Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label VCNVNgoVinhLongUSA. Show all posts
Showing posts with label VCNVNgoVinhLongUSA. Show all posts

Tuesday, 3 January 2017

CẢ 2 ĐỨA GIA MINH VÀ NGÔ VĨNH LÔNG ĐỀU KHỐN NẠN CẢ- VÌ CHÚNG VẪN GỌI TRUNG QUỐC- KHÔNG DÁM GỌI TRUNG CỘNG ...

RIÊNG THẮNG GIÁO GIAN VC NẰM VÙNG NGÔ VĨNH LÔNG LÀ NÓ TỰ TIẾT LỘ VỀ NƯỚC BÀN CHUYỆN VỚI VIỆT CỘNG./-TCL


Diễn biến mới ở Biển Đông, ai hưởng lợi?

Gia Minh, PGĐ ban Việt Ngữ
2017-01-03
Ảnh chụp hôm 23/12/2016 tàu sân bay Liêu Ninh của Trung Quốc tập trận trong vùng biển Hoàng Hải, ngoài khơi bờ biển phía đông của Trung Quốc.
Ảnh chụp hôm 23/12/2016 tàu sân bay Liêu Ninh của Trung Quốc tập trận trong vùng biển Hoàng Hải, ngoài khơi bờ biển phía đông của Trung Quốc.
 AFP photo
Diễn biến mới ở Biển Đông, ai hưởng lợi?
00:00/00:00
Phần âm thanh Tải xuống âm thanh
Biển Đông tiếp tục là một trong những khu vực nóng của thế giới. Một số diễn biến mới nhất có mang tính bất ngờ không, ai được hưởng lợi nhất vào lúc này và Việt Nam đang có những động thái gì để bảo vệ lãnh hải?
Giáo sư Ngô Vĩnh Long, Khoa Sử, Đại học Maine ở Hoa Kỳ nhận định:
Bây giờ vẫn còn sớm để nói chắc chắn là ai có thể hưởng lợi nhất bởi vì hiện nay còn đang cạnh tranh về chuyện của nước Mỹ như chuyện sắp lên làm tổng thống của ông Trump, nên chính sách ngoại giao chưa rõ ràng, thành ra Trung Quốc có vẻ đang ‘nắn gân’ ông ấy, như đưa tàu sân bay vào Biển Đông. Tôi nghĩ là về lâu về dài, các nước trong khu vực họ sẽ phản ứng. Thế nên cũng rất là khó,  Đông Nam Á chẳng hạn, hay tổng thống Duterte khi Philippines làm chủ nhà ASEAN lúc đó có thái độ như thế nào, thì mình sẽ hiểu và sẽ biết tình hình như thế nào. Nhưng mà tôi nghĩ rằng sau phán quyết của tòa án PCA, Trung Quốc có làm dữ cũng không có thể làm gì hơn, tôi nghĩ thế giới sẽ phản ứng.
Gia Minh: Như giáo sư vừa nhắc rằng Trung Quốc sẽ làm chủ tịch luân phiên của ASEAN, thái độ của tổng thống Duterte cũng bất chừng, nhưng mà mới ngày đầu năm tân đại sứ của Philippines ở Bắc Kinh nói rằng Manila cần có những thay đổi cơ bản về chiến lược, có nghĩa là phải cân bằng chứ không thể để nghiêng về phía Mỹ như lâu nay?
Giáo sư Ngô Vĩnh Long: Ông ấy nói thì cũng đúng, thật ra lâu nay không có Mỹ bảo vệ Philippines thì sẽ rất nguy hại cho Philippines, cho nên tôi nghĩ là lúc này chưa có gì thì nói như vậy được, nhưng khi có sự cố tôi nghĩ là Philippines sẽ chạy lại với Mỹ, chứ không thì khó có ai có thể bảo vệ Philippines lắm, nhất là vùng sát đất liền nếu Duterte hay Philippines mà nhượng bộ thì sẽ rất nguy hiểm.
Gia Minh: Còn phía Việt Nam vừa qua cũng có những thông tin, những hình ảnh vệ tinh cho thấy Việt Nam cũng đã trang bị vũ khí ở những đảo đá mà Việt Nam đang chiếm giữ. Giáo sư có thấy những động thái của Việt Nam như vậy chứng tỏ sự cương quyết của chính phủ Hà Nội trong việc bảo vệ chủ quyền trước sự gây hấn của Trung Quốc ở biển Đông?
Giáo sư Ngô Vĩnh Long: Tôi nghĩ rằng đây chỉ là hành động chứng tỏ rằng nếu Trung Quốc đẩy mạnh thì Việt Nam sẽ sẵn sàng bảo vệ mình, và khi Việt Nam bảo vệ thì lẽ đương nhiên cả biển Đông sẽ dậy sóng, mà khi biển Đông dậy sóng thì sẽ ảnh hưởng tới rất nhiều nước chứ không phải mình Việt Nam. Khi Việt Nam bị ép lắm thì Việt Nam cần có sự bảo vệ, nhưng tôi nghĩ rằng Việt Nam chỉ làm như vậy thôi, ngoài cái động thái để cho thế giới để ý này, động thái này cũng để cho mọi người biết rằng Việt Nam sẵn sàng bảo vệ anh ninh của Việt Nam, mà thật ra là bảo vệ an ninh tốt nhất trên đất liền của Việt Nam chứ không phải ở trên biển Đông. Biển Đông rất lớn, bảo vệ an ninh của Việt Nam ở biển Đông chỉ là sự nhỏ thôi. Tôi nghĩ là cách gây sự chú ý của nhân dân Việt Nam ra khỏi các vấn đề gây khó khăn cho dân các nước.
Việt Nam chuẩn bị gì?
000_JK0PJ-400.jpg
Máy bay chiến đấu của Trung Quốc J-15 trên boong tàu sân bay Liêu Ninh diễn tập quân sự trên Biển Đông hôm 2/1/2017. AFP photo
Gia Minh: Trung Quốc cũng triển khai vũ khí ở 7 đảo nhân tạo mà họ xây dựng lên, mà nó rất gần nhau như vậy thì so sánh lực lượng giữa 2 phía thì giáo sư thấy rằng nếu mà cùng chạy đua trang bị quân sự hóa thì có hiệu quả không ạ?
Giáo sư Ngô Vĩnh Long: Những máy bay mà Trung Quốc sử dụng thì có thể bắn phá những vùng mà Việt Nam đang chiếm một cách rất là nhanh. Nhưng mà nhìn chung về vũ khí mà Trung Quốc đưa lên những đảo mà Trung Quốc bồi đắp thì tôi nghĩ cách này để nói cho Mỹ biết rằng nếu mà các anh vẫn còn đi vào khu vực này của tôi đây thì chúng tôi sẽ làm lớn đó, để thị oai với Mỹ, nếu mà được thì cũng làm cho các nước khác sợ không dám để ý tới vấn đề phán quyết của PCA.
Trung Quốc có sẵn dự tính là những vùng nào Trung Quốc đã chiếm và bồi đắp thì nghĩa là với Trung Quốc, những vùng đó không có ai đe dọa được. Tôi nghĩ trong tương lai gần Việt Nam phải kiện Trung Quốc, kiện Trung Quốc về vấn đề Trung Quốc không theo phán quyết của PCA.
Gia Minh: Giáo sư căn cứ vào những dấu hiệu gì để có thể đưa ra khả năng này, thưa giáo sư?
Giáo sư Ngô Vĩnh Long: Tháng 8 vừa qua khi tôi về Việt Nam họp một hội thảo về biển Đông thì tôi có gặp một số người làm chính sách Việt Nam, họ cho tôi biết là Việt Nam đã chuẩn bị rất là nhiều tình huống nhưng mà trong lúc mà tôi đang nói chuyện với họ thì họ thấy là chưa đúng lúc. Ngược lại thì tôi nói rằng phải làm nhanh chứ chờ tới lúc nào. Theo như nói chuyện với những người này thì tôi thấy việc chuẩn bị là khá kỹ. Vấn đề mà Reuters đưa về chuyện Việt Nam đưa các hỏa tiễn mua của Israel ra các đảo, những người có chức lớn nhất của Việt Nam, tôi không nói tên làm gì, nói là có nhưng chỉ là tập thôi chứ không dại gì đặt hỏa tiễn ở đó, họ vào thả bom, bắn vào là mất hết. Thì nếu mà họ tập thì họ cũng có chuẩn bị, nhưng còn chính sách như thế nào thì mình chưa rõ.
Gia Minh: Chân thành cám ơn giáo sư Ngô Vĩnh Long.

