Phế thải con người
Nguyễn đạt Thịnh
David Trương Đình Hùng
Trong một cuộc phỏng vấn qua điện thoại, nữ luật sư Monique Trương Miller -cư dân California- nói người em trai của bà -thạc sĩ kinh tế David Trương- rất hiểu số phận con người là để bị phế thải. Ông David Trương vừa từ trần hôm 26 tháng Sáu 2014 tại Penang, Mã Lai, hưởng thọ 68 tuổi; ông chết vì bệnh ung thư.
Nguyên văn câu nói của bà Monique là, "Em tôi coi cuộc đời của nó là một vụ án chính trị, và nó chỉ là một con chốt bé nhỏ trên bàn cờ mà các lãnh tụ cường quốc so tài với nhau để hoàn thành mục đích chính trị của họ." Ý bà Monique có thể là, em bà, một người đàn ông Việt Nam sinh ra trong thời chiến, đất nước đắm chìm trong tang tóc điêu linh, số phận của người Việt, của nước Việt lại không do người Việt, mà do những lãnh tụ quốc tế định đoạt. Câu nói thê lương này có thể đúng cho nhiều người đàn ông Việt Nam khác, nhưng không đúng cho trường hợp của ông David Trương, em bà. Tên khai sinh của ông David là Trương Đình Hùng, con trai của ông Trương Đình Dzu, một chính khách chống chiến tranh; và một luật sư hành nghề tại Sài Gòn. Ông là chủ tịch một tổ chức luật sư trong đó có nhiều luật sư không hành nghề luật sư, như ông Nguyễn Hữu Thọ và ông Trần Văn Khiêm; ông Thọ làm chủ tịch Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, và ông Khiêm là em của bà Trần Lệ Xuân, vợ ông Ngô Đình Nhu. Cuộc đời ông David không bị các lãnh tụ cường quốc và cũng không bị cuộc chiến tranh Việt Nam định đoạt, mà do chính tay bố ông David -ông Dzu- xếp đặt. Ông Dzu đem con trai ông thoát ra ngoài số phận của những người trang lứa với cậu; 20 tuổi, David không vào quân trường, không trở thành một người lính như mọi thanh niên 20 tuổi khác -David đi Mỹ du học. Lo cho con được yên thân, nhưng ông Dzu không an phận; ông tham gia vào chính trường, với chủ trương chống lại cuộc chiến đấu của người Nam Việt, lúc đó đang cầm súng đối phó với cuộc xâm lược của phe Cộng Sản. Ông chủ trương hòa bình với bất cứ giá nào, ông đòi Hoa Kỳ chấm dứt không được oanh tạc Bắc Việt nữa, và đòi Nam Việt ngồi vào bàn thương thuyết với MTGPMN. Năm 1967 ông ra ứng cử tổng thống với phù hiệu con bồ câu hòa bình, và thất cử; người thắng cử là ông Nguyễn Văn Thiệu. Sau cuộc bầu cử, ông bị ông Thiệu bắt giam, và chỉ được tổng thống Trần Văn Hương phóng thích ngày ông Thiệu bỏ đất nước, bỏ nhân dân, chạy theo Mỹ. Nhưng ông Dzu thù ghét ông Thiệu ít hơn thù ghét Việt Cộng, vì Việt Cộng không cần biết là ông thân cộng, cứ bắt giam ông thêm 9 năm nữa, từ 1978 đến 1987. Sau ngày được phóng thích, ông Dzu khắc khoải sống thêm được 4 năm rồi nhắm mắt lìa đời trong uất hận. Quê ở Bình Định, ông ra Hà Nội học Lycée Albert Sarraut rồi vào Đại học Đông Dương học luật. Tốt nghiệp ông được bổ làm tri huyện, nhưng sau vài năm lại về Cần Thơ hành nghề luật sư. Năm 1945 Trương Đình Dzu dọn lên Sài Gòn nhận làm chánh văn phòng cho Ủy Viên Cộng Hòa của Pháp là Jean Cédille khi người Pháp đổ bộ tái chiếm Nam Kỳ. Ông từng là hội trưởng của hội Rotary Club rồi thống đốc Rotary Club Đông nam Á. Cũng như David -con ông- ông Dzu không phải là nạn nhân trong cuộc cờ thế giới: ông tự tạo ra cuộc đấu tranh thân Cộng của ông và lãnh hậu quả của cuộc đấu tranh này. David cũng khổ vì thân cộng, mặc dù cái dại của David không liên hệ, mà cũng không giống cái dại của ông Dzu. David chuyển hai công hàm mật của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cho Việt Cộng; ông nhận hai tài liệu này từ tay ông Donald Humphrey, một viên chức làm trong