Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label DSBoDangVC2013. Show all posts
Showing posts with label DSBoDangVC2013. Show all posts

Thursday, 19 December 2013

TIẾN SĨ RAU MUỐNG , BÈO HOA DÂU NẦY ĐÃ BỎ ĐẢNG MÀ CÒN ĐỂ Ý ĐẾN VIỆC KIỂM ĐIỂM CỦA VIỆT CỘNG - CHỪNG NÀO MỚI HẾT NGỦ MÊ ĐÂY PHẠM CHÍ DŨNG./- Mt68

TS Phạm Chí Dũng : Đảng VC làm sao có thể “hạ cánh chui vô lăng hồ chí phèo”?

Đôi lời : Sáng nay 18/12/2013, một cuộc « đấu tố » đã diễn ra đối với Tiến sĩ Phạm Chí Dũng – người đã viết Tâm thư từ bỏ đảng, tại Viện Nghiên cứu Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh, nơi anh làm việc. Trước đó, Đảng ủy Viện và Đảng ủy cấp trên đã cố gắng vận động anh rút đơn « ở lại trong đảng để đấu tranh » nhưng không thành công, nên đã chỉ thị cho các đảng viên « đấu tố » anh. Tuy nhiên có đến 60% đảng viên không đồng ý khai trừ đảng TS Phạm Chí Dũng !
Xin phép được giới thiệu đến bạn đọc bài viết của Tiến sĩ Phạm Chí Dũng về sự kiện này :
Cuộc họp kiểm điểm tôi xảy đến vào buổi sáng ngày 18/12/2013, hai tuần sau khi tôi viết Tâm thư t b đng và đơn xin ra đảng, được đảng ủy Viện Nghiên cứu Phát triển – một cơ quan trực thuộc Ủy ban Nhân dân TP.HCM nhưng chịu sự lãnh đạo của Đảng ủy khối dân chính đảng – triệu tập như một hội nghị bất thường.
Vào buổi sáng này, thời tiết Sài Gòn lại se lạnh bất thường không kém và là một trong những ngày đẹp nhất trong năm để kỷ niệm Chúa Giêsu ra đời. Không biết có phải vì cảm hứng đột ngột đó hay không mà ông Phan Xuân Biên, nguyên trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, một đảng viên cao cấp cùng sinh hoạt trong đảng ủy Viện Nghiên cứu Phát triển, đã mở đầu cuộc “đấu tố” tôi bằng đánh giá cho rằng bức tâm tư từ bỏ đảng mà tôi đã “phát tán” lên mạng Internet và báo đài phương Tây là “lăng nhăng lít nhít”. Tất nhiên, ngay sau đó tôi đã phải đề nghị vị đảng viên có bình phẩm bất thường đó càng cần phát biểu có văn hóa hơn, nhất là khi không còn giữ chức trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy, đúng với mặt bằng văn hóa tối thiểu về góp ý và dân chủ cơ sở trong đảng.
Một chi tiết đáng chú ý liên quan đến văn hóa phản biện trong đảng là chi bộ nơi tôi sinh hoạt đã nêu ra một “gợi ý” để tôi làm bản kiểm điểm, là hành động tán phát tâm thư từ bỏ đảng và đơn xin ra đảng của tôi đã vi phạm điều lệ đảng và quyết định số 47 của trung ương về 19 điều đảng viên không được làm. Trong đó có những nội dung “Nói, làm trái hoc không thc hin cương lĩnh chính trđiu l đng, ngh quyết, ch th, quy đnh, quyếđnh, kết lun cđng, và “…tuyên truyn, tán phát thông tin, tài liu dưới mi hình thđ truyn bá nhng quan đim trái vđường li cđng, pháp lut ca nhà nước.
Sự hiện diện không tránh khỏi của hai cơ quan Đảng ủy khối dân chính đảng và Ủy ban Kiểm tra Thành ủy trong cuộc họp này cũng như  cuộc họp trước đó với tôi đã không thể tránh cho tôi cảm giác về một sự hiện diện khác, tuy không lộ diện, của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, đối với toàn bộ chỉ đạo về quy trình tổ chức kiểm điểm và có thể khai trừ đảng với tôi.
Khuynh hướng và kỹ thuật tổ chức kiểm điểm đối với tôi cũng khiến tôi nhớ lại trường hợp của đại tá, nhà văn quân đội Phạm Đình Trọng. Vào năm 2009, ông Phạm Đình Trọng làm đơn xin ra khỏi đảng. Tuy nhiên người ta đã tổ chức “đấu tố” ông ở địa phương, để 5 tháng sau ông phải nhận quyết định khai trừ đảng. Mục đích của giới cấp ủy là người bỏ đảng phải bị mất danh dự và răn đe các đảng viên khác không được bỏ đảng theo.
Có nghĩa là mặc dù theo điều lệ đảng thì việc xin vào đảng và xin ra đảng là hoàn toàn bình thường, nhiều cấp ủy đảng vẫn sẵn sàng coi hành động ra đảng là bất thường. Họ sẵn sàng quy chụp về thái độ chính trị, kể cả thái độ và hành vi “chống đảng”, và thay vì cho người xin ra đảng “hạ cánh mềm”, họ bắt buộc những người này phải “hạ cánh cứng”.
Tôi tự hỏi với lối tư duy và hành xử vẫn quá nặng về độc đoán và áp đặt như thế, liệu đảng có thể “hạ cánh mềm” trước sự phẫn nộ rất có thể xảy ra của dân chúng trong 4 hay 5 năm tới?
Cũng như với ông Phạm Đình Trọng, tổ chức đảng Viện Nghiên cứu Phát triển tìm cách thuyết phục tôi “tiếp t trong đngđ có đu tranh vi các hin tượng tiêu cc, hoặc nhắc lại “lời thề” của tôi khi xin vào đảng. Nhưng khi nhận ra quyết định ra đảng của tôi là không thể thay đổi, một số ý kiến khác đã cho rằng tôi phủ nhận tất cả thành tựu của Đảng Cộng sản Việt Nam và ít nhất tôi đã vi phạm điều lệ đảng khi tán phát đơn xin ra đảng lên mạng Internet.
Còn với tôi, đã đến lúc phải bày tỏ quan điểm tách bạch và kiên quyết hơn đối với thái độ quy chụp chính trị của các cơ quan đảng tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tôi đã thề trung thành với Đảng khi xin vào, nhưng lời thề đó chỉ còn giá trị một khi Đảng vẫn còn trung thành với những người đã sinh ra đảng và đóng thuế cho giới quan chức đảng sinh nhai và ngự trị trên cái ghế dán nhãn “lãnh đạo toàn diện”. Chứ không phải như hình ảnh hiện thân đầy rẫy và tàn bạo của các nhóm lợi ích trong đảng như ngày nay, với một bản Hiến pháp 2013 phản bác lại mọi phản biện của đại đa số nhân dân. Và vì thế, lời thề duy nhất còn lại với một người từng là sĩ quan quân đội và bảo vệ an ninh như tôi chỉ là “trung vi nước, hiếu vi dân.
Cũng vì thế, trong bản giải trình tôi đã nêu rõ:
 “Trong trường hp Thành y, Đng y khi Dân chính đng, y ban Kim tra Thành y và Đng y Vin Nghiên cu Phát trin vn bo lưu quan đim cho rng tôi vi phđiu l đng, tôi buc lòng phi bo lưu quyn công dâđược khiếu ni ti các cp thm quyn và quyn thông tin trên các phương tin thông tin đi chúng trong nước và quc tế.
Thâm tâm tôi không hề ngạc nhiên về những động thái mà tổ chức đảng đã áp đặt có chủ ý đối với tôi, bởi đơn giản là tôi không sai trong toàn bộ các bài viết và phát ngôn về cái thực trạng khó có lối thoát của Đảng Cộng sản hiện nay. Nếu Đảng không tự thay đổi bằng cách tự làm sạch mình và ngó ngàng tới dân chúng, người nghèo nhiều hơn, không chấp nhận những tiếng nói và chính kiến đa chiều, trái chiều, Đảng sẽ bị chính dân chúng phủ nhận và thay đổi trong không bao lâu nữa.
Tâm tư này không chỉ là của tôi, mà còn thuộc về tâm tưởng của rất nhiều đảng viên khác – những người đương chức trong khu vực nhà nước, lực lượng vũ trang và giới đảng viên hưu trí.
Có lẽ vì tính phổ biến của tâm tư ấy mà đã phát sinh một chi tiết đáng lưu tâm không kém trong cuộc họp kỷ luật tôi: chỉ có khoảng 40% đảng viên có mặt bỏ phiếu khai trừ đảng (10/24 người), trong khi khoảng 60% còn lại bỏ phiếu mức độ khiển trách, cảnh cáo đảng và không bỏ phiếu. Trong khi trước cuộc họp xét kỷ luật này, một số người quen của tôi nhận định rằng với bức tâm thư từ bỏ đảng được “tán phát” lên mạng của tôi, đó là một “tội” rất nặng trong con mắt của Đảng và chắc chắn đảng ủy, chi bộ nơi tôi sinh hoạt sẽ phải chịu sức ép rất lớn để có được 100% hoặc gần như thế phiếu khai trừ đảng tôi.
60% không đồng ý khai trừ đảng có lẽ cũng là một tỉ lệ xã hội học đảng viên đáng quan tâm trong hiện tình tư tưởng ngổn ngang của đảng viên hiện thời. Tỉ lệ này cho thấy những đánh giá gần đây về khả năng có đến 60-80% đảng viên ở vào thế “trung lập” hoặc có nhận thức và hành động tiến bộ là có cơ sở. Tỉ lệ này lại hoàn toàn trái ngược với một tỉ lệ khác – khoảng 20% số đảng viên bị gắn bó quá hữu cơ bởi các quyền lợi và chức vụ, hoặc là những người theo quan điểm “còn đảng còn mình” như một triết lý dân gian đương đại.
Tôi cũng tự hỏi là với tỉ lệ mang tính “cách mạng” đang trở thành một xu thế không thể đảo ngược ngay trong nội bộ đảng như thế, một hệ quả mà hoàn toàn có thể dẫn đến một làn sóng thoái đảng và bỏ đảng công khai trong những năm tới, Đảng sẽ làm sao có thể “hạ cánh mềm” nếu họ không tự thay đổi, và hơn nữa phải “thay máu” một cách ghê gớm. Mà thời gian để tự đổi thay lại không còn nhiều, chỉ có thể được tính theo năm

