Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label ChuQuocNguAlexandreDeRhodes. Show all posts
Showing posts with label ChuQuocNguAlexandreDeRhodes. Show all posts

Saturday, 18 November 2023

 Chiếu phim "Chuyến đi thăm mộ Alexandre de Rhodes" (Nhật báo Người Việt)

 

Thăm mộ cố LM Alexander De Rhode an-táng tại Iran




 ALEXANDRE DE RHODES, NGƯỜI TẠO RA BỘ CHỮ TIẾNG VIỆT.
 

Câu chuyện về người con đất Việt tìm thăm lại mộ ngài Alexandre de Rohde ở miền đất xa xôi, làm cho người đọc cảm thấy ấm lòng.
Anh Trường là hướng dẫn viên du lịch, đi nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa nhưng trong lòng vẫn mong ngóng về một điều bấy lâu, đó là được tới tận nơi ngài Alexander De Rhode an nghỉ, đặt lên mộ ngài một bó hoa và nói nên lời cảm tạ từ đáy lòng.
Sài Gòn Buổi Sáng xin phép anh Trường gửi tới bạn đọc câu chuyện về hành trình Thăm mộ cụ ALEXANDRE DE RHODE

(XEM TIẾP TRONG ATTACHMENTS KÈM THEO)


“Từ thuở còn sinh viên, khi được học về nguồn gốc chữ quốc ngữ mà chúng ta có được để sử dụng một cách dễ dàng và tiện lợi như ngày nay. Tôi đã thầm cảm ơn những nhà truyền giáo phương Tây, đặc biệt là Alexandre de Rohdes, người đã có đóng góp lớn lao trong việc hoàn thiện hệ thống bảng chữ cái cho người Việt Nam của chúng ta. Và may mắn thay, trong chuyến đi Iran lần này. Một cơ duyên vô cùng quý báu đã giúp tôi có cơ hội đến viếng thăm ngôi mộ, nơi yên nghỉ của ông trong một nghĩa trang nằm ở ngoại ô của thành phố Esfahan, Iran.
 
Vùng đất Esfahan, Iran nơi ngài Alexandre de Rhodes an nghỉ. Ảnh google map
SỰ CHỈ GIÚP CỦA NHỮNG NGƯỜI BẠN TỐT BỤNG
Từ lời gợi ý của một chị bạn, chúng tôi biết được thông tin về ngôi mộ của Alexandre de Rhodes được an táng trong một nghĩa trang công giáo của người Armenia tại Esfahan. Nhưng do thời gian lưu lại nơi đây khá ngắn, vì thế hy vọng được đến viếng thăm ngôi mộ của ông là khá mong manh cho chúng tôi.
Khi nghe chúng tôi nói về ước nguyện của mình, cô Malih- một hướng dẫn viên người Iran vô cùng thông cảm và hết sức tận tình giúp đỡ. Mặc dù với thâm niên hơn 10 năm làm nghề hướng dẫn viên, đã đưa biết bao nhiêu đoàn khách từ khắp năm châu đến thăm Esfahan, nhưng là người Hồi giáo cho nên cô chưa hề biết đến thông tin về khu nghĩa trang người công giáo Armenia nằm ở đâu. Và cô cũng không hề biết đến thông tin nào về Alexandre de Rhodes.
 
Người đã giúp anh Trường có được tờ giấy phép vào thăm mộ ngài Alexandre de Rhodes

Sau quá trình tìm kiếm, thông qua một người bạn gái gốc Armenia, cô Mila hỏi thăm được địa chỉ của nghĩa trang. Nhưng vấn đề là không phải ai cũng được vào thăm nghĩa trang. Mà cần phải có sự đồng ý của người quản lý ở nghĩa trang.
Một lần nữa, chúng tôi may mắn gặp được một vị quản lý ở nhà thờ Vank, ông đã nhiệt tình viết cho chúng tôi một tờ giấy phép để xuất trình cho người quản lý ở nghĩa trang.
Cầm tờ giấy trên tay, chúng tôi vội vàng đi về phía ngoại ô thành phố Esfahan. Nơi có nghĩa trang của cộng đồng người Armenia sống tại đây.
NƠI NGƯỜI NẰM XUỐNG
Trước mặt chúng tôi là một nghĩa trang rộng lớn. Những dãy mộ xếp hàng dài nối bên nhau mênh mông. Chúng tôi biết là sẽ không dễ dàng để tìm ra vị trí lăng mộ của ngài. Chúng tôi tìm gặp một cụ già quản mộ ở đây dò hỏi. Cụ nhanh chóng lên xe đưa chúng tôi đến ngôi mộ có tên Alexandre de Rhodes….
 
Đường vào nghĩa trang nơi ngài Alexandre de Rhodes an nghỉ
Hôm chúng tôi đến, là ngày đầu năm mới của tết cổ truyền Nowruz của người Ba Tư (Iran), một vài ngôi mộ gần đấy được đặt những chậu hoa. Còn ngôi mộ của ông không có một cành hoa nào, đó chỉ là một nấm mồ nhỏ làm bằng một tảng đá hình chữ nhật nằm khép mình khiêm tốn bên những ngôi mộ khác.
 
Anh Trường cùng mọi người mua hoa trước khi đến thăm mộ ngài Alexandre de Rhodes
Một niềm xúc cảm thân thương nghẹn ngào mà tôi không thể tả thành lời đang tuông chảy trong tôi. Đây là nơi an nghỉ của người đã có đóng góp vô cùng to lớn cho dân tộc Việt Nam. Dưới lớp đất ấy là thi hài của một người phương Tây xa lạ.
Ông đã mất từ gần 4 thế kỷ trước , nhưng ông là người đã giúp cho dân tộc Việt Nam có được một bảng chữ cái với các thanh sắc uyển chuyển nhẹ nhàng, nhằm để ghi lại và diễn đạt tiếng mẹ Việt Nam.
 
