đâu mà cát bay
Thương chúng sinh trầm luân bể khổ
Người rẽ phăng đêm tối đất dầy
Bước ra ngồi nhập định về hướng Tây
Gọi hết lửa vào xương da bỏ ngỏ
Phật Pháp chẳng rời tay
Sáu ngã luân hồi đâu đó
Mang mang cùng nín thở
Tiếng nấc lên từng nhịp Bánh xe quay
Không khí vặn mình theo,
khóc oà lên nổi gió: Người siêu thăng…
Dông bảo lắng từ đây
Bóng người vượt chín tầng mây
Nhân gian mát rượi bóng cây Bồ Đề.
Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc
Chổ người nồi: một thiên thu tuyệt tác
Trong vô hình sáng chói nét Từ Bi.
Rồi đây, rồi mai sau, còn chi?
Ngọc đá cũng thành tro lụa tre dần mục nát
Với thời gian, lê vết máu qua đi
Còn mãi chứ! Còn trái tim Bồ Tát
gội hào quang xuống chốn A Tỳ Ô?
Ngọn lửa huyền vi!
Thế giới ba nghìn, phút giây ngơ ngác
Từ cõi vô minh
Hướng về Cực Lạc
Vần điệu thi nhân chỉ còn là rơm rác
Và cũng chỉ nguyện được là rơm rác
Thơ cháy lên theo lời kinh
Tụng cho nhân loại hoà bình
Trước sau bền vững tình huynh đệ này
Thổn thức nghe lòng Trái ất
Mong thành quả phúc về cây;
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật;
Đồng loại chúng con
nắm tay nhau tràn nước mắt
Tình thương hiện Tháp-Chín-Tầng xây
Thi Sĩ Vũ Hoàng Chương
(viết tại Sài Gòn ngày 15 tháng 7 năm 1963, để tưởng niệm Hoà Thượng Bồ Tát Thích Quảng Đức).
Trong khi bà Ngô Đình Nhu biết chắc vụ tự thiêu Hoà Thượng Thích Quảng Đức là do bàn tay của Cộng Sản dàn dựng, nên trong các cuộc phỏng vấn trong nước cũng như ở hải ngoại (của báo New York Times…), bà Nhu đã không ngần ngại phát biểu: "Hoạt động của Phật Giáo là một hình thức phản bội xấu xa..." hoặc "Vỗ tay hoan nghênh các vụ tự thiêu, nếu ai có thiếu xăng dầu thì tôi sẽ cho (nguyên văn: I would clap hands at seeing another monk barbecue show…)". Và còn gọi vụ tự thiêu là "nướng sư" hoặc "Tôi còn thách mấy ông sư thêm mười lần nữa. Phương pháp giải quyết vấn đề Phật Giáo là phớt tỉnh, không cần biết tới".
Bà bị nhiều người, trong số có cả người thân trong gia đình, chê trách Bà đã không tế nhị trong việc phát ngôn, lời nói mang tính cách chế dầu vào lửa, khiến cho tình hình chính trị tại miền Nam, vốn rối rắm càng lúc càng rối rắm hơn, nhưng thực tế bà Nhu đã không thể nói khác được vì sự thật đã bày ra trước mắt….
Chỉ tiếc rằng Bà đã không nói thẳng ra, vụ Thích Quảng Đức tự thiêu là do âm mưu của Cộng Sản miền Bắc chỉ thị cho Phật Giáo Quốc Doanh miền Nam, núp dưới danh nghĩa Phật Giáo Ấn Quang, do Thích Trí Quang lãnh đạo, thực hiện…. Bây giờ mọi người đã rõ việc “Thích Quảng Đức tự thiêu’’ là do Việt Cộng sắp đặt từ A đến Z, từ chích thuốc an thần cho đến khi Hoà Thượng Thích Quảng Đức không còn biết gì nữa, rồi giao cho tên Trần Quang Thuận chở đến ngã ba đường Lê Văn Duyệt và Phan Đình Phùng (Sài Gòn), với sự tham gia đắc lực của tên Việt Cộng nằm vùng Nguyễn Công Hoan, đổ cả thùng xăng lên người Thích Quảng Đức và châm lửa; chuyện rõ ràng như thế mà Cộng Sản lại tuyên truyền: “Bồ Tát Thích Quảng Đức tự Ngài đã tẩm ướt xăng, rồi ngồi kiết già nơi giao lộ và cũng tự tay Ngài châm thêm xăng và quẹt lửa vào người.”
Sau ngày 30-4-1975, Nguyễn Công Hoan, tên thật là Huỳnh Văn Thạnh, được Việt Cộng đề cử là Dân Biểu tỉnh Phú Khánh. Nhờ những đoạn phim, ảnh, quay và chụp được… nhân dân Việt Nam đã thấu hiểu vụ Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu là do âm mưu của Cộng Sản nhằm bức tử một nhà sư trong mưu đồ chính trị, nhằm gây rối tình hình và khuynh đảo chế độ Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hoà. Những tấm hình dưới đây đã chứng minh điều vừa kể.Bây giờ, mọi người đã hiểu rõ hai tiếng “nướng sư” ….của Bà Ngô Đình Nhu phát biểu trên bốn mươi năm qua, diễn tả rất rõ ràng, chứng minh được cảnh Hoà Thượng Thích Quảng Đức không phải tự thiêu về đạo pháp mà là một sự bức tử - cán bộ Cộng Sản đã trút lên người Thích Quảng Đức cả “can” xăng rồi nhanh tay châm lửa…Mời quí vị đọc bài thơ sau đây...