Saturday, 7 December 2013

CHUYỆN CÒ MỒI DỄ CƯỜI - KHI KHỎE MẠNH THÌ SẴN SÀNG THI HÀNH LỆNH GIẾT NGƯỜI CƯỚP CỦA - NHƯNG KHI SẮP CHẾT THÌ LẠI THỀU THÀO BỎ ĐẢNG - GIỠN HÒAI KHÔNG THẤY NHỘT SAO ??? ./- Mt68

NO-U SÀI GÒN HỘI NGỘ THÚ VỊ KHI THĂM BÁC LÊ HIẾU ĐẰNG

 Huỳnh Công Thuận

3 người trên giường là 3 người đã công khai tuyên bố bỏ đảng CSVN

Chiều nay 7/12/2013 đại diện anh em No-U SG đến thăm bác Lê Hiếu Đằng gồm có tôi (Huỳnh Công Thuận) Nguyễn Hoàng Vi (An Đổ Nguyễn), Nguyễn Nữ Phương Dung (Miu Mạnh Mẽ), Lê Doãn Cường (Cuong Ledoan) cùng một em SV, ngoài ra còn có anh Tâm Kế và anh Hổ từ Vũng Tàu mới vào Sài Gòn.

Như chúng ta biết liên tục trong 3 ngày vừa qua 4/12 - 5/12 và 6/12/2013 có 3 nhân sĩ trí thức Sài Gòn công khai tuyên bố rời bỏ đảng CSVN. Điều đặc biệt là cuộc hội ngộ bất ngờ thú vị đã xảy ra khi anh em No-U SG chúng tôi đến thăm bác Lê Hiếu Đằng đã được diện kiến cả 3 người này:

- Bác Lê Hiếu Đằng công khai tuyên bố bỏ đảng CSVN ngày 4/12/2013.

- Nhà báo TS Phạm Chí Dũng tuyên bố ngày 5/12/2013.

- Và Bác sĩ Nguyễn Đắc Diên tuyên bố ngày 6/12/2013.

CHỜ XEM CHUYỆN BỎ ĐẢNG CÒ MỒI SẼ CÒ MỒI ĐỀN ĐÂU ?

