CHUYẾN TÀU "KHÔNG THỐNG NHỨT" NAM - BẮC.
Đinh Bá Tâm- QGHC Khóa 12
(*Trích y- Tựa do Mt68 tự chế.)
Tân nhớ lại những năm bị tù “cải tạo” của CS năm xưa… Vào một buổi sáng cuối năm 1976, Tân cùng một số bạn đồng tù ở trại “cải tạo” Long Thành được nghỉ lao động, ở nhà chuẩn bị di chuyển, sau hơn một năm bị nhốt ở đây. Mỗi người nhận được một chiếc bao bố, ghi tên lên bao, “đóng gói” quần áo, mùng mền, thực phẩm khô gia đình tiếp tế… để trại gởi đi trước. Mấy hôm sau, vào một buổi chiều cuối năm âm u, mưa bay lất phất, những trại viên có danh sách chuyển trại tập họp tại hội trường.
Dưới ánh đèn mờ ảo, đoàn người lặng lẽ sắp hàng cho cán bộ trại kiểm tra. Để có “khí thế phấn khởi” trước khi lên đường, một nữ công an bắt giọng the thé bài “Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng”, và yêu cầu mọi người hát theo. Một vài giọng miễn cưỡng cất lên với giọng trầm buồn, khàn khàn, lạc điệu … giống như tiếng kêu của những cánh chim lạc đàn trong đêm vắng! Sau đó mọi người sắp hàng đôi, đứng sát vào nhau để cán bộ công an còng tay từng cặp, và rồi những cảnh vệ mang súng áp tải họ lên xe. Xe chạy về hướng thành phố Sài gòn, rẽ quốc lộ 1, đến bến tàu Tân Cảng. Từng đôi xuống xe, đến tập trung ngồi ở một góc cầu tàu…Tại đây, Tân thấy lố nhố hàng trăm bóng người đang ngồi lặng lẽ trong đêm.
Tân nhìn ra chiếc tàu đang đậu sát cầu tàu. Đó là loại chở hàng hoá, khá lớn, đen sì, trên boong chất đầy những xe gắn máy Honda, những chiếc tủ lạnh trắng toát… Cạnh đó, những người đứng trên bao lơn tàu đang hút thuốc, lạnh lùng nhìn xuống đám “tù cải tạo” dưới bến. Máy tàu chạy rì rào, át cả tiếng một công an cảnh vệ đứng gần đó kêu to, khi anh ta đi mở còng tay cho đám tù cải tạo Long Thành:
-Chết bố nó rồi! Tớ làm mất chìa khoá mở còng cho hai người này rồi!
Tiếp theo là câu nói an ủi nhắm vào hai nạn nhân đang thất vọng :
-Khắc phục nhé! Đến nơi, sẽ có bộ phận cưa còng để mở cho các anh. Phấn khởi lên!
Tân chua chát nghĩ thầm: thế là cặp đồng tù này sẽ “sát cánh bên nhau”, cả ngày lẫn đêm, cả dưới tàu lẫn trên xe để di chuyển đến trại “cải tạo” mới!
Anh nhìn về hướng thành phố Sài gòn đang lấp lánh ánh đèn mà lòng buồn vô hạn. Nơi đó anh đã sống với biết bao kỷ niệm vui buồn. Những ngày đầu tiên từ Huế vào học trường Chu Văn An. Những đêm mài miệt đèn sách học thi Tú tài. Những ngày đi lên giảng đường Học viện Quốc Gia Hành Chánh Sài gòn cùng các đồng môn nam nữ. Những buổi hẹn hò với người yêu, đi xem Ciné ở rạp Lê Lợi, Vĩnh Lợi; xem ca nhạc về đêm ở Bồng Lai; đến các quán ăn đường Pasteur; xuống bến tàu Bạch Đằng hóng mát, nơi đó đôi uyên ương im lặng ngồi bên nhau dệt mộng tương lai…
Kể từ tháng năm năm 1975, chỉ một năm rưỡi xa Sài gòn để vào trại tù “cải tạo” Long Thành, mà anh thấy nhớ thương thành phố thân yêu này quá. Anh đưa tay âm thầm chào từ biệt Sài gòn trong đêm vắng, tự nghĩ: phải chăng chuyến đi này dành cho những người tù “khổ sai biệt xứ”? Và rồi đây anh có cơ may nào trở lại thủ đô yêu dấu một thời của Miền Nam, gặp lại cha mẹ già, gặp lại vợ con thân yêu?
