Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label BSVCNguyenKhacVien. Show all posts
Showing posts with label BSVCNguyenKhacVien. Show all posts

Friday, 2 February 2024

NGUYỄN KHẮC VIỆN CON QUAN LẠI, ĂN CƠM VUA THỜ MA CỘNG SẢN- MẤY MƯƠI NĂM TẬN TÌNH LIẾM, VÁI CỘNG SẢN - ĐẾN KHI THẤY VC HIỆN NGUYÊN HÌNH LÀ ÁC THÚ - HẮN DÂNG SỚ MONG CỨU ĐẢNG, CỨU CHỦ NGHĨA CHÓ GHẺ: CHẲNG CÓ ĐỨA NÀO NGHE - NGUYỄN KHẮC VIỆN CHẾT NHƯ LƯU THIẾU KỲ, CHẾT NHƯ NGUYỄN CON KY ... HỐI MÀ KHÔNG DÁM HẬN VIỆT CỘNG./-Mt68

__________________________________


 BBCVietnamese.com

26 Tháng 1 2006 - Cập nhật 22h26 GMT

Nguyễn Thanh Giang
Khu tập thể Địa vật lý Máy Bay

Bàn về bác sĩ Nguyễn Khắc Viện

Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện là một trí thức tên tuổi của Việt Nam và cả quốc tế. Tất nhiên, trong giai đoạn đầu của cuộc đời, Bác Sĩ nổi tiếng là một trí thức Cộng Sản nhiệt thành và hy sinh chẳng những cho phong trào Cộng Sản mà còn cho sự xây dựng chủ nghiã xã hội tại Việt Nam.

Một người như thế - có thể nói toàn bộ cuộc đời cống hiến cho xã hội, với tâm huyết xây dựng, cải tiến chế độ đương thời cho dân chủ, cho tốt đẹp hơn (đúng là sau này ông có tỉnh ngộ về thực chất xã hội chủ nghiã và muốn thay đổi nó), đáng lý ra phải được hưởng những gì xứng đáng với sự hy sinh của ông; thì ngược lại, vì ý thức tiến bộ và dân chủ - tức muốn có dân chủ trong hệ thống chính trị và xã hội Việt Nam, ông đã phải trả giá!

Xin theo dõi giai đoạn từ năm 1962, mốc thời gian BS NGUYỄN KHẮC VIỆN chuẩn bị về nước, dẫn dần đến kết cục bi thảm của cuộc đời của ông trước khi qua đời. Đây là trường hợp điển hình diễn tả một người có công lớn đối với xã hội đã bị chế độ vùi dập như thế nào.

Năm 1962, do sự điều đình giữa chính quyền Ngô Đình Diệm với nhà chức trách Pháp, chính phủ Pháp ký lệnh trục xuất Nguyễn Khắc Viện. Ông nán lại một thời gian để làm báo cáo công tác và giúp đỡ đoàn chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do ông Mai Văn Bộ làm đại diện tại Paris. Ngày 27 tháng 4 năm 1963, ông được Đảng và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đưa về nước qua đường Tiệp Khắc, Liên Xô, Trung Quốc. Buổi ông rời Pháp lên đường, kiều bào và các bạn Pháp kéo đến tiễn chân, đông như một cuộc biểu tình.

Về nước, ông được Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ làm Ủy viên Ban Đối ngoại, trực tiếp phụ trách công tác tuyên truyền quốc tế. Ngoài nhiệm vụ tổng biên tập báo Le Courrier du Vietnam và tạp chí Etudes Vietnamiennes ông còn phải đảm trách chức giám đốc Nhà xuất bản Ngoại văn. Hàng trăm bài báo và đầu sách ông viết bằng tiếng Pháp gửi các báo nước ngoài hoặc cho 3 cơ quan trên, khỏi phải nói, đã giúp bạn đọc Pháp và những nước nói tiếng Pháp hiểu Việt Nam một cách có lợi cho chế độ.

Giáo sư Hoàng Như Mai nhận xét là : “ Văn phong của anh Viện – khi viết Pháp văn – giản dị, trong sáng, khúc triết. Tôi nghĩ rằng anh Viện viết thứ văn Jules Michelet, Ernest Renan, một thứ văn thuần Pháp”.

Tiên phong trong sự nghiệp đổi mới và dân chủ hoá đất nước

Năm 1963, khi mới về nước, Nguyễn Khắc Viện đã tuyên bố một câu mà sau đó được giới trí thức ở Hà Nội lưu truyền : “Nếu mở mắt ra, nước Việt Nam biến thành nước Pháp thì tôi đi theo chủ nghĩa tư bản, còn như phải đi 200 năm đầy máu và nước mắt để Việt Nam trở thành nước Pháp thì tôi theo Liên Xô”.

Khi Liên Xô sụp đổ, nhà báo Lê Phú Khải thẳng thắn thân tình hỏi ông : “Khi xưa, mới về nước, bác đã nói một câu nổi tiếng về Liên Xô, nay Liên Xô đã tan rã rồi …giờ “cụ” nghĩ sao đây?”. Vẫn điềm đạm, chân tình, Nguyễn Khắc Viện trả lời : “ Giờ thì tôi đi theo kinh tế thị trường văn minh chứ không phải tư bản hoang dã …”.

Cái thứ xã hội chủ nghĩa mà Nguyễn Khắc Viện cũng như nhân dân ta đã ngây thơ kỳ vọng tới, đã đau đớn xả thân một cách lầm lạc vì nó đã không hề có trong thực tế ở Liên Xô, ở Trung Quốc … Về sống cùng quê hương xứ sở, Nguyễn Khắc Viện mới bàng hoàng nhận ra: “ Chủ nghĩa xã hội ngây thơ mang tính hoàn toàn Nhà nước thúc ép tất cả mọi người vào một cái khung áp đặt từ trên xuống, tạo ra một bộ máy quan liêu và hào lý nặng nề, tiêu diệt óc sáng kiến của nhân dân ” ( 2 ).

Từ cái đường lối xã hội chủ nghĩa quái đản ấy đã buộc phải thực thi những chủ trương, biện pháp sai lầm đến mức như là phản động. Nguyễn Khắc Viện phát biểu: “… sau này theo dõi thực tế và nghĩ lại, tôi mới thấy hợp tác hoá thực chất là tập thể hoá, tước đoạt quyền làm chủ của người nông dân trên mảnh đất của họ. Quyền sử dụng ruộng đất ở nông thôn, trồng gì, giá cả ra sao, chi phí thế nào … do bí thư, chủ tịch, chủ nhiệm hợp tác xã quy định, dân không có quyền gì nữa. Bộ máy dần dần thoái hoá, tiêu xài phung phí, lạm dụng quỹ chung của hợp tác xã, nông dân làm ra, cuối cùng tính công điểm chẳng còn bao nhiêu. Người nông dân không hào hứng nữa, đánh kẻng rồi mới đi làm, không còn cảnh ra đồng sớm như trước nữa. Cuộc sống nhiều khi dựa trên thu nhập từ kinh tế gia đình, trên đất 5% là chủ yếu, mặc dù nuôi được một con lợn, muốn bán cho ai, bán lúc nào, giá cả ra sao, cũng không có quyền quyết định” ( 3 ).

Ở miền Bắc, hợp tác xã có điều kiện thuận lợi hơn nên lúc đầu cũng có một số tác dụng, nhưng càng về sau càng bộc lộ những bất cập, kềm hãm sản xuất ghê gớm. Thế mà sau khi giải phóng Miền Nam, Đảng vẫn chủ trương hợp tác hoá nông nghiệp ồ ạt, đặt chỉ tiêu một cách ngông cuồn: Năm 1980 phải hoàn thành hợp tác hoá nông nghiệp toàn miền Nam!

Đi theo đường lối tiến lên chủ nghiã xã hội bằng những chủ trương, biện pháp hết sức sai lầm, Đảng đã nghèo khổ hoá nhân dân và đẩy đất nước đến bờ vực thẳm. Tuy nhiên, khi chợt bừng tỉnh, Đảng lại đi từ sai lầm tả khuynh đến sai lầm hữu khuynh khi giương cao khẩu hiệu “Đảng viên cũng phải biết làm giầu”. Thực tế ấy làm Nguyễn Khắc Viện trăn trở : “Cách mạng Pháp nêu khẩu hiệu “ Tự do-Bình đẳng-Bác ái ”. Trên cái nền “Tự do-Bình đẳng-Bác ái“ ấy mà nước Pháp trở thành giầu có. Nếu chỉ nêu khẩu hiệu làm giầu mà bất chấp mọi thứ thì sẽ dẫn đến chụp giựt, sa đọa, lừa đảo, phá hoại cả môi trường nhân văn và môi trường sinh thái” ( 4 ).

Trong cơn khát làm giầu như thế, hàng loạt cán bộ, đảng viên đua nhau móc ngoặc, tiếp tay cho con buôn, lạm dụng công quỹ, lợi dụng đất đai, tài sản, phương tiện của nhà nước để vơ vét vào túi tham vô đáy của mình. Ông viết bài Chống tiêu cực” vạch rõ : “Tình trạng cán bộ tham ô, ức hiếp nhân dân, không chỉ là trái đạo đức, mà còn là vấn đề chính trị”.

Kiến nghị bảy điểm

Khi tình hinh xã hội đã trở nên rất nghiêm trọng, ông viết “Thất trảm sớ” gửi Quốc hội. Nội dung tóm tắt như sau :

1 - Đường lối đề ra tiến lên sản xuất lớn XHCN, nhưng phải điều chỉnh lại để sản xuất nhỏ cũng có vị trí nhất định.
2 - Phải mở rộng quan hệ quốc tế rộng rãi, trước hết là với các nước anh em đã có quan hệ lâu năm. Việc làm ăn với Liên Xô nên đàng hoàng, thân tình, cởi mở hơn, không để cho tinh thần chống chủ nghĩa xét lại khống chế một cách nặng nề.
3 - Ở các cấp có 2 bộ máy mà bộ máy Đảng đứng trên bộ máy Nhà nước thì bộ máy Nhà nước không thể có hiệu lực, không thể nào phát triển kinh tế, văn hoá được.
4 - Thưởng phạt phải nghiêm minh.
5 - Báo chí chỉ thông tin một chiều nên không phản ánh được dư luận của nhân dân. Chế độ kiểm duyệt quá sát sao, không cho đăng ý kiến của quần chúng nên đã dẫn đến những sai lầm.
6 - Đáng nhẽ khoa học xã hội phải đi trước một bước nhưng vì phải đợi chủ trương đường lối để minh hoạ nên chẳng đóng góp được gì xứng đáng.
7 - Đại hội lần thứ 2 của Đảng (1951) đã xác định đường lối cơ sở Đảng ta dựa trên căn bản chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông. Cần nghiên cứư lại tác hại của tư tưởng Mao Trạch Đông để xoá bỏ tàn tích của nó.

Trong bản kiến nghị có một câu rất hay khi nói về quyền bình đẳng trước pháp luật : “Không làm theo kiểu phong kiến: dân thì chịu hình pháp, quan thì xử theo lễ”.

Trong một bài viết nhan đề : “Then chốt : cải tổ bộ máy”, ông vạch rõ : “Hai nhược điểm cơ bản (của bộ máy Đảng-Nhà nước ) là : 1) Thiếu nhạy bén trước yêu cầu của nhân dân, của tình hình mới của thời đại. 2) Cơ cấu tổ chức ngăn cản những tiến bộ của kinh tế xã hội. Bộ máy Đảng-Nhà nước thiếu nhạy bén do cách làm ăn thiếu dân chủ, thiếu khoa học” ( 4 ).

Ông nêu những nhận xét khái quát : “ … Việt Nam có truyền thống yêu nước, truyền thống đoàn kết với nhau, tức là có những thể chế bảo đảm quyền của cộng đồng đứng trước bộ máy nhà nước, bộ máy tôn giáo. Nhưng khái niệm và thể chế để bảo đảm quyền của con người, quyền của công dân thì chưa có …dân chủ là một khái niệm mới thì chúng ta buộc phải nhập từ Phương Tây. Việc gì phải che dấu chuyện này ” (3 ). “ Nhân dân ta có nhiều truyền thống tốt đẹp, như kiên cường đấu tranh chống ngoại xâm, sống có tình có nghiã, nhưng truyền thống dân chủ thì chưa có. Con chỉ biết phục tùng cha, dân phục tùng vua quan, cá nhân phục tùng đoàn thể, vợ phục tùng chồng, trò phục tùng thầy; phục tùng trong hành động, trong cả suy nghĩ. Bề trên vừa là chỉ huy, vừa là thầy, là thánh, chân lý phát ra từ cấp trên. Không thể làm khác ý đồ của trên ( 2 )”.

Ông bác bỏ luận điệu xảo trá, hù doạ rằng dân chủ sẽ đưa đến loạn lạc: “Ý kiến tôi cũng như nhiều anh em khác mong mỏi có dân chủ hoá. Ai cũng muốn có ổn định, chứ không phải muốn cho xáo trộn loạn lạc lên đâu. Nói như vậy chỉ là sự vu khống. Chính vì muốn tránh bùng nổ, mà tôi muốn nhịp độ dân chủ hoá phải nhanh hơn, nếu không, bề ngoài cứ tưởng là ổn định, nhưng tình trạng mất dân chủ gây nên phản ứng như những đợt sóng ngầm, đến lúc nào đó không tránh khỏi bùng nổ. Kinh nghiệm Liên Xô và Đông Âu rất đáng cho ta suy ngẫm” (3).

Ông ngán ngẩm, nhưng lại kỳ vọng : “Một sự im lặng đáng sợ đang trùm lên cả xã hội : ít ai động vào đưa ra một sáng kiến, người thì chạy vạy cho cuộc sống hết hơi, hết ngày, người thì chán nản bi quan, ngay cả phẫn nộ cũng không còn sức. Đất nước ta hiện nay đang cần những con người chủ động, có óc sáng tạo để cải tổ mọi lĩnh vực trong cuộc sống xã hội. Làm sao khuấy lên được hào hùng, tin tưởng, phẫn nộ”. ( 2 )

Ông hồ hởi mừng vui đón nhận từng tín hiệu nhỏ làm tiền đề cho cuộc đấu tranh vì sự nghiệp dân chủ hoá : “Vụ đổi tiền tháng 9 năm 1985 quả là một tai hoạ ập đến với nhân dân ta. Nhưng nói như một ngạn ngữ phương Tây, bao giờ tai họa cũng có mặt hay của nó. Lần đầu tiên, ở nước ta, mọi người đều thấy lãnh đạo tối cao cũng có thể phạm sai lầm nghiêm trọng. Trước đó một số người đã suy nghĩ như vậy, nhưng cái mới là nay số đông bắt đầu suy nghĩ như vậy. Và dĩ nhiên, tiếp theo là từ nay ta không thể khoán trắng cho lãnh đạo suy nghĩ, động não thay thế cho mọi người” (3 ).