LỬA TỪ BI HAY OAN NGHIỆT
(Thế Nhân)
Ôi! Ngọn lửa từ bi
Hay khói mùa oan nghiệt?!
Cộng Sản quá độc ác
Tế sống một nhà sư
Nam mô A Di Đà Phật!
Cộng Sản chở Sư đến
Cộng Sản dìu Sư đi
Sư dường không còn biết
Sắp lìa đời từ đây
Nam mô A Di Đà Phật!
Trước cảnh người chứng kiến
Thích Quảng Đức lặng im
Sư ngồi thế toạ thiền
Góc đường Lê Văn Duyệt
Giữa hàng rào cà sa
Lẫn màu áo lam già
Của Ấn Quang tà phái
Cảnh dàn dựng cúng dường
Chao ôi! Ác quá chừng
Cộng Sản đổ ‘can’ xăng
Lên khắp người thượng toạ
Cộng Sản mở quẹt châm
Bức tử một vì Tăng
Lửa oán cừu bùng cháy
Cộng Sản truyền thắng lợi
Một ngọn lửa chính trị
Đã hoá kiếp nhà sư
Ống kính đã khắc ghi
Ảnh hình còn lưu lại
Bao Tăng ni đồng loã?
Chứng cảnh dã man nầy!
Ngọn lửa đang bốc cao
Từ Bi hay Oan Nghiệt
Người đời đà nhận biết
Nguồn cội tự Quốc Doanh
Hầu như mọi người đều nhận ra Phật Giáo Ấn Quang là một tổ chức ngoại vi của Cộng Sản Bắc Việt và tổ chức nầy biến thành Phật Giáo Quốc Doanh sau ngày 30-4-75, riêng Thượng Toạ Thích Trí Quang được Bộ Chính Trị Cộng Sản Miền Nam điều động vào bóng tối ngồi nghỉ ngơi, im hơi lặng tiếng đến ngày hôm nay.
Việc làm kể trên của bà Ngô Đình Nhu dĩ nhiên có nhiều người Quốc Gia ganh tị tài ba và địa vị, đồng thời bị Cộng Sản tuyên truyền bóp méo sự thật, cố tình xuyên tạc, phao tin thất thiệt nhằm làm giãm uy tín của bà …..Theo bài báo có tựa là “Các Tướng Cướp Đội Lốt Thầy Tu’ của Nguyễn Hạnh Hoài Vy, tác giả cho rằng bà Nhu có buông lời xúc phạm đến các linh mục và các nhà sư với những câu “Bà Nhu nổi tam bành mà mắng mấy ông cha là “các tướng cướp” vì sợ rằng thành phần giai cấp tăng lữ mới nầy, nếu có tham vọng quá đáng, sẽ lấn lướt quyền lực của chồng bà, cũng đang trong giai đoạn cần củng cố và phát triễn”….chỉ vì bà Nhu đã không tiện nói tách bạch những ai mà thôi. Theo tôi, lúc bấy giờ, bà Nhu đã biết chắc những người nào lợi dụng lốt áo thầy tu, nhưng không lo việc tu hành, lại ngấm ngầm dấn thân làm việc ngoài đời, lo làm chính trị hoặc kinh doanh dưới nhiều hình thức, vô tình làm cho chế độ mang nhiều tai tiếng…. Bà nói quá tổng quát, kiểu quơ đũa cả nắm, nên bị nhiều người chỉ trích và bị Cộng Sản lợi dụng xuyên tạc … chứ phải hồi đó bà Nhu cứ nói thẳng ra Thượng Toạ Thích Trí Quang, hoặc linh mục Phan Khắc Từ thì đúng quá rồi (Sau ngày 30-4-75, Thích Trí Quang và Phan Khắc Từ đã hiện nguyên hình là cán bộ Cộng Sản) hoặc nói thẳng linh mục Chân Tín (chủ trương tờ báo Đối Diện), hoặc linh mục Nguyễn Ngọc Lan tác giả quyển “Cho Cây Rừng Còn Xanh Lá”, là những người ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản thì cũng đúng quá rồi, nhưng Bà quá dè dặt không nói thẳng ra (sau ngày 30-4-1975, hai ông Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan đã thức tỉnh thì sự việc đã rồi, nước mất nhà tan, hai ông bị Cộng Sản bạc đãi, và dường như muốn chuộc lại phần nào lỗi lầm trong quá khứ, hai ông tiếp tục dấn thân tranh đấu tự do, dân chủ choViệt Nam và ông đã ngậm ngùi mang theo xuống suối vàng cách đây vài năm, nỗi tức tối vì đã chọn lầm hướng đi….
Sau đây là phần góp nhặt trong dư luận qua sách báo về những sự khen chê cùng những lời phát biểu của bà Ngô Đình Nhu:
Những Lời khen Bà Nhu:
1. Trong quyển truyện “Ván Bài Lật Ngữa” của Nguyễn Trương Thiên Lý (tên thật là Trương Gia Triệu, bí danh Trần Bạch Đằng, một đảng viên Cộng Sản cao cấp, gốc người miền Tây), theo thân phụ, ông Trương Gia Mãng, lưu lạc lên Biên Hoà làm quản lý cho đồn điền Sở Quít của cố trưởng toà Trần Quang Nghiêm (thân phụ của Trần Quang Nghĩa, một sĩ quan Không Quân Thời Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hoà), tác giả Nguyễn Trương Thiên Lý đã có lời khen “Bà Nhu rất sắc sảo về chính trị”.
