Mt68 History
Wednesday, 14 August 2024
Monday, 12 August 2024
Về huynh trường Trần Ngọc Tôn, ĐS2.
Email của Tôn Thất Tuệ
Sunday, 11 August 2024
Cám ơn anh Cao Viết Lợi đã nhắc. (*QGHC Nam Cali đính chính trong phân ưu.)
PHÂN ƯU
Vô cùng thương tiếc nhận được tin buồn
Anh rể Đồng môn Cao Viết Lợi (Đốc Sự Khóa 8 Học Viện QGHC – VNCH) |
Huynh Trưởng
TRẦN NGỌC TÔN
Đốc Sự Khóa 2 Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Việt Nam Cộng Hòa
Đã tạ thế ngày 29 tháng 7 năm 2024 tại Orange County, Nam California - USA
Hưởng đại thọ 94 tuổi
Xin thành kính chia buồn cùng Tang quyến.
Nguyện cầu Linh hồn Huynh Trưởng TRẦN NGỌC TÔN
sớm được siêu thoát về Cõi Vĩnh Hằng
ĐỒNG MÔN VÀ HỘI CỰU SINH VIÊN QUỐC GIA HÀNH CHÁNH
NAM CALIFORNIA
Cho đến trung tuần tháng 7 đã có hơn 200 người hồi báo là sẽ tham dự. Mọi người đang háo hức chuẩn bị đi đủ cả hai vợ chồng như anh đã khẩn thiết ghi trong thiệp mời. Đặc biệt là không mang hoa hay bất cứ quà chúc mừng nào cả.
Anh còn minh mẫn với giọng Huế đặc sệt nhưng dễ nghe vì từ tốn và muốn cho người nghe lãnh nhận được hết những điều mình muốn nói, khác với một số người cao tuổi mà tôi có dịp quen biết chỉ nói dài lê thê và đôi khi không đầu không đuôi như “lẫn”, như “liệu.”
Thế rồi, đùng một cái, tôi nhận được tin anh bị té ngã trên salon xuống sàn nhà, chở đến bệnh viện thì trên đường đi anh đã trút hơi thở cuối cùng. Chỉ còn hai tuần lễ nữa thôi là đến ngày mở tiệc mừng thượng thọ. Tôi lịm người trong buổi sáng hôm ấy 29 tháng 7 khi nghe tin anh vừa qua đời vào tối hôm qua. Thật đời vô thường đến thế sao. Chị nhà mới vừa mất năm rồi, anh vội theo chi cho sớm vậy.
Tôi thật muốn khóc khi nghĩ về anh, người đi xiêu vẹo một tay chống gậy mà chỗ nào có anh em tụ tập là anh thuê xe Uber đến ngay, không kể trời mưa gió hay nóng lạnh.
Anh trường chay mấy mươi năm mà tiệc họp mặt nào cũng có anh tham dự, chỉ một dĩa mì xào với rau cải xanh là đủ cho anh trong suốt buổi họp mặt ngày Tết cũng như những ngày lễ kỷ niệm hàng năm của các hội đoàn. Anh luôn là người trong nhóm tổ chức ra về sau cùng.
Là người sinh trưởng ở làng Nước Ngọt, Phú Lộc, Thừa Thiên, mất Mẹ khi mới lên 5; Ba tục huyền và có thêm nhiều em nữa nhưng hết thảy anh chị em đều sống thuận hòa với nhau trong cùng một mái ấm gia đình.
Anh học Tiểu học ở trường làng do các Soeur thành lập ở quê, qua bậc Trung học anh theo học ở trường Pellerin, Huế. Gần cuối năm 1948 anh trải qua một cơn bệnh nặng nên đã lỡ dịp “Ra Bưng” tham gia kháng chiến cùng với các anh em họ trong gia đình (sau nầy trở thành Tướng Trần Chí Cường hay Nhà văn Trần Thanh Đạm ngoài miền Bắc.)
Anh ở lại tham gia hoạt động kháng chiến chống Pháp tại địa phương và bị Tây bắt, nhưng nhờ nói được tiếng Pháp một cách lưu loát và còn quá trẻ nên họ đã tha cho anh về và khuyên nên trở lại trường đi học.
