NGUYỄN KHẮC VIỆN CON QUAN LẠI, ĂN CƠM VUA THỜ MA CỘNG SẢN- MẤY MƯƠI NĂM TẬN TÌNH LIẾM, VÁI CỘNG SẢN - ĐẾN KHI THẤY VC HIỆN NGUYÊN HÌNH LÀ ÁC THÚ - HẮN DÂNG SỚ MONG CỨU ĐẢNG, CỨU CHỦ NGHĨA CHÓ GHẺ: CHẲNG CÓ ĐỨA NÀO NGHE - NGUYỄN KHẮC VIỆN CHẾT NHƯ LƯU THIẾU KỲ, CHẾT NHƯ NGUYỄN CON KY ... HỐI MÀ KHÔNG DÁM HẬN VIỆT CỘNG./-Mt68
__________________________________
26 Tháng 1 2006 - Cập nhật 22h26 GMT
Bàn về bác sĩ Nguyễn Khắc Viện
Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện là một trí thức tên tuổi của Việt Nam và cả quốc tế. Tất nhiên, trong giai đoạn đầu của cuộc đời, Bác Sĩ nổi tiếng là một trí thức Cộng Sản nhiệt thành và hy sinh chẳng những cho phong trào Cộng Sản mà còn cho sự xây dựng chủ nghiã xã hội tại Việt Nam.
Một người như thế - có thể nói toàn bộ cuộc đời cống hiến cho xã hội, với tâm huyết xây dựng, cải tiến chế độ đương thời cho dân chủ, cho tốt đẹp hơn (đúng là sau này ông có tỉnh ngộ về thực chất xã hội chủ nghiã và muốn thay đổi nó), đáng lý ra phải được hưởng những gì xứng đáng với sự hy sinh của ông; thì ngược lại, vì ý thức tiến bộ và dân chủ - tức muốn có dân chủ trong hệ thống chính trị và xã hội Việt Nam, ông đã phải trả giá!
Xin theo dõi giai đoạn từ năm 1962, mốc thời gian BS NGUYỄN KHẮC VIỆN chuẩn bị về nước, dẫn dần đến kết cục bi thảm của cuộc đời của ông trước khi qua đời. Đây là trường hợp điển hình diễn tả một người có công lớn đối với xã hội đã bị chế độ vùi dập như thế nào.
Năm 1962, do sự điều đình giữa chính quyền Ngô Đình Diệm với nhà chức trách Pháp, chính phủ Pháp ký lệnh trục xuất Nguyễn Khắc Viện. Ông nán lại một thời gian để làm báo cáo công tác và giúp đỡ đoàn chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do ông Mai Văn Bộ làm đại diện tại Paris. Ngày 27 tháng 4 năm 1963, ông được Đảng và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đưa về nước qua đường Tiệp Khắc, Liên Xô, Trung Quốc. Buổi ông rời Pháp lên đường, kiều bào và các bạn Pháp kéo đến tiễn chân, đông như một cuộc biểu tình.
Về nước, ông được Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ làm Ủy viên Ban Đối ngoại, trực tiếp phụ trách công tác tuyên truyền quốc tế. Ngoài nhiệm vụ tổng biên tập báo Le Courrier du Vietnam và tạp chí Etudes Vietnamiennes ông còn phải đảm trách chức giám đốc Nhà xuất bản Ngoại văn. Hàng trăm bài báo và đầu sách ông viết bằng tiếng Pháp gửi các báo nước ngoài hoặc cho 3 cơ quan trên, khỏi phải nói, đã giúp bạn đọc Pháp và những nước nói tiếng Pháp hiểu Việt Nam một cách có lợi cho chế độ.
Giáo sư Hoàng Như Mai nhận xét là : “ Văn phong của anh Viện – khi viết Pháp văn – giản dị, trong sáng, khúc triết. Tôi nghĩ rằng anh Viện viết thứ văn Jules Michelet, Ernest Renan, một thứ văn thuần Pháp”.
Tiên phong trong sự nghiệp đổi mới và dân chủ hoá đất nước
Năm 1963, khi mới về nước, Nguyễn Khắc Viện đã tuyên bố một câu mà sau đó được giới trí thức ở Hà Nội lưu truyền : “Nếu mở mắt ra, nước Việt Nam biến thành nước Pháp thì tôi đi theo chủ nghĩa tư bản, còn như phải đi 200 năm đầy máu và nước mắt để Việt Nam trở thành nước Pháp thì tôi theo Liên Xô”.