2. Trong bài phỏng vấn ông Quách Tòng Đức (cựu Đổng Lý Văn Phòng cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm) do ông Lâm Lễ Trinh thực hiện, có đoạn: “Ông cụ có vẻ nể và ủng hộ bà Nhu” trong vụ tổ chức Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới và vận động quốc hội ban hành Bộ Luật Gia Đình cấm ly dị. Tổng thống cho rằng bà Nhu hành động như vậy là giúp cải tổ xã hội….” “Ngoài chức vụ Dân Biểu Quốc hội, bà Nhu còn là Chủ Tịch Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới. Khi tiếp quốc khách, bà Nhu còn đóng vai trò Đệ Nhất Phu Nhân, vì Tổng Thống độc thân”
3. Trong bài viết “Nhớ về Ông bà Ngô Đình Nhu”, Giáo Sư Nguyễn Văn Lục viết: “Bà thì vừa xinh, vừa trẻ đẹp, giữ gìn gia phong nề nếp. Thêm một lần nữa, tôi có một ấn tượng rất tốt đẹp về bà Nhu. Theo cha Phước khi đến thăm ông Nhu cùng với vài người khác ngồi ở phòng khách. Chủ khách đàm đạo trong khi bà Nhu không dám ngồi mà chỉ đứng chắp tay vào nhau để trước bụng. Đấy là cử chỉ của những gia đình có lễ giáo nghiêm ngặt. Tôi không nói thêm cho bà cũng không nói bớt cho. Nghe sao thì nói lại…
Mà câu chuyện này tôi nghe khi còn ở ngoài Bắc trước khi có cuộc di cư. Cung cách ấy, cử chỉ như thế, giáo dục nghiêm ngặt, lễ giáo như thế. Sau này có điều gì đi nữa. Làm sao tôi có thể nghĩ xấu cho người phụ nữ này được. Ai nghĩ xấu thì đó là việc của họ. Còn tôi thì không. Ai ghét thì cứ việc. Còn tôi không là không. Nói xấu cho một người thì dễ.. Kính trọng được một người thì mới là điều khó”.Vẫn trong bài viết của Giáo Sư Nguyễn Văn Lục: “Theo lời kể của anh Trần Cao Lĩnh, ông đã hết lời đối với gia đình ông Diệm và đặc biệt là đối với bà Nhu. Bà Nhu là hạng người phụ nữ chẳng những có ăn học, có giáo dục. Cử chỉ phong cách quý phái, chừng mực lễ độ trong cư xử. Không phải loại người bờm xơm, cớt nhả, dâm đãng, mất nết như những lời bịa đặt của dư luận ác ý”. “Tại Huế, chỉ các đàn ông như các ông Diệm, ông Nhu, Giám Mục Ngô Đình Thục mới được phép ở nhà trên dùng cơm. Bà Nhu chẳng những sợ và khép nép với ông Diệm mà còn cả với Giám Mục Thục. Theo nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh, Bà Nhu không dám tự tiện vào phòng ông Diệm”. “Nhưng phỏng được bao nhiêu người có cơ hội tiếp xúc với bà Nhu, hiểu bà Nhu như ông Trần Cao Lĩnh để rồi kính trọng nhân cách con người bà? Phải thú thực không có bao nhiêu. Không mấy ai biết bà, nhưng ghét bà, khinh miệt bà thì gần như tất cả. Đàn ông ghét đã đành, đàn bà cũng ghét theo. Ghét ngay từ những năm 1955 khi chưa có Quốc Hội, chưa có Hội Phụ Nữ Liên Đới hay Phụ Nữ Bán Quân sự. Dưới mắt đám đông, bà Nhu chỉ là một người phụ nữ “mất nết”, ăn mặc hở hang, lố lăng với chiếc áo dài kiểu mới. Phụ nữ chê bai tư cách của bà trong chiếc áo dài kiểu mới, nhưng không ai bảo ai, giới nữ sinh đến loại mệnh phụ phu nhân đều ăn mặc theo kiểu áo dài đó.” “Đến độ vào năm 1955, ông Diệm chép miệng than thở: Tội nghiệp, Bà Nhu có làm gì đâu? Không làm cũng chết chỉ vì bà là một người đàn bà. Lại thường nói quá mạnh, cứng rắn trong quan điểm, lập trường, không nhường nhịn. Đàn ông nào nó chịu được.”
4. Tờ Nữu Ước Thời Báo viết: “Chính nhân dân Việt Nam phải tự giải quyết cuộc khủng hoảng tại nước họ. Vai trò của Hoa Kỳ là làm cho họ hiểu rằng cuộc viện trợ và ủng hộ của Hoa Kỳ là không thể kéo dài vô thời hạn. Chúng tôi hy vọng rằng “quan điểm ấy của người Mỹ” sẽ được trình bày rõ ràng với bà Nhu, và bà trở về Sài Gòn với ý niệm rõ ràng đó, thì cuộc viếng thăm của bà tại Hoa Kỳ không phải là không hữu ích” “Trong ba tuần lưu lại Hoa Kỳ, bà Ngô đình Nhu đã đi thăm 12 thành phố, tham gia 17 chương trình phát thanh, đọc 17 bài diễn thuyết, dự 15 đại tiệc... và bà đã qua kỳ thi sơ khảo trước báo chí Hoa Kỳ và đã đậu ưu hạng. Hôm thứ Tư vừa qua, bà Ngô Đình Nhu tố cáo một số cơ quan thông tấn xã Hoa Kỳ tại Việt Nam đã liên can đến một vụ âm mưu lật đổ Chính Phủ Việt Nam”.