Mộ ngài Alexandre de Rhodes
Đặt một chậu hoa tím mua được trong một hiệu bán hoa tết của người Iran lên mộ ông. Chúng tôi không ai nói lời nào. Nhưng giữa chúng tôi có một sự đồng cảm sâu sắc. Chấp tay lên ngực, tôi khẻ cúi đầu xin gửi đến người một lời tri ân sâu sắc.
Nhìn thái độ thành khẩn và tôn kính của chúng tôi dành cho người nằm dưới nấm mộ. Người quản trang hỏi cô Malih: ông ấy là ai mà chúng tôi có vẻ tôn kính thế.
Và ông đã vô cùng ngạc nhiên khi biết rằng đây là người đã có công hoàn thiện bản chữ cái cũng như xuất bản những quyển tự điển Việt-Bồ-La tinh đầu tiên cho người Việt Nam từ những năm 1651.
 
Người con Đất Việt đặt lên mộ ngài bó hoa tươi thắm với tấm lòng thành kính
NGƯỜI CAI QUẢN NGHĨA TRANG

Qua cuộc chuyện trò, tôi đuợc biết người cai-quản nghĩa trang  tên gọi là Rostam Gharibian, ông  làm việc ở đây được 17 năm.
Tôi hỏi, trong 17 năm đó có bao giờ ông thấy ai là con cháu hay người thân của ngài Alexandre de Rhodes đến viếng mộ ông ấy hay không ? 
Thoáng chút đăm chiêu, ông trả lời rằng: vì là một thầy tu cho nên khi mất đi cũng như bao người khác Alexandre de Rhodes cũng không có vợ con. Và họ hàng thì cũng ở xa tít tận châu Âu cho nên chắc cũng không ai còn nhớ.
Vì thế trong 17 năm nay ông cũng chưa hề nghe thấy một người họ hàng hay con cháu nào của ông đến thăm. Chỉ thỉnh thoảng đôi khi ông thấy có một vài người Việt Nam đến viếng mà khi đó thì ông cũng không biết họ là ai và có quan hệ như thế nào với người đã mất…
Anh Trường cùng người cai quản nghĩa trang

THAY LỜI TRI ÂN
Theo truyền thống của những người Iran, tôi lấy một ít nước rửa lên nấm mồ của ông. Những giọt nước mát trong chảy lên bia mộ ông tựa như lời thì thầm của chúng tôi xin gửi đến người. Cả một đời ông cống hiến vì đạo. Và trong quá trình truyền giáo, với mục đích mong muốn truyền tải những thông điệp trong kinh thánh một cách dễ dàng hơn.
Ông đã không quản khó nhọc để tìm cách sáng tạo ra bảng chữ cái tiếng Việt. Và đến khi cuối đời, ngài đã lặng lẽ nằm lại nơi xứ người. Có lẽ giờ đây ông không còn một người bà con họ hàng nào nhớ đến ông để thỉnh thoảng ghé thăm chăm nom nấm mồ của ông nữa, nhưng có lẽ ông cũng ấm lòng khi biết rằng vẫn còn đó những người con nước Việt.

Vẫn còn đó hơn 90 triệu người con nước Việt trên khắp 5 châu sẽ Mãi Mãi không bao giờ quên ơn ông. Người đã có công vĩ đại trong việc chấm dứt 1000 năm tăm tối, 1000 năm khốn khó khi những người Việt phải đi mượn chữ Tàu ghi lại tiếng Việt.
 
Và giờ đây, hạnh phúc thay. Chúng ta đã có được bảng chữ cái của riêng mình. Một bảng chữ cái dựa trên các ký tự La Tinh nhưng vô cùng uyển chuyển và dễ học.
Xin cám ơn người, một vị đại ân nhân của những người con nước Việt. Xin tri ân người với lòng kính yêu sâu sắc: Alexandre de Rohde !”
Esfahan, Iran. 21/3/2017 – 17/11/2023.

TRẦN VĂN TRƯỜNG -VYC TRAVEL

Monday, 21 October 2019

ĐÚNG! CHO TỚI NAY VN CHƯA CÓ HÀN LÂM VIỆN.....

CÓ RẤT NHIỀU CHỮ CHƯA THỐNG NHỨT LÀ VÌ CÁC CHỮ ĐÓ ĐƯỢC VIẾT RA PHẦN LỚN THEO ÂM GIỌNG ĐỊA PHƯƠNG - "GIÒNG" DO PHÁT ÂM CỦA NGƯỜI BẮC"DÒNG" DO PHÁT ÂM CỦA NGƯỜI NAM- CHO NÊN PHÂN TÁCH CHỈ ĐỂ NGƯỜI VIẾT CHỌN LƯA NHIỆM Ý CHỨ KHÔNG CÓ NGHĨA XÁC ĐỊNH ĐÚNG, SAI VÌ CHÚNG TA CHƯA CÓ HÀN LÂM VIỆN./-TCL

================ 

"GIÒNG SÔNG" Hay "DÒNG SÔNG"?
Trần Huy Bích 
Chúng ta cùng biết các nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn viết “giòng sông, giòng nước”:

Nhất Linh: Giòng Sông Thanh Thủy
Tú Mỡ: Giòng Nước Ngược
Thạch Lam: Theo Giòng.

Các nhà văn, trí thức lớp sau viết “dòng sông, dòng nước”:

Doãn Quốc Sỹ: Dòng Sông Định Mệnh (1959)
Nhật Tiến: Tặng Phẩm Của Dòng Sông (1972)
Đằng Phương Nguyễn Ngọc Huy: “Dòng Nước Sông Hồng” (viết 1945, in vào thi tập 1985)
Ngô Thế Vinh: Mekong, Dòng Sông Nghẽn Mạch (2007).

Vậy chúng ta nên theo các nhà văn lớp trước hay lớp sau?

1) Trước hết, ba cuốn tự điển Việt ngữ có thẩm quyền nhất của Việt Nam cho tới hiện nay: Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức (trang 155), Tự Điển Việt Nam của Lê Văn Đức & Lê Ngoc Trụ (quyển Thượng, trang 376), Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của (quyển I, trang 243) cùng viết là “dòng.” Cuốn Việt Ngữ Chánh Tả Tự Vị do nhà ngữ học Lê Ngọc Trụ biên soạn cũng viết “dòng” (trang 141).