Khi Liên Xô sụp đổ, nhà báo Lê Phú Khải thẳng thắn thân tình hỏi ông : “Khi xưa, mới về nước, bác đã nói một câu nổi tiếng về Liên Xô, nay Liên Xô đã tan rã rồi …giờ “cụ” nghĩ sao đây?”. Vẫn điềm đạm, chân tình, Nguyễn Khắc Viện trả lời : “ Giờ thì tôi đi theo kinh tế thị trường văn minh chứ không phải tư bản hoang dã …”.
Cái thứ xã hội chủ nghĩa mà Nguyễn Khắc Viện cũng như nhân dân ta đã ngây thơ kỳ vọng tới, đã đau đớn xả thân một cách lầm lạc vì nó đã không hề có trong thực tế ở Liên Xô, ở Trung Quốc … Về sống cùng quê hương xứ sở, Nguyễn Khắc Viện mới bàng hoàng nhận ra: “ Chủ nghĩa xã hội ngây thơ mang tính hoàn toàn Nhà nước thúc ép tất cả mọi người vào một cái khung áp đặt từ trên xuống, tạo ra một bộ máy quan liêu và hào lý nặng nề, tiêu diệt óc sáng kiến của nhân dân ” ( 2 ).
Từ cái đường lối xã hội chủ nghĩa quái đản ấy đã buộc phải thực thi những chủ trương, biện pháp sai lầm đến mức như là phản động. Nguyễn Khắc Viện phát biểu: “… sau này theo dõi thực tế và nghĩ lại, tôi mới thấy hợp tác hoá thực chất là tập thể hoá, tước đoạt quyền làm chủ của người nông dân trên mảnh đất của họ. Quyền sử dụng ruộng đất ở nông thôn, trồng gì, giá cả ra sao, chi phí thế nào … do bí thư, chủ tịch, chủ nhiệm hợp tác xã quy định, dân không có quyền gì nữa. Bộ máy dần dần thoái hoá, tiêu xài phung phí, lạm dụng quỹ chung của hợp tác xã, nông dân làm ra, cuối cùng tính công điểm chẳng còn bao nhiêu. Người nông dân không hào hứng nữa, đánh kẻng rồi mới đi làm, không còn cảnh ra đồng sớm như trước nữa. Cuộc sống nhiều khi dựa trên thu nhập từ kinh tế gia đình, trên đất 5% là chủ yếu, mặc dù nuôi được một con lợn, muốn bán cho ai, bán lúc nào, giá cả ra sao, cũng không có quyền quyết định” ( 3 ).
Ở miền Bắc, hợp tác xã có điều kiện thuận lợi hơn nên lúc đầu cũng có một số tác dụng, nhưng càng về sau càng bộc lộ những bất cập, kềm hãm sản xuất ghê gớm. Thế mà sau khi giải phóng Miền Nam, Đảng vẫn chủ trương hợp tác hoá nông nghiệp ồ ạt, đặt chỉ tiêu một cách ngông cuồn: Năm 1980 phải hoàn thành hợp tác hoá nông nghiệp toàn miền Nam!
Đi theo đường lối tiến lên chủ nghiã xã hội bằng những chủ trương, biện pháp hết sức sai lầm, Đảng đã nghèo khổ hoá nhân dân và đẩy đất nước đến bờ vực thẳm. Tuy nhiên, khi chợt bừng tỉnh, Đảng lại đi từ sai lầm tả khuynh đến sai lầm hữu khuynh khi giương cao khẩu hiệu “Đảng viên cũng phải biết làm giầu”. Thực tế ấy làm Nguyễn Khắc Viện trăn trở : “Cách mạng Pháp nêu khẩu hiệu “ Tự do-Bình đẳng-Bác ái ”. Trên cái nền “Tự do-Bình đẳng-Bác ái“ ấy mà nước Pháp trở thành giầu có. Nếu chỉ nêu khẩu hiệu làm giầu mà bất chấp mọi thứ thì sẽ dẫn đến chụp giựt, sa đọa, lừa đảo, phá hoại cả môi trường nhân văn và môi trường sinh thái” ( 4 ).
Trong cơn khát làm giầu như thế, hàng loạt cán bộ, đảng viên đua nhau móc ngoặc, tiếp tay cho con buôn, lạm dụng công quỹ, lợi dụng đất đai, tài sản, phương tiện của nhà nước để vơ vét vào túi tham vô đáy của mình. Ông viết bài Chống tiêu cực” vạch rõ : “Tình trạng cán bộ tham ô, ức hiếp nhân dân, không chỉ là trái đạo đức, mà còn là vấn đề chính trị”.
Kiến nghị bảy điểm
Khi tình hinh xã hội đã trở nên rất nghiêm trọng, ông viết “Thất trảm sớ” gửi Quốc hội. Nội dung tóm tắt như sau :
Trong bản kiến nghị có một câu rất hay khi nói về quyền bình đẳng trước pháp luật : “Không làm theo kiểu phong kiến: dân thì chịu hình pháp, quan thì xử theo lễ”.