“VÀO BĂNG, RA ĐẢNG”: CHUYỆN CHẲNG CÓ GÌ MÀ ẦM Ĩ!
-Lão Móc -
Phải công nhận Việt Cộng và bọn tay sai có khả năng làm ầm ĩ chuyện ruồi bu là chuyện “Lập đảng mới để phá xiềng” của 2 tên “VC nằm vùng” Lê Hiếu Đằng (LHĐ) và Hồ Ngọc Nhuận (HNN).
Qua bài “Chưa hát mà đã vãn tuồng (Bài 2)”, người Việt tỵ nạn cộng sản đã nghe bà Mỹ Linh, đảng viên đảng Việt Tân, dạy dỗ về dân chủ. Trong bài viết này, xin mời độc giả nghe ý kiến của ông Bùi Tín, “ một nhà phản đảng có lai-sân” về sự kiện LHĐ:
“Vâng, tôi thấy lời kêu gọi của ông LHĐ đã có những tiếng vang kịp thời, chẳng phải tiếng bùng nổ gì ghê gớm, nhưng cũng làm cho công luận trong nước cũng như ngoài nước sôi nổi hẳn lên. Do đó, tôi nghĩ lời kêu gọi đó nó cũng đưa ra đúng lúc, đúng nhu cầu của tình thế, nên được đáp ứng rộng rãi như thế. Không phải chỉ ở trong nước, mà ở ngoài nước, không phải chỉ là một số đảng viên đảng Cộng Sản hiện nay, mà có cả thanh niên CS, có cả những người trí thức, đặc biệt có một số bạn trẻ đã lên tiếng. Có những bạn trẻ tuổi có những ý kiến rất là xác đáng, mà tôi cho rằng cũng rất là già dặn, chứng tỏ các tầng lớp xã hội đều có quan tâm và đều thấy lời kêu gọi của ông LHĐ là một lời kêu gọi đã đưa ra đúng lúc, gần với thời cơ mà có thể đi đến thành lập một số tổ chức đảng phái mới.” (Trích talk show Nhà báo Bùi Tín 25-8-2013: Sự kiện LHĐ).
Và sau đây là ý kiến của tác giả Vũ Đông Hà (mà trên diễn đàn điện tử có người cho biết ông Vũ Đông Hà này là Huỳnh Ngọc Phước tức Phillip Huỳnh, một đảng viên Việt Tân ở Texas, là người điều hành trang báo điện tử “Dân Làm Báo”) đã viết như sau:
“Cựu Tổng bí thư CS Liên Xô Gorbachev: ‘Tôi đã bỏ 1/2 cuộc đời cho lý tưởng cộng sản, nhưng ngày hôm nay tôi đau buồn mà nói rằng: Đảng CS chỉ biết tuyên truyền dối trá.’
Nếu không dối trá cả 1/2 cuộc đời thì bản thân Gorbachev đừng hòng leo lên chức Tổng Bí Thư trong guồng máy đầy dối trá. Và đừng nói ông ta đã không góp phần vào những tội ác của đảng CS Xô Viết.
Cựu Tổng Thống Nga Boris Yeltsin: ‘CS không thể thay đổi, tự sửa chữa mà phải thay thế, loại bỏ chúng’.
Chính Yeltsin đã tự phủ nhận, tự làm sai câu nói của ông: ông đã thay đổi.
Chẳng ai tin hai trùm sò CS, leo lên tận đỉnh cao quyền lực của một tập đoàn gây ra bao nhiêu tội ác cho đến những ngày lá cờ đỏ được kéo xuống ở điện Kremlin.’
Ngày hôm nay người ta tin vào hai nhân vật đầu sỏ của đảng CS Xô Viết đã góp phần thay đổi bộ mặt chính trị của toàn thế giới bằng hành động sau cùng của họ.(do Lão Móc gạch đít)” (Từ Phương Uyên đến Lê Hiếu Đằng: 2 thế hệ trắng và xám - Vũ Đông Hà).   
Qua 2 trích dẫn trên, cho thấy cả hai ông Bùi Tín lẫn Vũ Đông Hà đã ca tụng việc kêu gọi “lập đảng” của LHĐ là đúng lúc và được so sánh với… hành động sau cùng của 2 trùm cộng sản là Gorbachev và Boris Yeltsin!
Tiếc thay khi vở tuồng “Lập đảng mới để phá xiềng” hạ màn thì anh “kép độc” Tấn Tài (LHĐ) lại tự mình biến thành “danh hề”Văn Hường!
Kế tới vở tuồng “Lăng Hiếu Đề bảng đỏ sang giàu” (tức “Lê Hiếu Đằng bỏ đảng sao vàng”) thì anh “kép nhựt” LHĐ này lại trở thành “anh hề xã hội chủ nghĩa” Hoài Linh không hơn, không kém!
Như mọi người đều biết, đảng CSVN đã gây ra 3 cuộc chiến tranh từ 1946 đền 1988, trên 3 triệu người chết và còn tạo ra mối hận thù dân tộc khiến đất nước tụt hậu nặng nề, đạo đức suy đồi, xã hội đảo điên, nhân quyền bị chà đạp và hậu quả đất nước ngày càng bị lệ thuộc vào Trung Cộng.
Và những chuyện này, mọi người đều biết; nhưng với ông “luật gia” LHĐ, “tên VC nằm vùng” đã tiếp tay với VC cưỡng chiếm miền Nam và cai trị đất nước Việt Nam như một đoàn quân ngoại nhập suốt 38 năm qua, tới ngày 4-12 năm 2013, ông luật gia LHĐ này mới hô hoán lên là “Đảng CSVN bây giờ không còn như trước nữa”. Và ông ta giải thích cái đảng CSVN mắc dịch, mắc toi của ông ta cách đây 38 năm là “đấu tranh giải phóng dân tộc!”
Không biết 38 năm nay ông LHĐ chui rúc ở những hang hóc nào mà không nghe lời hát: “Anh giải phóng tôi hay tôi giải phóng anh?!”
Đấu tranh “giải phóng dân tộc” hay là đấu tranh để “lúc chui háng Tàu, lúc rụi vào hậu môn Liên Xô?”
Chuyện khôi hài nhất trong vụ “Lăng Hiếu Đề bảng đỏ” là chuyện ông bác sĩ nha khoa Nguyễn Đắc Diên sau đó cũng lên tiếng ăn theo… bỏ đảng!
Theo lời khoe mẽ của “ông bác sĩ nhổ răng” này thì ông ta “xuất thân trong một gia đình có truyền thống chống các kiểu thực dân và áp bức, sau 1954 tuy sống ở đô thị miền Nam nhưng gia đình tôi là cơ sở Cách Mạng nội thành, đã được tặng thưởng Huân Chương Kháng Chiến Hạng nhất…” 
Đọc lời khoe mẽ của “thằng VC nằm vùng” mà ứa gan!
Thằng “bác sĩ nhổ răng” có thành tích nằm vùng này làm chuyện bỏ đảng ăn theo thằng “sinh viên nằm vùng” LHĐ thì đúng là chuyện “đồng loại thì tìm đến nhau”! Nhưng thằng “bác sĩ nhổ răng” này là thằng thuộc loại “vừa chơi, vừa run”. Đọc hàng chữ sau cùng của cái thằng “bác sĩ đầu ruồi” này nghe mà bắt tức cười:
“Nhưng rồi có thể một ngày nào đó, khi Đảng thực sự hoàn lương, nắm vững ngọn cờ dân tộc, vứt bỏ ngọn cờ Chủ Nghĩa Xã Hội, tôi lại phấn đấu xin vào Đảng.” 
[Đề nghị Đ/c Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng ra lệnh cho công an bắt thằng “bác sĩ nhổ răng” Nguyễn Đắc Diên này đem đi tù cải tạo cho đến “mút mùa lệ thủy” vì nó đã dám ví Đảng ta như là bọn đĩ trong khi Đảng ta chính là Tú Bà, là chủ Nhà Chứa Vĩ Đại! Người đề nghị: Lão Móc, Cố vấn Báo chí Truyền Thông Hải Ngoại của Thủ Tướng Chính Phủ Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa].
*
Thực ra chuyện “Vào băng, ra Đảng” là chuyện xưa từ 20 năm trước.
Ông “phản đảng cò mồi” Bùi Tín thì trong hơn 20 năm qua cũng đã giúp được Đảng “khua chiêng, gióng trống” khi có việc cần. Mấy năm trước, ông này có được ông cựu luật sư Ngô Văn Quang mời qua San José “quậy” cũng rất ư là “nổi bèo nổi bọt”. Ông “phản đảng có lai-sân” này thì cũng đã “có tiếng nói cho VC” trên đài VOA, lại được các trang mạng của phe ta và “đảng đàn em” tìm mọi cách “lăng-xê”.
Cách đây cũng 20 năm, bà nhà văn Dương Thu Hương cũng đã lên tiếng “bỏ đảng”; một vài nhà văn, nhà phê bình ở hải ngoại cố “vơ vào” thì bà này công khai lên tiếng là bà ta bỏ Đảng VC; nhưng bà ta cũng không theo… “phe Quốc Gia”, khiến nhiều người đã phải tẽn tò!
Bài học cay đắng nhất là chuyện “ông phản Đảng” Nguyễn Hộ. Ông này viết hẳn quyển sách “Quan Điểm và Cuộc Sống”, ông lên tiếng thề… “sống chết với đảng CSVN” ở ngôi nhà ở đường Trần Quốc Thảo (?) ở Sàigòn. Thấy… “ngon sơi”, anh kỹ sư bắt “Tổ quốc ăn năn” Nguyễn Gia Kiểng ở Paris và “Tiến sĩ Khai Thuế” Nguyễn Bá Long ở Canada bèn “suy tôn” tên “hung thần” Nguyễn Hộ, kẻ đã tuyên bố câu nói vô cùng bạc ác, bất nhân: “Nhà cửa của  ngụy thì ta ở, vợ của ngụy thì ta xài, con của ngụy thì ta sai, còn ngụy thì ta đày chúng lên vùng rừng thiêng, nước độc!” lên làm… minh chủ! Từ trong nước, tên hung thần này được cố Thủ Tướng VC Võ Văn Kiệt ban cho chút quyền lợi cuối đời bèn viết thư ra  hải ngoại “ị” lên đầu 2 anh “trí thức đầu ruồi” Nguyễn Gia Kiểng, Nguyễn Bá Long cả “một container cứt”, khiến cho đến nay cả hai anh “trí thức đầu ruồi” này chẳng có cách nào mà ngóc đầu lên nỗi! 
Bài học “bỏ đảng, bảng đỏ” sờ sờ ra đó, vậy mà vừa thấy tên hề LHĐ “rặn” ra chuyện “bỏ đảng” vì bị bệnh ung thư tiền liệt tuyến đã  tới thời kỳ  cuối (như cụ Hoàng Minh Chính trước đây) là một vài vị tự xưng là “tranh đấu” đã xúm nhau vào mà hít hít, ngửi ngửi!  Lại có những kẻ đi ca tụng việc lên tiếng “lập Đảng” của tên “hề hết biết” LHĐ là cứ như  là “những việc làm sau cùng của Gorbachev, Boris Yeltsin”.  Thật là chả ra làm sao cả! 
*
“Từ trong đảng cướp chui ra  
Khai rằng đảng cướp xưa là chân tu
Riêng tôi, tiền kiếp nhân từ
Hăng say theo cướp từng như nhập thiền
Giật mình thấy cướp nhiều tiền
Mà tôi thì bị lãng quên chia phần
Nên tôi bỏ đảng theo dân
Coi như phản tỉnh để nên anh hùng!”
Xin mượn bài thơ “Vào băng, ra đảng” của nhà thơ SR để kết thúc bài viết này.
LÃO MÓC 
tieng-dan-weekly.blogspot.com

NẾU SỰ THẬT TRONG ĐẢNG VIỆT CỘNG CÒN CÓ NHỮNG NGƯỜI TỬ TẾ - THÌ CHỈ CẦN MỘT CẤP CHỈ HUY NẮM CỠ VÀI TIỂU ĐÒAN LÀ CÓ THỂ BAO VÂY VÀ TIÊU DIỆT CÁC LÃNH ĐẠO VIỆT CỘNG LÀ GIẢI CỨU DÂN CHỦ CHO VIỆT NAM ĐỰOC NGAY./- Mt68

Thế nào là phản bội? Ai phản bội?