Khi đám công an cảnh vệ dẫn những người tù “cải tạo” di chuyển đến gần tàu, Tân tưởng sẽ lên một khoan nào trên tàu, nhưng lại phải đi một lối khác xuống lòng tàu, phần đáy chìm dưới mặt nước. Xuống đến nơi, Tân cảm thấy một làn hơi nóng hầm hập lẫn mùi ẩm mốc hôi hám bốc lên, khiến anh muốn ngạt thở. Trên vách tàu còn in rõ lằn đen của bụi than đá. Dưới ánh sáng mờ ảo của những bóng đèn tròn, thấp thoáng quang cảnh những người ngồi, kẻ đứng, loay hoay tìm một chỗ trống, sạch sẽ để nghỉ lưng…
Đến sáng, khi chiếc tàu chở tù “cải tạo” ra đến giữa biển, bị chao đảo dữ dội bởi những con sóng bạc đầu mùa đông. Trên tàu, tiếng ói mửa vang lên khắp nơi. Trong các “cầu tiêu dã chiến”- những chiếc thùng nhựa – quá nhỏ và quá ít so với nhu cầu của hàng ngàn tù nhân trong đáy tàu- bắt đầu đầy lên. Phân, nước tiểu và những chất ói mửa tràn ra, chảy lênh láng khắp nơi. Nhiều người nằm gần đó phải đi tìm một chỗ sạch sẽ để ngả lưng … Tân cảm thấy say sóng ngất ngây, nằm nhắm mắt mơ mơ màng màng. Tiếng nói chuyện ồn ào cũng tắt dần. Mọi người đã thấm mệt nằm im . Bỗng có tiếng kêu to:
-Mở cửa hầm tàu! Có người ngất xỉu!
Tiếp theo, có nhiều tiếng kêu, lập lại nhiều lần, vang rền khu nhà kho ở đáy tàu. Sau đó, có tiếng cót két bên trên; tấm cửa sắt bên trên được kéo ra, hé mở. Một luồng hơi mát từ trên boong tràn xuống, xua bớt cái nóng hầm hập lẫn mùi xú uế dưới tầng hầm sâu.
Tân thầm nghĩ: thế ra những người điều khiển con tàu vẫn có thói quen đóng kín hầm tàu để “bảo quản” hàng hoá, bảo vệ gia súc mỗi khi di chuyển đường dài trên biển. Và trong chuyến hải hành này có chở theo những người tù “cải tạo” ,họ cũng vẫn đóng kín hầm tàu, bảo quản những món hàng “đáng giá” dành cho những cuộc trao đổi sau này. Cũng như trước đây chủ tịch Cuba, Fidel Castro đã trao đổi những người tù lương tâm Cuba với Hoa kỳ để lấy những chiếc máy cày của Mỹ!