Ông hô hào : “Đừng ngồi yên chỉ biết than phiền, kêu ca. Đừng ngồi mong chờ ở “ông” khác. Trên dưới đều có người tiến bộ, có người bảo thủ, dưới có quậy, trên mới thay đổi”( 2 ). “Từ bỏ chủ nghĩa xã hội nhà nước, từ trên áp đặt xuống, ta sẽ xây dựng một chủ nghĩa xã hội trong đó Đảng lãnh đạo, lãnh đạo chứ không ôm lấy mà làm mọi việc. Đảng với nhân dân cùng suy nghĩ, có trao đi đổi lại, chứ không phải Đảng phán ra, nhân dân cúi đầu vâng theo”.( 2 )

Ông kêu gọi làm cách mạng : “ Trước kia chúng ta đã dựng nên một cuộc cách mạng dân tộc, nhân dân, quốc tế rộng lớn chống đế quốc ngoại xâm. Chúng ta đã tiến hành mấy cuộc kháng chiến trường kỳ nhiều mặt, để chống lại tư bản man rợ, không để nó tác oai tác quái, nay phải dựng nên một mặt trận dân tộc, nhân dân, quốc tế còn rộng hơn; tiến hành một cuộc kháng chiến mới lâu dài hơn, đa dạng hơn, mới mong hạn chế được tham nhũng, bảo vệ được môi trường, giảm nhẹ bất công xã hội, phân hoá giầu nghèo, giữ gìn được thuần phong mỹ tục, phát huy tình người, tôn trọng quyền phụ nữ, trẻ em, các nhóm thiểu số. Một cuộc kháng chiến nhiều mặt với báo chí, tivi, sách vở, phim ảnh. Thành lập đủ các thứ hội đoàn, đình công, biểu tình … không bỏ sót ngóc ngách nào, trong nước, ngoài nước, đứng ở bất cứ vị trí nào cũng có thể tham gia … Chúng ta sẽ làm cho những tư tưởng dân chủ, công bằng xã hội, tinh thần quốc tế, tình nghĩa giữa người và người thâm nhập vào đại chúng. Kỹ thuật hiện đại trao cho chúng ta đầy đủ phương tiện làm việc này, biến tư bản man rợ thành tư bản văn minh. Hãy cùng nhau bước vào cuộc kháng chiến mới ” ( 5 ).

Kêu gọi bằng “ hịch”, lại kêu gọi bằng thơ :

Có những người đã thức dậy
Lúc gà chưa gáy
Biết bao nhiêu còn ngái ngủ
Gáy lên đi, gà ơi !
Cho đời rộn lên, người người tỉnh thức
Cho con người đứng thẳng lên
Không cúi đầu trước quyền lực …

Ông vạch ra một tiến trình :

“Quá trình dân chủ hoá thể hiện qua mấy khâu :

- Đầu tiên là nhận thức của số đông là mỗi người có quyền làm công dân, có quyền suy nghĩ, nói lên ý của mình, không ai được xâm phạm những quyền cơ bản mà hiến pháp và pháp luật đã quy định
- Báo chí trở thành công cụ sắc bén của dư luận
- Các cơ quan dân cử như Quốc hội, các đoàn thể làm nhiệm vụ là thay mặt cho dân, chứ không làm “ cây cảnh ” nữa
- Những cơ quan tư pháp giữ tính độc lập, xử theo pháp luật, không chấp nhận một sức ép nào do bất kỳ từ đâu ” ( 2 )

Hỏi ông có tin vào hiệu năng đấu tranh của lực lượng dân chủ, ông trả lời : “ Theo tôi, nếu mọi người tiếp tục đấu tranh thì có 80% công cuộc đổi mới sẽ thành công, nhưng cũng còn 20% bất trắc, chủ yếu do sức chống đối của những người được hưởng đặc quyền đặc lợi mà bộ máy cũ mang lại cho họ ” ( 4).

Vô cùng tiếc và thương một chí khí ngoan cường

Nguyễn Khắc Viện không chỉ mạnh dạn phê phán và đóng góp nhiều ý kiến mới lạ so với chủ trương đường lối của Đảng nên nghe rất “ nghịch nhĩ “ mà còn thẳng thắn, chân tình góp ý với nhiều quan chức cao cấp trong Đảng. Nghe tin Đảng định đưa nhà thơ Tố Hữu làm thủ tướng chính phủ, ông gặp trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng Nguyễn Đức Tâm bầy tỏ ý kiến phản đối.

Trước Đại hội VI ông đã từng viết một lá thư gửi ông Tố Hữu, đại ý như sau : Trước kia, tôi rất mến phục tài thơ của anh, tôi thích thú một số bài thơ của anh và đã dịch những bài đó ra tiếng Pháp đưa ra quốc tế. Nhưng anh làm lãnh đạo chính trị, đặc biệt về văn hoá văn nghệ, rồi làm phó thủ tướng, làm kinh tế như thế này, không ai đồng tình, nhiều người oán trách, anh nên biết rõ. Dịp này anh nên tự nguyện rút lui, đừng ứng cử vaò Trung ương nữa, trở lại làm nhà thơ, chắc anh sẽ lại được lòng kính mến tài làm thơ của anh.

Ông họa thơ Tố Hữu :

Năm mươi năm ấy vẫn còn thơ
Từ bấy đua chen mãi đến giờ
Mái tóc pha sương chưa hết dại
Con tằm rút ruột chẳng còn tơ
Thuyền con quá tải không qua sóng
Mộng lớn tài hèn chớ ước mơ
Với giá, lương, tiền dân khốn đốn
Trăm năm bia miệng, hỡi nhà thơ!

(Bài thơ của Tố Hữu đăng trên báo Văn nghệ, lúc ấy được rất nhiều người họa là :

Trên năm mươi tuổi Đảng và thơ
Từ ấy hồn vui mãi đến giờ
Mái tóc pha sương chưa cạn ý
Con tằm rút ruột vẫn còn tơ
Thuyền con vượt sóng không nghiêng ngã
Nghiệp lớn muôn đường lộng ước mơ
Mới nửa đường thôi, còn bước tiếp
Trăm năm duyên kiếp Đảng và thơ )

… Thế rồi ! Không biết vì sao và từ đâu, những tai ương bắt đầu bổ xuống đời ông.

Báo Nhân Dân và hầu hết các báo cấm chỉ không đăng bài ký tên Nguyễn Khắc Viện nữa. Chẳng những thế, sau khi đài BBC phát thư kiến nghị của ông gửi Đại hội VII thì trong nước dấy lên một chiến dịch rầm rộ công kích, lên án ông. Khởi đầu là báo Nhân Dân tung ra một loạt bài, không nêu rõ tên Nguyễn Khắc Viện nhưng trích một vài đoạn trong bức thư rồi quy chụp rằng người viết những dòng như thế là có ý đồ thâm hiểm, mượn cớ dân chủ tự do để chống cách mạng, chống Đảng.

Tháng 5 năm 1991, báo công an Thành phố Hồ Chí Minh loan báo trong màng lưới tay sai cho gián điệp, có một tên gián điệp ở Pháp về. Cùng luận điệu đó, có bài ghi rõ tên đầy đủ, có bài ghi tắt N.K.V. Cán bộ tuyên huấn của Đảng đi nói chuỵện khắp nơi rằng trong nước có một nhóm chống Đảng, chống cách mạng mà Nguyễn Khắc Viện là một phần tử.

Trẻ em Việt Nam


Nhân ngày Quốc tế Thiếu nhi 1 tháng 6 năm 1991, câu lạc bộ Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật tổ chức buổi nói chuyện về tâm lý trẻ con. Khi săn biết diễn giả là Nguyễn Khắc Viện, lệnh trên truyền xuống phải huỷ bỏ buổi nói chuyện này. Cuối năm đó, khai mạc Phòng khám Tâm lý Trẻ em tại bệnh viện Đống Đa. Đây là Phòng Khám Tâm lý trẻ em đầu tiên ở nước ta. Vô tuyến truyền hình đến quay phim. Nguyễn Khắc Viện là người sáng lập tổ chức, chủ trì buổi lễ và đọc diễn văn giới thiệu ý nghĩa, mục đích việc thành lập cơ sở này. Nhưng, khi phát hình buỗi lễ lên sóng, người ta cắt đi tất cả những đoạn có hình ảnh Nguyễn Khắc Viện.

Rồi Quận uỷ Hoàn Kiếm lôi Nguyễn Khắc Viện ra đấu tố, bắt đứng lên kiểm điểm. Ông từ tốn nhưng kiên nghị nói : Nếu Quận uỷ muốn sinh hoạt chi bộ trao đổi quan điểm và thảo luận về những điều đúng, sai thì tôi làm, còn kiểm điểm thì không, vì tôi không có lỗi gì.

Cứ thế, ngày mỗi ngày càng nồng nực trong xã hội những dư luận xấu. Nguyễn Khắc Viện bị bôi bẩn, bị thoá mạ, bị săn đuổi, bị hăm doạ một cách rất tàn khốc, rất đểu cáng.

Bà Nguyễn Thị Nhất kể rằng : một hôm có người đến thăm, hỏi ông Viện đi đâu. Quen nói giọng Sài Gòn, bà trả lời : Nhà tôi chạy đâu rồi ấy. Thế là người đó hớt hải loan tin và dư luận đồn ầm lên rằng Nguyễn Khắc Viện đã trốn ra nước ngoài. (Tiếng chạy với người Sài Gòn chỉ là “đi đâu đó thôi ”, nhưng người khách miền Bắc kia lại hiểu là bỏ trốn).

Ông Hoàng Nguyên kể rằng một hôm vào khoảng cuối năm 198, ông đang ngồi làm việc tại tòa soạn báo Le Courrier du Vietnam thì nhà điện ảnh nổi tiếng, lão thành P.V.K. hớt hải chạy vào hỏi : “Thế nào, anh Viện bị bắt rồi à?”, trong khi ông Viện vẫn đang ngồi làm việc ở tầng trên.

Cảm thương và kính phục, nhiều người đã tặng thơ ông. Bà Phương Tho - em gái ông- viết những dòng bi tráng ca :

Đứng giữa hai làn đạn
Vẫn mực thước, khoan dung
Với tấm lòng thanh thản
Với sỹ khí hào hùng

Ông Đặng Minh Phương tặng đôi câu đối :

Kiến thức bách khoa phong phú, từng trải Đông Tây, tác phẩm uyên thâm đồ sộ, ở Pháp quốc kiên trì tranh đấu, tấm lòng với nước tận trung, vòng danh lợi coi khinh, lương tâm to sáng

Tài năng đa dạng hiếm hoi, tinh thông kim cổ, tư duy sắc sảo tuyệt vời, về Việt Nam bền bỉ dựng xây, ngòi bút vì dân cương trực, thói quan liêu căm ghét , nhân cách ngát hương.

Một đêm tháng 4 năm 1988, được Nguyễn Khắc Viện đến thăm và ngủ lại nhà mình, nằm thao thức trong đêm Mỹ Tho, nhà báo Lê Phú Khải đã viết bài thơ :

Đãi ông một bữa cơm nghèo
Trải giường ông nghỉ, lòng nhiều xót thương
Lưng già ít thịt nhiều xương
Sáu, năm vết mổ sẹo còn đầy vai
Con đường dân chủ công khai
Ông như lão tướng một đời xông pha
Bọn quan liêu-lũ gian tà
Kính ông ngoài mặt, bỉ dè sau lưng
Núi sông được mấy anh hùng
Thế gian được mấy cõi lòng trinh trung?!

Khi biết ông chắc chắn sắp chết, Nguyễn Khoa Điềm vội vàng đến gắn tấm huân chương Độc lập Hạng Nhất lên bộ ngực ông đã dính đét xuống giường.

Người ta thấy mai mỉa không ít với tấm huân chương Hồ Chí Minh, huân chương Sao vàng. Người ta càng thấy tủi buồn về tấm huân chương Độc lập Hạng Nhất trên ngực Nguyễn Khắc Viện.

Dẫu sao, chỉ một cái tên Nguyễn Khắc Viện không thôi đã nói lên cái gì đó của một con người trí thức, dù đứng ở bên nào!

Nguyễn Thanh Giang
Số nhà 6 – Khu tập thể Địa Vật lý Máy bay
Trung Văn – Từ Liêm - Hà Nội

Ghi chú :
( 1 ) Huân Chương Độc Lập Hạng Nhất, người gắn là Nguyễn Khoa Điềm (xin xem đoạn cuối bài)
( 2 ) Đổi mới – Nhà xuất bản Thanh niên - 1988
( 3 ) Ước mơ và hoài niệm – Nhà xuất bản Đà Nẵng ( Phần không được in )
( 4 ) Nguyễn Khắc Viện, tác phẩm – Tập 2- Nhà xuất bản Lao động
( 5 ) Bài “ Bước và cuộc kháng chiến mới ” ( tháng 6 năm 1993)

Quí vị có suy nghĩ gì về những ý kiến của ông Nguyễn Thanh Giang và những kiến nghị của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện khi sinh thời? Xin hãy gửi thư cho chúng tôi theo địa chỉ vietnamese@bbc.co.uk, hoặc sử dụng hộp tiện ích bên tay phải. Xin cám ơn.

=========================================

Cuộc thảo luận quanh chủ đề này đã khép lại. Quý vị có thể xem lại các thư đã gửi về dưới đây.

Teu, Hà Nội
Trong diễn đàn này, chúng ta đã nói nhiều đến nhà trí thức Nguyễn Khắc Viện. Tôi chỉ muốn nói rằng không phải chỉ có một mình ông Viện mà nhiều trí thức khác được đào tạo bài bản ở Pháp vì yêu nước, tha thiết muốn phục vụ dân tộc đã trở về và đã bị vùi dập khi họ cất tiếng nói về dân chủ. Một trong những trí thức tài năng, người đầu tiên của VN có hai băng tiến sĩ văn khoa và luật khoa tại Pháp là ông Nguyễn Mạnh Tường đã bị cộng sản vùi dập cho đến hết đời. Toàn bộ những nghiên cứu, bài viết của ông đều không được xuất bản ở VN. Những năm chiến tranh phá hoại lần thứ nhất ở miền Bắc, ông Tường được điều về làm dịch thuật ở Nhà Xuất bản Giáo dục, nhưng không ai in những gì ông dịch.

Tôi lúc đó còn nhỏ, được chứng kiến ông Tường nuôi một đàn gà và mọi người cười ông "Trí thức lớn cho gà uống phi la tốp kìa". Tôi hiểu ông bất đắc chí. Lòng tôi đến giờ vẫn không hết xót xa khi nhớ về ông. Nói như người Việt mình nói "ông bị cho ngồi chơi xơi nước". CS đã vô hiệu hoá ông, họ sợ những kiến thức của ông. Họ chà đạp ông vì họ quá dốt nát. Người con gái lớn của ông, chị Nghi, học rất giỏi, nhưng cũng không được vào đại học, mà bị đưa đi đào than ở vùng than Quảng Ninh. Gia đình ông Tường hiện vẫn còn ở phố Tăng Bạt Hổ (HN). Vợ ông vẫn còn sống. Tôi mong có ai đó xót xa cho những thân phận trí thức bị chà đạp dưới chế độ CS tìm gặp và viết lại bi kịch của cuộc đời tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường.