Đến khi Quốc Gia Việt Nam được thành lập (1949) anh cũng vừa thi đổ Tú Tài Toàn Phần và không có dự định theo học Đại học nên anh xin vào làm Giáo sư dạy Pháp văn ở một trường Tư thục tại Huế. Khi có lệnh tổng động viên, anh tình nguyện nhập ngũ theo học khóa 1 Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định (1951). Ra trường phục vụ trong quân đội được hai năm thì anh bị thương nặng nên sau đó được giải ngũ trở về đời sống dân sự.
Vừa lúc bấy giờ trường Quốc Gia Hành Chánh mới thành lập được một năm, có mở một kỳ thi tuyển, anh ghi danh và thi đậu ngay vào trường, học khóa 2 QGHC năm 1953.
Ra trường năm 1956, anh chọn nhiệm sở Phủ Tổng Thống từng làm việc dưới quyền Đổng Lý Văn Phòng Đoàn Thêm; Luật sư Lê Văn Đức (người soạn diễn văn cho TT. Diệm); Phạm Thu Đường (Bí Thư Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu); Tôn Thất Thiện (Thông dịch viên của TT. Diệm.) Theo anh những người kể trên thật là tài giỏi, hầu hết đều thông thạo Pháp Văn, họ làm việc rất siêng năng, chăm chỉ và đặc biệt luôn luôn có sổ tay ghi chú những công việc làm hàng ngày rất cẩn thận rồi sau đó cho đánh máy lại để lưu giữ làm tài liệu theo dõi, rất tiện lợi để tra cứu về sau.
Khi cuộc chính biến ngày 1 tháng 11 năm 1963 xảy ra, anh vẫn tiếp tục làm công việc ở văn phòng cũ cho đến hai năm sau, khi tình hình đất nước đi vào ổn định, anh xin thuyên chuyển qua Bộ Kinh Tế và được cử làm Chánh Sự Vụ Nha Kinh Tế Miền Trung.
Xin nói thêm, trong suốt cả cuộc đời công bộc của mình, anh chưa bao giờ hay chưa hề tham gia chính trị đảng phái, ngay cả thời kỳ khó khăn nhất khi anh là một nhân viên được cấp trên tiến cử thăng quan tiến chức, nếu tham gia vào đảng Cần Lao. Chính đích thân ông Cố vấn đề bạt. Nhưng anh đã không.
Trong lúc làm Chánh Sự Vụ Nha Kinh Tế Miền Trung anh đã đề nghị và được chấp thuận để trở thành Thừa Ủy Nhiệm (TUN) Tổng trưởng Kinh Tế, Âu Trường Thanh được phép nhập cảng hàng hóa trực tiếp về Đà Nẵng, hóa giá và phân phối hàng tiêu dùng tại miền Trung không qua trung gian tại Sài Gòn nên được giá rẻ phục vụ đồng bào. Anh rất tự hào về vai trò nầy trong suốt quãng đời công vụ của mình.
Năm 1966 Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (Thủ Tướng) Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, bạn cùng khóa 1 Sĩ Quan Nam Định, dự định cử anh làm Giám đốc Nha Tiếp Vận Trung Ương, nhưng không thành nên sau đó anh được cử đi tu nghiệp tại Hoa Kỳ.
Năm 1967 về nước anh được cử làm Giám đốc Nha Mãi Hóa, Bộ Kinh Tế, thường xuyên xuất ngoại kiểm tra hàng hóa nhập cảng, đồng thời kiêm nhiệm Đặc Phái Viên của Tổng Trưởng Tài Chánh, Châu Kim Nhân, hợp tác với Nha Hối Đoái để hoạch định các chính sách giá cả trong nước.
Năm 1972 anh được cử làm Giám đốc Nha Mãi Vận Trung Ương trực thuộc Phủ Thủ Tướng. Trong thời gian nầy chính sách viện trợ Mỹ đã thay đổi và khó khăn nhất của anh là làm sao có đủ tài liệu và dữ kiện để có thể định giá các lô hàng quân sự (như máy bay, xe tăng, súng đạn ...) một cách hợp lý hầu khấu trừ vào khoản viện trợ tổng quát hàng năm trong đó bao gồm cả viện trợ về kinh tế và hàng hóa tiêu dùng.