Trần Ngọc Thành
Đôi lời gửi tới những đảng viên đảng cộng sản Việt Nam,

Thưa các bác, các anh chị, các bạn,

Tôi cũng từng là đảng viên, từng là cán bộ đảng, tôi không có bất cứ hận thù gì cá nhân đối với đảng cộng sản Việt Nam. Những bài viết hay những trao đổi của tôi xuất phát từ trách nhiệm của một công dân, của một người Việt Nam yêu Tổ quốc mình.

Tôi phải vứt thẻ đảng từ năm 1990, khi hiểu rõ thế nào là chủ nghĩa cộng sản và chế độ độc tài cộng sản, khi chứng kiến tận mắt sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản tại Đông Âu và Liên xô.

Trước đó, với trách nhiệm là đảng viên, ngoài những gì nhìn thấy tại Ba Lan, tôi đã qua Praha, Budapest,đã trèo tường Berlin, đã hòa đồng vào sự phấn khởi cua người dân khi xuống đường đòi dân chủ hóa, tôi đã gửi các báo cáo trung thực sự thật tại các nước này đến trung ương đảng cộng sản Việt Nam và đề nghị phải thay đổi vì lợi ích đất nước. Nhưng, thay vì lắng nghe, đảng lại cho tôi là phản động,là kẻ thù của đảng.

Trách nhiệm công dân buộc tôi phải từ bỏ đảng và tranh đấu vì quyền lợi của đất nước.

Khi viết bài này cách đây 6 năm, đăng trên báo giấy Đàn Chim Việt tháng 9 năm 2005, tôi hy vọng rằng đến năm 2010 Tổ quốc Việt Nam thân yêu của chúng ta sẽ sánh vai cùng các nước dân chủ.

Nhưng, 6 năm sau, chế độ độc tài tại Việt Nam càng tồi tệ hơn. Số lượng đảng viện cộng sản 6 năm trước trên 2 triệu và bây giờ trên 3 triệu.

Nghèo đói, tụt hậu, đạo đức suy đồi, mất nước, nô lệ không còn là nguy cơ mà nó đang trở thành hiện thực trên đất nước Việt Nam.

Vì ai? Do ai? Làm thế nào?

Tôi lại gửi những dòng suy nghĩ này từ 6 năm trước đến các đảng viên đảng cộng sản Việt Nam.

Thế nào là phản bội? Ai phản bội?

* Tác giả Trần Ngọc Thành (Ảnh : GW-Bến Việt) 

Những ngày qua, nhân dân Ba Lan tưng bừng kỉ nịêm 25 năm ngày thành lâp ”Cộng Đoàn Đoàn Kết”. Tại các cuộc mít tinh trong cả nước với sự tham gia của hàng triệu người, niềm tự hào biểu hiện trên nét mặt của mỗi người dân. Trong số họ, hàng vạn người từng là đảng viên cộng sản. Họ đã làm nên kỳ tích có một không hai: Đập tan chủ nghĩa cộng sản ở Ba Lan, tạo nên một phản ứng dây chuyền, đưa chủ nghĩa cộng sản ở châu Âu và Liên Xô xuống ngôi mộ của lịch sử. Cái lí tưởng cộng sản họ từng ấp ủ, từng theo đuổi, từng phấn đấu với ước mong xây dựng một tương lai, một xã hội tốt đẹp hơn trở thành sự lố bịch, nực cười trong câu chuyện vê`quá khứ của họ.

Sự vui mừng và mãn nguyện cũng thể hiện rõ trên khuôn mặt của nhà cựu lãnh đạo cộng sản trẻ tuổi đầy tài năng, ngoài 30 tuổi đã là Bộ trưởng Bộ Thanh niên và thể thao trong chế độ cộng sản, hôm nay, hai nhiệm kỳ liên tiếp là Tổng Thống nước Ba Lan dân chủ, ông Aleksander Kwasniewski.

Khi đang là Bộ trưởng của chế độ cộng sản, ông đã từng ủng hộ việc thỏa hiệp với “Công Đoàn Đoàn Kết”, là một trong những người đưa ra sáng kiến về “Hội Nghị Bàn Tròn”, từng bước trao quyền lãnh đạo đất nước cho những nhà đấu tranh dân chủ. Cũng con người này, Tổng thống Aleksander Kwasniewski đã kí vào Hiến pháp nước Cộng hòa Ba Lan, trong đó có điều khoản cấm tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản, đặt chủ nghĩa cộng sản ngang tầm nguy hiểm với chủ nghĩa Nazi và chủ nghĩa phát xít. Chế độ dân chủ đã không phụ lòng ông, sau một nhiệm kỳ do Lech Walesa, thủ lĩnh “Công Đoàn Đoàn Kết” làm Tổng thống, ông được bầu liên tiếp hai nhiệm kỳ, là người lãnh đạo cao nhất nước Ba Lan dân chủ khi tuổi mới 43.

Nước Ba Lan lúc đó có trên một triệu đảng viên, các nước khác như Tiệp khắc, Hungari, Cộng hòa Dân chủ Đức,…số đảng viên cũng hàng triệu người. Họ có trong tay toàn bộ sức mạnh của bạo lực: súng đạn, trường bắn, nhà tù, công an, quân đội, lực lượng quân sự hùng mạnh của khối “Hiệp ước Vacxôvi”. Tại sao họ lại thua những nhà đấu tranh dân chủ trong tay không một tấc sắt?

Bởi vì, lẽ phải thuộc về những nhà tranh đấu, thuộc về đa số những người dân binh dị..

Hàng chục năm phấn đấu cho lí tưởng cộng sản, ra sức đàn áp, bỏ tù, bắn giết những người phản kháng, cuối cùng họ đã nhận ra: Họ đã bỏ công sức, mồ hôi và xương máu của đồng bào cho một mục đích không tưởng, họ đă biết dừng lại kịp thời.

Nước Liên Xô cũng vậy. Hàng chục triệu đảng viên, ngục tù và sức mạnh đàn áp không nơi nào sánh kịp. Nhưng, tinh thần dân chủ đã phá tan tành chế độ cộng sản độc tài Xô viết . Ông Gorbachov có ngu không? Hàng chục triệu đảng viên cộng sản Liên Xô có ngu không? Hàng ngũ trí thức với hàng chục vạn người, các nhà bác học, bác sĩ, tiến sĩ, kỹ sư… phần lớn là đảng viên cộng sản, trí tuệ và khả năng tư duy của họ hơn hẳn những người dân thường, vị trí quyền lực và quyền lợi vật chất luôn luôn được ưu tiên. Nhưng tại sao họ lại nghe theo đám thiểu số, những nhà đấu tranh dân chủ? Vì họ có lòng tự trọng, có lương tâm và lòng dũng cảm: Dũng cảm chiến thắng quá khứ, dũng cảm chiến thắng bản thân mình. “ Bài ca Tháng Mười” mà họ bắt buộc phải ca suốt 70 năm đã làm họ tỉnh ngộ. Ý thức vì dân tộc đã chiến thắng quyền lợi đảng phái, quyền lợi cá nhân. Họ đă nhận ra rằng: Tổ quốc, dân tộc không đồng nghĩa với đảng cộng sản, trái lại đảng cộng sản càng giàu càng mạnh thì dân càng đói khổ, đất nước càng điêu linh, tệ nạn xă hội càng phát triển,… Lòng tự hào dân tộc đã thức tỉnh họ…

Tôi đã tham dư hội thảo, tham dự mít tinh kỷ niệm 25 năm ngày thành lập “Công Đoàn Đoàn Kết”, nói chuyện với nhiều cựu đảng viên cộng sản, nhưng không dám nêu ra câu hỏi: “ Nếu đất nước Balan quay lại thời kỳ cộng sản ông có thích không?”... Với họ, câu hỏi đó là một điều sỉ nhục.