Vũ Minh Quang, Hà Nội
Tôi hay có thói quen ngắm ảnh của người được nhắc đến trong bài viết, thế mà ở đây không có "đối tượng" mà chúng ta đang BÀN VỀ.. Đọc về Nguyễn Khắc Viện qua bài giới thiệu của ông Giang, tôi vô cùng trân trọng một trí thức có lòng với quốc dân, bị xô đẩy vùi dập.. Nhận thức của tôi cho thấy rằng, cho đến lúc này, ông vẫn là một ngon đèn tư tưởng lớn ! Những chí sĩ như vậy..chúng ta không có nhiều, hoặc có thì cũng tản mát quá. Mà Bác Hồ nói rằng kẻ thù không thể dùng tay bẻ cả bó đũa nếu không bẻ từng cái!

Nguyễn Trung, TPHCM
Tôi không cần đọc bài viết này cũng biết Nguyễn Khắc Viện là người tài trí như thế nào rồi. Tuy chỉ có điều khi đọc bài này xong tôi không biết ông Nguyễn Thanh Giang là ai, tốt hay xấu tài đức đến chừng nào và ông đã làm được bằng cái móng tay của BS Nguyễn Khắc Viện hay không thì có trời mới biết được. Tôi không binh vực ai cả, nhưng quan điểm sống của tôi là người nói phải là người như thế nào thì mới đáng tin. Thời này Thạch Sanh thì ít mà lý thông thì nhiều, làm sao biết được lời ông Giang là lời thạch sanh hay lời của Lý Thông hả quý vị?

Hung Dung, Japan
Thật là một bài viết hay, giúp độc giả có được cái nhìn chính xác về một XH và một sỹ phu Việt Nam. Tôi đã từng nghe và kính phục tài năng của cụ Nguyễn Khắc Viện. Đây là bài báo giúp tôi có được nhiều tư liệu hơn để tìm hiểu về ông. Xin cám ơn ông Nguyễn Thanh Giang và Quý báo. Nhưng giá như bài báo có thêm chân dung của cụ Nguyễn Khắc Viện nữa thì tốt hơn cho độc giả.

Tôn Thất Quang, Tokyo, Japan
Có thể có nhiều BBC độc giả không đồng ý với quan điềm của tôi – Do đâu một số nhà trí thức khuynh tả, hoặc các người thường quen với quyền cao, chức trọng như bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, Trần Độ, vv.. lên tiếng chống đối chế độ? Có thể là họ không được trọng dụng như là họ mong muốn?

Kỳ quốc Dũng
Ông Nguyễn khắc Viện là một trí thức khuynh tả. Ở trong các nước tư bản luôn luôn có các ông nội trí thức khuynh tả. Đó là các ngài trí thức ngây thơ với Cộng sản và khi về sống với Cộng sản thì vỡ mặt ngay. Ở nước VNCH thì có khối ông trí thức khuynh tả. Hiện nay số này ân hận rất nhiều nhưng ngậm đắng nuốt cay mà thôi. BS Nguyễn khắc Viện đã là một gương xấu do ông ta ngây thơ với CNCS và khi được vào tròng sống với CS thì chỉ còn cách là hoặc đi theo đến cùng hoặc là sám hối nửa đường.

Họ không dám làm một dissident đâu bởi vì mấy ai có can đảm thú nhận là mình sai bao giờ. Nói về ông tôi chỉ tiếc cho nhận thức chính trị của ông về CNXH còn thì các đóng góp của ông về khoa học, giáo dục và tâm lý trẻ em thì đáng trân trọng . Một trí thức khuynh tả khác vừa qua đời là ông Lý Quý Chung , ông ta chỉ có thể được chính quyền CS cho phép lên gân với bóng đá trên các tờ báo mà thôi và nhà trí thức khuynh tả này cũng có thể liệt vào hàng ngũ các trí thức khuynh tả, ngây thơ với chủ nghĩa cộng sản vậy.

Fabio, tpHCM
Có lẽ tôi cũng muốn mình là người thuộc hạng một theo như bạn VK. Và tôi biết tôi hơn các bạn ở điểm, tôi sẽ ở lại VN để đấu tranh và xây dựng đất nước cho dù tôi có bị trù dập hay bị gì đi chăng nữa bởi tôi biết một câu của người xưa rằng :"Kẻ sĩ thấy việc nước khó khăn mà không động tay thì ...." thì sao chắc các bạn đã biết. Đấu tranh nhưng chỉ là đấu tranh manh tính xây dựng thôi các bạn nhé! Tôi sẽ không manh động để là mất đi sự ổn định chính trị của Việt Nam (vào loại nhất trên thế giới) để không bị đến cuộc sống thanh bình của người dân, bởi lẽ nếu không làm như thế thì tôi đâu còn là người thuộc loại thứ nhất. Ai dám nói mình là hàng nguời thuộc hạng thứ nhất? Thì hãy quay về VN đi! Thân chào đồng bào của tôi!

Ngô Hoàng, Milton, Canada
Tôi từng đọc The New Class của Milovan Djilas từ những năm 1950. Tôi kính phục ông ta là NGƯỜI TRÍ vì biết rõ những điểm yếu của chế độ Cộng sản, ngay từ khi chủ nghĩa Cọng sản đang thịnh thời. Với BS Nguyễn Khắc Viện, một "đại trí thức" VN, ở Pháp về nước năm 1962 mà vẫn còn chưa thấy được những điểm yếu đó của Chủ nghĩa CS thì có thể gọi ông là người có TRÍ, người KHÔN không nhỉ (nên nhớ: ông đã chê Tố Hữu khi về già còn muốn leo lên chức Thủ Tướng là DẠI) Tôi nghi ngờ "Trí Thức" ngay cả ĐạiTríThức chưa hẵn là người có TRÍ. Người TRÍ đâu cần phải ở lâu trong chăn mới biết trong chăn có rận? Người TRÍ thì thấy TRƯỚC mọi người khi nhiều người khác chưa thấy.

Dù sao, lầm lỡ mà biết Phản Tỉnh và nói lên tiếng nói TRUNG THỰC, THẲNG THẮN của mình thì cũng đáng kính phục hơn là...biết "bậy bạ, bạo tàn" như thế mà vẫn "mũ ni che tai, ngậm miệng ăn tiền" hoặc như một số bạn trên diễn đàn BBC tham gia góp ý về Nguyễn Khắc Toàn, đã bênh vực cho chế độ từng bao lần "cưỡng dâm pháp lý" và "bức hiếp" cả Hiến Pháp do chính họ đã xây dựng lên, đầy ắp những ngôn từ " tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, tự do hội họp...nhưng hoàn toàn là những thứ Tự Do trên giấy, những thứ BÁNH VẼ không dùng được. Xin mời các vị bênh vực cho 1 chế độ đã đối xử "tàn bạo", thiếu "nhân tính", ngay với cả những công thần của mình, hãy đọc kỹ bài về BS/ NKV và suy gẫm lấy để hiểu rõ hơn chế độ này. Nhất là những Vị khoa bảng bị dụ dỗ về VN the NQ 36, gọi là để có dịp PHỤC VỤ quê hương đất nước, hoặc sắp được CỬ (??) vào Quốc Hội Bù Nhìn hãy đọc kỹ bài viết về kinh nghiệm của BS/ NKV.

Đâu cần phải ở VN năm này tháng nọ mới hiểu biết rõ hiện tình VN ra sao? Cụ Hồ những năm 1920-23 còn ở Pháp, đâu biết chi về nước Nga, về chế độ XHCN mà đã chộp lấy chủ nghĩa Cộng sản. Có phải, như các bạn này nói, đã vô tình quy kết Cụ Hồ gây tai vạ cho nhân dân 60 năm qua vì chưa hiểu rõ, chưa thấu đáo, khi chưa ở đất nước người ta? và trong trường hợp này - BS NKV cũng vì...chưa về ở VN trước khi về nước năm 1962 nên đã hiểu sai lầm về chế độ đó? Ở vào thời đại cao kỷ và bùng nổ thông tin liên mạng này, nếu ai cũng phải có SỐNG thực sự trên đất nước nào đó mới được quyền phê phán đất nước đó, thì... chỉ còn nước CHẠY THEO ĐUÔI nước người ta, còn theo kịp ai được nữa. Đúng là những lối suy nghĩ... của nông dân, sống sau lũy tre làng của 50 năm trước.

Chỉ cần nhìn qua vài bài viết về các tiêu cực trong các báo online trong nước: cá độ gần 2 triệu USD của một quan chức ở Hà nôi, các vụ Năm Cam dính tới Trần Mai Hạnh, Bùi Quốc Huy..., nhìn qua vụ Lương Quốc Dũng, các vụ Cá Độ bóng đá Sea Games 22, 23, vụ Tổng Cục dầu Khí, nạn Học Thuê, bằng Tiến sĩ giấy, Cảnh sát giao thông chặn xe ăn tiền, học sinh học thuộc lòng các bài thi, quá nhiều thứ tiêu cực rất NGUY HẠI cho Văn Hóa, cho nếp sống lành mạnh của Xã Hội... đang tràn lan trên đất nước VN thì .. dù nhắm mắt cũng biết rõ "căn bệnh" là thế nào rồi, phải không thưa quý vị ??

NTL
Tôi ngậm ngùi, và khâm phục vị anh hùng khả kính Nguyễn Khắc Viện. Thế hệ trẻ của chúng ta cứ cưu mang và suy gẫm cho đến một lúc thuận lợi, chúng ta hãy làm một gì đó cho dân tộc mình...Cho tôi được gửi lời tri ân đến gia đình và con cháu cụ.

Nathan Le, New Orleans, USA
Kính Thưa Quý vị. Tự do là quyền lợi tối thiểu của một con người. Nhưng tự do ở nước Cộng sản Việt Nam khác với tự do ở các nước trên thế giới. Một con cá ở trong cái ly nhỏ, chỉ bơi lội trong khuôn khổ của nó. Còn một con cá ở trong hồ thì rộng hơn, nhưng con cá ở biển cả mênh mông thì lại khác. Tuỳ theo hoàn cảnh, môi trường và điều kiện mà người ta sống ở đâu sẽ hiểu rộng lớn hơn thế nào về Tự Do.

Ở VN, ai cũng sợ hãi, và con cá bị nhốt càng sợ hơn, không dám lên tiếng. Trong khi đó là quyền lợi, nhưng không thể hưởng đưọc, nếu nói lơ mơ, bị bắt ngay, và khi bị bắt là "phạm luật" tự do phát biểu? Thật là ngớ ngẩn làm sao! Như vậy điều cần nhất là làm sao cho tất cả dân chúng từ nhỏ đến lớn phải hiểu được Hiệp ước về Tự Do Nhân Quyền của thế giới mà VN đã dồng ý ký kết, tuân giữ. Nếu VN không tuân giữ, VN và những nhà lãnh đạo phải bị ở tù trước, rồi mới đến dân ở tù sau.

Khanh
Thưa anh Hồ Minh, có gì đâu mà suy ngẫm. Nhà nước CS thích mơn trớn để lợi dụng Việt kiều (như thời gian gần đây) thì khắp nơi tung hô là khúc ruột ngàn dặm, đến lúc khai thác xong thì Việt kiều lại thành khúc ruột thừa, phải mang đi cắt bỏ khẩn trương. Có ai mà không biết vậy nhưng đã sinh ra làm người Việt thì sao vứt bỏ gốc rễ của mình được. Thế nên về với gia đình bè bạn thì ta cứ về thôi. Có điều đừng biến mình thành công cụ tuyên truyền cho chế độ như BS Viện rồi đến lúc hối không kịp.

Nguyen Vu, Anaheim, Hoa Kỳ
Đây là câu chuyện có thật, xãy ra vào thời gian 1980's. Tôi có người một quen ở Quảng Ngãi, có nuôi một con gấu con mới đẻ. Ông ta cưng chiều, cho nó bú sữa, chăm sóc nó hằng ngày như một đứa trẻ sơ sinh. Nó càng lớn, càng ăn nhiều và trở thành thân thiết với ông. Tuy gia đình không được khá giả lắm nhưng ông vẫn phải hy sinh nuôi nó. Ông nuôi được ít năm thì nó trở thành rất to lớn và ăn rất nhiều nên ông không thể cho nó ăn uống đều đặn như trước nữa. Nó trỏ thành gánh nặng cho gia đình, nên đã kêu ngưòi gạ bán mật cũa nó. Nhưng ông chưa kịp làm thì tự nhiện ông biến mất. Đi tìm kiếm mãi thì ngưòi ta mới khám phá ra là ông ta đã bị con gấu, vì quá bữa, đói quá đã ăn thịt ông mất rồi. Mọi ngưòi đến phân ưu, thương tiéc ô! ng, nhưng lại nghĩ ông dại, quá dại ! Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện cũng thế, nhưng BS Viện dại, đáng trách hơn ngưòi nuôi gấu. Vì không những cá nhân ông Viện bị hại mà ông còn tuyên truyền, lôi kéo để nhiều ngưòi khác, vì nghe lời ông mà cũng bị hại lây.

Không tên, Huế, VN
Thật đáng thương cho cụ Nguyễn Khắc Viện. Cháu tuy còn nhỏ nhưng sau khi đọc xong bài viết này cháu thấy chế độ này thật dã man. Sự thật này khác xa với những gì chúng cháu được học ở trường. Cháu cảm thấy chúng ta cần đứng lên để có một cuộc sống và một đất nước tưoi đẹp hơn như mong muốn của cụ Nguyễn Khắc Viện. Thật đáng thương cho số phận bi thảm của cụ Viện. Kính mong đài hãy đăng bài này của cháu.

Hồ Minh, Sài Gòn, Việt Nam
Thật khâm phục bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, và đây cũng là bài học mà các Việt kiều nên suy ngẫm, thật sự các bạn Việt kiều có phải là khúc ruột ngàn dặm của nhà nước Việt Nam hay không?

VK
Chính trị VN có 3 loại người. Loại thứ nhất tự hỏi: "Tôi có thể làm gì cho nhân dân, quốc gia?" Loại thứ 2 tự vấn: "Nhân dân, quốc gia có thể làm gì cho Đảng?" Loại thứ 3 tự kiểm thảo: "Nhân dân, quốc gia, có thể làm gì cho cá nhân tôi?" Ông Viện thuộc loại thứ nhất; ông Hồ Chí Minh thuộc loại thứ 2, hầu hết các quan chức VN (như ông TGĐ cá nếu hút 1 điếu thuốc trong trận bóng đá sẽ bị thua 10 ngàn USD, cá đá banh mỗi tháng bằng 20 thế kỷ tiền lương) thuộc loại thứ 3.