Bộ Ngoại Giao, và là một cựu sĩ quan Mỹ tham chiến tại Việt Nam, có vợ, con còn đang sống tại Việt Nam vào năm đó. Humphrey hy vọng đem hai tài liệu này đánh đổi việc Việt Cộng cho vợ con ông xuất ngoại sang Hoa Kỳ đoàn tụ với ông. Cả hai ông David và Humphrey cùng bị bắt và cùng bị truy tố; Humphrey nhìn nhận có đánh cắp hai tài liệu này, David nhìn nhận có chuyển những tài liệu đó cho Việt Cộng; tuy nhiên cả hai cùng phủ nhận họ không phải là điệp viên, không ăn lương của Việt Cộng hay của bất cứ ai khác, và không chủ tâm gây nguy hại cho Hoa Kỳ. Cả hai cùng lãnh 15 năm tù, và đại sứ Đinh Bá Thi (đại diện Việt Nam Cộng Sản tại Liên Hiệp Quốc) cũng bị chính quyền Mỹ trục xuất với tư cách "một đồng lõa không bị truy tố." Việc ông Thi bị trục xuất đưa đến một hậu quả bất ngờ là Hà Nội nghi David là người của CIA Mỹ, tạo ra scandale để Mỹ có cớ trục xuất ông Thi. Tại Việt Nam, họ bắt vợ chồng ông Dzu và cậu con trai út đi quản chế. Tại Mỹ, Trương Đình Hùng thọ hình được 7 năm 4 tháng, thì được trả tự do trước kỳ hạn, với điều kiện là phải ra khỏi nước Mỹ. Ông Hùng cùng bà Carolyn Gates -vợ ông- rời Hoa Kỳ sang sống tại Hòa Lan, với công việc làm cố vấn phát triển kinh tế cho Liên Âu; cũng với tư cách viên chức Liên Âu, vợ chồng ông còn làm việc tại Hà Nội một thời gian, rồi qua Mã Lai. Với truyền thống bênh vực tự do cá nhân, truyền thông Hoa Kỳ chỉ trích FBI nghe lén điện thoại của David, đặt máy ghi âm và camera trong phòng làm việc của Humphrey để tìm bằng chứng buộc tội hai ông này. Bộ trưởng Tư Pháp Hoa Kỳ vào thời điểm đó -ông Griffin B. Bell- biện minh việc ông cho phép FBI nghe lén điện thoại của ông David, và đặt máy trong văn phòng ông Humphrey là những miễn trừ do yếu tố an ninh quốc gia cho phép hành pháp vi phạm tu chính án số 4. Truyền thông còn chỉ trích tòa án theo lập trường của hành pháp, bác đơn kháng án của luật sư bênh vực hai bị can, căn cứ trên việc công tố viện đã thu thập bất hợp pháp những bằng cớ buộc tội. Nghị sĩ Edward M. Kennedy, cũng góp ý là "vụ án Humphrey và Trương chứng minh nhu cầu phải có một đạo luật kiểm soát tình báo." Năm 2003, ông Michael E. Tigar -luật sư biện hộ cho Trương đình Hùng- xuất bản quyển "Fighting Injustice" (Chiến Đấu Chống Bất Công), kể lại vụ án, rồi kết luận, "đã không chịu học hỏi những sai lầm tại Việt Nam, chính phủ Mỹ còn quay lại trừng phạt những người chống chính sách Việt Nam của họ. Cũng không buồn thảo luận về những vấn đề an ninh quốc gia, chính phủ chỉ ban hành luật lệ khe khắt để giữ kín mọi việc." Ông Tigar chủ quan nên nhận xét thiên lệch vụ án Trương Đình Hùng- Donald Humphrey; việc ông Humphrey thương nhớ vợ con, tìm cách cứu vợ con ra khỏi biển khổ Việt Nam là hành động đẹp, tạo thiện cảm cho nhiều người, nhưng không ai bênh vực việc ông đánh cắp tài liệu mật của Bộ Ngoại Giao trao cho Việt Cộng để đánh đổi lấy tờ giấy xuất cảnh của vợ, con ông. Việc David Trương, một công dân Hoa Kỳ tiếp xúc với đại sứ Đinh Bá Thi để chuyển tài liệu mật do Humphrey đánh cắp được lại càng sai hơn nữa. Trở lại với góc nhìn bi quan của bà Monique Trương qua câu bà nói,"Em tôi coi cuộc đời của nó là một vụ án chính trị, và nó chỉ là một con chốt bé nhỏ trên bàn cờ mà các lãnh tụ cường quốc so tài với nhau để hoàn thành mục đích chính trị của họ;" để thấy góc nhìn này cũng hoàn toàn sai. Ông Hùng bị bắt, bị tù, bị "mời" ra khỏi lãnh thổ Hoa Kỳ không do quyết định của một lãnh tụ chính trị nào cả; ông ta tự tạo ra tất cả những điều đó, bằng cách tự tay và tự ý cầm tài liệu mật của Hoa