Những Lời Chê Bà Nhu:
1. Có những kẻ xấu miệng lại cho rằng Bộ Luật Gia Đình nhằm mục tiêu riêng: Ngăn Luật Sư Nguyễn Hữu Châu ly dị với bà Trần Lệ Chi, chị của bà Nhu. Theo tôi, đây chỉ là sự đoán mò với dụng ý xuyên tạc.
2. Trong bài “Nhớ Về Ông Bà Ngô Đình Nhu”, ông Nguyễn Văn Lục viết: “Tôi biết rõ. Vì chính tôi cũng chẳng thể nào quên được câu nói phạm thượng và xấc xược của bà khi Hoà Thượng Quảng Đức bị tự thiêu” “Đối với tôi, sau 1963, cái gì cũng trở thành đầu đề để đàm tiếu gia đình ông Nhu. Có cần nhắc lại những điều viết bất xứng về bà Nhu của những người như Hoàng Trọng Miên, Nguyễn Đắc Xuân không?” Và cũng trong bài viết nầy, có đoạn “Suốt tuần qua báo chí Sài Gòn đăng nhiều phóng sự điều tra về những bí mật trong Dinh Gia Long, đặc biệt là những hình ảnh sex mà họ gán cho là của bà Trần Lệ Xuân….Các sĩ quan chỉ cho chúng tôi hệ thống kính soi được lắp kính bốn mặt tường và họ giải thích rằng bà Trần Lệ Xuân lắp hệ thống kính như thế để mọi hoạt động thân thể riêng tư của bà trong phòng nầy bà có thể ngắm được từ nhiều phía, nhưng kỳ thực đây là những lời hoàn toàn bịa đặt ….” Và ông Nguyên Văn Lục có ghi đoạn: “Theo ông Ngô Bảo (nhà thầu tốt nghiệp Trường Mỹ Thuật bên Pháp) có trách nhiệm trang trí tư dinh của Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho người viết hay: phòng ăn Dinh Gia Long được trang trí với tranh sơn mài Thành Lễ. Riêng phòng bà Nhu chỉ treo độc nhất một bức ảnh bán thân của bà Nhu, do hoạ sĩ Nguyễn Khoa Toàn vẽ (1). Bức tranh vẽ bà Nhu mặc áo cánh lụa, có hơi rõ nét nổi lên phần ngực phía trong làn áo. Chỉ có vậy. Người viết hỏi thêm, có thấy các bức tường chung quanh phòng bà Nhu đều có gương phản chiếu không? Ông Ngô Bảo cho biết: Làm gì có chuyện đó. Tường thường như mọi bức tường nhà khác”
3. Cũng trong bài viết của Giáo Sư Nguyễn Văn Lục, ông trình bày:“Tôi đã nói chuyện với Sĩ Quan Tuỳ Viên Lê Châu Lộc, sau này là Nghị Sĩ Lê Châu Lộc. Ông Lộc với bản chất trung thực cho biết, ông biết gì nói nấy, có nói có, không nói không. Ông cho biết 06 năm làm sĩ quan tuỳ viên cho “ông cụ”, kề cận ông cụ ngày đêm. Trong 06 năm đó chỉ gặp bà Nhu trên dưới 10 lần, vì hai ông bà ở khu bên kia Dinh Tổng Thống, ít có tiếp xúc qua lại. Ông không mấy thích bà Nhu vì giọng nói của bà Nhu lai Bắc, lai Trung và tính nết tỏ ra cao ngạo. Nhưng đối với Tổng Thống Diệm thì bà sợ và cử chỉ e dè, khép nép. Không có cái cảnh muốn ra vào văn phòng ông Diệm lúc nào thì vào. Bà là người có phong cách, lịch sự và đàng hoàng”.
4. Nhiều người chỉ trích bà ỷ lại, là phu nhân của cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu và thường thủ vai Đệ Nhất Phu Nhân, nên chen quá sâu vào lãnh vực chính trị, để phải mang tiếng là “Sau rèm chấp chính”; nói bà có cử chỉ xem thường một số viên chức cao cấp và tướng lãnh, nên gây cho họ bất mãn về cung cách ấy của bà, và nhất là khi phát biểu, bà không uyển chuyển lựa lời, cứ nói thẳng thừng nên dễ gây mếch lòng nhiều người cho rằng bà nói năng hàm hồ và từ đó đâm ra thù ghét sau lưng bà….
Những Lời Phát Biểu của bà Nhu:
1. Trong bài viết về “Cuộc Đời Thanh Nga” đăng trên báo Người Việt Online có đoạn: “Bà nói, hiện nay nam nữ đã bình quyền, phụ nữ không còn phải chịu cảnh tối ngày chỉ lẩn quẩn trong gia đình, ẩn núp trong phòng the mà có thể tham gia bất cứ lãnh vực nào ngoài xã hội, kể cả chính trị mà hầu như xưa giờ chỉ dành cho nam nhân”.…
Luật Gia Đình đã phổ biến nhưng còn rất nhiều phụ nữ vẫn chưa biết, nên vẫn còn thiệt thòi. Bà nhấn mạnh, điều khoản trong Luật Gia đình đã bỏ chế độ đa thê lỗi thời, có từ thời thực dân, phong kiến đã hạ thấp nhân phẩm người phụ nữ.”