Loại thứ 1 hiện đa số đã chết, hoặc lưu vong ở nưóc ngoài, nều còn trong nước thì hoặc đang ngậm ngùi yên lặng hoặc hiện ở tù. Loại thứ 2 hầu như đã bị diệt chủng chỉ còn vài người cấp tối cao, chẳng cần ăn hối lộ làm gì vì muốn bao nhiêu của cải lại chẳng được. Cả ngân khố VN đều là của họ kia mà. Loại thứ 3 thì hằng hà sa số, đầy dẫy ở đầu đường xó chợ, từ thành thị đến trung ương, mang danh hiệu "đầy tớ nhân dân" để vơ vét của cải, 1 phần dâng lên Đảng, phần khác bỏ túi riêng. Loại thứ 2 tuy bức xức nhưng còn làm được việc, nhưng loại thứ nhất đang rất đau khổ nhìn thấy quốc gia, dân tộc, nhân dân VN đang quá khổ sở khốn cùng mà chẳng thể làm gì được.

VN
Tôi nghĩ rằng Nguyễn Khắc Viện là một nhà ái quốc, là một nhà cộng sản có đầu óc "đổi mới, dân chủ và đi theo đúng con dường mà Việt Nam đáng lẽ nên đi. Nghĩ tới ông tôi lại càng cảm thấy mến phục sự dũng cảm ấy.

Tony, Canada
Tôi chỉ còn nhớ mang máng về Bác Sĩ Nguyễn Khắc Viện vì tôi được gặp có 1 lần qua trung gian ông cậu tôi là bạn cùng nghiên cứu y học cổ truyền với ông. Lúc tôi được gặp ông thì ông chỉ còn 1 nửa lá phổi và đang viết cũng như vận động quần chúng theo phong trào luyện khí công. Không chỉ mình BS Nguyễn Khắc Viện mà rất nhiều người sau giải phóng mới vỡ ra mình lầm, là 1 người trí thức mà lầm vì bị lừa nó càng thấm thía hơn, nhất là người có tâm hồn yêu nước như ông.

Nguyễn Danh, Hoa Kỳ
Lần đầu tiên tôi được biết đến bác sĩ Nguyễn Khắc Viện là vào những năm cuối thập niên 80 qua cuốn sách nhỏ "Một Đôi Lời" do ông viết. Trong cuốn sách này, ông ghi xuống nhiều lời khuyên cho thế hệ học sinh, sinh viên thời bấy giờ. Gần 20 năm qua, vẫn đọng lại trong tâm trí tôi vài lời khuyên của ông mà tôi đã có lòng hồ nghi từ ngày đó.

Thứ nhất, ông dành vài trang so sánh Việt Nam và Thái Lan về mọi mặt: chính trị, xã hội, kinh tế , giáo dục... rồi kết luận Thái Lan chẳng có gì hơn "ta" mà còn có phần tệ hại hơn là đằng khác. Kết luận phần này ông khuyên tuổi trẻ nên kiên định con đường xây dựng CNXH mà Đảng của ông đã chọn, mà theo ông, rõ ràng tốt hơn hẳn con đường Thái Lan theo đuổi. Nay thì ai cũng rõ giữa hai nước Việt và Thái là ai vượt lên, ai tụt hậu.

Thứ hai, ông khuyên tuổi trẻ nói "không" với tôn giáo. Về điểm này thì ông quả là học trò trung thành của Karl Marx, người đã cho rằng "tôn giáo là thuốc phiện". Tác hại của việc cố loại trừ ảnh hưởng của tôn giáo khỏi đời sống xã hội thì nhiều người đã bàn tới sau khi khối Cộng Sản Xô Viết sụp đổ. Cũng trong "Một Đôi Lời", bác sĩ Viện kể rằng lúc hồng y Karol Wojtyla được bầu làm giáo hoàng John Paul II của giáo hội Công Giáo La Mã, thì ông đang đi công tác ở châu Âu (hình như ở Rome). Ông cảm thấy rất thất vọng khi nghe kết quả bầu cử giáo hoàng khi đi ngang qua một quảng trường. Có lẽ điều này thì ông đúng, vì việc đăng quang của giáo hoàng John Paul II đã bắt đầu cho sự cáo chung của chủ nghĩa Cộng Sản ở Liên xô và Đông Âu.

Nói tóm lại, trong hầu hết cuộc đời của ông, bác sĩ Viện đã rất "toàn tâm toàn ý" đi theo Chủ Nghĩa Cộng Sản. Ông đã góp sức rất nhiều xây dựng và đánh bóng bộ máy Đảng CS và Nhà Nước VN hiện tại. Biết bao nhiêu thanh niên đã nghe theo lời "khuyên" của ông mà phí hoài tuổi trẻ? Biết bao nhiêu Việt Kiều, bạn bè quốc tế đã nghe lời tuyên truyền, vận động của ông, mà tin yêu một thể chế chuyên chính độc tài?

Điều đáng quý là lúc gần cuối đời, cũng như biết bao người Cộng Sản có lương tâm khác, ông đã nhận ra được cái sai lầm vĩ đại mà họ đã mắc phải, là tin vào và dốc sức phục vụ Chủ Nghĩa Cộng Sản, để đến một ngày nào đó nhận ra rằng nó đã biến thành con quái vật đè nặng trên số phận đất nước VN tội nghiệp. Giá như bác sĩ Nguyễn Khắc Viện có điều kiện viết "Một Đôi Lời" tập 2 trước khi ông mất, thì có lẽ ông sẽ rút lại những lời khuyên thanh niên trong tập 1, mà thay vào đó là lời khuyên nói "không" với Chủ Nghĩa Cộng Sản.

Hichic
Đảng ta cứ chụp mũ phản động rồi trù dập người tài có tâm nhưng không chịu hiểu rằng họ dám làm như vậy bởi vì cái gì. Họ làm như vậy chỉ là vì nước vì dân và đổi lại chỉ được vùi dập, được đi tù.

Vy, Saigon
Sao những việc như thế này mà chúng tôi, chủ nhân của đất nước này lại không hề được nghe tới? Phải chăng ĐCS và chánh phủ VN đã bưng bít và che giấu chúng tôi? Còn những việc nào mà chúng tôi không được biết và vì sao? ĐCSVN có dám trả lời chúng tôi không?

Minh, Boston, Hoa Kỳ
...Một điều tôi rất khâm phục ông Viện là khi thấy mình đi lầm đường, ông đã không ngần ngại viết để chống đối ngay trong lòng chế độ cho dù có bị trù dập. Tuy nhiên tôi nghĩ ông phải ngỏ lời xin lỗi người dân VN việc ông đã làm thì tốt hơn. Ông nên xin lỗi vì đã làm hại bao nhiêu người thanh niên Việt ở Pháp thời đó đã tin tưởng hành động đúng đắn bỏ về nước rồi lại qua các bài viết ngợi ca chế độ của ông để họ cũng bị mắc bẫy, tiêu cả tương lai như ông.

Nguyễn Minh Duy, HCM, Việt Nam
Đọc bài viết về BS Nguyễn Khắc Viện cho ta thấy một nhân sĩ yêu nước đã không vì bản thân mình mà có những ý kiến có lẽ nghịch nhĩ với chính quyền hiện tại và đã bị những tai ương vùi dập như vậy. Tôi thấy những người CS cư xử không được văn hóa lắm, một người đã hy sinh cả cuộc đời cho đất nước mà cuối đời vì những ý kiến xây dựng thì lại bị đối xử một cách bất công và tôi cũng nghĩ có rất nhiều tài năng muốn xây dựng đất nước nầy và họ đã bị lãng quên một cách không thương tiếc như vậy và cái lãng phí nhất của chế độ hiện nay là lãng phí chất xám vì họ không bao giờ dùng những người không cùng chí hướng với mình, thử hỏi làm sao mà kêu gọi chất xám Việt kiều về xây dựng đất nước, nếu nhà nước có đối xử với những người trí thức như vậy thì mọi lời kêu gọi chỉ là lời kêu gọi suông mà thôi.

David Nguyễn, California, Hoa Kỳ
Tôi tin rằng cố BS Nguyễn Khác Viện cũng như cố trung Tướng QĐND Trần Độ đều được giới trí thức, trẻ cũng như già, trong cũng như ngòai nước biết tới và khâm phục từ lâu. Các vị này bao giờ cũng được xem là những nhà trí thức và yêu nước chân chính của quê hương, dân tộc. Cũng chỉ vì lòng yêu nước của hai vị này nó khác với cái gọi là lòng yêu nước của vài chục nhân vật đang lãnh đạo Đảng CS cho nên, dù họ đã từng là Đại công thần của chế độ, đã từng hy sinh hết cuộc đời son trẻ của mình trong cuộc chiến đấu dành độc lập dân tộc, nhưng rồi cuối cùng đã bị Đảng dọa đầy, làm nhục bằng tất cả những cái loa tuyên truyền bẩn thỉu và trơ trẽn của bọn bồi bút ở cả báo chí lẫn truyền thanh, truyền hình.

Lòng yêu nước của hai vị trí thức quá cố này là muốn đưa đất nước, dân tộc VN hiên ngang tiến lên cùng thế giới. Nhưng đó lại chính là một cái tội to lớn đối với bọn giá áo túi cơm, xuẩn động trong Đảng, không cần biết gì tới nỗi nhục của đất nước, nỗi nhục của nhân dân, mà chỉ cần làm đủ mọi cách hạ tiện để ôm lấy cái ghế quyền lực của họ. Họ chỉ biết yêu quyền lực bởi vì "Quyền" tức là "lợi", mà "Lợi" tức là "Tiền". Họ chỉ là những kẻ thờ ông "Thần Tiền" nhưng phía trước ông thần này họ lại đưa hình...Ông Hồ ra để cho có chính nghĩa. Họ lập lờ đánh lận con đen bằng những khẩu hiệu đại lọai như "Yêu Nước Là Yêu...CNXH", hay bất kỳ người nào, tổ chức nào đụng đến cái "Đảng Xôi Thịt" của họ là bị gán cho tội "phản Quốc", tội "Bôi Nhọ Đất Nước", tội "Âm Mưu Lật Đổ Chế Độ"....

Dù cho có sử dụng bao nhiêu thủ đọan thâm độc đến đâu chăng nữa để đàn áp những tiếng nói dân chủ cũng chỉ là những thứ mánh mung vớ vẩn trước lịch sử. Lịch sử luôn luôn có sự nghiêm khắc và sự trừng phạt riêng của nó. Hãy nhìn thử cái gương của "đồng chí" Stalin của Liên Sô cũ, nhà độc tài và tham nhũng Ferdinand Marcos của Phi Luật Tân, nhà độc tài gia đình trị Shuharto của Nam Dương, và gần đây nhất là nhà độc tài khát máu Saddam Hussein của Iraq. Lịch sử cũng rất nghiệt ngã. Nó không có sự "bỏ sót" cả sự "khoan hồng". Rồi đây sẽ có rất nhiều những kẻ lên án, bôi nhọ những người yêu nước như BS Nguyễn Khắc Viện hay Trung Tướng Trần Độ sẽ bị lịch sử trừng phạt, và ngược lại danh tính của những nhà yêu nước, suốt đời đấu tranh cho dân cho nước cũng sẽ được lịch sử ghi bằng những chữ bọc vàng muôn đời còn mãi mãi.

Trương Khởi
Tôi rất trân trọng nhân cách những người như ông Nguyễn Khắc Viện, cũng như hầu hết những đảng Viên CS đã ly khai, chống lại những chủ trương sai quấy của đảng CS. Nhưng tôi nghĩ đây là thí dụ điển hình cho thấy những người học thức mà ngủ quên trên danh vọng, ngủ mê trên những ý thức hệ hoang tưởng, say sưa với mệnh danh dân tộc, tổ quốc, công bằng bác ái, cho nên ngoài cái "ảo ảnh cách mạng" của mình, họ thấy cái gì cũng là trá hình của thực dân đế quốc, tư bản bóc lột. Với uy tín từ cái nhãn khoa bảng của mình, những nhà học thức này bị mua chuộc để kết lại thành bình phong cho bọn đầu cơ chính trị, giúp chúng dương cao ngọn cờ dân tộc giả trá để mời gọi sự hy sinh từ các tầng lớp sĩ, nông, công, thương, binh lao vào vòng tranh chấp quyền lực cho đảng phái độc tài.

Đứng trước tấm gương những nhà học thức không thể nào đền trả quê hương những đóng góp lầm lẫn của mình,tôi thành khẩn xin những nhân sĩ trong và ngoài nước sớm cùng nhau, mở ra một lối thoát an lành cho dân tộc. Quyền lợi và danh vọng không thể coi trọng hơn dân tộc, và đất nước của chúng ta, có tự do, có dân chủ là chúng ta có tất cả.

Vân Anh, Hà Tây, Việt Nam
Tôi vô cùng cảm phục bác sĩ Nguyễn Khắc Viện.

Lê Tuấn, HCM, VN
Nhà văn họ Vương có một câu nói đại khái rằng: một dân tộc được tạo bởi ba dòng chảy bao gồm dòng thế sự, dòng lịch sử và cuối cùng và cơ bản nhất là dòng chảy văn hóa. Văn hóa của người dân Việt Nam được thể hiện một phần thông qua cuoc đời Bs Viện. Người ta hay hô hào "giữ gìn bản sắc và phát huy văn hóa dân tộc... " Tuy nhiên những việc làm cụ thể như thế nào thì người dân không biết. Vẫn biết thời nào ở đâu cũng có những "tấm gương vì đại cuộc". Nên chăng có cơ chế đề cao những con người cụ thể và thiết thực như Bs Viện hay những gương điển hình khác để người dân biết mà noi theo. Đôi lời lạm bàn cùng quí vị.

Đỗ Minh Nam, Việt Nam
Tôi đã hỏi cha tôi về cụ Nguyễn Khắc Viện và nói chung những trí thức từ nước ngoài về nước phục vụ ĐCSVN. Số phận của họ rất khác nhau, tuỳ thời điểm và hoàn cảnh. Được đề cao và tôn vinh cho đến cuối đời là các vị Trần Đại Nghĩa, Trần Hữu Tước, Đặng Văn Ngữ... là những người chủ yếu làm chuyên môn; đôi khi nói về chính trị thì luôn luôn "hoàn toàn tán thành...". Mặt khác, khi đó cụ Hồ còn sống chủ trương thật thà đại đoàn kết. Cùng lo việc nước có vô số trí thức ngoài đảng (họ được đặt vào những vị trí tương xứng với tài và đức. Khi đó đảng viên chưa nhiều lắm, trong cơ quan không "đặc sệt" toàn là đảng viên như về sau này.