Nhớ lại những ngày này cách đây 25 năm, khi người thợ điện Lech Walesa trở thành lãnh tụ của “Công Đoàn Đoàn Kết”, tại Việt Nam tất cả các hệ thống tuyên truyền của đảng đều lên án Walesa và các bạn ông là tay sai của đế quốc, là công cụ của CIA. Năm 1989, khi những nhà lãnh đạo “Công Đoàn Đoàn Kết” được nhân dân bầu vào vị trí lãnh đạo đất nước, đảng cộng sản Việt Nam đã tổ chức biểu tình rầm rộ trước Đại sứ quán Ba Lan tại Hà Nội, do bà Nguyễn Thị Định ủy viên trung ương đảng dẫn đầu: ”Đả đảo Công Đoàn Đoàn Kết”, "Ủng hộ nhân dân Ba Lan ", "Nước Ba Lan mất rồi” !... Ông Đại sứ Ba Lan lúc đó sửng sốt: Ủng hộ nhân dân Ba Lan nào? Nước Ba Lan nào mất? Khi Liên Xô sụp đổ, những người lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam lại kết tội Gorbachow là kẻ phản bội, những người cộng sản Liên Xô và Đông Âu là kẻ phản bội, buộc tội họ phá tan thành quả “70 năm cách mạng tháng Mười”. Cho đến nay, họ vẫn tuyên truyền và đe dọa nhân dân Việt Nam: Dân chủ là loạn, đa nguyên là loạn, dù họ biết rõ rằng “thành quả cách mạng tháng 10” đă mang chiến tranh, đói nghèo và tụt hậu cho dân tộc Việt Nam.

Thật là trớ trêu: chủ nghĩa cộng sản lấy giai cấp công nhân làm nền tảng, làm chỗ dựa vững chắc, thì chính giai cấp công nhân lại là kẻ đào mồ chôn Chủ nghĩa Cộng sản. Chủ nghĩa Cộng sản coi Chủ nghĩa Tư bản là kẻ thù thì giai cấp công nhân lại đấu tranh để được đi theo Chủ nghĩa Tư bản.

Những ngày này tại Quê hương, đảng Cộng sản đang tổ chức kỷ niệm linh đình “60 năm nước Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa”. Khi chủ nghĩa cộng sản đã lùi vào dĩ vãng ở các nước từng là đàn anh của Việt Nam thì “ Bài ca Tháng 8”, “Chủ nghĩa Mác Lênin”, “tư tưởng Hồ Chí Minh” vẫn là món ăn bắt buộc hàng ngày đối với 80 triệu người Việt Nam.

Thực tại đất nước Việt Nam ra sao, vị thế nào của Việt Nam hiện nay so với thế giới, những người cộng sản Việt Nam đặc biệt là những người lãnh đạo biết rất rõ. Dù quyền lợi vật chất chỉ do một phần cán bộ lãnh đạo có chức quyền trong số 2 triệu đảng viên vơ vét, đa số đảng viên cộng sản trung thực vẫn làm ngơ. Cái ác, cái bất công, cái khốn nạn, sự ăn gian nói dối, mua chức, bán quyền, đổi trắng thay đen, tham nhũng, hối lộ diễn ra hàng ngày, mọi lúc mọi nơi, làm băng hoại nền văn hóa của dân tộc, nhưng họ vẫn cúi đầu nhắm mắt. Tai sao?

Cái mặc cảm “phản bội” đảng, “phản bội” lí tưởng cộng sản ám ảnh họ. Khi vào đảng họ phải tuyên thệ: Suốt đời trung thành với đảng, trung thành với lí tưởng cộng sản, “lời tuyên thệ” như một “vòng kim cô” chụp lên đầu những người đảng viên cộng sản Việt Nam trung thực, dù rằng cái lí tưởng đó đã hiện nguyên hình là cái bánh vẽ, cái lí tưởng đó chỉ là cái bình phong che đậy những thối nát, mục ruỗng và đểu cáng. Họ là nạn nhân của sự dối trá, của những người lãnh đạo gian manh, nhưng không dám lên tiếng, không dám đấu tranh vì sợ mang hai tiếng “phản bội”.

Những người lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam bắt các đảng viên của họ và nhân dân phải tin rằng: Đảng là Dân tộc, đảng là Tổ quốc, chống đảng tức là chống Dân tộc, phản bội đảng tức là phản bội Tổ quốc. 60 năm cộng hòa xã hội chủ nghĩa, học theo cách tuyên truyền của Gơben ( bộ trưởng tuyên truyền Đức quốc xã), phương pháp đàn áp kiểu Stalin, kiểu Mao Trạch Đông, những người lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam đã thành công: Biến những người cộng sản Việt Nam trung thực, dũng cảm trong chiến tranh thành những con người nhu nhược. Sự khác biệt của những người cộng sản châu Âu và những người cộng sản Việt Nam ở chỗ đó.

Những người cộng sản châu Âu coi Tổ quốc, Dân tộc là trên hết, đảng dù là của họ nhưng không phải là Tổ quốc, không phải là Dân tộc. Khi quyền lợi của Dân tộc bị đảng của họ làm tổn hại thì họ sẵn sàng “phản bội” lại đảng để bảo vệ quyền lợi Dân tộc, mang lại vinh quang cho Dân tộc. Họ chỉ có mặc cảm tội lỗi là vì đảng cộng sản, vì lí tưởng mà họ tôn thờ đã đưa Đất nước đến chỗ nghèo đói, mặc cảm tội lỗi đã làm cho họ có hành động dứt khoát: Từ bỏ chế độ độc tài, đồng ý cùng nhân dân xây dựng một nền dân chủ. Sự “phản bội”, lòng dũng cảm của những người cộng sản châu Âu đă tạo cơ hội cho các cuộc cách mạng dân chủ ở châu Âu thành công nhưng không đổ máu.

Có người đặt câu hỏi: Tại sao trong thời chiến, khi có ngoại xâm người Việt Nam luôn luôn dũng cảm, đoàn kết, nhưng trong thời bình thì nhu nhược, hèn nhát, chia rẽ? Bởi vì, khi bị xâm lăng, toàn dân chỉ có một kẻ thù, nếu không đánh bại được thì nguy cơ đến với mỗi gia đình, mỗi cá nhân. Mỗi người dân hiểu được điều đó nên đã đồng lòng và đoàn kết, khỏi cần phải kêu gọi. Đảng cộng sản Việt Nam biết rõ điều đó và tận dụng điều đó. Trong thời bình, nhận diện kẻ thù, “giặc nội xâm” rất khó. Tham nhũng, quan liêu, ăn cướp, hách dịch, cửa quyền,… vừa hữu hình vừa vô hình; Kẻ thù “nội xâm” có thể là đồng chí, bè bạn, anh em. Những người cộng sản trung thực lại mang nặng tư tưởng phong kiến và nho giáo nên bị những người lãnh đạo lợi dụng, đánh lận con đen, nhập nhằng trong sử dụng ngôn từ.

Toàn bộ bộ máy chuyên chính của đảng cộng sản hiện nay chỉ dùng để đối phó với người dân: Hệ thống công an, an ninh, mật vụ ở mọi cấp, mọi ngành chỉ nhằm mục đích đàn áp người chống đối. Mỗi người dân Việt nam ai cũng biết được thực trạng quân đội và trang bị quân sự của Việt nam yếu kém ra sao. Tham nhũng đă làm mục ruỗng ý chí và sức sống của quân đội. Vì vậy, đối với nước ngoài, những người lãnh đạo đảng cộng sản Việt nam ngoan ngoãn và hèn nhát, nhưng lai thô bạo với người dân của mình. Họ chỉ sợ mất quyền: Quyền sinh, quyền sát, quyền nói láo, quyền tham nhũng,…

May thay, Dân tộc Việt Nam vẫn còn những người con ưu tú, sớm nhận ra sự thật, biết “phản bội” lí tưởng cộng sản của mình, đặt quyền lợi của dân tộc lên trên quyền lợi của đảng, tranh đấu vì lợi ích của nhân dân: Trần Độ, Phạm Quế Dương, Bùi Tín, Bùi Minh Quốc, Dương Thu Hương, Nguyễn Vũ Bình,…Họ đã vứt bỏ được “vòng kim cô” mà đảng quàng lên đầu họ. Những con người dũng cảm đó chắc chắn là tấm gương sáng cho những đảng viên trung thực khác noi theo.

Ở Việt nam, chỉ có những người lãnh đạo đảng cộng sản phản bội lại Dân tộc, còn những đảng viên trung thực khác chỉ là nạn nhân như 80 triệu con dân nước Việt.