2. Trong diễn văn ngày 03-8-63, khai mạc Khoá Phu Nữ Bán Quân Sự tại Toà Đô Chính Sài Gòn, với nội dung có lời lẽ vu khống, mạ lỵ và hăm doạ Phật Giáo, gián tiếp tố cáo chính quyền Mỹ đe doạ và bắt chẹt chính quyền Miền Nam và cố tình bịt miệng Bà. Bà kêu gọi hãy phớt lờ các cuộc đấu tranh của Phật giáo và chớ quan tâm đến vụ Hoà Thượng Thích Quảng Đức, vì theo Bà, đó là âm mưu của Việt Cộng “nướng” sư ngày 11-6-63, nhằm vào việc quấy rối, khuynh đảo chế độ Việt Nam Cộng Hoà.
Bài diễn văn của bà Nhu đã gây ra một loạt phản ứng và tự thiêu ở các nơi khác. ”Ngày 15-11-1963, bà và con gái đã rời khỏi Los Angeles sau khi tức tối tuyên bố: “Tôi không thể cư ngụ ở Mỹ, vì lý do đơn giản chính phủ của họ đã đâm sau lưng tôi”.
3. Trong những ngày đi giải độc dư luận tại nước Mỹ bà Nhu tuyên bố “Nếu có một âm mưu lật đổ như thế, tôi có thể đoán chắc với quý vị là âm mưu ấy sẽ thất bại”.
4. Trong bài viết về “Bà Ngô Đình Nhu” của tác giả Trương Phú Thứ có đoạn: “Nhiều người nói bà Nhu căm thù Mỹ lắm vì những sai lầm trong chính trị đối với Việt Nam và nhất là đối với Đệ Nhất Cộng Hoà Việt Nam. Vào những ngày tháng cuối năm 1963, cả thế giới kinh ngạc nghe và nhìn bà Nhu mạt sát nước Mỹ và những lãnh đạo của siêu cường này ở tại một địa điểm chỉ cách Toà Bạch Ốc một quãng đường.”
Tin Đồn, Xuyên Tạc Ác Ý:
1. Trong bài phỏng vấn nhà văn Vĩnh Phúc (VP) của nhà văn Nguyễn Văn Lục (NVL), đăng trên Đàn Chim Việt Online tháng 3-2006 có đoạn: “Chẳng hạn có đám cháy ở khu Khánh Hội, người ta đồn bà Nhu cho đốt để bán tôn của bà. Cái gì cũng của bà Nhu, xe buýt bà Nhu, bột ngọt bà Nhu, hãng taxi bà Nhu, cây xăng bà Nhu, bất động sản khắp nơi của bà Nhu, chỗ nào cũng có người mập mờ nhận là Cần Lao… Thấy nó vô lý, nhưng làm sao kiểm chứng được. Tin đồn cứ thế loang ra”.
NVL: Tôi có cảm tưởng ông có vẻ ghét, khinh thường bà Nhu về những ngôn ngữ, cử chỉ xấc xược của bà ấy. Mặt khác tôi có cảm tưởng ông biện hộ, bênh vực bà ấy. Chẳng hạn trong sách ông cố tình chứng minh bà ấy không kinh tài, không tham nhũng, hối lộ? Điều đó có mâu thuẫn không?
VP: Không có gì là mâu thuẫn cả. Ghét là một chuyện, ghét tính nết, không ưa. Nhưng cho phép tôi dùng lại chữ của ông đã dùng, tôi phải công bằng với bà ấy. Theo tôi, bà là nạn nhân bị bôi nhọ một cách thô bạo nhất thời ông Diệm.
2. Trong bài viết của Luật sư Trương Phú Thứ có đoạn ghi:“Ngay cả một ‘sử gia chân chính” đã từng viết trong “chính sử” rằng Bà Nhu có mười bảy tỷ Mỹ kim, hai cái thương xá ở Paris và một đồn điền ở Ba Tây ....”
Ngày Tháng Lưu Vong
Ngày 01-11-1963, Đệ Nhất Cộng Hoà sụp đổ, bà Nhu và cô con gái Ngô Đình Lệ Thuỷ đang ở Mỹ và ngụ tại khách sạn Wilshire ở Beverly Hill, California, lo việc giải độc dư luận về tình hình chính trị và Phật Giáo tại Việt Nam… nhưng đến ngày 15-11-1963, bà rời nước Mỹ đi Roma (Italy), sau khi phát biểu: “Tôi không thể cự ngụ ở Mỹ, vì lý do đơn giản chính phủ của họ đã đâm sau lưng tôi”.
Khoảng đầu thập niên 90, bà Trần Lệ Xuân đến sống tại vùng Riviera (Pháp) và sau đó không lâu, Bà Nhu dọn đến ở trong một căn phòng nhỏ trên tầng lầu thứ 11 của toà nhà chung cư, gần khu kỳ quan tháp Eiffel, thuộc Quận 15, thủ đô Paris (Pháp).