Giới Trí thức và nhân sĩ (trong nước và từ nước ngoài về) tự thấy thân phận của mình bắt đầu từ khi đảng CSVN công khai và nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, bắt đầu bằng cải cách ruộng đất và tiếp đó là "chống bè lũ Nhân văn - Giai phẩm". Dù là thủ trưởng một cơ quan, nhưng họ bắt đầu nể sợ những người dưới quyền nếu đó là đảng viên. Để khỏi bị coi là mê muội, gần đây tôi có tìm đọc về CCRĐ và Nhân văn-giai phẩm, nên cũng sáng ra nhiều điều.

Ông Nguyễn Khắc Viện về nước khi đảng đã hoàn toàn độc quyền. Chính ông thấy đảng ta giải tán hai đảng (bù nhìn) Xã Hội và Dân Chủ. Ông là thầy thuốc nhưng lại quan tâm hoạt động văn hoá, xã hội và do nhiệt tâm và cương trực của người trí thức chân chính, ông đã không thể im lặng trước những chướng tai gai mắt. Trước kia, ông cố kiềm chế khi phát biểu trên báo, nhưng ngày càng mạnh dạn hơn (nhất là khi Liên Xô cải tổ). Dù thành tâm muốn đổi mới theo chiều hướng xã hội cởi mở, ông vẫn là nạn nhân của sự độc tài.

Cụ Nguyễn mạnh Tường và cụ Trần Đức Thảo tuy về nước rất sớm (trước cụ Viện) nhưng cũng bị phê phán (y như đấu tố) nặng nề vì giữ vững quan điểm. Họ gặp nạn bắt nguồn từ CCRĐ và Nhân Văn- Giai Phẩm. Do bài này của BBC, tôi sẽ tìm hiểu thêm về các vị, ngoài những điều cha tôi nói cho biết. Tôi mong các vị cao niên nói rõ hơn và mong các bạn trẻ thận trọng phát biểu về các vị nhất là khi chưa hiểu chính xác về họ.

Pinochio, Houston, USA
Tôi không có gì để nói ngoài lòng cảm phục con người yêu nước này. Ông và những người trong họ hàng của tôi đã từ Pháp trở về phục vụ cho Tổ Quốc và đã thấy được sự thật ra sao, nhưng những người thân của tôi không có dũng khí như Ông; họ chỉ biết cúi đầu và sống sao cho gia đình của họ được yên ổn mà thôi! Khi còn trong nước tôi biết nhiều về Ông qua các bài viết về y học nhiều hơn cuộc đời chính trị của Ông. Những gì Ông Nguyễn Thanh Giang viết về Ông không làm tôi ngạc nhiên mà chỉ cảm thấy đáng tiếc cho quê hương đất nước khi có quá nhiều nhân tài, có quá nhiều con người có nhiệt huyết nhưng không thể giúp được gì cho Tổ quốc của mình. Có thể ví von Ông như một Nguyễn Trường Tộ thời xa xưa trong lịch sử VN, những gì Ông nói dường như là cái gì đó không tưởng với giới lãnh đạo! Tôi thích nhất nhận xét của Ông về các truyền thống của dân tộc và vấn đề dân chủ ở nước ta, nó thẳng thắn và không bị lệch lạc bởi chủ nghĩa dân tộc cực đoan.

Ngô Việt, Montreal, Canada
Bài viết quá hay. Tôi biết bác sĩ Nguyễn Khắc Viện từ lâu. Nhiều người nể phục bác lắm. Nhà nước Việt Nam nên quí trọng người tài. Việc làm của nhà nước đối với Nguyễn Khắc Viện đã cản trở sự trở về của bao nhiêu Việt kiều có tài năng. Họ không muốn bị đối xử như Nguyễn Khắc Viện. Hàng ngàn Việt kiều có tấm lòng yêu nước vẫn ở bên lề.

Không tên, Đức
Tôi là một sinh viên đang học ở CHLB Đức. Tuy còn trẻ, nhưng tôi đã nghe tiếng bác sĩ Nguyễn Khắc Viện từ lâu qua một chương trình của đài truyền hình Hà Nội. Tôi thấy trong con người bác sĩ Viện 2 yếu tố: một người trí thức Tây học uyên bác và một nhà trí sĩ khảng khái. Thật hiếm có những trí thức như vậy trong tình hình hiện nay khi mọi người đều sống trong giả dối, tự lừa dối chính mình và những người khác, vì quyền lợi riêng của bản thân. Đáng tiếc thay là những người trí thức như bác sĩ Viện đều không được lắng nghe và chết trong sự im lặng đáng sợ.

ĐÂY NHỮNG TÊN YÊU NƯỚC, YÊU NHẰM BỌN VC KHÁT MÁU BẮC VIỆT THẢO KHẤU LÃNH ĐẠO./-Mt68
_________________________

Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện (1913-1997) – 


Nhà hoạt động Chính trị-Xã hội, Nhà nghiên cứu Văn hóa và Tâm lý – Y học – Giáo dục. Thời gian ở Pháp: 1937-1963, ông là Tổng thư ký kiêm Bí thư Đảng đoàn Hội liên hiệp Việt kiều tại Pháp từ 1952 đến 1963 (bài viết của TTH, đã đăng trong cuốn sách: 100 năm Hội người Việt Nam tại Pháp)

 Một gia đình giàu truyền thống, một người con giàu nghị lực :

Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện sinh ngày mống 5 tháng 2 năm 1913 trong một gia đình khoa bảng xã Sơn Hòa, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Thân phụ của ông là cụ Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm, Thượng thư Bộ Lễ triều đình Nhà Nguyễn.  Cụ là một vị quan biết giữ phẩm cách. Khi thi đỗ đại khoa, được cùng các vị tiến sĩ đồng khoa triều kiến vua Thành Thái, được nhà vua đề nghị mỗi vị hãy góp kế sách để phục hưng quốc gia, cụ Nguyễn Khắc Niêm đã đọc 4 câu sau :

Tôn tộc đại quy

Tôn lộc đại nguy

Tôn tài đại thịnh

Tôn nịnh đại suy

Nghĩa là :        Tôn trọng nòi giống ắt đại hòa hợp

                        Tôn trọng bổng lộc ắt đại nguy nan

                        Tôn trọng tài năng, ắt đại phồn thịnh

                        Tôn trọng siềm nịnh, ắt đại suy vong.

                                                           (Trần Đại Vinh dịch)

Những phương châm ứng xử nói trên của cụ, đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị. Trong quan trường, cụ Nguyễn Khắc Niêm có cách ứng xử nhất quán và phải đạo, còn trong gia đình và xã hội, cụ là người cha mẫu mực, đối xử rất chân tình, bình đẳng với các bậc trưởng lão và nhân dân trong làng, trong huyện…

Ông Nguyễn Khắc Viện từng nói : « Đứng về góc độ tâm lý học mà nói, tôi đã tự đồng nhất với hình ảnh của bố tôi về nhiều mặt từ lúc còn nhỏ, một cách vô thức. » Quả thật ông đã thừa hưởng được rất nhiều từ phong cách ứng xử của người cha.

Ông học tiểu học tại Hà Tĩnh và Huế, trung học tại trường TH Vinh, sau đó chuyển vào Huế học tiếp và đỗ Thành chung.

Năm 1931, ông học lớp Tú tài ở trường Bưởi – Hà Nội và năm 1934, ông đỗ xuất sắc ba bằng tú tài tại đây.

Năm 1934, ông thi đỗ vào trường Đại học Y khoa Hà Nội và học tại đây đến năm 1937

Năm 1937, ông được sang Pháp học tại Đại học Y khoa Paris

Năm 1941, ông tốt nghiệp bác sĩ với hai bằng chuyên khoa : nhi và các bệnh nhiệt đới. Do thế chiến thứ hai bùng nổ, ông không thể trở về Việt Nam. Ông vào làm nội trú tại bệnh viện trẻ em Trousseau (Pháp) đồng thời tham gia hoạt động phong trào Việt kiều.

Năm 1942, ông bị lao phổi nặng phải điều trị dài hạn tại bệnh viện Saint-Hilaire du Touvet (gần Grenoble). Sau thời gian 6 tháng điều trị, bệnh có đỡ, ông xin ra viện và tiếp tục hoạt động. Nhưng vì làm việc quá sức, bệnh tái phát.

Năm 1943-1948 : ông vào lại bệnh viện, phải lên bàn mổ 7 lần, cắt bỏ 8 xương sườn, toàn bộ phổi phải và 1/3 phổi trái, tưởng không qua khỏi. Nhưng nhờ nghị lực phi thường, cộng với kiến thức của mình và đọc thêm triết học Đông-Tây, ông tự tìm cho mình phương pháp điều trị hợp với thể bệnh của mình để tự cứu chữa. Và ông lại tiếp tục các hoạt động ủng hộ kháng chiến ở Việt Nam.

Năm 1949, ông gia nhập Đảng Cộng sản Pháp. Ông tích cực vận động trí thức trong bệnh viện ủng hộ cuộc kháng chiến của Việt Nam, đòi hòa bình, chấm dứt chiến tranh.

Năm 1950, ông ra viện, hoạt động Việt kiều tại Grenoble

Năm 1952-1963 : Ông lên Paris, thay Giáo sư Phạm Huy Thông (bị trục xuất về nước) làm Tổng thư ký kiêm Bí thư Đảng đoàn Hội liên hiệp Việt kiều tại Pháp.

Những năm ở Pháp, ông nghiên cứu, quảng bá văn hóa Việt Nam ra châu Âu và thế giới, phản đối chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam, Lào và Căm Pu Chia. Ông thường xuyên viết bài giới thiệu Việt Nam, phê phán chủ nghĩa thực dân đăng trên các tạp chí và báo nổi tiếng tại Paris : Tư tưởng (La Pensée), Tinh thần (Esprit), Châu Âu (Europe), Phê bình mới (La nouvelle critique), Tạp chí cộng sản (Cahiers du communisme), Người quan sát (L’observateur), Nước Pháp mới (France nouvelle), Thế giới ngoại giao (Le monde diplomatique), dưới nhiều bút danh : Nguyễn Nghệ, Nguyễn Kiên… Ông cũng hoàn thành tập sách Le Sud Vietnam depuis Dien Bien Phu.

Tích cực, tận tâm tham gia phong trào yêu nước tại Pháp :

Theo bà Lương Bạch Vân : Trước chiến tranh thế giới thứ hai, số lượng người Việt Nam sinh sống tại Pháp chỉ vài trăm người, chủ yếu là học sinh, sinh viên, trí thức. Sau chiến tranh, số lượng này đã tăng vọt đến vài chục ngàn người chủ yếu là các “lính thợ Việt nam” do chính phủ thuộc địa đưa sang Pháp phục vụ cuộc chiến tranh chống Đức. Cuộc sống của các lính thợ Việt Nam rất khổ cực, nhiều người bị bệnh, phải an dưỡng tại Grenoble.

Do sống giữa kiều bào, số đông là lao động nghèo ít học, hoà mình trong cuộc kháng chiến chống phát-xít của nhân dân Pháp, từ người yêu nước, Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện trở thành nhà hoạt động cách mạng kiên cường.

Cuối năm 1952, chiến tranh Đông Dương tiếp tục, ác liệt. Phong trào Việt kiều ủng hộ chính phủ kháng chiến và trở thành một thách thức đối với nhà cầm quyền Pháp. Hoạt động của phong trào bị kiểm soát gắt gao, có lúc hoạt động công khai, nhưng cũng có thời điểm bị đàn áp, cấm đoán, phải hoạt động bí mật, nhiều lãnh đạo của phong trào bị Mật thám Pháp theo dõi, truy lùng và trục xuất về nước…

Năm 1954, cùng với đồng bào cả nước, kiều bào đón mừng Chiến thắng Điện Biên Phủ, tin rằng Hiệp định Genève về Việt Nam sẽ mở một trang sử mới cho dân tộc, nhiều trí thức lãnh đạo phong trào tình nguyện hồi hương để trực tiếp góp phần xây dựng miền Bắc.

Năm 1958, Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện là Tổng Thư ký Hội Liên hiệp Việt kiều tại Pháp. Ông là cầu nối giữa phong trào và chính phủ trong nước. Một trong những người được ông giới thiệu hồi hương là Bác sĩ Dương Quang Trung đã được về nước và bố trí làm việc tại Viện Chống Lao.

Cũng trong thời gian này, Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện đã giúp ngành y tế Nam Bộ giải quyết một vấn đề nan giải cho kháng chiến. Thời đó, kẻ địch không muốn thực hiện Hiệp định Genève về Việt Nam, chúng ráo riết bắt bớ những người kháng chiến cũ, bắt được cán bộ, chiến sĩ cách mạng, chúng thường dùng súng lục cực nhỏ bắn vào bụng, hoặc dùng dùi nhỏ đâm thủng ruột, rồi thả cho về (để phía cách mạng không thể tố cáo tội ác của chúng), biết rằng các nạn nhân sẽ bị viêm phúc mạc và chết vì điều kiện tổ chức đại phẫu thuật, mổ khâu ruột thủng trong kháng chiến rất hạn chế .Từ Paris, Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện đã kịp thời gửi vào chiến khu các tài liệu hướng dẫn cách khắc phục và tổ chức lớp đào tạo y tá phẫu thuật cho các tỉnh Nam Bộ…

Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn, Chủ tịch Hội Người Việt Nam tại Grenoble-Isère viết :

« Chia sẻ về kỷ niệm với bác sĩ Nguyễn Khắc Viện

Nhắc đến thời kỳ chiến tranh Pháp-Việt, tôi xin phép đặc biệt, như để ghi ơn, nói nhiều ở đây về Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, vì chính tấm gương sáng ngời của bác sĩ đã khuyến khích tôi đem hết tâm trí hướng về quê hương.

Thời xưa ấy, cách đây hơn nửa thế kỉ, được may mắn thi đậu vào Đại học Bách khoa Grenoble, thì tình cờ, có một giáo sư người Pháp hỏi tôi có bà con với Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện không, vì cùng một họ Nguyễn Khắc. Tôi trả lời không!

Giáo sư khuyên tôi nên tìm gặp Bác sĩ đang dưỡng bệnh lao ở nhà an dưỡng Saint-Hilaire du Touvet, cách Grenoble 30 km. Tôi hỏi tạo sao thì giáo sư bảo rằng Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện rất đáng kính trọng, có thể xem như ngài Gandhi của Việt Nam.

Nhân dịp nghỉ lễ Giáng sinh, tôi hăng hái tìm đường lên núi Saint-Hilaire du Touvet thăm Bác sĩ.

Tôi hết sức ngạc nhiên vì những lời nói đầu tiên của Bác sĩ là để khuyên tôi nên bỏ nghề kỹ sư, đi làm thợ ở công ty sản xuất dụng cụ điện Merlin Gérin (nay là Schneider Electric) ở Grenoble. Tôi hiểu ngay là Bác sĩ có xu hướng chính trị cộng sản, đề cao vai trò của thợ thuyền.

Tôi lễ phép cho Bác sĩ biết là tôi không thể đổi hướng đi vì Ba Mẹ ở Huế đã hy sinh tiền bạc cho tôi du học.