2) Các tự điển do những học giả có uy tín khác biên soạn như Vietnamese-English Dictionary của Giáo Sư Nguyễn Đình Hòa cũng viết “dòng” (trang126), Giúp đọc Nôm và Hán Việt của Lm. Trần Văn Kiệm (trang 388) cũng viết như thế. Hầu hết các tự điển Việt ngữ xuất bản ở trong nước hiện nay và tự điển chữ Nôm (ở trong nước cũng như ở hải ngoại) cùng viết “dòng”:

Tự điển chữ Nôm trích dẫn (Westminster, CA, 2009): Trang 299.
Tự điển chữ Nôm dẫn giải (Hà Nội, 2012): Trang 452.

3) Các nhà biên soạn tự điển có lý do để viết “dòng” (với D).

Trong chữ Nôm. Chữ ấy được viết như sau: ?
Phía trước là bộ Thủy 氵(nước) để cho biết có liên quan đến nước.
Phía sau là chữ Dụng 用 (dùng) để chỉ cách phát âm.

Vậy đó là một chữ “có liên quan đến nước,” và phát âm giống chữ “dụng” (trong chữ Nôm đọc là “dùng”)

Vì phát âm giống “dụng” và “dùng,”chúng ta cùng thấy âm “dòng” gần và tự nhiên hơn.
Khi phát âm là “dòng,” thì viết với D là đúng.

Vì lẽ đó, những ai năng tra cứu tự điển hoặc biết qua chữ Nôm (các Giáo Sư Doãn Quốc Sỹ, Trần Trọng San… và những người tốt nghiệp Văn khoa sau các ông) có khuynh hướng viết là “dòng.”

Giáo sư/nhà văn Doãn Quốc Sỹ là con rể nhà thơ Tú Mỡ. Là một giáo sư Quốc văn, dạy về Tự Lực Văn Đoàn, ông biết rất rõ nhạc phụ đã viết Giòng Nước Ngược (cũng như Nhất Linh, Thạch Lam đã viết Giòng Sông Thanh Thủy, Theo Giòng) nhưng ông không theo. Trong cương vị một nhà giáo, ông viết Dòng Sông Định Mệnh, vì nghĩ rằng như thế đúng hơn. Nhà văn Nhật Tiến có giao tình thân với văn hào Nhất Linh. Ông là người đọc lời vĩnh biệt khi hạ huyệt trong tang lễ Nhất Linh ở Sàigòn ngày 13-7-1963. Tuy biết rất rõ Nhất Linh đặt tên cho tác phẩm cuối đời của mình là Giòng Sông Thanh Thủy, năm 1972 Nhật Tiến vẫn đặt tên cho một tập truyện của ông là Tặng Phẩm của Dòng Sông.

Trong Việt Nam thi văn hợp tuyển, khi cho in các tác phẩm văn học, Giáo Sư Dương Quảng Hàm cũng viết “dòng”:
– Sông Lục đầu sáu khúc nước chảy xuôi một dòng (Ca dao)
– Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước (bản dịch Tỳ bà hành)
Khi phiên âm Truyện Kiều, các học giả Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh
cũng đều viết “dòng”:
– Nao nao dòng nước uốn quanh (câu 55)
– Đem mình gieo xuống giữa dòng trường giang (câu 2636)
Các học giả của miền Nam trước 1975 như Giáo Sư Trần Trọng San trong cuốn Văn Học Trung Quốc Đời Chu Tần, cũng luôn luôn viết: “ngược dòng, xuôi dòng, dòng dõi…”

4) Tại sao các nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn viết “giòng”?

Khi các nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn viết Giòng Nước Ngược và Theo Giòng, tuy Tự Điển Việt Nam của Lê Văn Đức & Lê Ngọc Trụ cùng Việt Ngữ Chánh Tả Tự Vị của Lê Ngọc Trụ chưa ra đời, nhưng hai bộ tự điển của Huỳnh Tịnh Của và Hội Khai Trí Tiến Đức đã xuất hiện (1895 và 1931). Rất có thể các vị không lưu tâm đúng mức đến bộ tự điển của Huỳnh Tịnh Của (xuất bản ở trong Nam), nhưng nhiều phần vì các vị có thành kiến với Hội Khai Trí Tiến Đức. Báo Phong Hóa đã đăng rất nhiều thơ văn giễu cợt, châm biếm Hội này. Trong khung cảnh ấy, việc theo những đề nghị về phương diện chính tả do tự điển Khai Trí Tiến Đức đưa ra là điều khó xảy ra.

5) Tự Lực Văn Đoàn cũng có những sai lầm khác về phương diện chính tả.

Khi xuất bản lần đầu năm 1936, tập truyện ngắn của Khái Hưng mà nay chúng ta gọi là “Dọc Đường Gió Bụi” được in với nhan đề Giọc Đường Gió Bụi:


Thời nay chúng ta cùng biết rằng viết như thế là sai. Câu đầu bài “Chí Làm Trai” của Nguyễn Công Trứ vẫn được phiên âm là:
Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc.
Tự Lực Văn Đoàn có những đóng góp rất quý giá về phương diện văn học và xã hội. Về văn học, đóng góp của Tự Lực Văn Đoàn cho nền văn xuôi Việt Nam (và cho cả Thơ Mới) rất đáng kể. Nhưng cách viết chữ quốc ngữ ở thời Tự Lực Văn Đoàn chưa hoàn hảo về phương diện chính tả. Đọc lại báo Phong Hóa, chúng ta thấy lỗi chính tả khá nhiều.

Vì những lẽ ấy, tuy vẫn nên viết tên các tác phẩm của Nhất Linh, Tú Mỡ, Thạch Lam là Giòng Sông Thanh Thủy, Giòng Nước Ngược, Theo Giòng (đó là những danh từ riêng, tên các tác phẩm đã có địa vị trong văn học sử), chúng ta vẫn nên viết “dòng” (dòng nước, dòng dõi, dòng tu …) trong những trường hợp khác.