Kỳ trao cho Việt Cộng. Những con chốt bé nhỏ không có khả năng tự quyết định phải là những quân nhân Việt Nam Cộng Hòa, bị Mỹ cúp đạn, bị Trung Cộng tăng cường viện trợ cho Việt Cộng, tạo ra thất thế cho miền Nam, khiến người lính anh hùng Việt Nam bị địch giết trong thất thế, và phải là những người đàn bà Việt Nam chân yếu, tay mềm bị hải tặc hiếp dâm trên Biển Đông trong lúc họ mưu tìm tự do. Cuộc dâu, biển đổi đời đó mới chính là hậu quả của một nước cờ trên bàn cờ quốc tế; những người lính hết đạn bị địch giết, bị địch sinh cầm, vợ con họ bị hải tặc cưỡng hiếp trên mặt biển mới chính là những con người bị phế thải. Nhưng phép lạ là những con người bị phế thải đó đang đứng dạy, rồi tạo thành một sức mạnh xây dựng mà những thế lực toan đào thải họ 39 năm trước cũng phải kinh ngạc, nể nang. (nđt) |
Mt68 History
Showing posts with label VCTruongDinhHungMalai. Show all posts
Showing posts with label VCTruongDinhHungMalai. Show all posts
Tuesday, 12 April 2016
TRƯƠNG ĐÌNH HÙNG CHẾT THẢM ĐỂ CHO QUANGTRỌNGFUCKIMNGÂN THA HỒ CƯỚP GIỰT
Friday, 11 July 2014
TRƯƠNG ĐÌNH DZU "THÙ THIỆU THÌ ÍT MÀ THÙ VC THÌ NHIỀU" -
NHƯNG ÔNG DZU CHẮC KHÔNG HỀ BIẾT MÌNH ĐÃ QUÁ NGU XUẨN KHÔNG ? CHÍNH ÔNG ĐÃ GIẾT TRƯƠNG ĐÌNH HÙNG, CHÍNH ÔNG ĐÃ LÀM CHO VNCH SUY YẾU DƯỚI KHÁT VỌNG HÒA BÌNH KHỐN NẠN CỦA ÔNG ??? Mt68
Nguyễn đạt Thịnh
David TrươngTrong một cuộc phỏng vấn qua điện thoại, nữ luật sư Monique Trương Miller -cư dân California- nói người em trai của bà -thạc sĩ kinh tế David Trương- rất hiểu số phận con người là để bị phế thải. Ông David Trương vừa từ trần hôm 26 tháng Sáu 2014 tại Penang, Mã Lai, hưởng thọ 68 tuổi; ông chết vì bệnh ung thư.
Nguyên văn câu nói của bà Monique là, "Em tôi coi cuộc đời của nó là một vụ án chính trị, và nó chỉ là một con chốt bé nhỏ trên bàn cờ mà các lãnh tụ cường quốc so tài với nhau để hoàn thành mục đích chính trị của họ."
Ý bà Monique có thể là, em bà, một người đàn ông Việt Nam sinh ra trong thời chiến, đất nước đắm chìm trong tang tóc điêu linh, số phận của người Việt, của nước Việt lại không do người Việt, mà do những lãnh tụ quốc tế định đoạt.
Câu nói thê lương này có thể đúng cho nhiều người đàn ông Việt Nam khác, nhưng không đúng cho trường hợp của ông David Trương, em bà.
Tên khai sinh của ông David là Trương Đình Hùng, con trai của ông Trương Đình Dzu, một chính khách chống chiến tranh; và một luật sư hành nghề tại Sài Gòn.
Ông là chủ tịch một tổ chức luật sư trong đó có nhiều luật sư không hành nghề luật sư, như ông Nguyễn Hữu Thọ và ông Trần Văn Khiêm; ông Thọ làm chủ tịch Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, và ông Khiêm là em của bà Trần Lệ Xuân, vợ ông Ngô Đình Nhu.
Cuộc đời ông David không bị các lãnh tụ cường quốc và cũng không bị cuộc chiến tranh Việt Nam định đoạt, mà do chính tay bố ông David -ông Dzu- xếp đặt. Ông Dzu đem con trai ông thoát ra ngoài số phận của những người trang lứa với cậu; 20 tuổi, David không vào quân trường, không trở thành một người lính như mọi thanh niên 20 tuổi khác -David đi Mỹ du học.
Lo cho con được yên thân, nhưng ông Dzu không an phận; ông tham gia vào chính trường, với chủ trương chống lại cuộc chiến đấu của người Nam Việt, lúc đó đang cầm súng đối phó với cuộc xâm lược của phe Cộng Sản.
Ông chủ trương hòa bình với bất cứ giá nào, ông đòi Hoa Kỳ chấm dứt không được oanh tạc Bắc Việt nữa, và đòi Nam Việt ngồi vào bàn thương thuyết với MTGPMN. Năm 1967 ông ra ứng cử tổng thống với phù hiệu con bồ câu hòa bình, và thất cử; người thắng cử là ông Nguyễn Văn Thiệu.