Trong một bài viết nhan đề : “Then chốt : cải tổ bộ máy”, ông vạch rõ : “Hai nhược điểm cơ bản (của bộ máy Đảng-Nhà nước ) là : 1) Thiếu nhạy bén trước yêu cầu của nhân dân, của tình hình mới của thời đại. 2) Cơ cấu tổ chức ngăn cản những tiến bộ của kinh tế xã hội. Bộ máy Đảng-Nhà nước thiếu nhạy bén do cách làm ăn thiếu dân chủ, thiếu khoa học” ( 4 ).
Ông nêu những nhận xét khái quát : “ … Việt Nam có truyền thống yêu nước, truyền thống đoàn kết với nhau, tức là có những thể chế bảo đảm quyền của cộng đồng đứng trước bộ máy nhà nước, bộ máy tôn giáo. Nhưng khái niệm và thể chế để bảo đảm quyền của con người, quyền của công dân thì chưa có …dân chủ là một khái niệm mới thì chúng ta buộc phải nhập từ Phương Tây. Việc gì phải che dấu chuyện này ” (3 ). “ Nhân dân ta có nhiều truyền thống tốt đẹp, như kiên cường đấu tranh chống ngoại xâm, sống có tình có nghiã, nhưng truyền thống dân chủ thì chưa có. Con chỉ biết phục tùng cha, dân phục tùng vua quan, cá nhân phục tùng đoàn thể, vợ phục tùng chồng, trò phục tùng thầy; phục tùng trong hành động, trong cả suy nghĩ. Bề trên vừa là chỉ huy, vừa là thầy, là thánh, chân lý phát ra từ cấp trên. Không thể làm khác ý đồ của trên ( 2 )”.
Ông bác bỏ luận điệu xảo trá, hù doạ rằng dân chủ sẽ đưa đến loạn lạc: “Ý kiến tôi cũng như nhiều anh em khác mong mỏi có dân chủ hoá. Ai cũng muốn có ổn định, chứ không phải muốn cho xáo trộn loạn lạc lên đâu. Nói như vậy chỉ là sự vu khống. Chính vì muốn tránh bùng nổ, mà tôi muốn nhịp độ dân chủ hoá phải nhanh hơn, nếu không, bề ngoài cứ tưởng là ổn định, nhưng tình trạng mất dân chủ gây nên phản ứng như những đợt sóng ngầm, đến lúc nào đó không tránh khỏi bùng nổ. Kinh nghiệm Liên Xô và Đông Âu rất đáng cho ta suy ngẫm” (3).
Ông ngán ngẩm, nhưng lại kỳ vọng : “Một sự im lặng đáng sợ đang trùm lên cả xã hội : ít ai động vào đưa ra một sáng kiến, người thì chạy vạy cho cuộc sống hết hơi, hết ngày, người thì chán nản bi quan, ngay cả phẫn nộ cũng không còn sức. Đất nước ta hiện nay đang cần những con người chủ động, có óc sáng tạo để cải tổ mọi lĩnh vực trong cuộc sống xã hội. Làm sao khuấy lên được hào hùng, tin tưởng, phẫn nộ”. ( 2 )
Ông hồ hởi mừng vui đón nhận từng tín hiệu nhỏ làm tiền đề cho cuộc đấu tranh vì sự nghiệp dân chủ hoá : “Vụ đổi tiền tháng 9 năm 1985 quả là một tai hoạ ập đến với nhân dân ta. Nhưng nói như một ngạn ngữ phương Tây, bao giờ tai họa cũng có mặt hay của nó. Lần đầu tiên, ở nước ta, mọi người đều thấy lãnh đạo tối cao cũng có thể phạm sai lầm nghiêm trọng. Trước đó một số người đã suy nghĩ như vậy, nhưng cái mới là nay số đông bắt đầu suy nghĩ như vậy. Và dĩ nhiên, tiếp theo là từ nay ta không thể khoán trắng cho lãnh đạo suy nghĩ, động não thay thế cho mọi người” (3 ).