Góp ý của nhà văn Nhật Tiến, California:

Dĩ nhiên ta tôn trọng các tác phẩm đã in thành sách như của Nhất Linh (Giòng Sông Thanh Thủy), Tú Mỡ (Giòng Nước Ngược) …, và biết ơn công trình làm mới văn chương của Tự Lực Văn Đoàn từ giữa thế kỷ trước, nhưng phải nói rằng trong hai cơ quan ngôn luận của văn đoàn này, tờ Phong Hóa và tờ Ngày Nay hãy còn chứa đầy rẫy lời văn thô sơ hay lỗi chính tả. Như một số mục chính trên tờ Phong Hóa đã dùng những từ mà cho đến nay không còn ai dùng nữa như Chuyện Ngắn thay vì Truyện Ngắn, Từ Nhỏ Đến Nhớn thay vì Từ Nhỏ Đến Lớn, Hạt Đậu Dọn thay vì Hạt Đậu Nhọn, tòa soạn quảng cáo: “Xem Phong Hóa số Tết, 20 trang. In mùi, có bìa giấy trắng” thay vì “Xem Phong Hóa số Tết, 20 trang. In mầu, có bìa giấy trắng” ..v..v…

Cho nên tôi hoàn toàn đồng ý với những nhận định xác đáng của anh Trần Huy Bích về việc viết chữ “dòng sông,” thay vì viết “giòng sông.”

Góp ý của Bác Sĩ Hà Ngọc Thuần, Brisbane, Úc Châu:

Bài viết của Anh Trần Huy Bích có thể gọi là “tường-tận”: Tường là nói rõ ràng, và tận là đã nói tới cùng. Có hai hệ-luận như sau: một là trong tương-lai chúng ta nên cùng đồng ýiết “dòng”, nhưng vì Việt Nam không có Hàn Lâm Viện để quy định chính tả nên việc này tuy dễ mà khó. Vả lại trong văn chương chẳng nên có sự bức bách, bắt người viết phải theo ý kiến mình, dù đó là ý kiến của số đông.

Cũng không nên có sự chê trách vội vã đối với một bài văn vì một vài “lỗi” chính tả mà quên đi ý tưởng của toàn thể bài viết. Việc này thường đưa đến những mối bất hòa không cần thiết. Hai là sau này khi tái bản chúng ta có dám, hay có nên, thay đổi tựa đề của tác giả mà in là “Dòng Sông Thanh Thủy” (Nhất Linh), “Theo Dòng” (Thạch Lam) và “Dòng Nước Ngược” (Tú Mỡ), hay là chúng ta bắt buộc phải tôn trọng các tác giả và giữ nguyên tựa đề như đã viết trong quá khứ.

Góp ý của Nha Sĩ Nguyễn Thị Mỹ Ngọc, Columbus, Ohio:

Bản thân tôi nhiều khi cũng lúng túng vì chữ “dòng sông” và “giòng sông”.

Cám ơn anh Huy Bích đã tra cứu và giảng giải rất cặn kẽ. Từ nay tôi sẽ dùng chữ “dòng” mà không còn phải lưỡng lự gì nữa.

Còn chữ “giòng” coi như chữ cổ, vì ngôn ngữ theo thời gian có thể đọc khác đi một chút, như “ông trời” ngày trước ta gọi là “ông giời” vậy.

Góp ý của nhà văn Huy Văn Trương, Bellflower, California:

Tôi thường viết “dòng sông, dòng dõi, dòng họ” vì tôi dựa theo tự điển của Lê Văn Đức & Lê Ngọc Trụ do nhà sách Khai Trí xuất bản năm 1970 tại Sài Gòn.

Trong cuốn tự điển này không có chữ “giòng” nào hết. Tôi dùng cuốn tự điển này vì tôi thấy nó tạm đủ so với nhiều cuốn khác. Tuy vậy trong đó cũng có nhiều chữ, theo tôi nghĩ vẫn còn trong vòng tranh cãi, như người ta thường viết là “chia sẻ” thì trong Tự Điển Lê Văn Đức viết là “chia xẻ”…

Từ trước tới giờ tôi viết “dòng sông” vì theo tự điển nhưng vẫn thấy lấn cấn thế nào đó. Đọc bài viết của anh xong, tôi không còn thấy lấn cấn nữa, mọi thắc mắc đã được giải toả. Đề nghị anh đăng bài này lên nhiều tờ báo để mọi người cùng được đọc.

Góp ý của cô Nguyễn Thị Ngọc Dung, cựu giáo sư Trung Học Võ Tánh, Nha Trang:

Xin cảm ơn anh đã gửi một câu chuyện thú vị về văn chương, ngôn ngữ Việt Nam, cách viết chữ “Giòng” hay “Dòng.”

Ngọc Dung cũng xin mạo muội chen vào, bày tỏ một vài ý kiến riêng, nho nhỏ:

1. Ngọc Dung cũng quen với chữ “Dòng” để chỉ “dòng sông” hay “dòng đời,” và chữ “giòng” để chỉ “giòng dõi.”

2. Tuy nhiên, theo thiển ý, dù viết “giòng đời” hay “dòng dõi” cũng vẫn được. Điều quan trọng là KHÔNG SAI về ý nghĩa.

6. Riêng về chữ “dòng” hay “giòng,” nếu suy từ chữ Nôm (dùng chữ “Dụng” thêm bộ “Thuỷ”) thì “dòng” nghe có lý hơn là “giòng.”

PHÚC ĐÁP GIÁO SƯ ĐÀM TRUNG PHÁP sau khi được yêu cầu đọc trước bài “Khi Tiếng Mỹ Được Chêm Vào Tiếng Việt”

(Bài này sau được phổ biến trên trang mạng Diễn Đàn Thế Kỷ ngày 13 tháng 11, 2016)

Tôi cũng nghĩ như anh Pháp, và rất vui thấy anh Pháp — trong cương vị một người đã nghiên cứu và dạy về ngôn ngữ gần suốt cuộc đời — nói ra một cách minh bạch như thế.

Các cụ ta xưa cũng từng “code-switching” giữa những câu thuần Việt và câu chữ Hán. Ca dao có những câu như:
Công anh đắp nấm, trồng chanh
Chẳng được ăn quả, vin cành cho cam
Xin đừng ra dạ Bắc Nam
Nhất nhật bất kiến như tam thu hề …
Một đoạn khác:
Chẳng may số phận gian nan
Lầm than cũng chịu, phàn nàn cùng ai
Đã yêu nhau giá thú bất luận tài.
Có ai phàn nàn về những câu ấy đâu?