Sau cuộc bầu cử, ông bị ông Thiệu bắt giam, và chỉ được tổng thống Trần Văn Hương phóng thích ngày ông Thiệu bỏ đất nước, bỏ nhân dân, chạy theo Mỹ.
Nhưng ông Dzu thù ghét ông Thiệu ít hơn thù ghét Việt Cộng, vì Việt Cộng không cần biết là ông thân cộng, cứ bắt giam ông thêm 9 năm nữa, từ 1978 đến 1987.
Sau ngày được phóng thích, ông Dzu khắc khoải sống thêm được 4 năm rồi nhắm mắt lìa đời trong uất hận.
Quê ở Bình Định, ông ra Hà Nội học Lycée Albert Sarraut rồi vào Đại học Đông Dương học luật. Tốt nghiệp ông được bổ làm tri huyện, nhưng sau vài năm lại về Cần Thơ hành nghề luật sư. Năm 1945 Trương Đình Dzu dọn lên Sài Gòn nhận làm chánh văn phòng cho Ủy Viên Cộng Hòa của Pháp là Jean Cédille khi người Pháp đổ bộ tái chiếm Nam Kỳ. Ông từng là hội trưởng của hội Rotary Club rồi thống đốc Rotary Club Đông nam Á.
Cũng như David -con ông- ông Dzu không phải là nạn nhân trong cuộc cờ thế giới: ông tự tạo ra cuộc đấu tranh thân Cộng của ông và lãnh hậu quả của cuộc đấu tranh này.
David cũng khổ vì thân cộng, mặc dù cái dại của David không liên hệ, mà cũng không giống cái dại của ông Dzu.
David chuyển hai công hàm mật của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cho Việt Cộng; ông nhận hai tài liệu này từ tay ông Donald Humphrey, một viên chức làm trong Bộ Ngoại Giao, và là một cựu sĩ quan Mỹ tham chiến tại Việt Nam, có vợ, con còn đang sống tại Việt Nam vào năm đó. Humphrey hy vọng đem hai tài liệu này đánh đổi việc Việt Cộng cho vợ con ông xuất ngoại sang Hoa Kỳ đoàn tụ với ông.
Cả hai ông David và Humphrey cùng bị bắt và cùng bị truy tố; Humphrey nhìn nhận có đánh cắp hai tài liệu này, David nhìn nhận có chuyển những tài liệu đó cho Việt Cộng; tuy nhiên cả hai cùng phủ nhận họ không phải là điệp viên, không ăn lương của Việt Cộng hay của bất cứ ai khác, và không chủ tâm gây nguy hại cho Hoa Kỳ.
Cả hai cùng lãnh 15 năm tù, và đại sứ Đinh Bá Thi (đại diện Việt Nam Cộng Sản tại Liên Hiệp Quốc) cũng bị chính quyền Mỹ trục xuất với tư cách "một đồng lõa không bị truy tố."
Việc ông Thi bị trục xuất đưa đến một hậu quả bất ngờ là Hà Nội nghi David là người của CIA Mỹ, tạo ra scandale để Mỹ có cớ trục xuất ông Thi. Tại Việt Nam, họ bắt vợ chồng ông Dzu và cậu con trai út đi quản chế.
Tại Mỹ, Trương Đình Hùng thọ hình được 7 năm 4 tháng, thì được trả tự do trước kỳ hạn, với điều kiện là phải ra khỏi nước Mỹ. Ông Hùng cùng bà Carolyn Gates -vợ ông- rời Hoa Kỳ sang sống tại Hòa Lan, với công việc làm cố vấn phát triển kinh tế cho Liên Âu; cũng với tư cách viên chức Liên Âu, vợ chồng ông còn làm việc tại Hà Nội một thời gian, rồi qua Mã Lai.
Với truyền thống bênh vực tự do cá nhân, truyền thông Hoa Kỳ chỉ trích FBI nghe lén điện thoại của David, đặt máy ghi âm và camera trong phòng làm việc của Humphrey để tìm bằng chứng buộc tội hai ông này. Bộ trưởng Tư Pháp Hoa Kỳ vào thời điểm đó -ông Griffin B. Bell- biện minh việc ông cho phép FBI nghe lén điện thoại của ông David, và đặt máy trong văn phòng ông Humphrey là những miễn trừ do yếu tố an ninh quốc gia cho phép hành pháp vi phạm tu chính án số 4.
Truyền thông còn chỉ trích tòa án theo lập trường của hành pháp, bác đơn kháng án của luật sư bênh vực hai bị can, căn cứ trên việc công tố viện đã thu thập bất hợp pháp những bằng cớ buộc tội. Nghị sĩ Edward M. Kennedy, cũng góp ý là "vụ án Humphrey và Trương chứng minh nhu cầu phải có một đạo luật kiểm soát tình báo."