Ông hô hào : “Đừng ngồi yên chỉ biết than phiền, kêu ca. Đừng ngồi mong chờ ở “ông” khác. Trên dưới đều có người tiến bộ, có người bảo thủ, dưới có quậy, trên mới thay đổi”( 2 ). “Từ bỏ chủ nghĩa xã hội nhà nước, từ trên áp đặt xuống, ta sẽ xây dựng một chủ nghĩa xã hội trong đó Đảng lãnh đạo, lãnh đạo chứ không ôm lấy mà làm mọi việc. Đảng với nhân dân cùng suy nghĩ, có trao đi đổi lại, chứ không phải Đảng phán ra, nhân dân cúi đầu vâng theo”.( 2 )
Ông kêu gọi làm cách mạng : “ Trước kia chúng ta đã dựng nên một cuộc cách mạng dân tộc, nhân dân, quốc tế rộng lớn chống đế quốc ngoại xâm. Chúng ta đã tiến hành mấy cuộc kháng chiến trường kỳ nhiều mặt, để chống lại tư bản man rợ, không để nó tác oai tác quái, nay phải dựng nên một mặt trận dân tộc, nhân dân, quốc tế còn rộng hơn; tiến hành một cuộc kháng chiến mới lâu dài hơn, đa dạng hơn, mới mong hạn chế được tham nhũng, bảo vệ được môi trường, giảm nhẹ bất công xã hội, phân hoá giầu nghèo, giữ gìn được thuần phong mỹ tục, phát huy tình người, tôn trọng quyền phụ nữ, trẻ em, các nhóm thiểu số. Một cuộc kháng chiến nhiều mặt với báo chí, tivi, sách vở, phim ảnh. Thành lập đủ các thứ hội đoàn, đình công, biểu tình … không bỏ sót ngóc ngách nào, trong nước, ngoài nước, đứng ở bất cứ vị trí nào cũng có thể tham gia … Chúng ta sẽ làm cho những tư tưởng dân chủ, công bằng xã hội, tinh thần quốc tế, tình nghĩa giữa người và người thâm nhập vào đại chúng. Kỹ thuật hiện đại trao cho chúng ta đầy đủ phương tiện làm việc này, biến tư bản man rợ thành tư bản văn minh. Hãy cùng nhau bước vào cuộc kháng chiến mới ” ( 5 ).
Kêu gọi bằng “ hịch”, lại kêu gọi bằng thơ :
Ông vạch ra một tiến trình :
“Quá trình dân chủ hoá thể hiện qua mấy khâu :
Hỏi ông có tin vào hiệu năng đấu tranh của lực lượng dân chủ, ông trả lời : “ Theo tôi, nếu mọi người tiếp tục đấu tranh thì có 80% công cuộc đổi mới sẽ thành công, nhưng cũng còn 20% bất trắc, chủ yếu do sức chống đối của những người được hưởng đặc quyền đặc lợi mà bộ máy cũ mang lại cho họ ” ( 4).
Vô cùng tiếc và thương một chí khí ngoan cường
Nguyễn Khắc Viện không chỉ mạnh dạn phê phán và đóng góp nhiều ý kiến mới lạ so với chủ trương đường lối của Đảng nên nghe rất “ nghịch nhĩ “ mà còn thẳng thắn, chân tình góp ý với nhiều quan chức cao cấp trong Đảng. Nghe tin Đảng định đưa nhà thơ Tố Hữu làm thủ tướng chính phủ, ông gặp trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng Nguyễn Đức Tâm bầy tỏ ý kiến phản đối.
Trước Đại hội VI ông đã từng viết một lá thư gửi ông Tố Hữu, đại ý như sau : Trước kia, tôi rất mến phục tài thơ của anh, tôi thích thú một số bài thơ của anh và đã dịch những bài đó ra tiếng Pháp đưa ra quốc tế. Nhưng anh làm lãnh đạo chính trị, đặc biệt về văn hoá văn nghệ, rồi làm phó thủ tướng, làm kinh tế như thế này, không ai đồng tình, nhiều người oán trách, anh nên biết rõ. Dịp này anh nên tự nguyện rút lui, đừng ứng cử vaò Trung ương nữa, trở lại làm nhà thơ, chắc anh sẽ lại được lòng kính mến tài làm thơ của anh.
Ông họa thơ Tố Hữu :
![]() | ![]() |
(Bài thơ của Tố Hữu đăng trên báo Văn nghệ, lúc ấy được rất nhiều người họa là :
… Thế rồi ! Không biết vì sao và từ đâu, những tai ương bắt đầu bổ xuống đời ông.
Báo Nhân Dân và hầu hết các báo cấm chỉ không đăng bài ký tên Nguyễn Khắc Viện nữa. Chẳng những thế, sau khi đài BBC phát thư kiến nghị của ông gửi Đại hội VII thì trong nước dấy lên một chiến dịch rầm rộ công kích, lên án ông. Khởi đầu là báo Nhân Dân tung ra một loạt bài, không nêu rõ tên Nguyễn Khắc Viện nhưng trích một vài đoạn trong bức thư rồi quy chụp rằng người viết những dòng như thế là có ý đồ thâm hiểm, mượn cớ dân chủ tự do để chống cách mạng, chống Đảng.