Chúng ta có những từ nôm thuần túy như cha mẹ, non sông, mặt trời, mặt trăng …, những từ Hán Việt như phụ mẫu, giang sơn, nhật nguyệt…

Nhiều khi trong một câu thơ nôm dùng hai từ Hán Việt cũng là chuyện thường:

Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt (Vua Lê Thánh tông)

Nếu bắt sửa thành: “Hai vầng mặt trời, mặt trăng” thì … vua Lê cũng phải than: “Sao làm khó nhau thế!”

Nguyễn Du đã viết:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Tuy rất ngưỡng mộ Nguyễn Du, Vũ Hoàng Chương vẫn viết:
Cố đô một buổi lầm chinh chiến
Vầng nguyệt chia hai vạn dặm trường.
Chỗ ấy cần một tiếng trắc. Nếu bắt đổi từ “nguyệt” sang “trăng” thì cụ Vũ cũng phải vò đầu.

Chúng ta không ngạc nhiên thấy Hàn Mặc Tử viết:
Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm
Câu ấy dùng thuần nôm. Nếu Hàn Mặc Tử viết “bóng trăng” thì thích hợp hơn. Nhưng ông chọn viết “bóng nguyệt”. Nhà thơ Trịnh Y Thư đã nhận xét rất đúng: “Bóng nguyệt trần truồng tắm”… gợi cảm hơn rất nhiều.

Nhiều khi “code-switching” từ tiếng Việt thuần túy sang Hán Việt còn cần thiết: Giúp tác giả diễn ý một cách rõ hơn. Lại xin mượn thơ Vũ Hoàng Chương:
Một phen nhật nguyệt tranh ngôi sáng
Hai ngả lòng thu dựng tháp sầu.
Cụ Vũ phải dùng “nhật nguyệt” để rõ ý: 日+ 月= 明

cho cân xứng với câu sau: 秋+ 心 = 愁
(nhật + nguyệt = minh)
(thu + tâm = sầu)

Nếu dùng một cách vừa phải, không quá độ, nhiều khi “code-switching” còn đem nét duyên dáng vào cho câu thơ:

Trần Tế Xương đã viết một cách lý thú từ đầu thế kỷ 20:
—Gặp hội bài đen đã chẳng ù
Nào ngờ lại gặp chú phi lu (filou = tên ăn cắp)
—Thôi thôi lạy mợ “xanh căng” lạy (cinquante = 50)
Nhưng nếu lạm dụng, nhắc lại nhiều lần quá sẽ hóa “nhàm,” không hay nữa.

Thân quý,

Trần Huy Bích

Thursday, 14 December 2017

TÊN NGUYỄN THẢO NẦY CÒ MỒI CHO KHUYNH HƯỚNG CẦN THAY ĐỔI TIẾNG VIỆT CỦA VC- HẮN TA THAM KHẢO LUẬN CỨ CỦA TÊN NGÔ NHƯ BÌNH HIỆN NẰM VÙNG TẠI HARVARD MỸ./-TCL

Mt68: KHÔNG PHẢI CHÚNG TA NHỨT QUYẾT KHÔNG CẦN THAY ĐỔI- NHIỀU NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI NHƯ NGA, ĐỨC , PHÁP ĐỀU CÓ THAY ĐỔI "NHỎ THÔI". KHÔNG PHẢI XÓA BỎ HẾT CHỮ VIẾT CỦA HỌ - HỌ KHÔNG LÀM ĐẢO LỘN TẤT CẢ- HỌ CHỈ SỬA ĐỔI MỘT SỐ CHỮ CHO HÒAN HẢO HƠN MÀ THÔI - 
* NÊN NHỚ HỌ THAY ĐỔI MỘT SỐ CHỮ VIẾT CỦA HỌ LÀ VÌ ĐẤT NƯỚC CỦA HỌ CHỨ KHÔNG PHẢI THAY ĐỔI VỚI MỤC ĐÍCH ĐỂ LÀM "NÔ LỆ" CHO 1 NƯỚC KHÁC- 
*NGA, PHÁP, ĐỨC HỌ HỌC "TỪNG CHỮ" THEO NGHĨA RIÊNG CỦA CHỮ ĐÓ -CHỨ KHÔNG VIẾT THEO LỐI "ĐÁNH VẦN" RÁP CHỮ THEO PHÁT ÂM QUA TIẾNG NÓI CỦA NGƯỜI VIỆT MÌNH - NHƯ ANH VĂN CÁI NHÀ "HOUSE"= PHÁP VĂN CÁI NHÀ "MAISON" - CỨ THẾ MÀ HỌC THUỘC = CÒN TIẾNG VIỆT CÁI NHÀ VIẾT THEO ĐÁNH VẦN: "NH +À thành NHÀ"- CHO NÊN TÊN VC BUỒI HĨM MUỐN THAY ĐỔI TIẾNG VIỆT THEO NHƯ ANH, PHÁP , NGA LÀ NGU XUẨN VÌ TIẾNG VIỆT VIẾT BẰNG LỐI ĐÁNH VẦN THEO PHÁT ÂM - Như W,j,Z tương ứng với ÂM nào của Tiếng Việt ??? ./-TCL (*Buồi hĩm đúng là tên ngu đần thiến sĩ chăn bò nhổ lông bà VC nầy cặm càm ông VC kia, cải tiến thành râu cá chốt hồ chí mèo./-tcl)
 
Toan bo de xuat cai tien phu am 'Tieq Viet' cua PGS Bui Hien hinh anh 3
============== 
*TRÍCH Y 1 CHÚT VỀ LẬP LUẬN KIỀU VC CỦA NGUYỄN THẢO nào đây:

cải cách tiếng Việt,cải cách chữ viết

GS. Ngô Như Bình, giảng viên tiếng Việt tại ĐH Harvard, Mỹ.