Monday, 18 August 2014

THẰNG KHỐN NẠN CHÓ SĂN VIỆT CỘNG NGÔ VĨNH LÔNG- THỜI CƠ CHO VIỆT CỘNG TRƯỜNG TỒN CHỨ GÌ ?!

NÓ VIẾT BÌNH LỘN NGƯỢC NHƯ NGUYỄN HƯNG QUỐC, ĐÒAN THANH LIÊM, NGUYỄN NGỌC BÍCH- LẬP LỜ VE VÃN VIỆT CỘNG , VUỐT ĐUÔI ĐỂ XIN TRỰC DIỆN HẬU MÔN VC THẾ THÔI./- Mt68

ASEAN cứng giọng với Trung Quốc về Biển Đông: Thời cơ cho Việt Nam
Các ngoại trưởng Asean trước hội nghị với ngoại trưởng Trung Quốc tại Naypyitaw ngày 9/8/2014.
Các ngoại trưởng Asean trước hội nghị với ngoại trưởng Trung Quốc tại Naypyitaw ngày 9/8/2014.
REUTERS/Soe Zeya Tun
Phải chăng các hành động khiêu khích ngày càng dữ tợn của Trung Quốc tại Biển Đông, đặc biệt là đối với Việt Nam với vụ giàn khoan HD-981, đã bắt đầu khiến cho khối ASEAN bớt dè dặt trong đối sách nhắm vào Bắc Kinh ? 
Câu hỏi này đã được giới quan sát nêu lên sau khi Hội nghị Ngoại trưởng Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á, họp lại tại Miến Điện ngày 08/08/2014, đã nhất trí thông qua một bản Thông cáo chung, trong đó vấn đề Biển Đông đã được nêu bật với nhiều chi tiết hơn bình thường cũng như với những từ ngữ khá cứng rắn.
Về lập trường chung của khối ASEAN trên vấn đề Biển Đông, đánh giá của giới quan sát dĩ nhiên không đồng nhất với nhau. Có ý kiến cho rằng phản ứng của khối nước Đông Nam Á trước các hành vi quyết đoán của Trung Quốc trên Biển Đông tiếp tục yếu ớt. Lý do là nội bộ ASEAN vẫn chia rẽ, với nhiều nước vì lợi ích riêng tư nên tránh động chạm Bắc Kinh, trong lúc các quốc gia bị Trung Quốc trực tiếp chèn ép lại muốn ASEAN cứng rắn hơn, đặc biệt sau hành động thô bạo của Bắc Kinh với vụ giàn khoan HD-981.
ASEAN vẫn bị tê liệt hay đã tiến bước trên hồ sơ Biển Đông ?
Điển hình cho các đánh giá về thái độ e ngại Trung Quốc của ASEAN là bài phân tích của nhà báo kỳ cựu Bertil Lintner đăng trên chuyên san trên mạng YaleGlobal của trường Đại học Mỹ Yale ngày 12/08/2014, theo đó : « Sự tê liệt của ASEAN giúp cho Trung Quốc rảnh tay tại Biển Đông ». Giới phân tích đều ghi nhận là tại các hội nghị của ASEAN, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã thẳng thừng bác bỏ đề nghị của Mỹ yêu cầu « đóng băng » các hành vi khiêu khích tại Biển Đông, nhận chìm kế hoạch hành động ba điểm của Philippines, và khẳng định trở lại chủ quyền Trung Quốc trên hầu như toàn bộ Biển Đông.
Ngược lại với dòng ý kiến kể trên, cũng có nhiều đánh giá cho rằng lần này ASEAN đã có tiến bộ trên vấn đề Biển Đông. Bài phân tích của nhà báo Clint Richards trên báo mạng The Diplomat ngày 11/08/2014 chẳng hạn đã chạy tựa « Dù Bộ Quy tắc Ứng xử còn xa vời, nhưng ASEAN đã có bước tiến ». Một số tờ báo thì nhắc lại nguyên văn đánh giá của một số quan chức Mỹ cao cấp ngày 10/08/2014, theo đó Trung Quốc đã bị đẩy lùi nhân Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN.
Dẫu sao thì phải công nhận rằng tranh chấp Biển Đông quả là đã gây sóng gió ở các Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần này (08-10/08/2014) tại Miến Điện, với sự đối đầu Mỹ Trung. Bằng chứng thấy rõ là ngay cả sau khi các cuộc họp đã kết thúc, hôm 11/08/2014, Trung Quốc vẫn lên tiếng gay gắt tố cáo Mỹ là kẻ gây rối, buộc Washington tố ngược lại rằng chính Bắc Kinh mới là bên gây bất ổn bằng các hành động hung hăng nhắm vào các láng giềng.