Năm 2003, ông Michael E. Tigar -luật sư biện hộ cho Trương đình Hùng- xuất bản quyển "Fighting Injustice" (Chiến Đấu Chống Bất Công), kể lại vụ án, rồi kết luận, "đã không chịu học hỏi những sai lầm tại Việt Nam, chính phủ Mỹ còn quay lại trừng phạt những người chống chính sách Việt Nam của họ. Cũng không buồn thảo luận về những vấn đề an ninh quốc gia, chính phủ chỉ ban hành luật lệ khe khắt để giữ kín mọi việc."
Ông Tigar chủ quan nên nhận xét thiên lệch vụ án Trương Đình Hùng- Donald Humphrey; việc ông Humphrey thương nhớ vợ con, tìm cách cứu vợ con ra khỏi biển khổ Việt Nam là hành động đẹp, tạo thiện cảm cho nhiều người, nhưng không ai bênh vực việc ông đánh cắp tài liệu mật của Bộ Ngoại Giao trao cho Việt Cộng để đánh đổi lấy tờ giấy xuất cảnh của vợ, con ông.
Việc David Trương, một công dân Hoa Kỳ tiếp xúc với đại sứ Đinh Bá Thi để chuyển tài liệu mật do Humphrey đánh cắp được lại càng sai hơn nữa.
Trở lại với góc nhìn bi quan của bà Monique Trương qua câu bà nói,"Em tôi coi cuộc đời của nó là một vụ án chính trị, và nó chỉ là một con chốt bé nhỏ trên bàn cờ mà các lãnh tụ cường quốc so tài với nhau để hoàn thành mục đích chính trị của họ;" để thấy góc nhìn này cũng hoàn toàn sai.
Ông Hùng bị bắt, bị tù, bị "mời" ra khỏi lãnh thổ Hoa Kỳ không do quyết định của một lãnh tụ chính trị nào cả; ông ta tự tạo ra tất cả những điều đó, bằng cách tự tay và tự ý cầm tài liệu mật của Hoa Kỳ trao cho Việt Cộng.
Những con chốt bé nhỏ không có khả năng tự quyết định phải là những quân nhân Việt Nam Cộng Hòa, bị Mỹ cúp đạn, bị Trung Cộng tăng cường viện trợ cho Việt Cộng, tạo ra thất thế cho miền Nam, khiến người lính anh hùng Việt Nam bị địch giết trong thất thế, và phải là những người đàn bà Việt Nam chân yếu, tay mềm bị hải tặc hiếp dâm trên Biển Đông trong lúc họ mưu tìm tự do.
Cuộc dâu, biển đổi đời đó mới chính là hậu quả của một nước cờ trên bàn cờ quốc tế; những người lính hết đạn bị địch giết, bị địch sinh cầm, vợ con họ bị hải tặc cưỡng hiếp trên mặt biển mới chính là những con người bị phế thải.
Nhưng phép lạ là những con người bị phế thải đó đang đứng dạy, rồi tạo thành một sức mạnh xây dựng mà những thế lực toan đào thải họ 39 năm trước cũng phải kinh ngạc, nể nang. (nđt)
Saturday, 28 June 2014
HOAN HÔ LỜI NGUYỀN RỦA của LS SAN JOSE LẠI LINH ỨNG
THẰNG KHỐN NẠN GỐC BẮC VIỆT TRƯƠNG ĐÌNH HÙNG ĐÃ VÀO HANG PẮC BÓ-
BỌN NẰM VÙNG, TRỞ CỜ SẼ CHẾT HẾT, CHẾT THẢM ...
NĂM 2014 NẦY SẼ CÒN NHIỀU ĐỨA ĐỘT NGỘT ĐI VÀO VŨ TRỤ, CHỜ ĐI !./- Mt68
Trương Đình Hùng
(2.9.1945 - 26.6.2014)
(2.9.1945 - 26.6.2014)
Trưa nay, 26.6.2014, về tới nhà, tôi nhận được thư anh Ngô Vĩnh Long báo tin anh Trương Đình Hùng đã từ trần buổi sáng, tại Penang (Malaysia). Tin buồn ập tới, đột ngột và choáng ngợp, mặc dù nó đã được báo trước. Cuối tháng 5, chúng tôi được tin anh mắc một chứng bệnh ung thư hiếm và nguy hiểm (pleomorphic liposarcoma / sarcoma mỡ đa hình), qua bàn mổ hai lần, nhưng cái u ác tính vẫn tiếp tục phát triển. "Mình vẫn làm việc và hoạt động hàng ngày nhưng yếu đi nhiều, vài tháng mà xuống đi mấy ki lô. Trông mình bây giờ như một nhà sư (toàn ăn chay, tập thở, tập thiền, trừ khi gặp bạn thì uống một ly rượu nho)", đó là mấy dòng Trương Đình Hùng gửi cho Ngô Vĩnh Long ngày 28.5, báo tin "chung cuộc không thể tiên đoán thế nào" (tạm dịch từ tiếng Anh). Hai ngày sau, anh viết cho tôi : "Tụi mình đã sống một cuộc đời lý thú, đã giúp nhiều đồng bào và bầu bạn, và (những năm gần đây, ở Malaysia) giúp xây dựng gia đình cho một số bạn trẻ trong vùng. Như thế cũng là nhiều rồi. Hi vọng là chung cuộc sẽ tới mà không quá nhiều phức tạp" (tạm dịch từ tiếng Pháp).
