Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label NhaVanCungTichBien. Show all posts
Showing posts with label NhaVanCungTichBien. Show all posts

Wednesday, 23 August 2023

 QUẢNG NAM HAY CÃI, LẠI LÀ THÁNH ĐỊA CỦA NHIỀU NHÀ VĂN CẬN ĐẠI NHƯ PHAN NHẬT NAM, CUNG TÍCH BIỀN ... VÀ GẦN ĐÂY NHỨT LÀ NHÀ VĂN ĐƯỢC VC BAN TẶNG DANH HIỆU "TRÁI TIM NHÂN HẬU QGHC PHẠM THÀNH CHÂU"./-Mt68

_________________

Nhà văn Cung Tích Biền: Con người, cuộc đời và các sáng tác Nhà văn Cung Tích Biền tên thật Trần Ngọc Thao, sinh năm 1937 tại Thăng Bình, Quảng Nam. Từ 1970 là giảng viên Trường Sĩ Quan Hành Chánh Sài Gòn. Ông giải ngũ năm 1973 với cấp bậc Đại úy. Sau đó làm Giáo Sư Thỉnh Giảng Viện Đại Học Cộng Đồng Quảng Đà, Đà Nẵng.

Là một nhà văn độc lập, ông có truyện và thơ đăng trên các báo từ Năm 1958, với nhiều bút hiệu khác nhau lúc ban đầu như Chương Dương, Việt Điểu, Uyên Linh trước khi có bút hiệu Cung Tích Biền.

Bút hiệu Cung Tích Biền xuất hiện lần đầu tiên trên tuần báo Nghệ Thuật tháng 3-1966 tại Sàigòn, với truyện ngắn Ngoại Ô Dĩ An và Linh Hồn Tôi.

Nhà văn Cung Tích BiềnSử dụng các phím mũi tên Lên/Xuống để tăng hoặc giảm âm lượng.

Nhà văn Cung Tích Biền: Con người, cuộc đời và các sáng tác Nhanh chóng có truyện đăng trên hầu hết các nhật báo, tuần báo, tập san văn học nghệ thuật có giá trị, trước và sau 1975, trong và ngoài nước. Cung Tích Biền đang sống tại Đồng Ông Cộ, Sài Gòn, Việt Nam.

Cuộc đời thay đổi

Trong câu chuyện với chúng tôi ngày hôm nay, nhà văn cho biết hoàn cảnh sống của ông trong lúc này, tức là sau hơn ba mươi năm sau ngày 30 tháng 4:

Nhà văn Cung Tích Biền : Tôi thì tôi sống khá bản lĩnh cho nên tôi luôn luôn bình tĩnh trước mọi việc dù đó là cái ám ảnh những sự khốn nạn, ngay cả bệnh hoạn như trong tình trạng tôi bịung thư bây giờ chẳng hạn tôi cũng có sự chế ngự riêng. Có lẽ về mặt tâm linh tôi cũng khá tôi.

Mặc Lâm : Thưa ông, xin được phép chia sẻ với nhà văn những khó khăn mà ông gặp trong đời sống hàng ngày từ nhiều năm qua. Chúng tôi cũng xin cảm ơn ông tuy rằng rất là khó khăn song vẫn chấp nhận nói chuyện với chúng tôi trong chương trình Văn Học Nghệ Thuật ngày hôm nay. Thưa ông, với những khó khăn này thì làm cách nào mà ông và gia đình có thể vượt qua được khi ông chấp nhận tiếp tục cầm viết trong chế độ không cho phép xuất bản tác phẩm của mình?

Nhà văn Cung Tích Biền : Nói vềsự khốn khổ ở đây thì vô cùng! Khốn khổ về vật chất thì tôi đã từng dạy con tôi từng sống với khốn nạn, cả nhà tôi cũng nói như vậy thôi. Cái khổ đó thì với chuyện đời nó cũng bình thường thôi. Có điều cái mà nó dằn vặt về trí não, về tâm linh, cái thất vọng về mặt tư tưởng, cái đó mới đáng làm cho mình bận tâm, thưa anh ạ. Sau 75 thì hoàn toàn có cái gì gần như đổ vỡ và tuyệt vọng!