Trên 40 năm sống lưu vong ở Âu Châu, ở Ý cũng như ở Pháp, Bà sống rất tằn tiện với nguồn thu nhập rất khiêm nhường từ một căn phòng cho mướn. Bà sống khép kín, cắt đứt mọi quan hệ với các nhân vật làm chính trị …cũng như hạn chế tiếp xúc với giới truyền thông báo chí. Trong bài viết của Luật Sư Trương Phú Thứ, có đoạn ghi: “Bà có thói quen, mỗi sáng, bất kể thời tiết giá buốt cỡ nào, bà vẫn đến nhà thờ…. dâng thánh lễ, phụ giúp công việc trong nhà thờ và đảm trách dạy các lớp Kinh Thánh và thỉnh thoảng thích làm công việc từ thiện. Bà hầu như không thiết tha gì đến cuộc đời…. Bà luôn thản nhiên vui sống với nếp sống hiện tại, bà dường như đã xoá nhoà dĩ vãng và cũng chẳng nghĩ gì về tương lai, mọi thứ Bà phó thác trong vòng tay của Chúa”. Thời gian sau nầy, kể từ ngày ông Ngô Đình Luyện qua đời, bà Nhu thay bà Luyện, tổ chức lễ cầu hồn cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông cô vấn Ngô Đình Nhu hằng năm tại Paris, Pháp.
Năm 2007, Bà đã trên tám mươi tuổi, dấu vết già nua đã hiện trên gương mặt, nhưng sức khoẻ còn khả quan, tươi tỉnh, dáng vẻ còn linh hoạt, nhưng chỉ 2 năm sau đó, ở tuổi 85 (2009), sức khoẻ của bà đột nhiên giảm sút nhanh và bị đau chân, bà không đi đến nhà thờ nữa, chỉ ở nhà cầu kinh, nên hai người con của Bà (Ngô Đình Trác và Ngô Đình Lệ Quyên) rước Bà qua Ý Đại Lợi sống chung, để tiện việc chăm sóc cho Bà…Bà Trần Lệ Xuân đã trút hơi thở cuối cùng tại một bệnh viện ở La Mã, lúc 2 giờ sáng (giờ La Mã-Ý Đại Lợi), vào ngày Lễ Phục Sinh, Chủ Nhật 24-4-2011. Bà thanh thản ra đi trong sự quay quần đông đủ các con và các cháu nội ngoại…Hưởng thượng thọ 87 tuổi.Từ sáng ngày 24-4-2011, tôi ghi nhận có rất nhiều điện thư ngập tràn trên mạng lưới Internet, nhiều người trong cũng như ngoài nước, đã bày tỏ lòng ngưỡng mộ và thương tiếc bà Ngô Đình Nhu, khuê danh Maria Trần Lệ Xuân với những lời lẽ trang trọng mến thương và chân thành cầu nguyện hương hồn của Bà sớm về an nghĩ nơi nước Chúa.
Chuyện “Hồi Ký Bà Nhu”
Trước đây, có tin đồn bà Nhu đang viết Hồi Ký và sẽ cho xuất bản vào một ngày rất gần, nên có rất nhiều người hiếu kỳ mong được sớm đọc quyển Hồi Ký nầy để tìm hiểu về chuyện thâm cung bí sử nền Đệ Nhất Cộng Hoà và những cải chính về những tin đồn liên quan đến cá nhân của Bà, nhưng mãi cho đến khi bà Nhu từ giã cõi đời, quyển hồi ký vẫn chưa thành hình và có tin từ trong gia đình, bà Nhu không viết hồi ký về cuộc đời sóng gió của bà mà chỉ viết những cảm nghiệm của Bà về cuộc đời đạo hạnh và Thiên Chúa…. Tập sách nầy được các con bà Nhu trao cho ông Trương Phú Thứ, để dịch từ tiếng Pháp ra tiếng Việt và sẽ cho xuất bản vào năm 2012. Quyển sách nầy không đề cập đến những hận thù, kể cả nhưng người đã làm đảo chánh, giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và chồng của bà (ông Ngô Đình Nhu) và chắc chắn có đoạn bà tuyên bố sẵn sàng tha thứ tất cả “Anh Thứ à, những chuyện người ta nói xấu về tôi thì tôi không biết. Nhưng nếu họ có nói xấu tôi, thì tôi cũng tha thứ hết.” Đó là lời của bà Ngô Ðình Nhu đã nói với ông Trương Phú Thứ.Báo Chí khắp nơi bình phẩm sau khi bà Trần Lệ Xuân qua đời.
1- Lời của Nguyễn Đình Hoài Việt.. “Bà Ngô Đình Nhu, khuê danh Trần Lệ Xuân, là người đã có công không ít trong công cuộc giải phóng người phụ nữ Việt Nam khỏi đầu óc phong kiến, chế độ quân chủ và chủ thuyết Cộng Sản đã chà đạp nhân phẩm của người phụ nữ Việt Nam xuống tận bùn đen. Bà Ngô Đình Nhu là người phụ nữ đầu tiên đi tiền phong phất cao ngọn cờ "Phụ Nữ Liên Đới" giải phóng người phụ nữ Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ phong kiến chồng chúa vợ tôi. Chính nhờ bà Ngô Đình Nhu mà người phụ nữ Việt Nam mới được bình đẳng với nam giới, mới được có nhiều cơ hội dấn thân đóng góp tài đức công khai trên chính trường Việt Nam trong những thập kỷ vừa qua”.