Tháng 5 năm 1991, báo công an Thành phố Hồ Chí Minh loan báo trong màng lưới tay sai cho gián điệp, có một tên gián điệp ở Pháp về. Cùng luận điệu đó, có bài ghi rõ tên đầy đủ, có bài ghi tắt N.K.V. Cán bộ tuyên huấn của Đảng đi nói chuỵện khắp nơi rằng trong nước có một nhóm chống Đảng, chống cách mạng mà Nguyễn Khắc Viện là một phần tử.
![]() | ![]() |
Rồi Quận uỷ Hoàn Kiếm lôi Nguyễn Khắc Viện ra đấu tố, bắt đứng lên kiểm điểm. Ông từ tốn nhưng kiên nghị nói : Nếu Quận uỷ muốn sinh hoạt chi bộ trao đổi quan điểm và thảo luận về những điều đúng, sai thì tôi làm, còn kiểm điểm thì không, vì tôi không có lỗi gì.
Cứ thế, ngày mỗi ngày càng nồng nực trong xã hội những dư luận xấu. Nguyễn Khắc Viện bị bôi bẩn, bị thoá mạ, bị săn đuổi, bị hăm doạ một cách rất tàn khốc, rất đểu cáng.
Bà Nguyễn Thị Nhất kể rằng : một hôm có người đến thăm, hỏi ông Viện đi đâu. Quen nói giọng Sài Gòn, bà trả lời : Nhà tôi chạy đâu rồi ấy. Thế là người đó hớt hải loan tin và dư luận đồn ầm lên rằng Nguyễn Khắc Viện đã trốn ra nước ngoài. (Tiếng chạy với người Sài Gòn chỉ là “đi đâu đó thôi ”, nhưng người khách miền Bắc kia lại hiểu là bỏ trốn).
Ông Hoàng Nguyên kể rằng một hôm vào khoảng cuối năm 198, ông đang ngồi làm việc tại tòa soạn báo Le Courrier du Vietnam thì nhà điện ảnh nổi tiếng, lão thành P.V.K. hớt hải chạy vào hỏi : “Thế nào, anh Viện bị bắt rồi à?”, trong khi ông Viện vẫn đang ngồi làm việc ở tầng trên.
Cảm thương và kính phục, nhiều người đã tặng thơ ông. Bà Phương Tho - em gái ông- viết những dòng bi tráng ca :
Ông Đặng Minh Phương tặng đôi câu đối :
Kiến thức bách khoa phong phú, từng trải Đông Tây, tác phẩm uyên thâm đồ sộ, ở Pháp quốc kiên trì tranh đấu, tấm lòng với nước tận trung, vòng danh lợi coi khinh, lương tâm to sáng
Tài năng đa dạng hiếm hoi, tinh thông kim cổ, tư duy sắc sảo tuyệt vời, về Việt Nam bền bỉ dựng xây, ngòi bút vì dân cương trực, thói quan liêu căm ghét , nhân cách ngát hương.
Một đêm tháng 4 năm 1988, được Nguyễn Khắc Viện đến thăm và ngủ lại nhà mình, nằm thao thức trong đêm Mỹ Tho, nhà báo Lê Phú Khải đã viết bài thơ :
Khi biết ông chắc chắn sắp chết, Nguyễn Khoa Điềm vội vàng đến gắn tấm huân chương Độc lập Hạng Nhất lên bộ ngực ông đã dính đét xuống giường.
Người ta thấy mai mỉa không ít với tấm huân chương Hồ Chí Minh, huân chương Sao vàng. Người ta càng thấy tủi buồn về tấm huân chương Độc lập Hạng Nhất trên ngực Nguyễn Khắc Viện.
Dẫu sao, chỉ một cái tên Nguyễn Khắc Viện không thôi đã nói lên cái gì đó của một con người trí thức, dù đứng ở bên nào!
Quí vị có suy nghĩ gì về những ý kiến của ông Nguyễn Thanh Giang và những kiến nghị của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện khi sinh thời? Xin hãy gửi thư cho chúng tôi theo địa chỉ vietnamese@bbc.co.uk, hoặc sử dụng hộp tiện ích bên tay phải. Xin cám ơn.
=========================================
Cuộc thảo luận quanh chủ đề này đã khép lại. Quý vị có thể xem lại các thư đã gửi về dưới đây.
Tôi lúc đó còn nhỏ, được chứng kiến ông Tường nuôi một đàn gà và mọi người cười ông "Trí thức lớn cho gà uống phi la tốp kìa". Tôi hiểu ông bất đắc chí. Lòng tôi đến giờ vẫn không hết xót xa khi nhớ về ông. Nói như người Việt mình nói "ông bị cho ngồi chơi xơi nước". CS đã vô hiệu hoá ông, họ sợ những kiến thức của ông. Họ chà đạp ông vì họ quá dốt nát. Người con gái lớn của ông, chị Nghi, học rất giỏi, nhưng cũng không được vào đại học, mà bị đưa đi đào than ở vùng than Quảng Ninh. Gia đình ông Tường hiện vẫn còn ở phố Tăng Bạt Hổ (HN). Vợ ông vẫn còn sống. Tôi mong có ai đó xót xa cho những thân phận trí thức bị chà đạp dưới chế độ CS tìm gặp và viết lại bi kịch của cuộc đời tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường.