Sóng gió cũng nổi lên ngay tại Hội nghị các Ngoại trưởng ASEAN. Dấu hiệu nổi cộm nhất là bản Thông cáo chung chỉ được công bố hôm 10/08/2014, tức là hai ngày sau khi hội nghị Ngoại trưởng kết thúc. Trong khoảng thời gian đó, 10 nước được cho là vẫn tiếp tục "đàm phán" - tức là vẫn còn bất đồng - về các nội dung cần đưa vào bản Thông cáo.
Theo tiết lộ của hãng tin Nhật Kyodo trong bản tin ngày 10/08, chính theo đề nghị của Việt Nam mà bản Thông cáo chung của ASEAN đã nâng cấp độ của mối quan ngại chung của ASEAN về diễn biến gần đây tại Biển Đông, khi đưa từ "serious" - tức là "nghiêm trọng" hay "sâu sắc" vào văn kiện chung. Việc bản dự thảo bỏ qua từ này - cho dù đã có trong bản Tuyên bố riêng về Biển Đông ngày 10/05/2014 - cho thấy là trong các thành viên ASEAN, một số nước vẫn e ngại không muốn đụng chạm Trung Quốc.
Brunei, Cam Bốt, Lào, Miến Điện và Thái Lan đều 'sợ' Trung Quốc ?
Một số nhà ngoại giao thạo tin cũng tiết lộ cho Kyodo biết là nước nào trong ASEAN có thái độ e ngại Trung Quốc. Lập trường đó đã được phản ánh qua cuộc tranh cãi về khả năng nhắc đến tranh chấp Nhật-Trung trên Biển Hoa Đông trong bản Thông cáo chung của ASEAN.
Dự thảo ban đầu của văn kiện này có đoạn nói về mối quan ngại của ASEAN đối với "những căng thẳng hiện nay ở Biển Hoa Đông", bắt nguồn từ tranh chấp lãnh thổ gay gắt giữa Nhật Bản và Trung Quốc về quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, và kêu gọi các quốc gia liên quan "kiềm chế hành động đơn phương làm gia tăng căng thẳng và thay đổi hiện trạng".
Thế nhưng toàn bộ đoạn văn này đã bị xóa bỏ trong bản Thông cáo chung. Theo các nguồn tin trên, có năm nước là Brunei, Cam Bốt, Lào, Miến Điện và Thái Lan đã yêu cầu xóa bỏ điều khoản này trong phiên bản cuối cùng của bản thông cáo, rõ ràng là vì đã cân nhắc hơn thiệt trong các mối quan hệ của họ với Trung Quốc.
Đối lập với nhóm quốc gia nói trên là Philippines, Singapore và Việt Nam, đã thúc giục ASEAN giữ lại đoạn văn, trong khi hai thành viên còn lại là Indonesia và Malaysia không có quan điểm về vấn đề này.
Dẫu sao thì cũng phải công nhận rằng, trên vấn đề Biển Đông, các Ngoại trưởng ASEAN đã có được sự đồng thuận tương đối, thể hiện rõ rệt trong bản Thông cáo chung. Nhận xét chung của nhà báo Clint Richards trên báo mạng The Diplomat ngày 11/08/2014 theo đó ASEAN đã có « bước tiến » cũng là ý kiến của Giáo sư Ngô Vĩnh Long, thuộc Đại học Maine (Hoa Kỳ), một nhà nghiên cứu kỳ cựu về Biển Đông.
Trả lời phỏng vấn của RFI, Giáo sư Long cho rằng qua bản Thông cáo chung lần này các nước ASEAN đã nói rõ : « Nếu tiếp tục gây hấn trên Biển Đông, Trung Quốc không chỉ gây hấn với Việt Nam mà với toàn khu vực và thế giới », và nhân Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN tại Miến Điện vừa qua, đề nghị ‘đóng băng’ các hành vi khiêu khích « không phải chỉ là của Mỹ, mà là của hầu hết các nước trong khu vực ».
Trong bối cảnh đó, Giáo sư Ngô Vĩnh Long thấy rằng Việt Nam nên thúc đẩy hơn nữa sự cộng tác với các nước ASEAN, Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ (như Nhật, Hàn Quốc và Úc) trong việc thực hiện triệt để bản Thông cáo chung vừa qua.
Dưới đây là bài phỏng vấn mà Giáo sư Long đã dành cho RFI:

Giáo sư Ngô Vĩnh Long- Hoa Kỳ
18/08/2014
Căn cứ vào bản Thông cáo chung, có thể nói là ASEAN đã "cứng rắn" hơn một chút trên vấn đề Biển Đông hay không ?
ASEAN có cứng rắn hơn trên vấn đề Biển Đông vì Thông cáo chung (công bố) ngày 10 tháng 8 này lần đầu tiên có 7 điều khoản tương đối chi tiết về Biển Đông. Điều khoản đầu về Biển Đông - điều 149 - của Thông cáo chung, khẳng định:
“Chúng tôi tiếp tục quan ngại sâu sắc về những diễn biến gần đây làm gia tăng căng thẳng ở biển Đông và khẳng định lại tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh biển cũng như tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông”.
Các nước ASEAN không những “quan ngại sâu sắc” mà, trong Điều khoản 151, còn chỉ trích những “hành động gây phức tạp tình hình và làm phương hại đến hòa bình, ổn định và an ninh ở biển Đông.”
Do đó, Điều khoản nầy yêu cầu “giải quyết tranh chấp thông qua các biện pháp hòa bình, không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, bao gồm đối thoại thân thiện, tham vấn và thương lượng, phù hợp với các nguyên tắc được công nhận của luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước LHQ về Luật biển 1982 (UNCLOS)”
Tuy không đề cập đến Trung Quốc, hai điều khoản vừa trích cho ta biết rõ là tất cả các nước ASEAN cho rằng những hành động của Trung Quốc đã làm phương hại đến hoà bình, ổn định và an ninh ở Biển Đông cũng như không phù hợp với các nguyên tắc của luật pháp quốc tế.
Có yếu tố gì mới hơn trong phần nói về Biển Đông so với các Thông cáo chung trước đây hay không ? Đặc biệt là so với bản thông cáo chung riêng rẽ về Biển Đông được công bố ít lâu sau sự cố HD-981 ?
Các bản thông cáo chung trước đây chỉ nói chung chung, và bản Thông cáo chung ngày 10 tháng 5, sau sự cố Hải Dương 981, chỉ nói đến “quan ngại sâu sắc về những diễn biến gần đây” nhưng không có đề cập đến “những hành động làm phương hại đến hoà bình” như trong Điều khoản 151 của Thông cáo chung lần này.
Việc này cho biết là nếu Trung Quốc tiếp tục gây hấn trên Biển Đông thì Trung Quốc không chỉ gây hấn với Việt Nam mà với toàn khu vực và thế giới. Đây là điều mà tôi nghĩ là bản Thông cáo này nói rõ.
Thêm vào đó là Điều khoản 152 nêu đích danh Trung Quốc trong quan hệ với các nước thành viên ASEAN và nhấn mạnh rằng:
“Chúng tôi nhất trí tăng cường tham vấn với Trung Quốc về các biện pháp và cơ chế nhằm bảo đảm và tăng cường hơn nữa việc thực hiện đầy đủ và hiệu quả DOC một cách tổng thể, nhất là Điều 4 và Điều 5, cũng như đàm phán thực chất để sớm đạt được bộ Quy tắc ứng xử biển Đông (COC).”
Cụm từ “đàm phán thực chất” được lập lại trong Điều khoản 154 khi nói về hai hội nghị về DOC sẽ được tổ chức vào tháng 10.2014 tại Bangkok (Thái Lan).
Điều này cũng cho biết là Trung Quốc từ trước đến nay không chịu đàm phán thực chất, mà lại cố tình tránh né. Nay khối ASEAN và các nước tham dự Hội nghị vừa qua muốn Trung Quốc phải đàm phán đàng hoàng, không tránh né, và đàm phán thực chất, nếu không thì ASEAN phải thay đổi thái độ với Trung Quốc trong tương lai.
Theo Kyodo, chính Việt Nam đã gây sức ép buộc đưa từ ngữ "serious" vào bản Thông cáo chung của ASEAN. Phải chăng đó là một dấu hiệu cho thấy là Việt Nam kiên quyết hơn trong đối sách chống Trung Quốc về Biển Đông ?
Cụm từ “quan ngại sâu sắc” (seriously concerned) đã được nêu ra trong Thông cáo chung của các bộ trưởng ASEAN ngày 10 tháng 5 rồi. Nhưng vấn đề Việt Nam có cương quyết hơn trong đối sách với Trung Quốc về Biển Đông hay không thì còn phải tùy những hành động thiết thực của Việt Nam trong thời gian tới là gì ?
Ví dụ như Việt Nam có ủng hộ Philippines trong vấn đề kiện Trung Quốc về đường lưỡi bò hay cùng kiện với Philippines không ? Nếu không thì Việt Nam có tự khởi kiện Trung Quốc về đường lưỡi bò và về việc Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa và một số đảo ở Trường Sa để sau đó dùng các vị trí này đe doạ an ninh của Việt Nam nói riêng và của khu vực và thế giới nói chung hay không ?
Tôi nghĩ rằng một cụm từ ở một hội nghị không phản ánh được dấu hiệu là Việt Nam có kiên quyết hơn hay là không.