Thực tế 15 năm qua ở các nước từng là ”xã hội chủ nghĩa anh em” của Việt Nam cho thấy, chỉ có nền dân chủ mới tạo được nền tảng vững chắc cho Dân tộc phát triển, là điều kiện để từng bước xóa bỏ những bất công và tệ nạn xã hội. Tôi tin tuởng rằng, những người cộng sản trung thực Việt Nam sẽ thức tỉnh, sẽ đứng về phía nhân dân, về phía những nhà đấu tranh dân chủ để phá tan ách độc tài đã đè nặng lên Dân tộc từ 60 năm nay.

Warszawa, 02.09.2005

Trần Ngọc Thành

CHUYỆN BỎ ĐẢNG NẦY HƠI CŨ NHƯNG XIN GHI VÀO DANH SÁCH MỚI CHO RẬM ĐÁM./- Mt68

DANH SÁCH THEO DÕI NHỮNG NGƯỜI TUYÊN BỐ BỎ ĐẢNG VIỆT CỘNG

1- LÊ HIẾU ĐẰNG - Gốc Nằm Vùng Miền Nam

2- PHẠM CHÍ DŨNG - Gốc VC từ mới lớn

3- TUẤN LÊ -LÊ MINH TUẤN - Gốc đồ đệ Nguyễn Đạc Thành - Khen Võ Văn Kiệt và Nguyễn Thanh sơn đầy nhân đạo.

4-Nha sĩ NGUYỄN ĐẮC DIÊN- Gốc nằm vùng trong Nam- Cơ sở VC nội thành SG. Tự hứa sẽ phấn đấu vào đảng trở lại nếu đảng tốt hơn sau nầy (???!!!!).

5-Hùynh Nhật Hải &

6- Hùynh Nhật Tấn - VC Nằm vùng Đà Lạt bỏ đảng từ năm 1988.
***Mt68: Chúng tôi túc trực theo dõi để thử xem có bao nhiêu đứa ra mặt gọi là BỎ ĐẢNG BAN NGÀY./- Mt68


HAI NGƯỜI ĐÃ DỨT KHOÁT BỎ ĐẢNG KHI CÒN ĐƯƠNG CHỨC

PHỎNG VẤN HUỲNH NHẬT HẢI, HUỲNH NHẬT TẤN –LÀM CÁCH MẠNG KHÔNG PHẢI ĐỂ DỰNG NÊN MỘT NHÀ NƯỚC ĐỘC TÀI

Tháng 4 28, 2012
Phạm Hồng Sơn thực hiện
pro&contra: Hai anh em, ông Huỳnh Nhật Hải sinh năm 1943, ông Huỳnh Nhật Tấn sinh năm 1946, là những người, vào cuối năm 1988, đã cùng nhau tự ra khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đồng thời từ bỏ luôn những chức vụ đang đảm nhiệm kèm theo những tiềm năng rất lớn về quyền lực, quyền lợi: Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Thành phố Đà Lạt kiêm Thành ủy viên (đối với ông Huỳnh Nhật Hải) và Phó Giám đốc Trường Đảng tỉnh Lâm Đồng kiêm Tỉnh ủy viên dự khuyết (đối với ông Huỳnh Nhật Tấn). Điều gì đã khiến hai đảng viên cộng sản đầy tiềm năng của một gia đình có truyền thống cách mạng từ trước năm 1945 lại có quyết định chia tay cách mạng khi sự nghiệp “cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước”đã thành công hoàn toàn?
___________________
Phạm Hồng SơnHai ông có thể cho biết con đường nào đã đưa các ông đến với ĐCSVN?
Huỳnh Nhật Hải: Có thể nói hai anh em chúng tôi đã được “nhuộm đỏ” từ bé. Chúng tôi đã có thiện cảm, tinh thần ủng hộ, và làm những việc có lợi cho những tổ chức của cách mạng như Việt Minh hay Mặt trận Dân tộc Giải Phóng miền Nam Việt Nam (Mặt trận) ngay từ khi còn rất nhỏ tuổi. Vì ba má tôi là một gia đình tư sản ủng hộ Việt Minh tại Đà Lạt từ trước năm 1945. Ba tôi là hội viên Công hội Đỏ và tham gia cướp chính quyền tại Đà Lạt vào năm 1945 và sau đó trở thành đảng viên bí mật của Đảng Cộng sản Đông Dương (tên gọi lúc đó của ĐCSVN). Hai anh trai tôi là những người đi tập kết ra Bắc sau năm 1954.