Trương Đình Hùng sinh năm 1945 tại Sài Gòn, vào đúng ngày Tuyên ngôn Độc lập 2.9, tạ thế ngày 26.6.2014 tại Penang, thọ 69 tuổi.
Trong thời sự Việt Nam thập niên 1970 và sau này, anh thường được biết với cái tên David Truong. Wikipedia (tiếng Anh) nói tới David Truong, chủ yếu về "vụ án gián điệp" năm 1978 : một nhân viên của cục điều tra liên bang FBI, trên là Dung Krall, được cục tình báo CIA "mượn", tố cáo Trương Đình Hùng là "điệp viên Bắc Việt", bị bắt với hai "tài liệu mật" của Bộ ngoại giao Mỹ, do một nhân viên của Bộ ngoại giao Mỹ, Donald Humphrey, trao tay (với hy vọng là David Truong có thể giúp anh ta đoàn tụ với người vợ người Việt bị kẹt ở Việt Nam từ 1975). Kết quả : Trương Đình Hùng bị kết án 15 năm tù, đại sứ Đinh Bá Thi (đại diện Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc) bị chính quyền Mỹ bị trục xuất với tư cách "một đồng lõa không bị truy tố"). Trương Đình Hùng đã ở tù 7 năm 4 tháng, trước khi được trả tự do trước kỳ hạn, với điều kiện ra khỏi nước Mỹ. Từ năm cuối thập niên 1980, anh sống và làm việc ở Châu Âu (Amsterdam) và Châu Á (Hà Nội, nhân viên của Liên hiệp Châu Âu ; rồi Malaysia).
"Vụ án Trương Đình Hùng" được báo chí Âu Mỹ nói nhiều vào cuối thập niên 70, rồi nhanh chóng rơi vào quên lãng. Giới thạo tin nhanh chóng hiểu ra bối cảnh đã sản sinh ra "vụ gián điệp" này với hai nhân tố chính. Một là, sau thất bại chua cay ở Việt Nam, trong giới cầm quyền Mỹ, có nhu cầu "bức xúc" là tìm ra được một con vật tế thần. Đơn giản và tiện lợi nhất là : "ta đã mất Việt Nam không phải vì thất trận, mà vì kẻ thù nằm ngay ở Washington". Hai là, nếu năm 1977, Washington muốn bình thường hóa quan hệ với Việt Nam (nhưng Hà Nội mắc sai lầm là khăng khăng đòi khoản 3,25 tỉ đô-la mà Nixon đã cam kết trong một lá thư gửi Phạm Văn Đồng khi ký Hiệp định Paris 1973), thì tới cuối năm, Mỹ đã chuyển hướng, liên minh với Bắc Kinh để chống Liên Xô. Không phải ngẫu nhiên mà Đại sứ Đinh Bá Thi bị trục xuất vào đầu năm 1978 : ít lâu sau đó, Zbigniew Brzeziński, cố vấn đặc biệt của tổng thống Carter, đứng trên Vạn lí trường thành, nhìn sang Liên Xô, nói với người Trung Quốc đồng hành : "Chúng ta cùng đi săn con Gấu Bắc Cực". Và đầu năm 1979, Đặng Tiểu Bình tuyên bố tại Washington sẽ "dạy Việt Nam một bài học", và "Trung Quốc là NATO ở phương Đông, Việt Nam là Cuba ở phương Đông". "Vụ án Trương Đình Hùng" và việc cắt đứt quá trình bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, là cái nhẫn "dạm hỏi" của Washington, chuẩn bị cho cuộc hôn phối sau linh đình sau đó.
Nếu như "vụ án" đã rơi vào quên lãng trong báo chí quốc tế, thì sang thập niên 1990, nó lại được hâm nóng trong dư luận Việt Nam ở Hoa Kỳ với cuốn sách "Một ngàn giọt lệ" của nữ điệp viên Dung Krall. Cuốn sách có thể đọc như một thứ tiểu thuyết với những pha gây cấn của phim trinh thám tồi. Giá trị "chứng từ" của nó rõ hơn khi người ta được biết tác giả tung ra cuốn sách này sau khi vòi CIA thêm tiền vì sau khi "lộ hàng" trong "vụ án", bà ta không hành nghề được nữa (và tất nhiên CIA đã từ chối). Không rõ số tiền bán sách được mấy phần so với số tiền "đền bù" mà bà ta muốn được CIA trả. Chỉ có thể nói cuốn sách cũng đáng tin như những thông tin trên Wikipedia (bản tiếng Anh) khẳng định Trương Đình Hùng là con trai... Trương Như Tảng !!!