Sáng hôm sau tàu dừng lại. Mọi người đoán chừng tàu đang ở khoảng giữa miền Trung, dưới vĩ tuyến 17. Hôm ấy, Tân nhận lãnh việc kéo thùng xú uế đổ xuống biển. Không khí trên boong tàu mát lạnh dễ chịu. Mặt trời đã lên cao, toả ánh nắng mùa đông dịu dàng. Xa xa, những hòn đảo có hình thù đẹp mắt nhô lên từ làn nước biển trong xanh, lấp lánh dưới ánh mặt trời. Một vài cánh buồm màu nâu căng gió, lững lờ trôi. Vài con chim màu xám bay qua, sà xuống đậu trên sân tàu. Đây là lần đầu anh thấy tận mắt con chim hải âu lưng xám, ức trắng, một loại chim to lớn như con quạ, sống ở miền ôn đới mà sau này anh thường gặp ở miền Nam California. Nhìn những cánh buồm màu nâu, những con chim hải âu…tất cả đều xa lạ với kẻ đã sống gần nửa đời người ở Miền Nam Việt nam. Tân bắt đầu cảm thấy lo âu, thất vọng. Thế là anh và các bạn đồng tù cải tạo đã bị lưu đày ra đất Bắc rồi!…

Sau đó, nhóm tù “cải tạo” Long Thành được lệnh xếp hàng, chuẩn bị di chuyển. Một đoàn người ăn mặc nhàu nát, dáng điệu bơ phờ; với cảnh vệ mang súng đi cạnh, từ hầm tàu chui ra. Hành khách đứng trên boong tàu im lặng và lãnh đạm nhìn xuống…Tân đưa mắt nhìn ra quang cảnh dưới bến cảng – sau này được biết là cảng Hải Phòng. Một đám công an, với áo vàng bốn túi, mũ cối gắn sao vàng; với súng ngắn đeo bên hông, tay dắt chó săn to lớn…đứng dọc con đường từ bến cảng ra đường lộ. Những chiếc xe Nhật loại chở khách, với màn che kín mít đang đậu bên đường như đang đợi khách…Những khách “đặc biệt” từ Nam ra bị còng tay từng cặp trước khi bước lên xe. Còn một tù nhân lẻ, bị còng vào ghế ngồi trong xe cho “chắc ăn”!
oOo
Đoàn xe khởi hành, chạy về hướng nam, đến địa phận Thanh Hoá thì trời đã tối hẳn. Đoàn xe dừng lại bên đường để những “hành khách cải tạo” xuống xe đi tiêu, đi tiểu tiện… Bỗng từ trong xóm ven đường có ánh đuốc, có tiếng gọi nhau ơi ới, vang cả xóm vắng: “Ra xem “tù cải tạo Ngụy” chúng mày ơi!…” Có tiếng hét to: “Đánh chết mẹ chúng nó đi”…. Những người tù Miền Nam đang tiểu tiện, nghe được những “âm thanh cuồng nộ” như thế, chạy vội về xe chở mình…Và rồi đoàn xe nhanh chóng lăn bánh, trước khi có những sự việc đáng tiếc xảy ra!
Khi xe qua một khúc sông ở địa phận Thanh Hoá, Tân thấy một chiếc phà nằm sẵn ở bến. Sau khi chiếc xe chở đầy tù “cải tạo” nặng nề, từ từ lăn bánh xuống phà, một công nhân kéo chiếc dây cáp cho chiếc phà di chuyển qua sông! Tân chợt nhớ đến người bạn tù lẻ loi bị còng tay vào ghế xe. Nếu xe di chuyển xuống phà bị trượt bánh, rơi xuống sông, những cặp tù bị còng chung còn có thể dìu nhau bơi vào bờ. Còn anh bạn tù lẻ loi kia, chắc phải chịu cảnh chết chìm theo xe chăng?
Đến sáng, sau khi nặng nhọc leo lên đồi, những khu rừng núi. Sau khi đổ dốc xuống gần bờ sông Mã, đoàn xe dừng lại trước trại tù Thanh Cẩm. Trại được bao quanh bởi những bức tường đá dày và cao ngất, với vọng gác chung quanh. Đoàn tân tù bước xuống xe, chán nản, mệt nhọc trút bỏ bụi đường- trút bỏ những kỷ niệm của tháng ngày tự do, của cuộc sống êm đềm trong quá khứ ở Miền Nam.