Chính sách “Việt Nam Hóa” chiến tranh làm sụt giảm dần khoản viện trợ. Do đó anh phải quan hệ với các đối tác tại Hoa Kỳ để đạt được giá thỏa thuận sao cho có lợi nhất cho phần viện trợ kinh tế. Anh cho biết các tập đoàn công nghệ ở Mỹ lúc bấy giờ đưa ra nhiều điều kiện rất vô lý, thường làm chậm trễ hàng viện trợ nhất là khoản viện trợ về kinh tế.
Anh tâm sự, nền kinh tế Việt Nam lúc bấy giờ hoàn toàn lệ thuộc vào viện trợ nên khi Mỹ giảm hay cúp viện trợ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh tế, thực tế như lạm phát tăng dần, giá cả hàng hóa gia tăng gấp đôi. Lúc bấy giờ, anh nghĩ có thể khủng hoảng kinh tế sẽ xảy ra trong một tương lai rất gần, khi khoản viện trợ Mỹ không còn nữa.
Tháng 4 năm 1975 anh đã cùng cả gia đình di tản sang Hoa Kỳ cùng với cố vấn Mỹ ở Bộ Kinh Tế.
Sau khi đến định cư ở Hoa Kỳ anh được giới thiệu vào làm việc ngay ở các cơ quan thiện nguyện trợ giúp người tỵ nạn Á Châu, sau đó được tuyển vào làm viên chức ở sở Xã Hội quận hạt Orange County (1978) cho đến ngày về hưu.
Năm ngoái, khi người bạn đời của anh là Chị Nguyễn thị Hoàng Oanh (Cựu Giáo Sư Anh Văn, trường Trung học Trưng Vương, Sài Gòn) qua đời, anh ra ở riêng một mình trong khu hưu dưỡng dành cho người cao niên, có người trợ giúp 24 giờ do chính phủ tài trợ. Các con anh đều thành đạt, có gia đình riêng, thỉnh thoảng ghé thăm hoặc chăm sóc từ xa, lo toan mọi việc cho Ba khi cần.
Có hôm nhận được tin anh vừa chuyển vào khu chăm sóc y tế dành cho người cao niên ở địa phương (Nursing Home), anh em khắp nơi gọi sốt vó hỏi thăm tình hình sức khỏe của anh ra sao. Nhưng sau khi kiểm chứng với gia đình thì được biết như thế nầy “Lâu lâu Ba thường hay yêu cầu tụi con chuyển Ba vào trong đó tịnh dưỡng vài ngày và đồng thời “thăm bạn” ở đó, chứ Ba không có bệnh gì cần cấp cứu cả.” Mọi người thở phào, tình thân đến thế là cùng, vẫn thăm bạn dù là đang ở trong chỗ bi quan nhất của đời người.
Sinh hoạt tại Hải ngoại, ngoài công việc hàng ngày ở sở, anh còn thường xuyên tham gia vào các hội đồng hương, hội ái hữu các trường Trung học thời Việt Nam Cộng Hòa. Đặc biệt anh còn là sáng lập viên Hội Cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh, tiền thân của Tổng Hội QGHC sau nầy từ năm 1978.
Trong suốt 46 năm kể từ ngày thành lập Hội Cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh cho đến nay, anh luôn luôn là một thành viên tích cực hoạt động của Hội. Chưa bao giờ anh vắng mặt trong bất cứ một cuộc họp nào của anh em mà có thư mời, từ Ban Chấp Hành cho đến các kỳ Đại Hội thường niên có bầu bán rất phức tạp.
Một kỷ niệm đáng nhớ Tết năm 2023, khi được giới thiệu là người lớn tuổi nhất trong buổi Hội Ngộ, 93 tuổi, anh một tay chống gậy đứng lên đáp từ rất ngắn gọn “Sự có mặt cũng là một đóng góp rất quan trọng rồi, khỏi nói chi nhiều.”