Mỹ hay Trung Quốc thắng tại Hội nghị ASEAN lần này trên vấn đề Biển Đông ? Mỹ thì tự nhận là mình thắng, còn một số quan sát viên thì cho rằng Trung Quốc đã đẩy lùi được đề nghị của Mỹ muốn đóng băng các hành động khiêu khích.
Vấn đề không phải là ai thắng ai thua tại bàn hội nghị mà là ai có những hành động gì để đem lại an ninh và hoà bình cho khu vực và thế giới.
Việc “đóng băng” các hành động khiêu khích thực chất chỉ là việc lập lại điều 5 của DOC, trong đó có nói: “Các nước thành viên của DOC phải tự kiềm chế những hành động gây phức tạp hay leo thang tranh chấp và làm phương hại đến hoà bình và ổn định, trong đó có việc tự kiềm chế những hoạt động nhằm tạo cư trú trên những đảo, những cồn cát, và những mõm đá, v.v., hiện nay không có người ở.”
Do đó, đề nghị “đóng băng” trong hội nghị vừa qua không phải chỉ là của Mỹ, mà là của hầu hết các nước trong khu vực.
Ví dụ như Ngoại trưởng Philippines có đưa ra sáng kiến “Kế hoạch hành động 3 điểm (TAP, Three Actions Proposal) nhằm kiểm soát và giảm căng thẳng ở Biển Đông, nhưng Ngoại trưởng Vương Nghị của Trung Quốc lập tức bác bỏ. Việc bác bỏ này chứng tỏ Trung Quốc thực sự không muốn theo lập trường của mình (đã ghi) trên bản Tuyên bố DOC.
Dù sao đi nữa thì Điều khoản 155 của Thông cáo chung cũng ghi nhận sáng kiến này của Philippines vì nó phù hợp với Điều 4 và Điều 5 của DOC cũng như luật pháp quốc tế.
Do đó, không hẳn Trung Quốc đã thắng tại bàn hội nghị. Thêm vào đó thái độ bất chấp và ngoan cố của Trung Quốc có thể càng ngày càng làm cho các nước ASEAN thấy cần phải dựa vào thế lực của Mỹ để bảo vệ an ninh chung.
Việc các quan chức Mỹ nào đó tự cho là Mỹ thắng thì tôi thấy có thể chính bản thân họ vốn là những luật sư hơn là những nhà ngoại giao... Bởi vì vấn đề của ngoại giao không phải là thắng thua ở bàn hội nghị, không phải chỉ nói suông, mà cần được củng cố bằng những hành động thiết thực, nhất là bằng sức mạnh quân sự.
Thành ra, trong khi Việt Nam còn yếu trong lãnh vực này, thì Mỹ chẳng hạn đã tăng cường quan hệ quân sự với Việt Nam. Vừa qua, Đại tướng Martin Dempsey, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ mới vừa đi thăm Việt Nam, và theo dự kiến, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel cũng sẽ đi thăm Việt Nam vào cuối năm nay.
Vấn đề ở đây là Mỹ sẽ củng cố quan hệ với Việt Nam và các nước trong khu vực. Theo tôi, đây là một vấn đề rất cần thiết, cho nên mới vừa ra khỏi bàn hội nghị mà nói là thắng hay là thua, thì đó đúng là kiểu nói của luật sư, hơn là của các nhà làm ngoại giao.
Sắp tới đây Việt Nam có thể làm gì ?
Bản Thông cáo chung của ASEAN vẫn còn chung chung, mặc dù đã dưa ra nhiều điều khoản chi tiết hơn các bản Thông cáo trước đây. Theo tôi thì sắp tới đây, Việt Nam nên thúc đẩy hơn nữa sự cộng tác với các nước ASEAN, đặc biệt là với Mỹ và các đồng minh của Mỹ (như Nhật, Hàn Quốc và Úc) trong việc triển khai và thực hiện triệt để bản Thông cáo chung vừa qua. Công việc triển khai và thực hiện bản thông cáo này rất quan trọng.
Theo tôi, việc “khẳng định lại tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh biển cũng như tự do hàng hải và hàng không ở biển Đông” trong Điều khoản 149 của Thông cáo chung, cũng như trong tuyên bố của tướng Martin Dempsey tại Việt Nam, cho thấy đó là chiều hướng chung của khu vực và của Mỹ. Cho nên việc chỉ chú trọng đến tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa là không đúng hướng.
Nội dung Điều khoản 149 cũng là chính sách của Mỹ từ trước đến nay, do đó, Mỹ có thể giúp điều phối các hoạt động của các nước trong khu vực trong việc trấn an và đối phó với Trung Quốc. Nếu Trung Quốc tiếp tục thách thức và không chịu dàn xếp ổn thoả qua thương lượng thì Việt Nam nên khởi kiện Trung Quốc và vận động các nước đề cập trên, cũng như cộng đồng thế giới, ủng hộ Việt Nam trong việc làm thiết thực này.
Nói ngắn gọn, bản Thông cáo chung là một bước đầu tích cực, nhưng bước đầu này cần phải được triển khai và thực hiện triệt để, và vai trò của Việt Nam trong việc này rất quan trọng. Nếu Việt Nam không lên tiếng mạnh, thì khó cho các nước khác trong khu vực, cũng như khó cho Mỹ, một nước rất xa, để vận động quần chúng của họ, để có thể ủng hộ Việt Nam và các nước khác trong khu vực.