Rồi từ đó, Tân cũng như các bạn đồng tù, đã trải qua những tháng ngày lao động cực nhọc ở các đội trồng rau, trồng khoai sắn. Những buổi sáng mùa đông giá buốt, phải lội xuống sông Mã để ngâm những cây luồng thật dài và to như thân cây tre. Những ngày hè nắng cháy da phải lên núi khiêng đá về xây cất thêm những nhà tù “cải tạo” mới. Làm việc cực nhọc theo “chỉ tiêu” giao phó, ăn uống hạn chế theo “tiêu chuẩn” ấn định. Cho nên, nếu không có những đợt thăm nuôi của gia đình trong Nam, tù “cải tạo” sẽ còn chết rất nhiều hơn! Năm năm sau, Tân được gọi tên cho ra khỏi trại tù Thanh Cẩm, thoát được chốn địa ngục trần gian. Hình ảnh nơi ấy vẫn còn in mãi trong tâm trí anh đến tận đêm hôm nay….

oOo
Tân vươn mình ngồi dậy, bước xuống giường. Nằm mãi một mình trong cabin con tàu du lịch Caribbean Princess, anh vẫn không ngủ được. Đã mười hai giờ đêm, vợ và các con, các cháu của anh chưa trở về phòng. Anh tự nhủ: mọi người giờ này vẫn còn vui chơi giải trí trên tàu, cớ sao anh tự “giam mình” trong cabin, giam mình trong nỗi ray rức của quá khứ đau thương?
Đã hơn ba mươi năm rồi, từ khi ra khỏi trại tù “cải tạo”, và sau đó đi tỵ nạn ở nước ngoài, anh những tưởng cuộc sống ổn định, tươi đẹp nơi quê hương thứ hai này sẽ làm anh quên được bao đắng cay trong quá khứ thương đau ấy. Nhưng đêm nay, trải qua những ngày đêm thoải mái, thích thú trên chiếc du thuyền sang trọng, qua những hòn đảo xinh đẹp thơ mộng của vùng biển Caribe, hình ảnh bi đát trên chuyến tàu đi “lưu đày biệt xứ” năm xưa lại hiện lên rõ nét. Làm sao anh quên được?!
Tân mở cửa cabin, bước ra đứng tựa lan can ở mạn tàu. Đêm yên tĩnh với gió biển mát lạnh. Những đợt sóng đập vào thành tàu, tạo nên những cuộn lân tinh trắng xóa, nhấp nhô. Một cánh chim bay qua, kêu vang một góc trời. Tân sực nhớ đến những cánh hải âu màu trắng, anh đã nhìn thấy vào buổi sáng đầu tiên trên đất Bắc. Cảnh trí sáng hôm ấy thật đẹp. Nhưng với anh, hôm ấy là một ngày đen tối, khởi đầu cho những tháng năm cực nhọc, đói khổ, nhục nhằn mà anh và các bạn đồng tù “cải tạo” chịu đựng suốt bao năm.

Tân thở dài nhìn ra sóng nước xa xa. Trăng lên cao toả nhẹ ánh vàng nhạt trên mặt biển mênh mông tím sẫm, gợn sóng lăng tăng, lấp lánh ánh lân tinh ma quái. Đêm đã về khuya, nhưng hành khách trên tàu vẫn còn dạo chơi bên trong các phòng giải trí. Tân đứng một mình ngoài hành lang mạn tàu mà lòng cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết…Trong tiếng sóng rì rào, tiếng gió vi vu, Tân nghe như có tiếng hát của ca nhạc sĩ Nam Lộc trong bài “Xin một nụ cười” do chính ông sáng tác, sau khi đi tỵ nạn ở đất nước Hoa kỳ Tự Do này: “Tự do ôi tự do! tôi trả bằng nước mắt. Tự do hỡi tự do! anh trao bằng máu xương. Tự do ơi tự do! em đổi bằng thân xác. Vì hai chữ tự do, ta mang đời lưu vong…”
Tam Bách Đinh Bá Tâm