Tôi thán phục Bác sĩ vì được biết Bác sĩ đã từ chối nhận học bổng của Pháp cũng như của Việt Nam lúc sang Paris học ngành y tế.

Sau đó tôi có nhiều dịp gặp Bác sĩ ở Ile verte (20 avenue Maréchal Randon, Grenoble) vì Bác sĩ thường trú ngụ ở đây, một căn nhà rộng lớn của các bác lính thợ, cạnh chỗ tôi ở (6 rue Eugène Delacroix).

Mỗi lần ghé thăm Bác sĩ, chúng tôi bàn chuyện Việt Nam, tâm sự xong thì đánh bóng bàn.

Có một hôm tôi đau, Bác sĩ đến thăm mạch. Thay vì cho toa thuốc, Bác sĩ mở rộng cửa sổ và bảo tôi phải ăn bánh mì với jambon thì mới bớt !

Điều đáng lưu ý là ba của Bác sĩ và ba của tôi cùng một tên: Nguyễn Khắc Niêm (khác nhau một chút ít thôi: tên ba tôi có thêm dấu nặng ở chữ Niệm)

Bác sĩ cũng là cựu học sinh trường Khải Định ở Huế như tôi. Được Bác sĩ hướng dẫn, tôi gia nhập ngay phong trào yêu nước: Tổng hội Sinh viên Việt Nam (và sau đó là Liên hiệp Việt kiều mà Bác sĩ là Tổng thư ký).

Cùng với các bác lính thợ ở Grenoble: Nguyễn Văn Linh, Đoàn Bằng, Lê Thọ, Bùi Lịnh, Trần Tiến Thái, Nguyễn Sáu và nhiều bác khác, tôi thường tham dự các cuộc biểu tình chống chiến tranh Việt Nam do nghiệp đoàn CGT, Đảng Cộng sản và sinh viên Pháp tổ chức.

Tôi cũng có nhiều dịp đi dán truyền đơn (đi ban đêm vì sợ cảnh sát bắt) ở các nẻo đường phố với các bác lính thợ.

Dân chúng Pháp lúc bấy giờ bắt đầu nghe danh tiếng Bác Hồ và đại tướng Võ Nguyên Giáp. Họ dần dần hiểu lý do cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của ta. Dư luận trách chính quyền Pháp đã hy sinh con cháu họ trong một cuộc chiến tranh dơ bẩn (sale guerre !)

Phong trào yêu nước của chúng tôi ở Grenoble sở dĩ rất mạnh là nhờ ở uy tín to lớn của Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện.

Bác sĩ, tuy sức khỏe rất kém (chịu mổ 7 lần, bị cắt bỏ toàn bộ lá phổi bên phải và một phần ba lá phổi bên trái) vẫn tận tình dìu dắt, cổ động tinh thần yêu nước của bà con Việt kiều ở vùng Grenoble-Isère. Bác sĩ hưởng thọ được 85 tuổi nhờ phương pháp thở kỳ diệu mà Bác sĩ đã nghiên cứu và phổ biến rộng rãi.

Tôi không quên tên các nhân vật nổi tiếng như Henri Martin, Raymonde Dien, Madeleine Riffaud vì họ đã chung sức ủng hộ dân tộc ta và phản đối quân đội Pháp gây chiến và tàn phá Việt Nam.

Lẽ cố nhiên tôi cũng có nhiều cơ hội được tham dự các buổi thuyết trình đặc sắc ở Grenoble của Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện luôn hướng về quê hương đang bị khói lửa bao trùm.

Nhiều lần Bác sĩ khuyên tôi nên trở về nước đi chiến khu. Tôi có cho Bác sĩ biết là tôi ủng hộ triệt để cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào ta nhưng tôi muốn ở lại Pháp để trau dồi kiến thức và để có kinh nghiệm, với ước mơ trong tương lai có đủ khả năng đóng góp một cách hữu hiệu hơn trong việc xây dựng đất nước.

Tôi còn nhớ mãi buổi liên hoan của các bác lính thợ ở Ile verte vỗ tay mừng ngày chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Genève.

Tôi rất hãnh diện vì Bác sĩ có nhiều tình cảm sâu đậm đối với tôi, tuy biết tôi không tham gia chính trị, không thích đảng phái nào cả, không ủng hộ xu hướng cộng sản của Bác sĩ.

Làm sao tôi quên được hình bóng gầy ốm của Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, một bác sĩ ưu tú, một nhà văn lỗi lạc, một nhà báo nhiệt tình, trọn đời hy sinh, cống hiến tài năng với tâm đức cho đất nước.

Chính quyền Pháp đã nhiều lần tìm bắt để trục xuất Bác sĩ. Các bác lính thợ Grenoble đưa Bác sĩ trốn tránh an toàn.

Năm 1992, ai cũng vỗ tay hoan nghênh khi biết tin cuốn sách « Việt Nam, une longue histoire » của Bác sĩ được giải thưởng Francophonie của Viện hàn lâm Pháp trao tặng.

Sau những năm 1980, mỗi lần về nước hợp tác với các Đại học Bách khoa hay Công ty Điện lực, tôi không quên ghé thăm Bác sĩ và chị Nhất ở Hà Nội. Căn nhà vô cùng nghèo nàn làm tôi rất xúc động.

Theo tôi, Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện là một nhà cách mạng có một không hai, đáng được chúng ta kính phục và thương tiếc. »

                                                                       ***

Là người hoạt động tích cực, tận tâm, và là Tổng thư ký Hội liên hiệp Việt kiều tại Pháp, ông Nguyễn Khắc Viện quan tâm đến bà con Việt kiều, gần gũi và chia sẻ cùng đồng bào của mình. Ông không chỉ là lãnh đạo của phong trào Việt kiều yêu nước tại Pháp trong 9 năm (1953-1962), mà trước đó, sau đó và mãi mãi, ông vẫn luôn đồng hành nhiệt huyết với tâm thế xông pha cùng cả phong trào, luôn gắn bó với lòng yêu thương chân thành nhất. Ông vẫn tự xem mình là một trong những thành viên may mắn được gặp phong trào Việt kiều và được đào luyện từ đó: « Giá thử không có phong trào Việt kiều, không được các bạn dìu dắt, bồi dưỡng phê phán, tạo ra bầu không khí sôi nổi đấu tranh, thân mật làm việc, gắn chặt tình cảm với đồng bào trong nước, học tập với nhau, chắc ngày nay tôi cũng đã chôn mình vào giữa xã hội Pháp, lạc lõng ngớ ngẩn Đông chẳng ra Đông, Tây chẳng ra Tây. » (trích Thư gửi lại bà con khi Nguyễn Khắc Viện phải về nước năm 1963).

Qua đó để ta thấy sự gắn bó sâu sắc của nhà trí thức Nguyễn Khắc Viện với Pháp, nơi ông đã trải qua 26 năm tuổi trẻ của mình để học tập, tham gia cộng đồng, trải qua những lần thập tử nhất sinh trong bệnh viện, rồi sau đó, có thể nói, tái sinh với một tâm hồn, tính cách, tài năng rực rỡ đại diện cho lòng tự hào của bao thế hệ Việt Nam tại Pháp, cũng như của đất nước Việt Nam.

Theo chia sẻ cuả ông Võ Sĩ Đàn, cựu Chủ tịch Hội NVNTP, về kỷ niệm với bác sĩ Nguyễn Khắc Viện : Lúc ấy, ông Võ Sĩ Đàn là sinh viên, vừa qua Pháp không lâu, bắt đầu tìm hiểu và muốn tham gia hoạt động phong trào Việt kiều. Khi ông liên hệ thì nhận được trả lời của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện về thời gian sinh hoạt anh em.

Về ấn tượng lần đầu gặp Nguyễn Khắc Viện, ông Võ Sĩ Đàn vẫn còn nhớ rất rõ dù đã hơn 50 năm. Lúc ấy, ông hơi ngạc nhiên vì bác sĩ ăn mặc rất giản dị, người gầy, thái độ ấm áp, thân tình, trao đổi rất chu đáo.

Sau một thời gian, ông Võ Sĩ Đàn, bị chính quyền Việt nam Cộng hòa cắt chuyển ngân của gia đình từ Việt nam sang Pháp. Lúc đó, chính bác sĩ Nguyễn Khắc Viện đã viết bài trên báo Pháp để phản đối.

Một nhân cách sáng ngời, một nhà sử học lớn, một nhà văn hóa tinh tế :

Theo bà Yvonne Capdeville, ông Nguyễn Khắc Viện không những là một nhà Sử học lớn mà còn là một nhà Văn hóa tinh tế, sâu sắc. Bà đã viết:

« Je suis une militante Vietnam de longue date, ayant milité pour le Vietnam dès les années 1960 dans le cadre de l’association médicale franco-vietnamienne animée par le Dr Henri Carpentier, puis dans le cadre du Collectif Intersyndical Universitaire d’Action Vietnam, Laos, Cambodge, mis sur pied par le Physicien, Henri Van Rogemorter. C’est en 1970, dans une réunion organisée par Henri Van Regemorter, que j’ai eu l’occasion de rencontrer Nguyen Khac Vien. Henri Van Regemorter et Nguyen Khac Vien étaient de très anciens amis, Nguyen Khac Vien ayant vécu en France pendant plus de vingt ans.

C’est grâce à Nguyen Khac Vien que j’ai pu appréhender le Vietnam d’une façon sensible et approfondie, Nguyen Khac Vien étant un grand historien et un très fin lettré. Il m’a éduquée en quelque sorte, par de longues conversations avec lui en décembre 1972 à Hanoï, où je me trouvais pour faire un enseignement de génétique à l’hôpital Bach Mai, séjour où il a été coïncidé par les bombardements de B52 sur Hanoï. Cette éducation s’est affinée avec la lecture de son remarquable livre « Histoire du Vietnam » qui m’a permis de pénétrer et d’appréhender sur la durée et dans la globalité l’histoire du Vietnam et ainsi de mieux comprendre les Vietnamiens.

Je lui suis très reconnaissante de ce travail initiatique et garde en mémoire son esprit lumineux et sa grande culture. »

Chúng tôi tạm dịch : « Nguyễn Khắc Viện,

« Tôi là một nhà hoạt động cho Việt Nam từ nhiều năm nay, từ những năm 1960, trong lĩnh vực hợp tác y tế Pháp-Việt, do Bác sĩ Henri Carpentier khởi xướng, sau đó, trong lĩnh vực Liên công đoàn các trường đại học hành động vì Việt nam, Lào, Căm-Pu-Chia, do nhà Vật lý Henri van Regemorter đặt nền móng. Vào năm 1970, trong một cuộc họp do Henri van Regemorter tổ chức, tôi đã có dịp gặp Nguyễn Khắc Viện. Henri van Regemorter và Nguyễn Khắc Viện là bạn bè rất lâu năm của nhau, Nguyễn Khắc Viện đã sống ở Pháp hơn 20 năm.

Nhờ Nguyễn Khắc Viện, tôi đã có thể hiểu Việt Nam một cách nhạy cảm và sâu sắc hơn, Nguyễn Khắc Viện không chỉ là một nhà Sử học lớn mà còn là một nhà Văn hóa tinh tế. Ông đã dạy tôi thông qua những cuộc hội thoại dài vào tháng 12 năm 1972, ở Hà Nội, thành phố nơi tôi đã ở để tham gia giảng dạy bộ môn di truyền tại Bệnh viện Bạch Mai. Thời gian đó trùng với đợt ném bom B52 ở Hà Nội. Cách trao đổi giảng giải của ông cùng với việc đọc cuốn sách trứ danh ông đã viết : « Lịch sử Việt nam », đã cho phép tôi đi sâu và nắm bắt tổng thể lịch sử Việt Nam và chính như vậy, tôi đã hiểu hơn những con người Việt Nam.

Tối rất biết ơn ông về công việc ban đầu này và giữ mãi trong bộ nhớ của mình trí tuệ uyên bác và vốn văn hóa đồ sộ của ông. »

Bà Nguyễn Thị Bình, cựu Phó Chủ tịch nước CHXHVN đã để lại bút tích trong cuốn sách « Đạo và đời » của ông Nguyễn Khắc Viện vào ngày 10 tháng 5 năm 2002:

«Là người có nhiều kinh nghiệm tuyên truyền đối ngoại, Nguyễn Khắc Viện đã viết hàng loạt tác phẩm bằng tiếng Pháp, giới thiệu đất nước, lịch sử, nền văn hóa, truyền thống  và con người Việt nam, đặc biệt là giới thiệu cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta với đông đảo bạn bè thế giới.

Là nhà khoa học, Nguyễn Khắc Viện đã có nhiều công trình nghiên cứu về phương pháp dưỡng sinh, về y học, về tâm lý học, về tâm bệnh lý trẻ em và đã chủ biên nhiều bộ từ điển chuyên ngành.

Nguyễn Khắc Viện là học giả, nhà văn, nhà báo với nhiều cuốn sách và bài viết vừa đậm đà phong cách văn học, vừa mang tính chính luận sâu sắc và bản sắc dân tộc.

Trong vốn trước tác đa dạng và phong phú đó của Nguyễn Khắc Viện, nhiều tác phẩm đã được bạn đọc trong và ngoài nước đánh giá cao, coi đó là những đóng góp có giá trị vào nền văn hóa, xứng đáng được lưu giữ lâu dài… »

Ông Hoàng Tùng – nguyên Bí thư Trung ương Đảng – đã viết về ông Nguyễn Khắc Viện ngày 20 tháng 9 năm 2006 :

« Nguyễn Khắc Viện, một nhà bác học lỗi lạc, một con người giàu nghị lực.

Khi vào đời, Nguyễn Khắc Viện chuẩn bị cho mình nghề thầy thuốc. Số phận lại hướng Ông vào nhiều nghề khác và là một nhà y học có uy tín. Là nhà bác học, Ông giống Lê Quý Đôn. Là nhà y học, Ông giống Lê Hữu Trác.

Cậu ấm con trưởng một Ông quan án (sau hàm Thượng thư), đỗ đầu khoa Thi Hội, không muốn làm quan. Chuẩn bị làm một bác sĩ, nhưng do hoàn cảnh chiến tranh gây nên trắc trở, không nhận được tiền nhà gửi, phải sống kham khổ và mắc bệnh lao phổi, phải mổ cắt phổi và xương sườn, tưởng rằng khó tồn tại được, Ông nghiên cứu y học Đông Tây và tự rèn luyện.

Hoàn cảnh lại hướng Ông vào hướng khác, hoạt động yêu nước và viết sách báo để truyền bá tư tưởng chính trị. Từ những năm 1950, Bác sĩ Viện trở thành một người hoạt động chính trị, một người Cộng sản Việt Nam trên đất Pháp, chống chủ nghĩa thực dân. Ông sử dụng tiếng Pháp như một nhà trí thức Pháp. Vì hoạt động chính trị, Ông bị trục xuất khỏi nuớc Pháp.