Ảnh: NVCC


...................
Một cuốn sách nói về việc cải cách tiếng Đức mà GS. Ngô Như Bình cung cấp



Một số ví dụ về sự thay đổi của tiếng Đức vào năm 1996:

ß và ss: theo như cải cách, ß được coi là một chữ cái riêng biệt, chỉ xuất hiện sau các nguyên âm dài và nguyên âm đôi. Thông thường, trong tiếng Đức, các nguyên âm dài được theo sau bởi các phụ âm đơn và theo sau nguyên âm ngắn là phụ âm đôi.

Theo cách cũ, ß được viết thay cho “ss” nếu âm vị “s” thuộc về chỉ một âm tiết, do đó ở vị trí cuối và trước phụ âm, “ss” luôn được viết là ß, mà không phụ thuộc vào độ dài của nguyên âm trước.

Theo cách mới, nguyên âm ngắn không bao giờ được theo sau bởi ß. Điều này làm nó phù hợp với cách viết 2 chữ cái của các phụ âm cuối cùng khác (-ch, -ck, -dt, -ff, -ll, -mm, -nn, -rr, -tt, -tz).

Vì thế, ví dụ như Fass [fas] – Fässer [ˈfɛsɐ], tương tự như Ball [bal] – Bälle [ˈbɛlə]; so với cách viết cũ: Faß – Fässer, ngược lại với Maß [maːs] – Maße [ˈmaːsə] hay Tal [taːl] – Täler [ˈtɛːlɐ].

Cái được gọi là “quy tắc s” này chiếm hơn 90% các từ được thay đổi trong cải cách năm 1996. Những thay đổi khác ít được sử dụng hơn và không phải trong văn bản nào cũng được sử dụng.

Ngoài ra, những phụ âm ba không bị cắt đi nữa, nhưng gạch nối thường được sử dụng trong những trường hợp này. Ví dụ như, trước kia viết là “schiffahrt” thì giờ viết là “Schifffahrt” – được ghép từ Schiff (tàu) + Fahrt (hành trình).

Những từ có 3 chữ “s” được xuất hiện thường xuyên hơn các phụ âm ba khác, trong khi theo cách cũ, chúng chưa bao giờ xuất hiện. Ví dụ: Flußschiffahrt  Flussschifffahrt, Mißstand  Missstand.

Phụ âm đôi xuất hiện sau nguyên âm ngắn ở cuối từ. Ví dụ: As  Ass bởi vì số nhiều của nó là Asse; Stop  Stopp vì động từ là stoppen.

Thay đổi nguyên âm từ “e” sang “ä”. Ví dụ: Stengel  Stängel.

Ngoài ra còn một số thay đổi khác nhằm loại bỏ một số trường hợp đặc biệt hoặc cho phép cách viết thay thế. Một số từ mượn chuyển sang cách viết gần với chuẩn mực tiếng Đức hơn. Cụ thể, các hậu tố -phon, -phot, và –graph có thể được viết bằng “f” hoặc “ph”.

Cách viết hoa và từ ghép cũng là 2 phần nằm trong cải cách tiếng Đức.

Trước kia, danh từ ghép thường được ghép thành một từ, nhưng một số từ ghép sau khi cải cách được tách ra. Danh từ và động từ thường được tách ra, ví dụ như “radfahren  Rad fahren” (đi xe đạp).

Động từ vô định được sử dụng với động từ có ngôi được tách ra, ví dụ “spazierengehen  spazieren gehen” (đi dạo).



Tiếng Pháp

Kết quả hình ảnh cho look up a word in the dictionary

Với tiếng Pháp, từ tháng 9/2016, cách phát âm mới đã được yêu cầu xuất bản trong các cuốn sách giáo khoa và từ điển.

Sự thay đổi này đã thổi bùng lên những phẫn nộ trong dư luận Pháp sau khi một cơ quan kiểm duyệt ngôn ngữ chấp thuận thay đổi cách phát âm của ít nhất 2.400 từ tiếng Pháp nhằm làm đơn giản hóa ngôn ngữ này.

Sự thay đổi này đã được chấp thuận bởi cơ quan kiểm duyệt ngôn ngữ chính thức của nước Pháp - Académie française vào năm 1990, nhưng đến tháng 9/ 2016 mới được xuất bản trong các cuốn sách giáo khoa và từ điển.

Thay đổi khiến người dân nước này giận dữ nhất là việc loại bỏ dấu mũ truyền thống (^). Nó sẽ không còn xuất hiện trên các nguyên âm như “i” và “u” ở một số từ nhất định.

Từ “coût” (giá cả) sẽ mất dấu mũ và trở thành “cout”. Những từ khác cũng bị mất dấu mũ như: s'entraîner (luyện tập), maîtresse (giáo viên) và trớ trêu thay là cả từ disparaître (biến mất).

Tuy nhiên, dấu mũ không bị loại bỏ hoàn toàn ở tất cả các từ. Nó vẫn xuất hiện trên các âm “o”, ví dụ như từ “hotel”. Nó cũng được giữ trong từ “sûr”, bởi vì nếu bỏ dấu mũ, nó sẽ thay đổi nghĩa hoàn toàn từ “chắc chắn, nhất định” sang “trên đầu của…”

Những thay đổi khác gồm có việc bỏ dấu gạch nối ở những từ như “week-end”, để trở thành “weekend” và “porte-monnaie” (cái ví) thành “portemonnaie”.

Từ “củ hành” trong tiếng Pháp cũng là một trong số những từ bị thay đổi bằng cách bỏ chữ “i”, từ “oignon” thành “ognon”.

Việc thay đổi này không có nghĩa là sẽ chấm dứt ngay lập tức cách viết cũ. Theo tờ Le Monde, các nhà xuất bản sẽ được phép lựa chọn giữa cách viết mới và cũ, và các giáo viên cũng không phạt học sinh nếu các em tiếp tục sử dụng các viết cũ.

Mặc dù vậy, những thay đổi vẫn gây ra sự phẫn nộ trong dư luận nước Pháp với hàng ngàn lời ca thán, sự tuyệt vọng trên mạng xã hội.