Huỳnh Nhật Tấn: Có thể nói là ngay từ nhỏ, mở mắt ra là chúng tôi đã được nghe, được thấy, được sống trong tinh thần của cách mạng, tôi cứ tạm gọi là “cách mạng” đi. Đó là những năm thơ ấu của chúng tôi ở trong “vùng tự do” liên khu 5, khi gia đình chúng tôi phải tránh sự truy lùng của Pháp từ khoảng cuối 1945 đến năm 1954, và cả thời gian sau đó khi ba má tôi trở lại Đà Lạt (sau Hiệp định Genève) để tiếp tục nhiệm vụ ủng hộ bí mật cho ĐCSVN và Mặt trận dưới hình thức là một gia đình tư sản.
Phạm Hồng SơnHai ông có nhớ đã có ảnh hưởng nào đến từ ngoài gia đình không?
Huỳnh Nhật Tấn: Có, những trí thức như giáo sư, nhà văn, nhạc sĩ có tên tuổi lúc đó mà đi với Việt Minh hay Mặt trận cũng gây cho chúng tôi sự lôi cuốn, cảm hứng âm thầm nhưng rất lớn. Đặc biệt là qua quan sát, tiếp xúc với những cán bộ hoạt động bí mật đã sống ở nhà tôi thì hai anh em tôi thấy đó là những con người rất đáng khâm phục, họ vừa có tinh thần kỷ luật, chịu đựng, hy sinh rất lớn vừa có những lý tưởng rất cao đẹp là quyết giành lại độc lập cho đất nước và tự do cho dân tộc.
Huỳnh Nhật Hải: Một yếu tố nữa cũng làm cho chúng tôi ủng hộ Mặt trận là sự xuất hiện của quân đội Mỹ tại miền Nam. Sự xuất hiện đó làm cho những người như chúng tôi cảm thấy bị xúc phạm về chủ quyền dân tộc. Chúng tôi cảm thấy là miền Nam đang bị người Mỹ xâm lăng và cần phải chống lại họ và chính quyền thân Mỹ tại miền Nam.
Phạm Hồng SơnThời gian từ khi Mặt trận được thành lập (năm 1960) cho tới năm 1975 các ông làm những việc gì để ủng hộ “cách mạng”?
Huỳnh Nhật Hải: Công việc của cả hai anh em chúng tôi đều cùng có hai giai đoạn khác nhau, trước và sau khi chúng tôi “nhẩy núi”, tức là phải bỏ gia đình để vào tận căn cứ trong rừng sâu để hoạt động. Tôi “nhảy núi” vào đúng mồng 3 Tết Mậu Thân 1968 còn em tôi, Huỳnh Nhật Tấn, “nhảy núi” trước đó vài tháng khi đã bị lộ.
Huỳnh Nhật Tấn: Trước khi “nhảy núi”, anh em chúng tôi làm công tác liên lạc, vận động trong giới thanh niên, học sinh, sinh viên tại Đà Lạt để thành lập các nhóm, tổ chức, đoàn thể hoặc in, tán phát truyền đơn hay khẩu hiệu đấu tranh cho Mặt trận.
Huỳnh Nhật Hải: Sau khi “nhảy núi”, hai anh em chúng tôi, mỗi người một nơi, nhưng đều ở bộ phận công tác phong trào thanh niên học sinh, sinh viên. Anh em chúng tôi thường phải đi vào những “vùng lõm“ (vùng dân cư mà ban ngày do chính quyền Việt Nam Cộng hòa kiểm soát còn ban đêm thuộc về lực lượng của Mặt trận) để bắt liên lạc, tiếp nhận hay vận động ủng hộ về vật chất, tinh thần cho Mặt trận.
Phạm Hồng SơnNhững công việc đó chắc phải rất mạo hiểm và hết sức khó khăn?
Huỳnh Nhật Tấn: Đúng thế, chúng tôi phải rất kiên trì, khôn khéo trong công tác vận động và không phải lần vận động nào cũng thành công. Cả hai anh em chúng tôi cũng đã bị phục kích hoặc chạm trán với lực lượng quân đội của Việt Nam Cộng hòa, nhưng rất may cả hai chỉ bị thương nhẹ trong một, hai lần.
Phạm Hồng SơnSau 30/04/1975 các ông được giữ ngay chức Phó Chủ tịch UBND Thành phố hoặc Phó Giám đốc Trường Đảng?
Huỳnh Nhật Hải: Không phải như thế. Sau 30/04/1975 tôi tiếp tục công tác ở Thành đoàn, sau đó mới chuyển qua công tác chính quyền. Năm 1977 tôi được kết nạp Đảng. Năm 1979 làm Chủ tịch khu phố I Thành phố Đà Lạt, rồi sau khi đi học Trường Đảng ở Tây Nguyên trong một năm đến năm 1981 là tôi trở thành Phó Chủ tịch UBND Thành phố Đà Lạt, là Thành ủy viên.
Huỳnh Nhật Tấn: Tôi thì được kết nạp Đảng từ năm 1972 sau khi “nhảy núi”. Ngay tháng 10/1975 tôi đã được chọn vào số cán bộ đầu tiên gửi ra Bắc học ở Trường Tuyên huấn Trung ương ở khu Cầu Giấy, Hà Nội trong 3 năm rồi trở về giảng dạy môn kinh tế chính trị tại Trường Đảng tỉnh Lâm Đồng. Và sau lần ra học tiếp ở Hà Nội tại Trường Tuyên Huấn Trung Ương trong 03 năm nữa, đến năm 1986 tôi được bổ nhiệm vào chức Phó Giám đốc trường Đảng tỉnh Lâm Đồng, đồng thời được cơ cấu vào cấp Tỉnh ủy, là Tỉnh ủy viên dự khuyết.
Phạm Hồng SơnMột cách ngắn gọn, lý do gì đã khiến hai ông gần như đồng thời quyết định từ bỏ Đảng kiêm các chức vụ đó?
Huỳnh Nhật Tấn: Tôi còn nhớ trong lá đơn xin ra khỏi Đảng lúc đó tôi có viết một câu: “Tôi không tin ĐCSVN có thể lãnh đạo đưa đất nước đạt được những điều tốt đẹp như Đảng thường nói.”
Huỳnh Nhật Hải: Còn trong lá đơn của tôi viết sau ông em tôi một vài tháng, tôi nhớ đã viết là: “Tôi không còn động cơ để phấn đấu cho mục tiêu và lý tưởng của Đảng nữa.” Nhưng thực sự trong thâm tâm thì cũng giống như ông em tôi đã nói ở trên. Tôi không tin ĐCSVN nữa.
Phạm Hồng SơnQuá trình đi đến sự bất tín đó diễn ra như thế nào?
Huỳnh Nhật Hải: Đó là một quãng thời gian kéo dài khoảng 5-7 năm, thông qua những quan sát, tìm hiểu, trao đổi, bàn bạc và trằn trọc từ mỗi bản thân và gần như chỉ giữa hai anh em chúng tôi.
Huỳnh Nhật Tấn: Có thể nói chúng tôi đi đến sự bất tín vào ĐCSVN là dựa vào những gì chúng tôi thấy, chúng tôi gặp trên thực tế hơn là từ vấn đề lý luận.
Phạm Hồng SơnNhững “thực tế” nào quan trọng nhất khiến hai ông nhận thức lại ĐCSVN?
Huỳnh Nhật Tấn: Đó chính là những chính sách về quản lý xã hội, điều hành kinh tế và việc tôn trọng các quyền tự do, dân chủ của người dân của ĐCSVN. Về quản lý xã hội, ĐCSVN đã không quản lý bằng pháp luật mà bằng sự tùy tiện, áp đặt, gần như hoàn toàn chỉ dựa theo các chỉ thị, ý muốn từ lãnh đạo Đảng. Ví dụ việc tịch thu nhà cửa, tài sản hay đưa đi “học tập cải tạo”, thực chất là bỏ tù con người, đều không dựa trên pháp luật hay xét xử của tòa án. Điều hành kinh tế thì lúc đó chúng tôi thấy những chính sách rất kỳ cục và phản khoa học, ví dụ như có những chỉ thị là Đà Lạt phải sản xuất bao nhiêu rau hay các huyện khác phải sản xuất bao nhiều mì[i] mà không cần  biết khả năng và lợi thế về thổ nhưỡng, thói quen canh tác của người dân hoặc việc giao quyền lãnh đạo kinh tế không dựa vào chuyên môn, kinh nghiệm mà lại dựa vào thành phần giai cấp và sự gắn bó với Đảng. Về các quyền tự do dân chủ của người dân, càng ngày chúng tôi càng thấy thực tế lại tồi tệ và khó khăn hơn rất nhiều so với thời Việt Nam Cộng hòa. Ví dụ như khi hoạt động trước 1975, chúng tôi đã từng cho một số viên chức chính quyền đọc cả cương lĩnh của Mặt trận nhưng những người đó không coi chúng tôi là thù địch, họ coi việc khác biệt quan điểm là chuyện hết sức bình thường. Nhưng sau năm 1975 mọi thứ không như thế nữa, tất cả mọi hoạt động, kể cả trong tư tưởng, mà khác với quan điểm của ĐCSVN thì đều không được chấp nhận. Báo chí tư nhân, biểu tình, bãi công, bãi thị đã hoàn toàn bị cấm ngặt mặc dù những bất công, nhu cầu lên tiếng của xã hội hết sức bức bối. Có thể nói điều lớn nhất để chúng tôi nhận thức lại ĐCSVN là sự độc tài toàn trị dựa trên bạo lực và không tôn trọng những quyền căn bản của người dân.
Phạm Hồng SơnCác ông đã quen biết những nhân vật như ông Hà Sĩ Phu hay ông Mai Thái Lĩnh,…những cư dân tại Đà Lạt lúc đó chưa?
Huỳnh Nhật Hải: Chúng tôi chưa biết ông Hà Sĩ Phu, còn ông Mai Thái Lĩnh thì chúng tôi đã biết nhau từ hồi cùng “nhảy núi” nhưng sau 30/04/1975 chúng tôi gần như chưa trao đổi hay bàn luận gì với nhau cả. Anh em chúng tôi trước khi quyết định bỏ về đã nói với nhau là “chúng ta đi làm cách mạng không phải để xây dựng nên một nhà nước chuyên chính độc tài như thế này.”
Phạm Hồng SơnGia đình, những người thân và bạn bè đồng chí của các ông có phản ứng gì trước quyết định đó?