Và bây giờ có nói gì, thêm nhiều chăng nữa thì anh cũng đã giã từ trần thế, ngay cả ý muốn sau cùng là được chung vui với mọi người một lần, tưởng chừng như trong gang tấc mà cũng không thành, dù chỉ chờ trong vòng mươi ngày... Đành vậy thôi, thay vì nói về anh trong tiệc mừng thượng thọ thì mai đây tôi sẽ đọc tiểu sử của anh trong lễ tang.
Anh đã lìa bỏ anh em, đi xa ... thật xa rồi, nhưng anh sẽ còn sống mãi trong tâm khảm mọi người quen biết với nụ cười vui vẻ thật hiền từ. Anh trường chay, thường hay viếng chùa và thiền định mỗi ngày nên anh có thể sớm được tiêu dao nơi cõi Niết Bàn. Mong lắm thay.
Nhớ anh vô vàn.
Monday, 5 August 2024
From: Thoi Luan <baothoiluan@ymail.com>
Subject: Mời viết về kỷ niệm với anh Trần Ngọc Tôn.
To:
Bao Thoi Luan
PO Box 954, Westminster, CA 92684
Sunday, 31 March 2024

Lớp chúng tôi tuy ít song tương đối đã có nhiều sinh viên tốt nghiệp sau này trở thành giáo sư và được dạy lại tại trường như giáo sư Trần Ngọc Phát và Lê Công Truyền. Lớp chúng tôi có một đồng môn nổi tiếng là hầu như không quan tâm đến phụ nữ, nhưng cuối cùng khi di tản qua Mỹ, sợ cô đơn nên đã lập gia đình với một cựu nhân viên xinh xắn và đàng hoàng, vì đã giữ chức vụ Chủ sự Phòng Mãi Hóa Quốc Nội, dưới quyền lúc anh còn làm Tổng Giám Đốc. Đặc biệt nhất là tính tình nhân hậu, hiền hòa, cương trực, liêm chính đến nỗi khi phê bình về các nhân vật chính quyền hồi đó, tôi còn nhớ bác sĩ Đặng Văn Sung, chủ nhiệm báo Chính Luận, một tờ báo tiếng tăm thời bấy giờ, đã nói : ” nhiều nhân vật thường là chó nhảy bàn độc, nhưng ông ấy là một martyr (tử vì đạo) cho chính nghĩa quốc gia…” đó là ông chưa biết anh ta là một người con hiếu thảo của cụ Châu Kim Đàng trong nhóm sáng lập viên trường Trung Học Cần Thơ nên anh thừa hưởng tinh thần của cụ. Chẳng những thế cụ mất sớm, anh là một người anh tuyệt vời đối với gia đình, qua Mỹ thường xuyên đến bệnh viện săn sóc em đến nỗi bị tai nạn xe hơi, mổ óc nên nay không còn dùng computer.

Cũng có anh như Hồ Đình Phương, tác giả bài hát nổi tiếng “Nha Trang là Miền Cát Trắng“, thay vì lo học thì chỉ lo làm thơ, cũng là tác giả kịch bản ” Mâm cỗ đầu người “, do anh em Trường Quốc gia Hành chánh trình diễn tại một rạp hát ở Đà Lạt, thu hút rất đông khán giả và đã thu được một số tiền khá lớn (tôi đã đóng vai vua và anh Trần Ngọc Phát đóng vai Nguyễn biểu rất xuất sắc).
Lại có Nguyễn Khoa Huân là người đầu tiên đã hưởng ứng phong trào Osawa, ăn chay trường và mới đây tuy tuổi đã 90 mà đã giành được phần thưởng đi bộ mấy chục cây số ở Úc Châu.
Lớp chúng tôi thoạt tiên chỉ có 31 người thi đậu vào trường, cùng học chung với khóa đàn anh một năm ở Đà Lạt, nhưng khi dời về Sài Gòn, trường đổi thành Học Viện và thu nhập đặc biệt thêm 38 người di cư từ Bắc vào, những người này thuộc lớp cựu Quận Trưởng ngoài Bắc, được thu nhận khỏi qua kỳ thi tuyển.
Nhưng có lẽ đặc biệt nhất là lần đầu tiên trường đào tạo có năm nữ đốc sự. Đó là các chị Lý hoa, Nguyễn Thị Tuyết, Lê Thị Nhơn, Nguyễn Thị Thuận, và trẻ nhất là Nguyễn Cẩm Vân. Vì xưa nay phụ nữ hiếm có trong chính quyền và có lẽ cũng là sự mở màn cho quý phụ nữ khác sau này vào học. Trong số này có nhiều vị đã làm nổi danh cho Trường.