Thân sinh Trương Đình Hùng, như nhiều người biết, là luật sư Trương Đình Dzu. Ông nổi tiếng như là "ứng cử viên hòa bình" trong cuộc tranh cử tổng thống VNCH năm 1967 với biểu tượng con chim bồ câu hòa bình, chủ trương thương lượng với Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Theo những nguồn thạo tin, ông được nhiều phiếu nhất tại khu vực Sài Gòn - Gia Định (kết quả "chính thức" thì liên danh Trương Đình Dzu - Trần Văn Chiêu về nhì trong số 11 liên danh, sau liên danh Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ trên toàn miền Nam, nghĩa là trong những vùng do chính quyền Sài Gòn kiểm soát được). Đó cũng là lí do đủ để tổng thống Thiệu bỏ tù ông. Luật sư Dzu bị giam ở Chí Hòa rồi Côn Đảo cho đến tháng 4.1975 (những ngày ông Trần Văn Hương lên thay Nguyễn Văn Thiệu). Chính quyền Thiệu tố cáo ông Trương Đình Dzu là thân cộng "ngụy hòa", nhưng thực ra họ gờm ông vì biết ông có thể là một con bài dự trữ của phái "liberal" Hoa Kỳ.
Thân sinh bà Dung Krall là ông Đặng Quang Minh, nguyên đại sứ MTDTGPMNVN tại Liên Xô (ít nhất điều này, cuốn sách của bà nói đúng). Đây cũng là một thảm kịch đau lòng của hơn một gia đình cách mạng : cha rời Sài Gòn đi kháng chiến (Mùa thu rồi, ngày hăm ba...) rồi tập kết ra Bắc, tình báo Mỹ đã khôn khéo khai thác tâm lý "bị cha bỏ rơi" để lôi kéo một số người con. Đặng Mỹ Dung là một trong những người ấy : lấy chồng là sĩ quan tình báo của Hải quân Mỹ, bản thân làm việc cho cục FBI trước khi được cho mượn, làm điệp viên (hay đúng hơn : nhân viên khiêu dụ) của CIA...
Hành trình của Trương Đình Hùng, bắt đầu từ đối cực. Cha anh, năm 1945, khi Pháp tái chiếm Sài Gòn, làm chánh văn phòng cho "ủy viên cộng hòa" Jean Cédile (xemWikipedia). Gia đình bên ngoại là thế gia vọng tộc đất Thần Kinh (anh có một người cậu, nếu tôi không lầm, làm đại diện của VNCH ở Liên Hiệp Quốc với tư cách quan sát viên thường trực). Học Jean-Jacques Rousseau rồi sang Mỹ du học (Stanford, California). Năm 22 tuổi, luật sư Dzu bị bắt, anh bắt đầu hoạt động chính trị là vận động đòi trả tự do cho thân sinh, có quan hệ khá chặt chẽ với những chính sách "liberal" có thế lực như thượng nghị sĩ Mike Mansfield. Hình ảnh người thanh niên David Truong mà giới báo chí và phong trào hòa bình Mỹ ghi nhận là một "lobbyist" lúc nào cũng chỉnh tề bộ "complet" với đầy đủ "gilet", cà-vạt... Các bạn ở Mỹ cho biết, những năm về sau, anh vẫn đóng bộ "trois pièces" như một thói quen, hay như một công cụ giao tiếp, nhưng trong căn phòng ở, toàn bàn ghế, đồ đặc lượm ở hè đường, do người ta sa thải. Trương Đình Hùng đã trở thành một thành viên tích cực của Trung tâm Hòa giải Đông dương (IRC), trụ sở đặt tại Washington DC.