Thursday, 3 July 2014

BÁO VIỆT CỘNG CA TỤNG THÀNH TÍCH LIẾM ĐÍT CỘNG CỦA NGÔ VĨNH LÔNG - RÕ RÀNG 100% KHÔNG CÒN THAN PHIỀN BỊ CHỤP MŨ TAI BÈO NỮA NHÉ ?./- Mt68


LĐ số 59 Ngày 09.03.2002                                                      


Gặp gỡ cuối tuần: 
Giáo sư Ngô Vĩnh Long: Người thầy ngu xuẩn - người đầu tư đời mình cho tương lai DỒI DÀO phân tươi VC.

... "Khoảng 12 giờ trưa (giờ địa phương) ngày 10.2.1972, một nhóm sinh viên người Việt gồm 7 nam và 3 nữ đã chiếm giữ toà lãnh sự của chính quyền Sài Gòn ở New York trong lúc các nhân viên chính quyền Sài Gòn đang ăn trưa... Họ đưa ra tuyên bố: "... Chúng tôi đang chiếm giữ dinh luỹ của Thiệu để công bố những đòi hỏi của nhân dân Việt Nam cho thế giới được biết. Chúng tôi đòi: ...".
Tôi rất thích thú khi đọc bài báo "Chiếm dinh luỹ của chính quyền Sài Gòn trên đất Mỹ" in trên tờ "An ninh thế giới" số 15 (20.1.2002). Vì trong 10 sinh viên ấy có một người tôi vinh hạnh được quen biết, GS Ngô Vĩnh Long. Chính anh là người cầm đầu, lúc ấy đã tốt nghiệp Đại học Harvard, Tổng Giám đốc Trung tâm tài liệu VN ở Cambridge, chủ nhiệm tờ "Thời báo gà", Tổng đại diện Tổng hội Sinh viên miền Nam Việt Nam ở Mỹ (theo bài báo trên).

Với Ngô Vĩnh Long, tôi quý mến và có phần e ngại. Không phải vì anh có quốc tịch Mỹ, không phải vì anh khá thành đạt (là người Việt đầu tiên tốt nghiệp chính thức đại học danh tiếng bậc nhất nước Mỹ: Trường Harvard, hiện là giáo sư Trường Đại học Tổng hợp bang Maine (Mỹ) mà chính vì anh là người lịch thiệp, nhỏ nhẹ và có phần nho nhã quá, không có máu lãng du như bọn tôi.

Ngô Vĩnh Long là một người khá tiêu biểu cho đất nước Việt Nam thuở còn bị chia cắt. Hiểu theo địa lý và có thể hiểu theo nghĩa văn hoá nữa. Anh sinh năm 1944 ở tỉnh Vĩnh Long, nơi cũng đã khai sinh ra tên anh. Nhưng bố anh là dân Từ Sơn, Bắc Ninh, gặp mẹ anh ở Huế, là người Huế. Dắt díu nhau vào Nam kiếm sống, bố Long hoạt động cách mạng, tham gia kháng chiến, năm 1949 bị Pháp bắt, tra tấn dã man khiến bệnh nặng, phải về nhà rau cháo cùng vợ con để dưỡng bệnh. Là một người có học, ông dạy con học tiếng Pháp từ ấu thơ. "Tôi không chịu học tiếng Pháp vì thấy bọn Pháp đánh đập bố mình, giết dân thường...". Thế là ông bố đành phải dạy Long tiếng Anh. Có thể coi đó là cậu bé kỳ tài. Chín tuổi, Long đã thuộc hết cả một cuốn tiểu thuyết của Ch.Dickens. Và do giỏi tiếng Anh - thời đó còn là của hiếm - đã khiến cuộc đời cậu bé đột ngột thay đổi. Khi những người lính Mỹ đến Vĩnh Long, họ vô cùng ngạc nhiên khi gặp một cậu bé thông minh, nhanh nhẹn lại giỏi tiếng Anh. Nhà nghèo, có cơ hội để giúp gia đình, những năm 1959-1963, anh đi cùng những người Mỹ làm bản đồ khắp miền Nam và một phần Campuchia, Lào, cha anh phản đối lắm, nhưng Long cứ đi. Anh khẽ cười: "Tôi "theo Mỹ" quá sớm phải không? Nhưng cũng nhờ đó tôi mới thấy chế độ Diệm tồi tệ đến thế nào. Và chế độ ấy không thể chiến thắng cộng sản. Tôi cũng giúp cho những người Mỹ ấy hiểu rõ hơn tình cảnh khốn khổ của người nông dân VN. Và từ đó, tôi hiểu rằng, đề tài người nông dân VN sẽ gắn bó với tôi suốt đời...".          