Chị Lý hoa, người cao mảnh khảnh, gốc nhà giáo nên nét mặt luôn nghiêm nghị, ít cười đùa . Có điều đặc biệt là chị “phán” điều gì là các chị kia nghe răm rắp, không hề cãi lại, vì chị rất thận trọng trong lời ăn tiếng nói. Có lẽ vì vậy mà sau này chị đã đảm nhận đến chức Tổng Giám Đốc Ngân Khố và nghe nói chị đã thành công và đầy uy tín. Bạn bè đều phải công nhận chị là mẫu người cương trực và tận tụy với công việc. Sau này chị lập gia đình với anh Nguyễn Văn Bổn là thủ khoa khóa 3 . Nghe nói anh chị đã mất tích trên đường vượt biên.
Chị Nhơn có nét mặt hiền lành, tỏa sáng hay vui cười và thường giúp đỡ bạn bè. Chị có tâm từ bi nên sau này đã đi tu.
Mấy chị đều lớn tuổi hơn tôi nên coi tôi như đàn em về tuổi tác và kinh nghiệm chuyện đời nên các chị thường ăn nói thoải mái, Duy có cô Cẩm Vân thì thua tôi một tuổi, cũng được xem là lớn tuổi thời ấy xong tính tình thì ngây thơ, thành thật, nhan sắc thì cũng dễ coi, thường cười luôn, đúng là con gái Nam bộ một trăm phần trăm…
Khác với các khóa sau, có một cô khả ái trong lớp thì quý anh dành nhau, lập ” phương trình toàn diện’ Đốc sự + Đốc sự = ,,,”; Phần lớn trong các anh em chúng tôi hoặc đã lớn tuổi hoặc đã có gia đình nên không có ai dám ngó ngàng đến các chị, nhất là cô Cẩm Vân thì chỉ có anh Nhân và tôi là có thể ứng phó mà thôi. Cũng có hai cụ là Hồ Ngọc Đờm và Nguyễn Mộng Lương là sinh viên mới đậu Bac 2, còn non choẹt nên suốt ngày chỉ ham chơi, đánh ping pong, thể thao, Ciné, hoặc thích đi tán tỉnh mấy cô dưới trung học. Anh Nhân thì hay rụt rè với phái nữ, còn riêng tôi thì không dám luạng quạng vì mới giải ngũ ra, thoát khỏi cảnh nhà binh chém giết tôi quyết tâm phải lo học trước đã, lập gia đình là chuyện về sau. Đó cũng là tính tôi từ hồi mới lớn, đi lính thì rất nghiêm khắc với bọn lính hay đi chọc gái ở thôn quê; và cũng để tỏ ra rằng lính quốc gia khác với lính Bọn tây hay bắt heo gà và hiếp đáp nhân lành; nó đã thành thói quen nhiều năm nay không lẽ mới giải ngủ xong mà phá lệ liền, Vì lẽ đó nên có thì giờ là tôi chạy qua trường Luật cắm cúi học cho xong cái bằng Cử nhân Luật, nên nhiều bạn đã đặt tên cho tôi là “thằng cha ri mô chỉ biết cắm cúi vào sách vở”. Tôi còn nhớ có lần anh Nhân và mấy anh em chúng tôi đến thăm nhà cô Cẩm Vân; bà cụ rất tử tế với chúng tôi và chúng tôi cũng rất quý trọng gia đình cô. Nhưng có lẽ do duyên số hoặc là thời đó học cao là khó có chồng, nên sau đó cũng không nghe Cẩm Vân lập gia đình với ai. Khi ra trường Cẩm Vân nhận một chức vụ tại Tòa Đại sứ Ấn Độ và sau đó di chuyển nhiều nơi ở ngoại quốc, chúng tôi bặt tin luôn. Nếu các bạn có tin gì về Cẩm Vân thì làm ơn cho biết.