“Cải cách chính tả” là chủ đề được bàn luận nhiều nhất trên Twitter vào thời điểm đó. Nhiều người dùng lập luận rằng những thay đổi này làm tầm thường hóa, đơn giản hóa tiếng Pháp. Một người dùng Twitter từng nhận xét: “Đơn giản hóa nghĩa là nghèo nàn hơn. Ngôn ngữ đẹp và giàu chính vì nó phức tạp”.

Thậm chí, các chính trị gia cũng nhảy vào cuộc tranh luận này. Phó Chủ tịch Đảng Mặt trận Quốc gia Pháp nói rằng “tiếng Pháp là linh hồn của chúng ta”, trong khi Thị trưởng thành phố Nice - Christian Estrosi – còn gọi những cải cách này là “vô lý”.

Tuy nhiên, những thay đổi này không hoàn toàn là sự tuyệt vọng đối với nhà các nhà truyền thống Pháp. Bởi vì theo đó, một số từ hiện đại sẽ được thay đổi theo các quy tắc ngữ pháp tiếng Pháp trong một nỗ lực nhằm “Pháp hóa” các từ mượn từ tiếng Anh.

Ví dụ như từ “Des misses” sẽ đổi thành “des miss” và, và “leader” trở thành “leaduer”.
Nguyễn Thảo
CÁC TÍN HỮU CÔNG GIÁO CHÚNG CON RẤT BIẾT ƠN ĐỨC CHA ALEXSANDRE DE RHODES
 