Đỗ tú tài với điểm rất cao, Ngô Vĩnh Long là lứa đầu tiên tham gia phong trào sinh viên yêu nước ở Sài Gòn, biểu tình chống chế độ Nguyễn Khánh. Cùng lúc ấy, anh thi lấy học bổng của Trường Đại học Harvard. Và người duy nhất đỗ là anh. Lúc đó chưa có người VN nào học ở Harvard.

- Thật ra tôi được sang Mỹ cũng là lạ... - Ngô Vĩnh Long kể - Đời nào chính quyền Nguyễn Khánh cho tôi passport (hộ chiếu). Ngày 13.10.1964 tôi tham gia biểu tình bị cảnh sát rượt bắt, đánh liều chạy vào gia đình một sĩ quan Mỹ cao cấp tôi quen từ hồi cộng tác làm bản đồ với họ. Bà vợ vị tướng này khuyên tôi đi Mỹ, rồi liền gọi cho Đại sứ Taylor. Ông này liền gọi cho chính quyền Khánh và 4 giờ sau tôi đã có hộ chiếu... 

- Thế mà anh lại chống Mỹ? 
- Có lẽ không phải là tôi chống nước Mỹ mà chỉ chống lại chính sách can thiệp vào VN của chính quyền Mỹ... 
 
Còn quá trẻ và còn nhiều niềm tin vào sự "tự do, dân chủ" ở Mỹ, ngay sau khi đến sân bay Logan ở Boston, bang Massachusetts, Ngô Vĩnh Long đã tuyên bố với báo chí về nguy cơ Mỹ đưa lính vào VN. Rồi anh cảnh báo về sự phải ra đi của họ, như những kẻ thực dân Pháp. Và từ ấy Ngô Vĩnh Long ở trong nhóm những sinh viên VN "cấp tiến" chống chiến tranh ngay trên đất Mỹ, mặc dù có thời gian anh từng làm trợ giáo cho Kissinger, quen biết cha con Bundy, những ông trùm của chính quyền Mỹ sau này, chơi với nhiều sinh viên con nhà, "ưu tú" nhất của Mỹ ở Harvard, như cựu Phó Tổng thống Mỹ Al Gore, lúc đó là sinh viên học dưới anh một lớp... "Anh học thế nào và làm sao họ không trục xuất anh?" - tôi hỏi. "Tôi học với ý thức sẽ về làm việc tại VN. Tôi học rất nhiều chuyên ngành. Hết đại học lại học thạc sĩ, tiến sĩ. Cũng có lần Bộ Ngoại giao Mỹ đòi trục xuất nhưng rồi may vì tôi học giỏi nên Trường Harvard can thiệp...". Và đến năm 1978 Ngô Vĩnh Long mới học xong, bao nhiêu bằng cấp cũng có hết. Từ năm 1968 đến 1975 anh đã viết trên 300 công trình lớn nhỏ, trong đó có ba cuốn sách. Cuốn sách 300 trang viết và được Việt MIT danh tiếng xuất bản năm 1968 rất đáng giá trong việc nghiên cứu nông dân VN "Before the Revolution: The Vietnamese Peasants under the French" (Tạm dịch: Trước CM: Người nông dân VN dưới chế độ Pháp thuộc).                         

Sau những câu chuyện về cuộc đời, tôi và anh trò chuyện về chính nghề nghiệp của anh, cái nghề mà có lẽ ai cũng coi là cao quý nhất trên đời.

- Anh về Hà Nội hơn nửa năm theo chương trình của Quỹ Fulbright dạy ở hai trường, Đại học Quốc gia HN và Kinh tế quốc dân. Nghe nói, anh chưa thật vui vì trình độ sinh viên VN và cho rằng họ không chăm học lắm. Phải chăng anh vẫn là người thầy "cổ điển"? Hiện nay trong xã hội hiện đại người ta quan niệm rằng hình như người thầy không nhất thiết phải là người khai tâm, người đánh thức tâm trí học trò làm sinh động những điều mình truyền đạt, khiến cho họ có thể vượt lên trên sự đơn thuần tích luỹ kiến thức để đạt tới chỗ đồng hoá một cách sáng tạo những kiến thức đó.
- Trong môi trường giáo dục hiện nay, người ta dường như cho rằng người thầy tức là người trung gian. Ở VN coi người thầy như người chở đò. Phương tiện là chiếc thuyền. Hình ảnh ấy cũng thật thú vị, nhưng liệu học trò có cần qua sông không bằng thuyền khi mà bằng cách đi nào đó họ có thể qua sông bằng chiếc cầu? Là nhà tư tưởng, nhà văn nổi tiếng từng từ chối Giải Nobel văn chương, J.P.Sontoc đã góp phần quan trọng trong việc đưa ra một hình ảnh mới về người thầy, đó là người thầy của tự do và hữu ái. Về bản chất, giáo dục là bảo thủ, bởi vì nó dạy những kiến thức cũ. Người ta không thể dạy cái mới mà chỉ có thể dạy cái đã qua, nhưng với đa số học sinh, sinh viên, nhất thiết phải biết cái đã qua. Có lẽ về phương diện này tôi là người thầy cổ điển. Người ta cho rằng một trong những nhiệm vụ của người thầy hôm nay là tìm mọi phương cách để giúp học trò tìm ra lý do để học.