Còn chị Nguyễn Thị Thuận thì lập gia đình với anh Nguyễn Văn Đặng ( đúng là equation complete) là bạn đồng khóa. Khi Trường dời về Sài Gòn thì anh Đặng bỏ trường và vào học Y khoa; ra bác sĩ chuyên về sản khoa có tiếng ở Sài Gòn. Trước lúc vượt biên qua Mỹ, vì tình trạng thiếu Bác sĩ có khả năng, anh đã được các cán bộ Việt cộng cao cấp luôn chiều tối đa để anh giúp cho phu nhân và bồ bịch các quan lớn được mẹ tròn con vuông. Qua đến Mỹ, anh chị cũng đã hết lòng giúp đỡ cho mấy cháu con em nhiều người đã trở thành bác sĩ. Vợ chồng chị Thuận cũng kỳ lạ, qua Mỹ ở gần anh Hồ Đình Chính là bạn đồng khóa, cách mấy con đường mà không ai biết đến. Sau anh Chính khám phá ra được, nhưng hỏi tại sao, anh cũng chỉ cười trừ. Cũng như mấy đứa con anh chị đều thành công rực rỡ mà anh chị không hề hé hở môi. Có lần dọc Referral Book của đại học UCLA mới biết hai cô con gái của anh chị là bác sĩ chuyên môn về thận, và đều là Giáo sư của Đại học danh tiếng này. Tra vấn thì anh chỉ mới xì ra cho biết còn một cậu con trai cũng là bác sĩ tim mạch ở đó nữa. Không ngạc nhiên gì vì thời còn là đồng môn của chúng tôi, chị là người thật khiêm cung, ít nói ; còn anh Đặng ở chung phòng với tôi, suốt ngày chuyên môn tếu và coi cuộc đời bằng vung. Khi mới di cư vào Nam, anh đã sở hữu một đoàn xe xích lô cho thuê thì cũng đủ sức sống thế mà anh bảo đi học Hành Chánh cho vui thôi. Cũng như khi bỏ học Hành Chánh qua học Y Khoa thì anh cũng bảo thử tài vận xem sao. Nghe nói sau đó ngoài văn bằng bác sĩ , anh còn tóm thâu cả bằng cao học Luật nữa. Ở Sài Gòn có tiếng giàu có, anh có một căn nhà lầu tốt, đẹp đẽ bỏ trống, trong lúc người khác cho Mỹ thuê với giá cao. Không có việc gì anh cho là quan trọng, đến nỗi Tôn Thất Chi tặng cho anh biệt hiệu là Symphonie inacheve, trừ việc lập gia đình với chị Thuận .
Ủa, tôi quên nói, hóa ra anh chị Đặng và Thuận của khóa 2 là tiên phong trong việc lập gia đình với nhau, đã mở màn cho phương trình ” Đốc sự + Đốc sự = …” cho nhiều cặp khác về sau : Từ Diệm và Nguyễn Văn Sâm, Cao Văn Hở và Huỳnh Xuân Thanh, Ngô Ngọc Trác và Nguyễn Thị Giêng… Chắc có lẽ câu ca dao thường nghe là :
Sửa đổi cho hợp là :
Phải không quý vị ? Quý chị học cao vào thường thì đã trên hai chục, mấy ông Y Nha Dược thì mê sắc hay dòm ngó bọn còn non thơ, còn quý anh nào ở Học viện mà ba gai, ba góc, ham chơi … làm sao thoát khỏi cặp mắt loại trừ của các chị. Nếu tôi không lầm thì các cặp Đốc sự này nay đều con đàn cháu đống cả.
Chị Đốc sự cuối cùng tôi muốn nói đến là Nguyễn Thị Tuyết, Chị Dơn, Lý Hoa, Cẩm Vân là người Nam chính cống còn chị Thuận và Tuyết là gốc Bắc Kỳ di cư và trái với chị Thuận ít nói, thì chị Tuyết lại nói nhiều nhất nhưng vô hại hoặc xây dựng. Chị thường kể đủ thứ chuyện : xã hội, con gái miền Bắc, Hà Nội 36 phố phường, phong tục tập quán mọi nơi … nên nhờ chị mà tôi biết được nhiều chuyện, sau này áp dụng vào đời rất hay. Thí dụ, khi tôi làm ở Bộ Xã Hội có lần đi phỏng vấn một bà cụ người Bắc bệnh hoạn và đã nhiều tuổi, nói thều thảo. Khi thấy cụ quê quán Bắc Ninh, tôi hỏi chuyện phải nghe nói con gái Bắc Ninh rất trữ tình phải không và đọc mấy câu thơ:
Thế là bà cụ cặp mắt sáng rực lên, ngồi dậy và thao thao bất tuyệt, với bao chuyện vui ở xứ cụ, nghe mãi mà không chán.