Họ không dám làm một dissident đâu bởi vì mấy ai có can đảm thú nhận là mình sai bao giờ. Nói về ông tôi chỉ tiếc cho nhận thức chính trị của ông về CNXH còn thì các đóng góp của ông về khoa học, giáo dục và tâm lý trẻ em thì đáng trân trọng . Một trí thức khuynh tả khác vừa qua đời là ông Lý Quý Chung , ông ta chỉ có thể được chính quyền CS cho phép lên gân với bóng đá trên các tờ báo mà thôi và nhà trí thức khuynh tả này cũng có thể liệt vào hàng ngũ các trí thức khuynh tả, ngây thơ với chủ nghĩa cộng sản vậy.
Dù sao, lầm lỡ mà biết Phản Tỉnh và nói lên tiếng nói TRUNG THỰC, THẲNG THẮN của mình thì cũng đáng kính phục hơn là...biết "bậy bạ, bạo tàn" như thế mà vẫn "mũ ni che tai, ngậm miệng ăn tiền" hoặc như một số bạn trên diễn đàn BBC tham gia góp ý về Nguyễn Khắc Toàn, đã bênh vực cho chế độ từng bao lần "cưỡng dâm pháp lý" và "bức hiếp" cả Hiến Pháp do chính họ đã xây dựng lên, đầy ắp những ngôn từ " tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, tự do hội họp...nhưng hoàn toàn là những thứ Tự Do trên giấy, những thứ BÁNH VẼ không dùng được. Xin mời các vị bênh vực cho 1 chế độ đã đối xử "tàn bạo", thiếu "nhân tính", ngay với cả những công thần của mình, hãy đọc kỹ bài về BS/ NKV và suy gẫm lấy để hiểu rõ hơn chế độ này. Nhất là những Vị khoa bảng bị dụ dỗ về VN the NQ 36, gọi là để có dịp PHỤC VỤ quê hương đất nước, hoặc sắp được CỬ (??) vào Quốc Hội Bù Nhìn hãy đọc kỹ bài viết về kinh nghiệm của BS/ NKV.
Đâu cần phải ở VN năm này tháng nọ mới hiểu biết rõ hiện tình VN ra sao? Cụ Hồ những năm 1920-23 còn ở Pháp, đâu biết chi về nước Nga, về chế độ XHCN mà đã chộp lấy chủ nghĩa Cộng sản. Có phải, như các bạn này nói, đã vô tình quy kết Cụ Hồ gây tai vạ cho nhân dân 60 năm qua vì chưa hiểu rõ, chưa thấu đáo, khi chưa ở đất nước người ta? và trong trường hợp này - BS NKV cũng vì...chưa về ở VN trước khi về nước năm 1962 nên đã hiểu sai lầm về chế độ đó? Ở vào thời đại cao kỷ và bùng nổ thông tin liên mạng này, nếu ai cũng phải có SỐNG thực sự trên đất nước nào đó mới được quyền phê phán đất nước đó, thì... chỉ còn nước CHẠY THEO ĐUÔI nước người ta, còn theo kịp ai được nữa. Đúng là những lối suy nghĩ... của nông dân, sống sau lũy tre làng của 50 năm trước.
Chỉ cần nhìn qua vài bài viết về các tiêu cực trong các báo online trong nước: cá độ gần 2 triệu USD của một quan chức ở Hà nôi, các vụ Năm Cam dính tới Trần Mai Hạnh, Bùi Quốc Huy..., nhìn qua vụ Lương Quốc Dũng, các vụ Cá Độ bóng đá Sea Games 22, 23, vụ Tổng Cục dầu Khí, nạn Học Thuê, bằng Tiến sĩ giấy, Cảnh sát giao thông chặn xe ăn tiền, học sinh học thuộc lòng các bài thi, quá nhiều thứ tiêu cực rất NGUY HẠI cho Văn Hóa, cho nếp sống lành mạnh của Xã Hội... đang tràn lan trên đất nước VN thì .. dù nhắm mắt cũng biết rõ "căn bệnh" là thế nào rồi, phải không thưa quý vị ??