2. Ông Bùi Văn Giải, Chủ Nhiệm Bản Tin Về Bên Mẹ La Vang, số 160 tháng 6-2011, đã viết: “….Bà Ngô Đình Nhu, một nữ nhân trí thức, không ngu dốt như bọn nhà quê Thị Bình, Thị Định. Bà là một người vì chính nghĩa Quốc Gia, đứng thẳng trước bọn tiểu nhân hèn hạ, (ngày đó nhà văn Thương Sinh gọi bọn tiểu nhân này là bọn Cỏ Đuôi Chó), bọn Cỏ đuôi Chó này bám đít mấy ông linh mục xu thời và thầy chùa quốc doanh. Thời hỗn loạn đã qua, trắng đen, phải trái, cả thiên hạ biết hết rồi, chúng ta, những người lương hảo, cách riêng, những tín hữu, hãy thinh lặng cúi đầu, xin Thượng Đế đoái thương người phụ nữ Việt Nam can đảm này, xin Thiên Chúa ban cho linh hồn Bà an hưởng trường sinh với Ngài nơi cõi Vĩnh Hằng.”
3. Một người có địa chỉ Email Lmymy2000@.... sau khi nghe và đọc bài Phỏng Vấn Bà Ngô Đình Nhu (Anh Ngữ, có lẽ là lần duy nhất, sau 1963), đã viết: “Nghe cuộc phỏng vấn đặc biệt của bà Ngô Đình Nhu. Hình như sau khi chồng bị giết, bà chỉ cho phép được phỏng vấn một lần duy nhất này. Bà nói thẳng vào mặt mấy tên chính khách Mỹ đã âm mưu giết Tổng Thống Diệm và ông Nhu. Lập luận của bà vẫn sắc sảo, lời nói của bà vẫn đanh thép như thuở nào. Bà xứng đáng là một nữ lưu, cả thế giới phải nể phục. Sự khinh bỉ bọn chính trị ma đầu vẫn nằm trong ánh mắt và lời nói của bà. Tiếc thay, vận trời không đi theo ý muốn để giờ này VN vẫn lụn bại, vẫn đau khổ vì áp bức, bất công”.
4. TTLan Paris, viết ngày 26-4-2011: “Sáng Chủ Nhật Lễ Phục Sinh, bà Ngô Đình Nhu đã lìa đời. Bà Maria Trần Lệ Xuân, một tín đồ công giáo, ra đi ngày lễ này thì quả là được ơn phúc Phục Sinh, cầu nguyện cho hương hồn bà về nước Chúa an nghỉ. Tôi, hậu sinh và con cái của ‘chế độ cũ’ thì có thể nói là thiên vị. Thôi cũng chịu. Với tôi, bà Nhu là một Đệ Nhất Phu Nhân sáng giá nhất từ trước tới nay, một phụ nữ Việt tiêu biểu 3 miền (gốc gác bên Cha người Nam, bên mẹ người Huế, sinh ra và ăn học tại Hà nội), bà lại là một người thông minh, hoạt bát, đầy nhiệt huyết, lý chí để chỉnh đốn xã hội miền Nam bấy giờ. Nhưng sự cấp tiến của bà không thức thời nên bị hiểu nhầm bởi nhiều người và bà cũng bị nhiều người lạm dụng. Chỉ nên nhớ đến bà như một người đã trải qua một cuộc đời quá sôi nổi, gian truân, mà bà vẫn giữ được tư cách, phẩm giá của bà và gia đình bà. Xin một phút hoài niệm đến linh hồn người đã ra đi…”
* * *
Trong bài viết nầy, tôi xin phép không đề cập đến đời sống tình cảm riêng tư của bà Trần Lệ Xuân, vì tôi không có những tài liệu xác thật. Tôi không thể dựa vào tin đồn ác ý hoặc mang tính cách lăng mạ vì ganh tị địa vị hoặc nhằm mục đích chính trị mà trình bày một cách hàm hồ. Trong thị trường sách báo trong nước, hiện nay có vài quyển tiểu thuyết viết về bà Trần Lệ Xuân. Các tác giả dựa vào các tin đồn và thêm thắt quá nhiều hư cấu, nhất là những chuyện bên trong bức màn the của bà Trần Lệ Xuân, rồi kết luận rằng bà Nhu là một phụ nữ đa tình, lãng mạn và không chính chuyên, đôi khi dùng cả cái ngàn vàng của người phụ nữ trong mưu cầu chính trị để củng cố chế độ nhà Ngô. Ngay cả sau khi nghe tin bà Nhu qua đời, nhiều tờ báo trong chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam viết những bài mang tính cách vạch lá tìm sâu, hài tội hơn là khách quan nhận xét, hoặc ngỏ lời phân ưu hoặc tỏ chút tình cảm “Nghĩa tử nghĩa tận” đối với một người phụ nữ đáng thương hơn đáng trách.Viết về nhân vật lịch sử, phải viết bằng tâm tình trong sáng và khách quan, không ẩn tàng màu sắc chính trị, mới mong tránh được việc nhận xét sai lầm đáng tiếc. Thật không có gì nhục nhã cho bằng những kẻ uốn cong ngòi bút, cố tình bóp méo sự thật, với giọng điệu tuyên truyền cố hữu nhằm hạ thấp giá trị của một người đã vĩnh viễn ra đi.