Huỳnh Nhật Hải: Lúc đó ba má tôi đều đã qua đời nhưng chúng tôi tin rằng nếu còn sống ba má tôi cũng ủng hộ việc từ giã ĐCSVN của chúng tôi. Hai bà xã của chúng tôi ủng hộ hoàn toàn quyết định về nhà tự làm ăn của chúng tôi.
Phạm Hồng SơnThế còn hai anh trai, những người đã đi tập kết sau 1954, và những đồng chí thân quen của hai ông?
Huỳnh Nhật Tấn: Anh trai cả của chúng tôi thì gần như không có ý kiến gì, còn người anh trai thứ hai thì không đồng ý. Còn những đảng viên đồng sự khác và các cấp lãnh đạo lúc đó hoàn toàn ngạc nhiên, gần như tất cả mọi người đều khuyên chúng tôi xem xét lại. Có người lúc đó đã nói với tôi là nếu về thì cuộc sống sẽ rất khó khăn, nhưng tôi xác định trong lòng là trước đây khó khăn nguy hiểm như thế mà còn chịu được thì lẽ nào bây giờ lại không.
Phạm Hồng SơnKhi “trằn trọc” để đi đến quyết định cuối cùng, hình ảnh hay tư tưởng của lãnh tụ Hồ Chí Minh có vấn vương trong “trằn trọc” đó?
Huỳnh Nhật Tấn: Có. Chúng tôi lúc đó cũng thấy cần phải xem lại cả ông Hồ Chí Minh – lãnh tụ, người sáng lập ra ĐCSVN.
Phạm Hồng SơnCác ông thấy thế nào?
Huỳnh Nhật Hải: Sau khi cùng tìm hiểu, trao đổi, bàn luận chúng tôi nhận thấy tình trạng mất tự do, phi dân chủ hay có thể nói là cuộc sống kìm kẹp, đau thương của nhân dân, của giới trí thức sau chiến thắng 30/04/1975 ở miền Nam hoàn toàn là sự lặp lại y nguyên tình trạng ở miền Bắc sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 – thời kỳ mà ông Hồ Chí Minh vẫn hoàn toàn ở trên đỉnh cao quyền lực.
Huỳnh Nhật Tấn: Tôi đã từng tự hỏi là mục tiêu sâu xa của ông Hồ Chí Minh là gì? Với những gì lịch sử đã diễn ra khi ông Hồ Chí Minh còn sống thì tôi thấy mục tiêu của ông Hồ Chí Minh vì quyền lực là chính, còn mục tiêu độc lập cho đất nước hay tự do, dân chủ cho dân tộc, cho xã hội Việt Nam đã bị ông Hồ Chí Minh coi nhẹ. Hai mục tiêu tốt đẹp đó chỉ là những ngọn cờ để ĐCSVN lôi kéo, tập hợp quần chúng và giới trí thức cho mục đích giành quyền lực cho ĐCSVN. Thực tế chính quyền dưới thời ông Hồ Chí Minh đã biểu hiện đi ngược lại hoàn toàn hai mục tiêu tốt đẹp đó, độc lập cho dân tộc và tự do, dân chủ cho nhân dân.
Phạm Hồng SơnVâng, về vấn đề tự do, dân chủ cho nhân dân thì đã rõ, nhưng còn về độc lập dân tộc, xin ông nói rõ thêm?
Huỳnh Nhật Tấn: Có thể nói ông Hồ Chí Minh đã đưa đất nước thoát khỏi sự phụ thuộc, đô hộ của người Pháp nhưng lại để đất nước trở lại sự phụ thuộc, khống chế và thôn tính của Trung Quốc cộng sản. Nếu không có sự đồng ý, chủ kiến ngoại giao của ông Hồ Chí Minh thì không thể có tình hữu nghị Việt-Trung như “môi với răng” và cũng không thể có Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng. Một cách ngắn gọn, có thể nói ông Hồ Chí Minh đã vô tình tạo điều kiện thuận lợi cho sự xâm lăng, thôn tính của Trung Quốc cộng sản đối với Việt Nam như chúng ta đang chứng kiến.
Phạm Hồng SơnLiệu có công bằng không khi tình trạng mất độc lập, mất chủ quyền hiện nay qui hết cho Hồ Chí Minh?
Huỳnh Nhật Tấn: Đúng là tình trạng lâm nguy của đất nước hiện nay không thể qui hết cho ông Hồ Chí Minh. Nhưng bất kỳ một lãnh tụ, một nhà sáng lập của một đảng, một tổ chức chính trị nào cũng đều có ảnh hưởng rất căn bản tới tầm nhìn, hành động của các thế hệ kế tiếp, dù xấu hay tốt. Tôi nhớ ngay trong văn kiện, khẩu hiệu của ĐCSVN vẫn luôn khẳng định ông Hồ Chí Minh là người sáng lập, tổ chức, lãnh đạo, rèn luyện “Đảng ta”, tức là ông Hồ Chí Minh đã là kiến trúc sư cho mọi chính sách, đường lối của ĐCSVN cũng như thể chế, cung cách quản lý xã hội của ĐCSVN.
Huỳnh Nhật Hải: Đúng như thế, theo tôi, mặc dù ông Hồ Chí Minh đã mất rồi nhưng tư tưởng, đường lối chính trị của ông ấy vẫn được tiếp tục kế thừa trong ĐCSVN. Không phải ngẫu nhiên mà ĐCSVN hiện nay vẫn hô hào học tập tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh.
Phạm Hồng SơnNhưng nhiều người cho rằng tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh là rất tốt đẹp, đáng học theo?
Huỳnh Nhật Hải: Đúng, rất tốt đẹp và đáng học nếu chỉ căn cứ vào lời nói và khẩu hiệu như ông Hồ Chí Minh đã đề ra. Và đúng là ĐSCVN hiện nay cũng đang thực hiện đúng như thế, các khẩu hiệu, lời nói, mục tiêu của họ hiện nay cũng rất hoặc khá tốt đẹp, nhưng hành động và thực tế thì lại hoàn toàn ngược lại – cũng như ông Hồ Chí Minh.
Huỳnh Nhật Tấn: Nếu chỉ căn cứ vào truyền thống nhân ái của người Việt Nam thông thường thôi thì cũng thấy đáng lý ra, với cương vị là người có quyền hành cao nhất, ông Hồ Chí Minh phải ra lịnh không được giết hoặc hãm hại ân nhân của mình như vụ xử bắn bà Nguyễn Thị Năm và nhiều người khác trong Cải cách Ruộng đất. Hoặc những vụ bắt bớ, thanh trừng các đồng sự, các ân nhân của ĐCSVN sau này mà không qua xét xử thì ông Hồ Chí Minh không thể không biết là trái đạo lý. Nếu ông Hồ Chí Minh thực sự là người vì nước vì dân thì sau khi lên nắm quyền, điều đầu tiên ông Hồ Chí Minh phải làm là phải để nhân dân và giới trí thức có nhiều tự do hơn thời thực dân Pháp chớ.
Phạm Hồng SơnNếu được sống lại thời tuổi trẻ một lần nữa, các ông có tiếp tục ủng hộ và đi theo Việt Minh, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam hay ĐCSVN?
Huỳnh Nhật Hải: Không, không bao giờ.
Huỳnh Nhật Tấn: Tôi sẽ phải bình tĩnh hơn, tìm hiểu xem họ có ủng hộ và có tư tưởng dân chủ thực sự không, chứ không thể chỉ căn cứ vào lời nói và tuyên truyền của họ. Theo tôi, vấn đề dân chủ phải được đặt cao hơn vấn đề dân tộc vì chỉ có dân chủ mới giúp cho dân tộc được tự do đúng nghĩa và khi đó đất nước mới có nền độc lập bền vững.
Phạm Hồng SơnNgày 30/04/1975 các ông đang ở đâu và cảm xúc như thế nào?
Huỳnh Nhật Tấn: Lúc đó tôi đang ở Đà Lạt. Tôi đã trở về Đà Lạt từ ngày 03/04/1975 với tư thế của người chiến thắng.
Huỳnh Nhật Hải: Tôi về Đà Lạt sau ông em tôi một ngày, ngày 04/04/1975. Cảm xúc của tôi là sung sướng vô cùng, nhất là khi gặp lại má tôi – má đã tưởng tôi hy sinh từ năm 1971 và đã đưa ảnh tôi lên bàn thờ.
Phạm Hồng SơnDịp 30/04 hàng năm vẫn là một trong những ngày lễ lớn của cả đất nước, cảm xúc của các ông ra sao trong những ngày này?
Huỳnh Nhật Hải: Buồn. Nếu không có cuộc chiến tranh tương tàn giữa hai miền trước 1975 thì dân tộc này không có cái bất hạnh, đau khổ như ngày hôm nay.
Huỳnh Nhật Tấn: Buồn. Một ngày quá buồn. Cái chiến thắng 30/04 chỉ đem lại một sự áp bức trên mọi phương diện cho nhân dân, đất nước và lại nặng nề hơn cả thời Pháp thuộc.
Phạm Hồng SơnNếu bây giờ vô tình hai ông gặp lại một người là cựu viên chức cũ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa và người đó chính là “kẻ thù” của ông trước 1975, điều trước tiên hai ông muốn nói là gì?
Huỳnh Nhật Tấn: Tôi có lỗi với dân tộc. Chính cái hăng hái, nhiệt huyết của tôi đã góp phần dựng nên chế độ độc tài hiện nay, đã vô tình đem lại sự đau khổ hiện nay. Và nếu xét về những căn bản để bảo đảm tự do cho nhân dân và độc lập cho dân tộc thì tôi cũng đã vô tình góp công sức đưa những người mang danh là “cách mạng” nhưng thực chất là vì quyền lực tới phá bỏ một chế độ đã được xây dựng trên những căn bản về tự do, dân chủ và nhân bản tại miền Nam Việt Nam.
Huỳnh Nhật Hải: Bây giờ nhìn lại, con đường chúng tôi đã đi trước 1975 là một con đường sai lầm. Sự nhiệt huyết lúc đó của chúng tôi đã đem lại bất hạnh hơn là hạnh phúc cho dân tộc.
Phạm Hồng SơnXin trân trọng cảm ơn ông Huỳnh Nhật Hải, Huỳnh Nhật Tấn.
______________________
Chú thích ảnh: Ông Huỳnh Nhật Hải (trái) và ông Huỳnh Nhật Tấn (phải)