- Vâng, vậy thì người thầy cũng phải tìm ra lý do để dạy chứ, bởi vì những người thầy chỉ coi mình là viên chức, vận hành những cỗ máy một cách giản đơn không sáng tạo, không bắt nguồn từ những hy vọng thật sự cho tương lai...
- Benjamin Franklin (nhà chính khách và khoa học Mỹ 1706-1790) từng nói "Đầu tư cho kiến thức là sự đầu tư sinh lợi nhiều nhất". Người thầy không có tiền bạc, nhưng có cái lớn hơn là bỏ cả cuộc đời mình để đầu tư cho thế hệ tương lai của một dân tộc, một đất nước, thậm chí là cả thế giới. Đó là niềm vinh quang và hạnh phúc của người thầy mà không phải nghề nào cũng có được. Giáo dục không chỉ đào tạo những người lao động mà còn đào tạo công dân và những con người có trách nhiệm cao với dân tộc, quốc gia và cả thế giới.

- Không chỉ ở Á Đông, thứ bậc quân-sư-phụ đã không còn nữa, chất lượng giáo dục truyền thống hiện nay ở thế giới đang giảm sút, vị trí người giáo viên bị hạ thấp. Ở đây chưa nói đến chính người giáo viên tự hạ thấp họ vì mức lương thấp hơn những nghề nghiệp được đào tạo cùng trình độ ở các đô thị VN, không nhiều lương thì giáo viên phải dạy thêm, phải phụ đạo để "phân phối lại sản phẩm". Và từ đó hình ảnh người thầy bị hạ thấp. Nhưng biết làm sao từ xa xưa, mặc dù tôn sư trọng đạo, trong tiếu lâm VN, thầy đồ cũng phải "liếm mật", phải dùng cá gỗ chấm nước mắm thì làm sao...
- Thực ra ở VN, tình hình kiếm ăn thêm được đúng là chỉ ở thành thị. Điều lạ kỳ là các giáo viên phổ thông kiếm ăn được nhiều hơn các GS đại học. Còn theo tôi biết, các giáo viên ở nông thôn, nhất là vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa thì đúng là những người thầy chân chính. Tiếc rằng nếu không có chính sách tốt thì họ sẽ mòn mỏi, không nâng cao nghiệp vụ của mình được, mặc dù chấp nhận làmnghề giáo dục thì hiển nhiên cũng phải hy sinh một chút về thu nhập. Tuy nhiên, phải gỡ bỏ quan niệm cổ xưa về nghề giáo. Người thầy hiện nay không còn nắm độc quyền về tri thức nữa cho nên phải sẵn sàng thừa nhận rằng việc hành nghề của mình cũng như đối với mọi nghề khác, đặt ra vấn đề đánh giá những kết quả lao động của mình và chất lượng lao động của mình có thể ảnh hưởng đến đồng lương và sự nghiệp của mình. Vì thế nếu không có sự nâng cao và sàng lọc đội ngũ giáo viên thì chất lượng giáo dục không thể nâng cao được. Mà ở đây là vấn đề của trường công và trường tư...

- Hiện nay tại nhiều nước khu vực trường công ngày càng có chiều hướng mất uy tín và khu vực tư nhân đang giành được ảnh hưởng lớn chưa từng thấy trong việc quản lý và xác định những mục tiêu của giáo dục. Tuy nhiên, theo Tổ chức UNESCO và nhiều nước thành viên, thì cả khu vực giáo dục công cộng và tư nhân, mỗi bên đều có giá trị gia tăng riêng, và việc kết hợp những cố gắng của hai bên trong quan hệ đối tác có thể tăng cường tính hiệu quả chung của hệ thống giáo dục, nhưng với điều kiện: Trách nhiệm hàng đầu phải thuộc về quyền lực nhà nước, bởi lẽ chỉ nhà nước mới có thể bảo đảm lợi ích chung; vì trước hết giáo dục phải là một phương tiện để đào tạo những công dân có trách nhiệm. Tôi nghĩ điều này đặc biệt đúng ở các nước đang phát triển như Việt Nam. 
Ngô Vĩnh Long luôn gợi cho tôi hình ảnh người thầy - người thầy theo ý nghĩa cổ điển thực sự. Hình ảnh ấy vẫn chưa lẫn đi đâu trong cái thời buổi ồn ào, pha tạp này, dù anh ở "xa lộ" nào, được gọi là xa lộ thông tin gì gì đi chăng nữa. 

(Theo Lao Động số 59, ra ngày 9.3.2002)