Tôi căn cứ vào phim ảnh và tài liệu báo chí viết về bà Ngô Đình Nhu trong thời Đệ Nhất Cộng Hoà miền Nam Việt Nam, cùng những ngày tháng lưu vong của Bà tại Pháp và Ý Đại Lợi, mà viết bài viết nầy.Tôi nhận thấy bà Ngô Đình Nhu quả là một phụ nữ Việt Nam tuyệt vời, có một không hai thời Đệ Nhất Cộng Hoà, dám dấn thân hoạt động chính trị, phục vụ cho quê hương và dân tộc.
Bà là một phụ nữ khôn ngoan, một mẫu người tính tình cương trực, lịch lãm, dám nói dám làm, rất nhạy bén với thời cuộc, hiểu nhiều âm mưu thâm độc của Cộng Sản và quyết tâm bảo vệ nền Đệ Nhất Cộng Hoà với kỳ vọng phục vụ nhân dân miền Nam sống trong tự do no ấm. Khi chồng bà, ông Ngô Đình Nhu, cố vấn chính trị nền Đệ Nhất Cộng Hoà bị sát hại, Bà mới 39 tuổi, nhan sắc còn mặn mà, nhưng bà quyết ở vậy, sống tằn tiện, nuôi các con của bà ăn học thành tài, có địa vị xã hội cao ở Ý Đại Lợi và Bỉ Quốc.
Trong những ngày tháng lưu vong, Bà ý thức “thời của bà đã qua”, Bà luôn an phận một goá phụ, cắt đứt mọi liên lạc với những người hoạt động chính trị và giới hạn tối đa việc tiếp xúc với báo chí nên Bà không bị một điều tiếng gì trong lãnh vực tình cảm cũng như trong lãnh vực chính trị.Bà không cần cải chính những tin đồn về việc Bà mang tiền (17 tỷ đô la) của chế độ ra ngoại quốc hoặc những lời bịa đặt bêu xấu Bà….
Bà giữ im lặng và sống khiêm nhường cho đến lúc Bà qua đời. Thái độ và cuộc sống của Bà đã chứng minh đâu là sự thật.Bà đã quyết không trở về Việt Nam, mặc dù Nhà Nước Cộng Sản có lần đánh tiếng “Nếu Bà muồn về thì cứ về thôi”, nhưng Bà tuyệt nhiên không về để đau lòng chứng kiến quê hương Việt Nam bị nhuộm đỏ và cảnh dân chúng cơ cực lầm than….
Thái độ của Bà hơn hẳn nhiều người, trong số có ông tướng Nguyễn Cao Kỳ trở về Việt Nam với cầu mong danh vọng hảo huyền để phải mang điều nhục nhã, hoặc một số người khác cam tâm bán linh hồn cho quỷ đỏ…..đã bị hầu hết người Việt yêu chuộng Tự Do trong và ngoài nước chê cười, khinh bỉ.
Tôi rất ngưỡng mộ bà Nhu dùng hai chữ “Nướng Sư” trong trường hợp Thượng Toạ Thích Quảng Đức bị “bức tử” qua dàn dựng “tự thiêu”. Từ ngữ “nướng sư” rất xác nghĩa nhưng nhiều người đã không chịu hiểu như vậy mà ngược lại còn cố tình xuyên tạc, cho rằng bà Nhu “hỗn láo”, “xấc xược” đối với một vị chân tu. Thật đáng tiếc cho những người kém hiểu biết về Cộng Sản mà cứ vỗ ngực xưng tên….
Bà Ngô Đình Nhu bị các đảng phái đối lập và thành phần hoạt động Cộng Sản ngấm ngầm giựt dây, chỉ trích là không tế nhị trong khi phát biểu trước công chúng, khiến cho nhiều người phật ý, gây bất lợi trong môi trường chính trị và ngoại giao. Đó chắng qua là bản tánh bộc trực của bà Nhu; nếu bà Nhu thận trọng hơn, khéo léo hơn về điểm nầy, thì chắc chắn giá trị cá nhân của Bà sẽ được nâng cao và được nhiều người mến mộ hơn nữa.
Nói chung, ở đời ai cũng có khuyết điểm, nhân vô thập toàn, nhưng nếu đem khuyết điểm vừa kể so với tinh thần phục vụ, cùng những việc làm thiết thực của bà Nhu dành cho xã hội miền Nam thời Đệ Nhất Cộng Hoà, thì bà Ngô Đình Nhu quả một người phụ nữ đáng được nhân dân Việt Nam tuyên dương hơn là chê trách. Bà Ngô Đình Nhu quả là một phụ nữ đoan trang, tiết hạnh, giàu cương nghị. Bà chấp nhận cảnh goá bụa trong cuộc sống tha hương, tằn tiện nuôi các con của bà ăn học thành tài; ngoài ra, bà còn có lòng vị tha, xoá bỏ tất cả hận thù đối với những người tham gia đảo chánh giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm là anh chồng của bà và chồng bà, ông Ngô Đình Nhu. Bà tin tưởng mọi việc xảy ra trong cuộc đời đều do bàn tay của Thiên Chúa sắp đặt, nên Bà luôn thanh thản từng phút giây trong cuộc sống. Việc làm của bà Nhu đã khiến tôi vô cùng cảm phục.
Bài viết nầy coi như là nén hương lòng thắp muộn của một người dân xứ Bưởi kính dâng bà Ngô Đình Nhu, nhũ danh Trần Lệ Xuân, cháu cố của ông Trần Văn Tứ, cháu nội của ông Trần Văn Thông, ….nguyên quán tỉnh Biên Hoà.
Nguyễn Kim Lộc