Từ 1963, về nước tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ bằng ba hoạt động chính trị, văn hoá, báo chí nhằm vào đối tượng nước ngoài là chủ yếu. Phương pháp của Ông là thông qua các nhà trí thức các nước tác động đến hai loại người: Giới cầm quyền và giới quần chúng. Ông rất sở trường về phong cách văn chương do Ông linh hoạt với từng thể loại: Chính trị, văn hoá, y học… và không bao giờ viết theo kiểu văn thơ tuyên truyền; Ông nói và viết phù hợp với từng người đối thoại với mình.

Nguyễn Khắc Viện viết nhiều và đủ các thể loại đề tài. Di sản của Ông đồ sộ như một thư viện. « Việt Nam một thiên lịch sử » là một pho sử lớn viết gọn lại bằng tiếng Pháp rất Pháp, Nhà báo Diệu Bình dịch ra tiếng Việt do Nhà xuất bản Lao Động in và phát hành năm 2006, khổ 14,520,5, dày 536 trang mà đầy đủ từ thời đồ đá đến thời hiện đại. Khả năng nổi trội này của một nhà sử học không chuyên, Nguyễn Khắc Viện đã khái quát đủ tất cả những cái gì cần có của một công trình khoa học lớn. Quan điểm và phương pháp luận có cơ sở khoa học chặt chẽ. Cuốn sử này có ích đối với nhiều người: Nhà sử học, những người đọc bình thường, nhà giáo và sinh viên.

Nguyễn Khắc Viện chứng minh nghị lực to lớn của con người. Tự rèn luyện và anh dũng đương đầu với thần chết trên 40 năm, với sức vóc như vậy mà có nghị lực làm việc phi thường để góp phần vào sự nghiệp giải phóng đất nước. Vì nghĩa lớn, Ông sẵn sàng bỏ qua nhiều điều ngang trái không vui đối với Ông và gia đình.

Người đời quý trọng Nguyễn Khắc Viện về một trí tuệ, một tài năng, một con người và một tâm hồn lớn. »

Tình yêu thương trẻ em vô bờ bến :

Có lẽ tình yêu thương trẻ em đã được ươm mầm từ khi ông còn nhỏ. Ông đã được sinh ra, lớn lên và giáo dục trong một gia đình nhà nho yêu nước và có truyền thống khoa bảng. Điều này còn thể hiện ngay từ khi ông chọn học nghề Y, trong nghề y, ông chọn Nhi khoa, với mong muốn cứu giúp trẻ em bệnh tật. Và không chỉ phấn đấu trở thành bác sĩ nội trú giỏi, ông còn tự học, đọc nhiều sách, nghiên cứu sâu về tâm lý trẻ em.

Năm 1948, khi còn ở Pháp, Nguyễn Khắc Viện đã soạn hai cuốn sách « Lòng con trẻ » và « Giáo dục hoạt động » gửi về chiến khu. Sau này ông viết tiếp một loạt tác phẩm về trẻ em và tâm lý trẻ : « Ngây thơ”, “Nỗi khổ còn em”, “Tâm lý học sinh tiểu học”, “Tìm hiểu tâm lý con em ».

Khi về nước, trong tình trạng nước nhà thiếu giấy, thiếu tiền, ông đã vận động các bạn Thụy Điển in cho trẻ em Việt Nam 400 nghìn quyển truyện Tấm Cám. Ông đã khơi dậy phong trào đá cầu, thành lập ngành khoa học tâm lý trẻ em ở nước ta, kêu gọi thầy, cô giáo và người lớn chơi với trẻ em, hiểu trẻ em, bình đẳng với trẻ em, làm gương cho trẻ em để xây dựng một thế hệ tương lai cường tráng về sức khỏe và tinh thần.

Năm 1989, ông sáng lập và làm Giám đốc Trung tâm nghiên cứu tâm lý trẻ em (Trung tâm NT), xuất bản tờ « Thông tin khoa học tâm lý », ông đặc biệt quan tâm đến những trẻ em bị rối loạn tâm trí, đặt nền móng cho ngành tâm lý học trẻ em, một ngành khoa học còn mới mẻ ở Việt Nam.

Năm 1992, khi được trao giải thưởng Grand prix de la Francophonie của Viện Hàn lâm Pháp, ông đã cống hiến phần lớn khoản tiền thưởng 400.000 FF, cho Trung tâm Nghiên cứu Tâm lý Trẻ em (Trung tâm NT), nhằm xây dựng thêm chi nhánh của Trung tâm tại nhiều địa phương, đi sâu tìm hiểu thực trạng trẻ em Việt Nam, vận dụng những vấn đề lý thuyết phương Tây một cách thích hợp…

Cuộc sống riêng tư :

Trong cuốn « Tự truyện » (NXB Khoa học – Xã hội) ông đã viết khá đầy đủ về cuộc sống tình cảm của mình khi ông ở Pháp và khi trở về Việt Nam

Mối tình 8 năm với cô sinh viên Y khoa người Pháp

Ông kể lại : Thời sinh viên, một hôm sau khi ông trình bày bệnh án được giáo sư khen, lúc ra về có một cô sinh viên Pháp chạy lại bảo : « Này anh ạ, anh cho tôi mượn cái bệnh án của anh hôm qua ấy, hay quá, có vài điểm tôi chưa hiểu rõ, để tôi xem lại và nhờ anh giải thích cho. »

Đó là lần đầu tiên ông ngồi gần một người bạn gái. Và lúc đó ông mới biết tên cô là Monique. Từ đó, hai người quen nhau, có gì khó, Monique lại đến hỏi ông, hai người tham gia học tập cùng nhau rồi thân nhau. Quan hệ ngày một thân thiết, ông đã có những lần đi dạo cùng cô bên bờ sông Seine và gia đình cô đã nhiều lần mời ông đến ăn cơm. Nhưng rồi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Ông nghĩ rằng sau khi tốt nghiệp ông trở về nước và không thể về cùng cô được vì hoàn cảnh chiến tranh và vì cô là người Pháp sẽ không dễ dàng chấp nhận. Một mặt, ông không thể quên lời căn dặn của người cha trước khi ông lên tàu sang Pháp du học : « Thầy chỉ dặn một điều là nhất định đừng lấy vợ đầm ». Thấy không thể kéo dài chuyện tình cảm, ông quyết định chia tay cô.

Nhưng rồi ông bị mắc bệnh lao phổi nặng. Biết ông bị bệnh, Monique đến thăm ông ngay. Nhưng do chiến tranh, mỗi người ly tán một nơi. Mãi đến khi nước Pháp giải phóng, họ mới gặp lại nhau. Nhưng vì nghĩ mình bị bệnh, khó qua khỏi, ông khuyên Monique đi lấy chồng nhưng cô không chịu.

Ông viết : « Đến năm 1947, sức khỏe khá lên chút ít, tôi về Paris, Monique nhắn tôi lại chơi. Hôm đó, tôi nghỉ lại nhà Monique. Lần đầu tiên, chúng tôi ăn nằm  với nhau sau hơn 8 năm trời bị một ngăn cách lạ lùng… Sáng hôm sau dậy hai đứa có một sự thanh thản rất lạ lùng. Hôm ấy, tôi nói : « Giờ Monique đi lấy chồng nha » rất dễ dàng, thốt ra một cách bình thản và Monique cũng chấp nhận. Chúng tôi đã trả cho nhau được một cái nợ, thành ra bây giờ có thể dứt khoát mỗi người đi một đường ».

Mối duyên tình 30 năm đằm thắm, bền chặt

Đó là mối tình của ông Nguyễn Khắc Viện cùng bà Nguyễn Thị Nhất (vợ trước của ông Trần Đức Thảo). Ông gọi mối tình đó là « mối tình đầu thứ hai của ông » vì lần đầu tiên ông có một người yêu là người Việt Nam. Năm 1952, ông Nguyễn Khắc Viện và bà quen nhau tại Pháp và cùng nhau hoạt động trong một nhóm. Nhưng lúc đó bà Nhất đã đính ước cùng ông Trần Đức Thảo và sau khi hai người về nước (ông Thảo về trước tham gia kháng chiến), họ đã kết hôn. Nhưng do sống với nhau không hợp nên đã chia tay nhau trước khi ông Nguyễn Khắc Viện về nước, năm 1963.

Gặp lại bà Nhất, ông vẫn cảm mến bà nhưng do chưa biết tình hình sức khỏe của mình ra sao và công việc trong nước thế nào nên phải mãi đến năm 1967, ông mới tổ chức đám cưới với bà. Lúc đó, bà đã 41 tuổi và ông đã vượt quá tuổi « ngũ thập nhi tri thiên mệnh ». Hơn thế, sức khỏe của cả hai ông bà đều rất hạn chế, lấy nhau cũng có nghĩa là phải hy sinh cho nhau. Tuy nhiên, cuộc sống của hai ông bà lại hòa hợp về phong cách, cách sinh hoạt, ăn ở, đối xử. Họ có thể trao đổi với nhau về vấn đề tâm lý trẻ em bởi bà làm công tác mẫu giáo và ông lại rất quan tâm vấn đề này. Ông lại cũng hiểu sự hy sinh của bà. Nhân dịp bà tròn 70 tuổi, ông làm một bài thơ tặng bà : Bà là bà Nhất/ Chị là chị Hai/ Dâu là dâu cả/ Tuổi Trâu tích cực/ 70 không già/ Hai vai gánh vác/ Việc nước việc nhà/ Việc dòng việc họ/ Chuyện phố chuyện phường/ Thêm một ông chồng/ Kiệt sức hết hơi/ Vẫn lắm trò chơi/ Sách sách vở vở/ Hết văn lại võ/ Khách khứa sớm chiều/ Chỉ được một điều/ Trải bao năm qua/ Từ nơi đất khách/ Về đến quê nhà/ Khi gần khi xa/ Ngày sướng ngày khổ/ Tơ lòng gắn bó/ Không bao giờ dứt/ Trước sau như một/ Coi bà là Nhất… 

Những năm trở về nước, ông tham gia nhiều hoạt động khác nhau. Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện là nhà văn hóa lớn, là Giám đốc NXB Ngoại văn, tác giả nhiều đầu sách

Năm 1963, ông bị trục xuất về nước do các hoạt động chống chiến tranh.

Từ năm 1964-1984, ông là ủy viên Ủy ban liên lạc văn hóa với nước ngoài, sáng lập và chủ biên tạp chí đối ngoại « Nghiên cứu Việt Nam » bằng tiếng Pháp và tiếng Anh (Etudes Vietnamiennes, Vietnam Studies) và làm Giám đốc Nhà xuất bản Ngoại văn (nay là Nhà xuất bản Thế giới). Ông dịch tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du ra tiếng Pháp. Ông giới thiệu Tuyển tập Văn học Việt Nam từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XX (bằng tiếng Pháp). Ông viết cuốn « Việt Nam một thiên lịch sử » bằng tiếng Pháp và nhiều sách, báo tiếng Việt.

Năm 1984, ông nghỉ hưu và được Nhà nước tặng Huân chương Độc lập hạng Ba.

Năm 1989, ông sáng lập và làm Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Tâm lý và Bệnh lý trẻ em (La Fondation N-T), xuất bản tờ « Thông tin khoa học tâm lý » và nhiều tác phẩm về tâm lý học.

Năm 1992, ông nhận giải thưởng Grand prix de la Francophonie của Viện Hàn lâm Pháp dành cho người nước ngoài sử dụng tích cực và có hiệu quả tiếng Pháp.

Ông soạn kịch bản và cộng tác với Xưởng phim Tài liệu khoa học Trung ương sản xuất một số phim giới thiệu đất nước và về tâm lý giáo dục trẻ em.

Năm 1997, ông được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng nhất.

Ngày mồng 10 tháng 5 năm 1997, ông qua đời tại Hà Nội sau một thời gian bị ốm nặng và cầm cự bằng phương pháp dưỡng sinh.

Thi hài ông được an táng tại Nghĩa trang Mai dịch Hà Nội.

Ngày 1 tháng 9 năm 2000, Chủ tịch nước Việt Nam đã truy tặng ông Giải thưởng Nhà nước cho cuốn « Việt Nam, một thiên lịch sử. »

Theo Giáo sư Hoàng Như Mai : « Suốt cả cuộc đời, Nguyễn Khắc Viện tuân thủ trung thực và trung thành một Đạo Sống rất đẹp, vốn là cái truyền thống muôn đời của trí thức Việt Nam: Yêu nước, lo dân. »

Để hiểu thêm về ông trong ba lĩnh vực mà ông đã hoạt động suốt cuộc đời : Sức khỏe, Tư tưởng và văn hóa. Ba lĩnh vực này cũng có thể lần lượt được khái quát hóa thành 3 khái niệm: Dưỡng sinh – Tu thân – Xử thế. Chính ba khái niệm này tạo thành đạo lý sống của ông (bài của GS. Nguyễn Quý Đạo). Những bài viết sẽ cho chúng ta hiểu thêm về tâm tư và tâm thế sống của ông (bài của GS. Nguyễn Ngọc Trân),  những áng văn sử khảo cứu công phu (bài của nhà văn Trần Thị Hảo), cùng một vài tư liệu hình ảnh, bút tích của ông…

ĐẠO LÝ ĐƯỜNG ĐỜI

                                                           Giáo sư Nguyễn Quý Đạo (05/2017)

Học nhi bất yếm, Hối nhân bất quyện.

(Học không biết chán, Dạy không biết mỏi)

Đây là hai câu viết trong cuốn Luận ngữ của Khổng phu tử mà một người bạn của anh Nguyễn Khắc Viện đã tặng mừng nhân ngày lễ thọ bát thập của anh. Anh đã vui nhận bức trướng thêu tám chữ nho ấy và đã bình lại rằng đó đúng là một trong những tư thế về cuộc sống của mình mà anh vẫn cố gắng theo đuổi từ trước tới nay.

Anh Viện sang Pháp du học từ năm 1937, lúc ấy anh học xong năm thứ ba ở Đại học Y khoa Hà Nội. Anh sang Pháp tiếp tục học ngành Y tại Đại học Y khoa Paris cho tới khi tốt nghiệp, chuyên nhi khoa, năm 1941. Nhưng ngay sau đó, năm 1942, vì chiến tranh, vì thiếu thốn, anh bị mắc bệnh lao. Cho tới những năm 1960, bệnh lao là một trong những bệnh truyền nhiễm rất nguy hiểm tới tính mạng bởi vì ngành Y chưa khám phá ra những thuốc kháng sinh điều trị công hiệu. Hồi ấy, để chữa bệnh lao phổi, các bác sĩ phải đưa bệnh nhân đến các viện điều dưỡng, nằm trên những ngọn núi cao để có được những không khí trong lành. Nếu bệnh không lành thì phải mổ để cắt bỏ những phần bị nhiễm trùng và đây là một cách chữa duy nhất nhưng lại làm giảm đi rất nhiều sức khỏe của bệnh nhân. Anh Viện chẳng may bị mổ vì bệnh tái phát. Anh bị mất hẳn một lá phổi.