Ở VN, ai cũng sợ hãi, và con cá bị nhốt càng sợ hơn, không dám lên tiếng. Trong khi đó là quyền lợi, nhưng không thể hưởng đưọc, nếu nói lơ mơ, bị bắt ngay, và khi bị bắt là "phạm luật" tự do phát biểu? Thật là ngớ ngẩn làm sao! Như vậy điều cần nhất là làm sao cho tất cả dân chúng từ nhỏ đến lớn phải hiểu được Hiệp ước về Tự Do Nhân Quyền của thế giới mà VN đã dồng ý ký kết, tuân giữ. Nếu VN không tuân giữ, VN và những nhà lãnh đạo phải bị ở tù trước, rồi mới đến dân ở tù sau.
Loại thứ 1 hiện đa số đã chết, hoặc lưu vong ở nưóc ngoài, nều còn trong nước thì hoặc đang ngậm ngùi yên lặng hoặc hiện ở tù. Loại thứ 2 hầu như đã bị diệt chủng chỉ còn vài người cấp tối cao, chẳng cần ăn hối lộ làm gì vì muốn bao nhiêu của cải lại chẳng được. Cả ngân khố VN đều là của họ kia mà. Loại thứ 3 thì hằng hà sa số, đầy dẫy ở đầu đường xó chợ, từ thành thị đến trung ương, mang danh hiệu "đầy tớ nhân dân" để vơ vét của cải, 1 phần dâng lên Đảng, phần khác bỏ túi riêng. Loại thứ 2 tuy bức xức nhưng còn làm được việc, nhưng loại thứ nhất đang rất đau khổ nhìn thấy quốc gia, dân tộc, nhân dân VN đang quá khổ sở khốn cùng mà chẳng thể làm gì được.
Thứ nhất, ông dành vài trang so sánh Việt Nam và Thái Lan về mọi mặt: chính trị, xã hội, kinh tế , giáo dục... rồi kết luận Thái Lan chẳng có gì hơn "ta" mà còn có phần tệ hại hơn là đằng khác. Kết luận phần này ông khuyên tuổi trẻ nên kiên định con đường xây dựng CNXH mà Đảng của ông đã chọn, mà theo ông, rõ ràng tốt hơn hẳn con đường Thái Lan theo đuổi. Nay thì ai cũng rõ giữa hai nước Việt và Thái là ai vượt lên, ai tụt hậu.
Thứ hai, ông khuyên tuổi trẻ nói "không" với tôn giáo. Về điểm này thì ông quả là học trò trung thành của Karl Marx, người đã cho rằng "tôn giáo là thuốc phiện". Tác hại của việc cố loại trừ ảnh hưởng của tôn giáo khỏi đời sống xã hội thì nhiều người đã bàn tới sau khi khối Cộng Sản Xô Viết sụp đổ. Cũng trong "Một Đôi Lời", bác sĩ Viện kể rằng lúc hồng y Karol Wojtyla được bầu làm giáo hoàng John Paul II của giáo hội Công Giáo La Mã, thì ông đang đi công tác ở châu Âu (hình như ở Rome). Ông cảm thấy rất thất vọng khi nghe kết quả bầu cử giáo hoàng khi đi ngang qua một quảng trường. Có lẽ điều này thì ông đúng, vì việc đăng quang của giáo hoàng John Paul II đã bắt đầu cho sự cáo chung của chủ nghĩa Cộng Sản ở Liên xô và Đông Âu.
Nói tóm lại, trong hầu hết cuộc đời của ông, bác sĩ Viện đã rất "toàn tâm toàn ý" đi theo Chủ Nghĩa Cộng Sản. Ông đã góp sức rất nhiều xây dựng và đánh bóng bộ máy Đảng CS và Nhà Nước VN hiện tại. Biết bao nhiêu thanh niên đã nghe theo lời "khuyên" của ông mà phí hoài tuổi trẻ? Biết bao nhiêu Việt Kiều, bạn bè quốc tế đã nghe lời tuyên truyền, vận động của ông, mà tin yêu một thể chế chuyên chính độc tài?
Điều đáng quý là lúc gần cuối đời, cũng như biết bao người Cộng Sản có lương tâm khác, ông đã nhận ra được cái sai lầm vĩ đại mà họ đã mắc phải, là tin vào và dốc sức phục vụ Chủ Nghĩa Cộng Sản, để đến một ngày nào đó nhận ra rằng nó đã biến thành con quái vật đè nặng trên số phận đất nước VN tội nghiệp. Giá như bác sĩ Nguyễn Khắc Viện có điều kiện viết "Một Đôi Lời" tập 2 trước khi ông mất, thì có lẽ ông sẽ rút lại những lời khuyên thanh niên trong tập 1, mà thay vào đó là lời khuyên nói "không" với Chủ Nghĩa Cộng Sản.