Chị Tuyết vốn là con nhà danh giá có học. Ông bố là một bác sĩ quân y cho quân đội Pháp. Chị có biếu cho tôi một quyển Luận Án bác sĩ bằng tiếng Pháp của ông cụ. Ngày xưa ở ngoài Bắc, miền đồng bằng, và miền Trung các quan Tổng Đốc và Tuần Vũ làm Tình Trưởng, có Công Sứ Pháp bên cạnh; còn các nơi biên giới Tàu như Cao Bằng, Bắc Giang, Lạng Sơn chỉ các sĩ quan pháp làm Tỉnh trưởng để dễ chế Ngự bọn lính và thổ phỉ Tàu qua ăn cướp vì họ đói lắm ….Ai có kinh nghiệm thời 1945 khi lính Tàu phù của tướng Tưởng Giới Thạch hay đồng minh qua giải giới lính Nhật đầu hàng thì đủ biết (có lẽ do kinh nghiệm đó mà chế độ cu Diệm thường cử các sĩ quan quân đội làm Tình Trường để dễ bề chống Cộng)
Hồi đầu thập niên 40, chiến tranh đang tiếp diễn với đồng minh, quân đội Nhật từ Vân Nam đã tràn qua Việt Nam qua ngã Cao Bắc Lạng, quân đội Pháp được lệnh toàn quyền Catroux phải chống giữ. Nhiều cuộc giáp chiến đã xảy ra giữa đôi bên và thân phụ chị đã bị tử thương trong lúc săn sóc các thương binh người Pháp ở chiến trường. Do đó mẹ chị rất buồn bã và bị khó khăn trong việc lo cho gia đình. Khi tốt nghiệp Trường Quốc Gia Hành Chánh chị cũng đã từng tùng sự tại nhiều Đại sứ quán ở hải ngoại quốc và tình cờ lúc di cư qua Mỹ năm 1975, gia đình tôi và chị rất mừng rỡ khi gặp nhau ở Camp Pendelton. Tôi còn nhớ khi gặp nhau lần ấy, chị đã rút ví cho đứa con gái đầu lòng của tôi 10 Mỹ Kim, một số tiền không nhỏ trong hoàn cảnh di cư và vật giá thời đó . Về sau chị dọn về ở Orange County với mẹ già bệnh hoạn và cậu em trai. Vì cụ bà bệnh nặng nên tôi cùng các bạn đạo hữu thường đến nhà tụng kinh cầu an cho cụ. Khi cụ mất, chúng tôi cũng tiếp sức trong việc ma chay làm chị rất cảm động. Buồn thay một thời gian sau đó chị cũng mất luôn khiến chúng tôi không khỏi bùi ngùi tiếc thương vì đã mất một người bạn thân như chị. Vì ngoài sự quen biết với tôi, chị còn là thông gia với anh Đại tá TN Thông là một người bạn đồng khóa 1 Trừ Bị với tôi nên biết gia đình anh ấy cũng rất kính trọng và nề vì chị .
Tôi nhớ chi viết đó, nói nhiều thêm bùi ngùi nhất là nhớ đến kỷ niệm với tình bạn đồng khóa . Mới đó mà đã hơn nửa thế kỷ rồi , nay người còn vậy người mất , người còn sống thÌ bệnh hoạn niên miên, người còn kẹt tại quê … người còn trẻ nhất cũng không ai dưới tám bó mà coi như ai cũng bị tuổi già ăn hiếp vì bệnh và nỗi cô đơn vắng bạn bè quen biết cùng hoàn cảnh và lứa tuổi.
Trần Ngọc Tôn Khóa Đốc Sự 2