Mãi tới cuộc thập niên 1980, tôi mới được gặp Trương Đình Hùng lần đầu tiên, tại Paris, khi anh từ Amsterdam sang cùng với vợ anh, chị Carolyn Gates, một chuyên gia về chính trị Trung - Cận Đông. Nhưng chúng tôi đã liên lạc với nhau qua thư từ (thời đó, chưa có internet) từ khoảng 1970. Chính do mối quan hệ sớm trở thành thân thiết này, mà trong "vụ án" năm 1978, tôi có vinh dự được FBI phong làm "un-indicted complice" (đồng lõa không bị truy tố). Bây giờ, anh Hùng đã mất, "cái quan định luận", tôi xin tiết lộ về sự nghiệp "gián điệp" của chúng tôi. Đúng là chúng tôi đã trao đổi khá nhiều tài liệu. Tôi gửi cho anh những thông tin, tuyên bố của Mặt trận, của Chính phủ Cách mạng Lâm thời CHMNVN. Anh Hùng gửi cho tôi những thông tin Mỹ, chủ yếu là những tập "Congressional Record" mà Quốc hội Mỹ công bố hàng ngày. Đó là những tập dầy cộm, nặng chịch, in chữ nhỏ li ti ("co" chữ 8). Đó không phải chỉ là những phát biểu của các dân biểu và thượng nghĩ sĩ trong các phiên họp toàn thể hay tiểu ban, mà tất cả những bài báo, tài liệu nào mà bất cứ một đại biểu Quốc hội nào thấy cần thiết. Tóm lại, đó là một kho tài liệu vô song, mà chúng tôi khai thác đến mỏi mắt, và cung cấp cho hai phái đoàn VNDCCH và CPCMLT tại Hội nghị Paris. Có thời gian, tôi làm phiên dịch cho ông Nguyễn Thành Lê, người phát ngôn của VNDCCH tại Hội nghị Paris. Hơn một lần, trong cuộc họp báo sau mỗi phiên họp, tôi đã phải dịch sang tiếng Pháp những trích đoạn "Congressional Record" từ bản dịch tiếng Việt (mà chúng tôi đã góp phần dịch từ nguyên tác tiếng Anh). Không thiếu gì những thông tin mà các nhà báo Mỹ, phóng viên của New York Times, Washington Post... được nghe lần đầu, như vậy. Tất nhiên họ càng không biết rằng đó là công lao của Trương Đình Hùng, mà sau này họ phong là "David Truong, North Vietnamese Spy".
Có lần tôi hỏi Hùng : cái gì đã khiến Hùng xuất thân như vậy, lại chọn con đường chống chính sách chiến tranh của Mỹ, ủng hộ cuộc kháng chiến Việt Nam. Hùng cười, nụ cười hiền triết : "Có lẽ tại mình chẳng may sinh vào đúng ngày 2 tháng 9 năm 1945" !!!
Câu nói nửa đùa nửa thật rất có ý vị. Càng ý vị hơn nữa khi ta biết anh đã trải qua những thảm kịch gì. Tôi không chỉ nói tới những năm tháng hoạt động ở Washington DC, tới hơn bảy năm trong tù Mỹ. Tôi nghĩ tới những thử thách không ngờ mà anh đã gặp phải, từ một hướng khác. Như đã nói ở trên, ông Trương Đình Dzu, trong con mắt của nhiều người (đầu tiên là ông Nguyễn Văn Thiệu), là một "lá bài dự trữ" của Washington, nghĩa là một "người của Mỹ". Đầu năm 1978, khi đại sứ Đinh Bá Thi bị trục xuất vì "nhận tài liệu mật từ David Truong", thì ở Hà Nội, không ít người cho rằng Trương Đình Hùng là "agent provocateur" của Mỹ. Cũng thời gian đó, khá nhiều "âm mưu phản loạn" của những cựu quân nhân VNCH bị tóm gọn, với danh sách những "chính phủ lâm thời", trong đó tên họ của ông Trương Đinh Dzu thường được kể hàng đầu. Thế là ông bà Trương Đình Dzu và người con trai út (em của Hùng) bị đưa đi quản chế ở miền Bắc (khoảng 10 năm). Những năm tháng ấy, đôi lần tôi được Hùng nhờ làm "giao liên" với gia đình anh. Năm 1978, anh vừa kết hôn với Carolyn, chuẩn bị vào tù và biết gia đình ở Sài Gòn lại bị tình nghi, nên mùa hè khi biết tôi sắp về nước, anh gửi tôi tấm ảnh hai vợ chồng chụp ở Washington (trên nền phông là đài tưởng niệm Monument), một tấm ảnh chụp bằng máy polaroid, nhờ tôi trao cho ông bà Dzu để ông bà thấy mặt con dâu. Một lần sau, mùa đông năm 80 hay 81, Hùng ở trong tù, cha mẹ bị quản chế ngoài bắc, anh nhắn qua chị Hélène, em gái anh, đang ở châu Phi, nhờ tôi mua ba cái áo anorak chống lạnh cho cha mẹ và em trai... Do đó, mà tôi hiểu thêm những thử thách mà Trương Đình Hùng đã trải qua.
Hùng đã an nhiên ra đi sáng hôm nay. Đêm nay, nhớ lại những lần ngắn ngủi tôi được gặp anh, ở Paris, ở Amsterdam, ở Hà Nội (khi anh làm việc cho một chương trình hợp tác của Liên hiệp Châu Âu), ở Singapore (tháng 8 năm ngoái, sau Hội thảo Hè)..., tôi mạn phép nhắc lại những điều trên, để bạn đọc biết và hiểu về một con người chân chính.
Và để gửi tới Carolyn, người bạn đời, suốt 36 năm, cho đến sáng hôm nay 26.6.2014, đã luôn luôn ở bên cạnh Trương Đình Hùng, những tình cảm và lòng biết ơn chân thành nhất, không phải của riêng tôi.
Maisons-Alfort, 26.6.2014
Nguyễn Ngọc Giao
Subscribe to:
Posts (Atom)