  Thái Hà (13.03.2017) – Kỷ niệm 426 năm ngày sinh Cha Alexander Rhodes, người khai sinh chữ Quốc ngữ (15/3/1591 – 2017) Khi đọc những dòng chữ Việt ngữ này, là bạn đang chiêm ngưỡng tác phẩm của các linh mục thừa sai Dòng Tên gồm các cha Gaspar De Amaral, cha Antonio Barbosa, cha Francisco De Pina và cha Alexandre De Rhodes, tất cả họ đều là tác giả của quốc ngữ mà người Việt ta đang sử dụng hàng ngày.
Với linh mục Gaspar De Amaral, cha đã soạn cuốn từ điển Việt – Bồ. Với linh mục Antonio Barbosa, cha soạn cuốn từ điển Bồ – Việt. Với linh mục Francisco De Pina, được cho là cha đã dựa vào cách phát âm tiếng Bồ để chuyển tự ghi chép tiếng Việt khi ông vào Đàng Trong (Từ sông Gianh trở vào Nam). Nhưng các cha đều mất khá sớm, tuy vậy, cùng với một số linh mục khác trong giai đoạn tiên khởi này, các cha đã giúp đặt nền móng đầu tiên cho quốc ngữ Việt Nam.
Với linh mục Alexandre De Rhodes, thì cha đã dựa vào hai công trình từ điển nêu trên và bổ sung thêm phần La tinh để hình thành nên cuốn từ điển Việt – Bồ – La.
Thực tế, chính việc bổ sung phần La tinh của cha Alexandre De Rhodes đã trở thành đóng góp quan trọng bậc nhất giúp hình thành nên chữ viết theo lối La tinh mà sau đó nhanh chóng trở thành quốc ngữ Việt Nam.
Đánh giá về vai trò của linh mục Alexandre De Rhodes trong việc khai sinh nên quốc ngữ Việt Nam, tờ Nguyệt San MISSI do các linh mục Dòng tên người Pháp quản lý đã từng viết nhân dịp kỷ niệm 300 năm ngày sinh của ông, đại lược như sau: “Khi cho Việt Nam các mẫu tự La Tinh, cha Alexandre De Rhodes đã đưa Việt Nam đi trước đến ba thế kỷ”.
Quả vậy, khi chính thức xác định mẫu tự, bằng cách in quyển từ điển và các sách đầu tiên bằng chữ quốc ngữ tại nhà in Vatican – Roma, thì cha Alexandre De Rhodes đã giải phóng cho nước Việt Nam về chữ quốc ngữ.
Bởi lẽ trước đó, tương tự như Nhật Bản và Cao Ly (Triều Tiên), thì người Việt Nam sử dụng lối chữ viết tượng hình, biểu ý của người Tàu hoặc chữ nôm do tự sáng chế và bị nô lệ vì chữ viết này. Chỉ mới cách đây không lâu, người Cao Ly mới chế biến ra chữ viết riêng của họ, nhưng vẫn không theo cách viết La tinh nên bị hạn chế nhiều. Còn người Nhật Bản thì sau nhiều lần thử nghiệm chế biến lối chữ viết khác, nhưng cuối cùng đã phải bó tay và đành trở về với lối viết tượng hình, biểu ý của người Tàu.
Trong khi đó, chính người Tàu dưới chế độ cộng sản của Mao Trạch Đông cũng đã từng tìm cách dùng các mẫu tự La Tinh để chế biến ra chữ viết của mình, nhưng cho đến nay vẫn chưa thành công. Vậy mà dân tộc Việt Nam, nhờ công ơn của cha Alexandre De Rhodes, đã tiến bộ trước người Tàu đến hơn ba thế kỷ rưỡi (1651 – 1017 – tính từ năm in cuốn từ điển Việt – Bồ – La đến thời điểm hiện nay.
Dĩ nhiên, không phải chỉ riêng mình cha Alexandre De Rhodes khởi xướng ra chữ Quốc ngữ. Trước đó, các cha thừa sai Dòng Tên người Bồ Đào Nha ở Ma Cao đã nghĩ ra một số phát âm tiếng Việt, viết bằng các mẫu tự La Tinh rồi. Tuy nhiên, chính cha Alexandre De Rhodes là người hệ thống hóa, hoàn tất công trình làm ra chữ quốc ngữ thành công vào năm 1651, tức là năm mà cuốn tự điển Việt – Bồ – La chào đời tại nhà in Vatican – Roma.
Thế nên, chính tại nhà in Vatican ở Roma là nơi mà Việt Nam nhận được chữ viết của mình, và chính năm 1651 cũng là năm khai sinh chính thức của chữ quốc ngữ Việt Nam.
Theo đó, chữ viết theo lối La tinh ban đầu được các nhà truyền giáo đặt nền móng cho việc sử dụng trong cộng đồng Ki-tô giáo Việt Nam, đến khi được người dân Việt Nam chấp nhận và sử dụng rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, thì mặc nhiên nó đã tự mình được nâng cấp thành chữ quốc ngữ.
Ghi nhận công nghiệp của cha Alexandre De Rhodes đối với xứ sở, năm 1941, một tấm bia kỷ niệm nhân ngày sinh nhật thứ 350 của cha đã được dựng ở gần bên bờ Hồ Gươm trước cửa đền bà Kiệu – Hà Nội. Đến năm 1957, khi Hà Nội thuộc sự quản lý của chính quyền Cộng Sản thì bia đã bị gỡ bỏ.
Chính quyền Sài Gòn cũ đặt tên ông cho một con đường tọa lạc trước mặt Dinh Độc Lập, nay là Dinh Thống Nhất, đối xứng với phía bên kia là đường Hàn Thuyên, tên danh sĩ được ghi nhận có công phát triển và phổ biến lối chữ Nôm. Sau năm 1975, chính quyền cộng sản đổi tên đường thành Thái Văn Lung và bây giờ thì đã trả lại tên cũ là Alexandre De Rhodes cho con đường này.
Về tiểu sử: Nguyên, cha Alexandre De Rhodes (Đắc Lộ) sinh ngày 15/03/1591 (hay 1593?) tại vùng Avignon, miền nam nước Pháp. Gia đình ông thuộc gốc Do Thái ở thành phố Rhodes (bán đảo Iberia), tổ tiên sang tị nạn ở vùng Avignon là đất của Giáo Hoàng. Ông gia nhập Dòng Tên tại Roma năm 1612, thời kỳ công cuộc truyền giáo cho các dân tộc đang trên đà phát triển mạnh mẽ.
Đầu năm 1625, cha Alexandre De Rhodes đến Việt Nam bắt đầu từ Hội An. Cha bắt đầu học tiếng Việt và chọn tên Việt là Đắc-Lộ. Từ đó, Việt Nam trở thành quê hương thứ hai của cha. Nhưng cuộc đời truyền giáo của cha ở đây rất gian nan, trong vòng 20 năm, cha bị trục xuất đến sáu lần. Đến năm 1645, cha bị Chúa Nguyễn vĩnh viễn trục xuất khỏi Việt Nam. Cha mất ngày 5/11/1660 ở Iran, thọ 69 tuổi.
Hiện nay, ở Việt Nam đã từng xuất hiện ý kiến phủ nhận công lao đóng góp của cha Alexandre De Rhodes trong việc khai sinh chữ quốc ngữ, một trong số họ nêu quan điểm : “Alexandre De Rhodes làm sách bằng chữ quốc ngữ là để phụng sự cho việc truyền bá đức tin Ki-tô giáo, chứ tuyệt đối không vì bất cứ một lợi ích nhỏ nhoi nào của người Đại Việt cả. Người Việt Nam đã tận dụng chữ quốc ngữ, mà một số cố đạo đã đặt ra, với sự góp sức của một số con chiên người Đại Việt, để làm lợi khí cho việc giảng đạo, thành lợi khí của chính mình để phát triển văn hóa dân tộc, để chuyển tải một cách đầy hiệu lực những tư tưởng yêu nước và những phương thức đấu tranh nhằm lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp. Đây chẳng qua là chuyện “gậy ông đập lưng ông” mà thôi. [1]
Riêng đối với công chúng, thì:
– Lối chữ viết đã trở thành quốc ngữ của xứ sở với chín mươi triệu đồng bào cả trong và ngoài nước cùng sử dụng;
– Lối chữ viết được dùng để thể hiện những dòng lịch sử oai hùng của dân tộc từ thuở hồng hoang đến nay;
– Lối chữ viết được dùng để thể hiện lời ru “Ầu ơ …” ân cần của mẹ từ ngày sinh ra ta làm kiếp người;
– Lối chữ viết được dùng để thể hiện sự yêu thương giữa những thành viên trong gia đình, giữa những đôi tình nhân, giữa những người tri kỷ …
– Lối chữ viết được dùng thể hiện ca từ những nhạc phẩm bất tử như Bạch Đằng Giang, Hội nghị Diên Hồng, Trưng Nữ Vương, Lòng mẹ, Tình ca …
– Lối chữ viết mà dân ta có thể tự hào là riêng biệt trong khi rất nhiều quốc gia khác, kể cả nhiều cường quốc vẫn còn phải vay mượn (Úc, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba, Ấn Độ, Gia Nã Đại, Nhật Bản, Đại Hàn …);
Thì người khai sinh của lối chữ viết ấy chắc chắn phải là ÂN NHÂN của xứ sở mình, bất kể đến quốc tịch của họ, bất kể đến tôn giáo của họ và bất kể đến động cơ của họ khi khai sinh lối chữ ấy !
Và với chế độ :
– Lối chữ viết được Ông Hồ Chí Minh dùng để viết lời Tuyên ngôn độc lập khai sinh chế độ;
– Lối chữ viết được dùng để thể hiện Hiến pháp quy định sự độc tôn chính trị của Đảng Cộng Sản;
– Lối chữ viết được dùng trong tất cả mọi sinh hoạt chính trị, hành chính, xã hội, kinh tế, giáo dục, văn hóa …
– Lối chữ viết mà hơn 700 tờ báo của chế độ đang dùng;
– Lối chữ viết mà hơn 24.000 vị tiến sĩ khoa bảng quốc gia đang dùng;
– Lối chữ viết mà hơn 400 trường Đại học, cao đẳng các loại và hàng vạn trường học các cấp đang dùng;
Nhưng lại không mấy ai trong số họ nhắc đến ngày sinh nhật của cha Alexandre De Rhodes, người có công khai sinh lối chữ viết mà nghiễm nhiên đã là quốc ngữ của xứ sở, như là một trong những ân nhân của dân tộc này thì thật là đáng thất vọng !
Tôi tin rằng, xứ sở này nợ ông ấy lời tri ân!

LS Đặng Đình Mạnh

12-3-2017
Nguồn @Đinh Hữu Thoại