Mất bao nhiêu sức lực và anh đã phải nằm ở viện điều dưỡng St Hilaire du Touvet trên một đỉnh của rặng núi Alpes gần thành phố Grenoble, gần tám năm trời.

Đây chắc chắn là điều chẳng may cho anh Viện, nhưng tôi nghĩ là bất cứ việc gì, đối với những người có tài có chí, thì họ vẫn có thể thay đổi tình thế, chuyển chuyện không may thành chuyện tốt.

Vì biết mình đã nhiễm bệnh hiểm nghèo, anh Viện đã dùng thời gian nằm viện điều dưỡng để tìm hiểu những phương pháp tự chữa thêm cho mình. Đã có sẵn bản lĩnh của một gia đình nho giáo, anh đã tự học thêm chữ Hán, nghiên cứu sâu về các đạo giáo như đạo Tin lành, đạo Khổng, đạo Lão, cùng những phương pháp tu tâm luyện trí cũng như các lối hô hấp dưỡng sinh. Anh đã nghiên cứu về Thiền, về Yoga, về những phương pháp rèn luyện thân thể như Thái cực quyền, vừa giúp ích cho sức khỏe vừa tạo cho mình một « đạo lý » riêng. Đạo lý của anh là một hình tam giác với ba đỉnh là Dưỡng sinh, Tu thân, Xử thế. Anh đã đổi câu « Tiên học lễ, hậu học văn » thành câu « Tiên học võ, hậu học văn ». Chữ võ ở đây có nghĩa là thể thao, là võ thuật để giữ gìn sức khỏe. Con đường tu thân của anh Viện, một « truyền phái » mới do anh đã tìm thấy, thâm thúy ở chỗ là anh đã hòa hợp được những lối sống tinh túy của phương Đông cùng với những văn minh hiểu biết khoa học của xã hội phương Tây.

Cũng vì đó, có thể nói anh Viện là một bác sĩ khoa nhi nổi tiếng, một nhà sử học xuất sắc, một nhà triết học thâm thúy, nhà tư tưởng học sâu sắc, cùng rất nhiều danh hiệu vô song khác nữa, song tóm lại, anh chính là một « nhà văn hóa » (homme de culture) của thế kỉ thứ XXI theo như định nghĩa của UNESCO khi cơ quan này trao tặng danh hiệu đó cho Nguyễn Trãi cách đây không lâu.

Tháng 5 năm nay là đúng 20 năm, anh Nguyễn Khắc Viện đã vĩnh viễn ra đi.

Những người Việt kiều sinh sống ở Pháp đều biết tới anh Viện, nhớ tới anh, không phải vì anh là một trí thức Việt kiều lâu năm sống tại Paris mà vì chính anh đã nhiều năm nắm giữ trách nhiệm của Hội người Việt Nam tại Pháp, là Tổng thư ký của Liên hiệp Việt Kiều tại Pháp ngay từ năm 1956, khi một hội của người Việt Nam được công khai thành lập tại Paris, cho tới ngày 27 tháng 4 năm 1963, trước khi trở về nước, với cương vị Chủ tịch hội Liên Hiệp Việt Kiều tại Pháp, anh để lại một bức tâm thư dặn dò các anh chị em Việt kiều tiếp tục đoàn kết và đấu tranh cho đất nước Việt Nam ngày trở lên hùng mạnh thêm. Cả một cuộc đời cống hiến cho Việt Nam, cho nhân loại.

Đọc lại những bài viết của anh, rất phong phú về mọi phương diện cũng như về các đề tài, chúng ta có thể nhận thấy là anh Viện là một nhà tư tưởng học và từ những suy nghĩ rất thâm thúy và uyên bác, anh đã tạo ra một con đường để tu thân tích đức trong suốt cả cuộc đời không chỉ để riêng cho cá nhân mình mà còn để cống hiến cho cả xã hội con người.

THEO DÒNG HỒI ỨC VỀ ANH

Giáo sư Nguyễn Ngọc Trân (04/2017)

Tôi đến Paris du học cuối năm 1959. Trước đó không lâu Hội Liên hiệp Việt kiều (LHVK) bị cấm hoạt động. Tôi được biết anh Nguyễn Khắc Viện chỉ trong 3 năm 4 tháng trước khi anh rời nước Pháp về Việt Nam. Năm 1976, tôi cùng gia đình hồi hương. Tôi có dịp gặp lại anh tại Hà Nội trong nhiều năm, từ tháng 7.1980 khi tôi từ Thành phố Hồ Chí Minh ra Trung ương nhận công tác đến tháng 5.1997 khi anh qua đời. Theo dòng hồi ức, xin được ghi lại mấy kỷ niệm về Anh.

1960. Lần gặp đầu tiên. Tham gia đoàn văn nghệ của phong trào Việt kiều dự Festival do Union Nationale des Étudiants de France (UNEF) tổ chức tại Grenoble tháng 8.1960 về, tôi viết một bài tường thuật cho Bản tin của phong trào, quay ronéo lúc bấy giờ. Bài có tựa Tiếng sạp trên đất Grenoble. Tôi ngỏ ý và được anh Viện nhận lời đọc và góp ý cho phù hợp với Bản tin. Hai ngày sau, ở tầng trên của “Quán cơm Cụ Hồ”, số 4 rue Gît le Coeur, anh trao lại bài viết và nói: “Mình đã đọc và đã có sửa đôi chỗ. Nói chung tốt. Trân xem và viết sạch lại để mình chuyển cho các anh em phụ trách”. Tôi nhận thấy những chỗ điệp từ, điệp ý đã được lược đi. Gọn nhưng vẫn đầy đủ ý. Tôi cảm ơn anh vì bài ngắn và sáng ý hơn.

Tôi vẫn còn giữ tới hôm nay bản thảo đã được anh Viện sửa như một của quý, bài báo đầu tiên của tôi trên đất Pháp. Quý còn vì những ý kiến sâu sắc của anh. Anh khen ý của toàn bài nhưng đã sửa lại tôi viết từ góc độ của một sinh viên Việt Nam đang học tại Grenoble được thấy đoàn văn nghệ Việt Kiều từ Paris đến tham dự Festival.

Anh nói: với tư cách đó vẫn nói được những điều muốn nói, và tốt hơn cho công việc của Trân. Anh còn hỏi tôi học ngành gì và dặn dò tôi cố gắng học cho tốt, tiếp thu văn hóa của Pháp và tìm hiểu về chủ nghĩa tư bản, về chủ nghĩa xã hội để khi cần lựa chọn, mình ý thức đầy đủ về sự việc.

Tôi không thể không nhớ đến ánh mắt, giọng nói và cách xưng hô của anh. Ban đầu, tôi gọi anh bằng chú vì cùng trạc tuổi với Ba tôi. Nhưng anh nói nhẹ nhàng Trân cứ gọi mình là anh và xưng tôi. Gần gũi, không ngăn cách, thứ bậc. Cách xưng hô được giữ cho đến mãi sau này.

Những năm 1980 đến 1991. Năm 1976, tôi và gia đình (Hồng, nhà tôi, hai con Hồng Vân 9 tuổi, Hồng Phương gần 5 tuổi) về nước. Tôi nhận công tác tại Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Hồng tại Bộ Công nghiệp Nhẹ, Phòng Máy tính tại Thành phố.

Tháng 7.1980, tôi ra Hà Nội, nhận công tác mới tại Ủy Ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước. Cơ quan của Ủy Ban ở số 39 đường Trần Hưng Đạo, rất gần 12 đường Nguyễn Chế Nghĩa, và 40 đường Trần Hưng Đạo, nhà riêng và cơ quan của anh Viện. Tuy mỗi người một lĩnh vực hoạt động và công việc nhiều, chúng tôi cũng có dịp gặp nhau. 

Lần đầu tiên gặp lại, anh hỏi thăm tôi về gia đình, về công việc. Sự quan tâm này đã làm ấm lòng tôi. Anh tỏ vẻ vui khi thấy công tác của tôi nhìn chung thuận lợi, khi còn ở Trường Đại học Tổng hợp Thành phố, rồi tiếp theo trong hợp tác liên chính phủ về văn hóa, KHKT giữa Việt Nam – Pháp, trong ACCT (Francophonie), và trong công tác nghiên cứu khoa học ở đồng bằng sông Cửu Long. Tôi thuật lại để anh yên tâm, lời dặn ân cần của Thủ tướng Phạm Văn Đồng khi tôi mới từ Pháp về: “Công việc làm phải “bien délimité”; làm nhiều, nói ít; làm có kết quả rồi mới nói” và trước hết là “cái tâm đối với đất nước”; và rằng phong trào luôn ở trong tim tôi.

Tháng 3.1991, Chương trình Điều tra cơ bản tổng hợp đồng bằng sông Cửu Long được nghiệm thu cấp nhà nước. Tôi không quên tặng anh báo cáo tổng hợp của Chương trình mang tên Đồng bằng sông Cửu Long, Tài nguyên – Môi trường – Phát triển do tôi chủ biên với tư cách là chủ nhiệm Chương trình. Tháng 8.1991 Trung tâm nghiên cứu phát triển đồng bằng sông Cửu Long được thành lập để tiếp nối công việc của Chương trình phục vụ các tỉnh đồng bằng.

Năm 1992. Tháng 7.1992, tôi được bầu vào Quốc hội, khóa IX và được cử làm Chủ tịch Phân Ban Việt Nam trong Assemblée Internationale des Parlementaires Francophones (sau Hội nghị cấp cao 7 Pháp ngữ tại Hà Nội 1997, được đổi lại là Assemblée Parlementaire de la Francophonie), tiếp tục công việc chị Nguyễn Thị Bình để lại. Tháng 10.1992 tôi được chuyển công tác sang làm Trưởng Ban Việt kiều Trung ương trực thuộc Chính phủ. Những công tác mới này tạo cho tôi nhiều dịp gặp anh Viện.

Tháng 11.1992, Nguyễn Khắc Viện được Viện Hàn Lâm Pháp trao tặng Grand Prix de l’Académie Française.

Anh tặng tôi bài phát biểu của anh tại buổi lễ nhận giải tại Hà Nội. Trong 8 trang là một cuộc đời, một nghị lực, một tầm nhìn và một nhân cách. Tôi còn tìm thấy nhiều nội dung có ích cho hoạt động của Phân ban Việt Nam trong AIPLF/APF.

Xin trích một số đoạn anh viết rất tâm huyết :

“Il persiste cependant au fond de moi-même un sentiment d’inquiétude non pas vague, brumeux, mais qui se formule de façon bien précise: dans quelques années, quand la vieille garde ne sera plus là, la relève sera-t-elle assurée pour une francophonie de qualité? Est-ce là la nostalgie d’intellectuel, d’esthète, ou une nécessité voire un impératif pour notre avenir commun? On peut étudier l’anglais, sans se soucier de connaître la culture anglaise ou américaine, mais peut-on le faire au Vietnam à propos de la langue française? La question se pose aussi bien pour les Vietnamiens que pour les Français.”

(…) “Apparamment, les échanges culturels ne pèsent pas d’un grand poids face aux investissements économiques; je me risque cependant à penser que certains impondérables peuvent jouer un rôle sinon plus important du moins plus durable. En cette fin de siècle qui voit poindre tant d’espoirs comme se profiler l’ombre de désastres sans nom, peut-être pourrions-nous voir s’ouvrir dans cette voie de larges possibilités pour un avenir commun à tous les peuples.

Les hommes des quatre océans sont tous frères, disaient nos anciens. Liberté, Égalité, Fraternité, proclamaient des révolutionnaires français de 89.

Internationalisme est la devise première de tous ceux qui se réclament du socialisme. Utopie, diront certains. Pour ma part, en dépit des déchirements et bouleversements actuels, je m’en tiens à cette utopie qui n’avait jamais cessé de hanter les esprits depuis qu’il y a des hommes et qui pensent.

Vous serez certainement indulgents pour cette présomption d’un octagénaire qui n’a comme seule qualité que de croire à ce qu’il dit”.

Năm 1993. Thực hiện chủ trương của Chính phủ, Ban Việt Kiều Trung ương phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Ngoại giao và các cơ quan khác có liên quan của Chính phủ tổ chức Hội nghị Việt kiều Xuân Quý Dậu tại Thành phố Hồ Chí Minh. 103 kiều bào từ 24 nước trên khắp thế giới đã về dự hội nghị đầu tiên sau ngày đất nước thống nhất. Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã tham dự và phát biểu về Đoàn kết, hòa hợp dân tộc, động lực phát triển đất nước.

Năm 1993, anh Viện tròn 80 tuổi. Sau hội nghị Việt kiều Xuân Quý Dậu, tôi đến thăm anh tại nhà. Quà sinh nhật là một quyển Kỷ yếu hội nghị. Anh cho biết có theo dõi báo đài về hội nghị và rất mừng. Tôi thì hỏi thăm anh về Trung tâm N-T. So với trước anh có phần yếu đi nhưng trong ánh mắt anh ngời lên một niềm vui. Dường như sinh khí của Đổi Mới đã tiếp sức cho anh!

1997 Vĩnh biệt. Tháng 5.1997 giữa lúc đi tiếp xúc cử tri cho lần bầu cử Quốc hội khóa X, tôi nhận được tin dữ: ngày 10.5.1997, anh đã trút hơi thở cuối cùng.

Tuy đã biết việc gì ắt đến sẽ đến, tôi vẫn không khỏi cảm thấy hụt hẫng trước sự mất mát.

Đến viếng anh và chia buồn với chị Nhất, cháu Bình, tôi miên man suy nghĩ về cuộc đời anh.

Bất giác tôi nhớ đến một đoạn trong bài diễn văn nhận giải của anh:

“Au peuple vietnamien, chair de ma chair, sang de mon sang, je me suis appliqué à payer ma dette. (…) Tout ce que je peux dire aujourd’hui, recevant cette récompense inestimable, c’est d’exprimer la grande satisfaction que j’éprouve au soir de ma vie, d’avoir payé mes dettes, avant de déposer le bilan”.

Và tôi đã ghi vào Sổ tang:

Vô cùng thương tiếc anh. Anh thanh thản ra đi và yên nghỉ ở cõi Vĩnh hằng anh nhé. Kiều bào sẽ mãi nhớ Anh”./.

Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện đúng là « một trong những trí tuệ sáng chói nổi bật nhất » như tiến sĩ sử học Charles Fourniau, cựu chủ tịch Hội Hữu nghị Pháp-Việt đã nói. Chính vì vậy, việc ông được Viện Hàn lâm Pháp trao Giải thưởng Grand Prix de la Francophonie vào tháng 11/1992 và tác phẩm Việt Nam-Một thiên lịch sử được chủ tịch nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Nhà nước vào ngày 1/9/2000, thật xứng đáng và đáng trân trọng.