Lòng yêu nước của hai vị trí thức quá cố này là muốn đưa đất nước, dân tộc VN hiên ngang tiến lên cùng thế giới. Nhưng đó lại chính là một cái tội to lớn đối với bọn giá áo túi cơm, xuẩn động trong Đảng, không cần biết gì tới nỗi nhục của đất nước, nỗi nhục của nhân dân, mà chỉ cần làm đủ mọi cách hạ tiện để ôm lấy cái ghế quyền lực của họ. Họ chỉ biết yêu quyền lực bởi vì "Quyền" tức là "lợi", mà "Lợi" tức là "Tiền". Họ chỉ là những kẻ thờ ông "Thần Tiền" nhưng phía trước ông thần này họ lại đưa hình...Ông Hồ ra để cho có chính nghĩa. Họ lập lờ đánh lận con đen bằng những khẩu hiệu đại lọai như "Yêu Nước Là Yêu...CNXH", hay bất kỳ người nào, tổ chức nào đụng đến cái "Đảng Xôi Thịt" của họ là bị gán cho tội "phản Quốc", tội "Bôi Nhọ Đất Nước", tội "Âm Mưu Lật Đổ Chế Độ"....
Dù cho có sử dụng bao nhiêu thủ đọan thâm độc đến đâu chăng nữa để đàn áp những tiếng nói dân chủ cũng chỉ là những thứ mánh mung vớ vẩn trước lịch sử. Lịch sử luôn luôn có sự nghiêm khắc và sự trừng phạt riêng của nó. Hãy nhìn thử cái gương của "đồng chí" Stalin của Liên Sô cũ, nhà độc tài và tham nhũng Ferdinand Marcos của Phi Luật Tân, nhà độc tài gia đình trị Shuharto của Nam Dương, và gần đây nhất là nhà độc tài khát máu Saddam Hussein của Iraq. Lịch sử cũng rất nghiệt ngã. Nó không có sự "bỏ sót" cả sự "khoan hồng". Rồi đây sẽ có rất nhiều những kẻ lên án, bôi nhọ những người yêu nước như BS Nguyễn Khắc Viện hay Trung Tướng Trần Độ sẽ bị lịch sử trừng phạt, và ngược lại danh tính của những nhà yêu nước, suốt đời đấu tranh cho dân cho nước cũng sẽ được lịch sử ghi bằng những chữ bọc vàng muôn đời còn mãi mãi.
Đứng trước tấm gương những nhà học thức không thể nào đền trả quê hương những đóng góp lầm lẫn của mình,tôi thành khẩn xin những nhân sĩ trong và ngoài nước sớm cùng nhau, mở ra một lối thoát an lành cho dân tộc. Quyền lợi và danh vọng không thể coi trọng hơn dân tộc, và đất nước của chúng ta, có tự do, có dân chủ là chúng ta có tất cả.
Giới Trí thức và nhân sĩ (trong nước và từ nước ngoài về) tự thấy thân phận của mình bắt đầu từ khi đảng CSVN công khai và nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, bắt đầu bằng cải cách ruộng đất và tiếp đó là "chống bè lũ Nhân văn - Giai phẩm". Dù là thủ trưởng một cơ quan, nhưng họ bắt đầu nể sợ những người dưới quyền nếu đó là đảng viên. Để khỏi bị coi là mê muội, gần đây tôi có tìm đọc về CCRĐ và Nhân văn-giai phẩm, nên cũng sáng ra nhiều điều.
Ông Nguyễn Khắc Viện về nước khi đảng đã hoàn toàn độc quyền. Chính ông thấy đảng ta giải tán hai đảng (bù nhìn) Xã Hội và Dân Chủ. Ông là thầy thuốc nhưng lại quan tâm hoạt động văn hoá, xã hội và do nhiệt tâm và cương trực của người trí thức chân chính, ông đã không thể im lặng trước những chướng tai gai mắt. Trước kia, ông cố kiềm chế khi phát biểu trên báo, nhưng ngày càng mạnh dạn hơn (nhất là khi Liên Xô cải tổ). Dù thành tâm muốn đổi mới theo chiều hướng xã hội cởi mở, ông vẫn là nạn nhân của sự độc tài.
Cụ Nguyễn mạnh Tường và cụ Trần Đức Thảo tuy về nước rất sớm (trước cụ Viện) nhưng cũng bị phê phán (y như đấu tố) nặng nề vì giữ vững quan điểm. Họ gặp nạn bắt nguồn từ CCRĐ và Nhân Văn- Giai Phẩm. Do bài này của BBC, tôi sẽ tìm hiểu thêm về các vị, ngoài những điều cha tôi nói cho biết. Tôi mong các vị cao niên nói rõ hơn và mong các bạn trẻ thận trọng phát biểu về các vị nhất là khi chưa hiểu chính xác về họ.