Mặc Lâm : Được biết là ông đã có kinh nghiệm về giaiđoạn chín năm trong vùng kháng chiến và cũng là người sau đó có mặt tại Miền Nam với một vị trí khá cao là giảng viên của Trường Sĩ Quan Hành Chánh Sài Gòn. Ông có so sánh gì về hai hoàn cảnh sống khác nhau này ạ?

Nhà văn Cung Tích Biền : Tôi đã từng sống 9 năm trong vùng kháng chiến và chính trong thời kháng chiến tôi cũngđi đánh đàn đánh nhạc, sống trong cái tâm trạng vui của tuổi trẻ, nhưng mà sau này nhìn lại tôi thấy như một giấc mộng vậy đó. Thành ra tôi ở cái ranh giới khó về lắm chứ không phải tôi sống hoàn toàn trong vùng quốc gia.

Sau này sống trong vùng quốc gia thì vừa trưởng thành vừa được dịp đi học, được mở rộng, được đi học thì mình được tiếp cận với một thế giới khác hơn.

Cuộc chiến bắt đầu thì tôi lại lâm vào đó, tôi phải đi lính trong quân đội cũ, rồi mình cũng phải tham dựvào những chuyện gọi là lý tưởng thì cũng không hoàn toàn phải là của lý tưởng, thất vọng thì hoàn toàn cũng không phải là thất vọng, bởỉ vì hồi đó chính quyền Miền Nam có cái dung dưởng được mình và mình cũng sống trong môi trưởng tương đối tự do: tự do viết, tự do sáng tạo, tự do in ấn.Rồi ngay trong đời sống quânđội, dù có đi lính đi nữa thì cũng có cái thoải mái của quân đội. Thật sự chếdộ cũ cũng có vài cái mà có lẽ mình cũng không nên bàn vì anh em cũ họ cũng có thấy cái đó. Anh em ở chiến trường họ cũng thấy những cái vướng mắc, những cái u bướu trong một chế độ, chứ thật sự 20 năm, 21 năm Miền Nam cũng có cái rất vui, có những cái hạnh ngộ, có những đau buồn.

Hoàn cảnh xã hội

Mặc Lâm : Trong tác phẩm mang tên Bạch Hóa ông đã chia sẻ rất nhiều những cảm nhận sau khi hòa bình lập lại, tức là năm 75. Cho tới nay thì những nhận định này có thay đổi ít nhiều gì do hoàn cảnh xã hội hay không, thưa ông?

Nhà văn Cung Tích Biền : Tôi luôn luôn nghĩ cũng như anh em hồi đó sống trong khói lửa ai cũng mơ một đất nước thống nhất và hoà bình. Đó là cái giấc mơ chung, ước mơ chung, bởi vì thật sự không ai kham nổi cuộc chiến mà nó vượt sự phi lý, một cuộc nội chiến khó giải thích về cái điểm vô luân của nó như tôi viết trong Bạch Hoá.

Thành ra cái khao khát thật sựhồi đó là mong được hoà bình và đất nước thống nhất, rồi sau đó cái gì sẽ tính sau, bên nào cũng được nhưng mà phải ngưng tiếng súng cho bớt đổ máu, cho hoà bình, đất nước một nhà.

Nhưng cái thống nhất một nhà này là do của Hà Nội chứkhông phải của Sài Gòn thành ra chúng tôi lại cũng gặp thêm một khổ nạn nữa, bởi vì bất cứ ở đâu thì chúng tôi cũng là người trong hàng ngũ chiến bại, khôngđầu hàng cũng bắt buộc phải buông súng.

Mặc Lâm : Ông có thể cho biết những hoạt động viết lách của ông sau Năm 1975 như thế nào khôngạ?

Nhà văn Cung Tích Biền : Thời gian rất dài từ 75 đến 87 thì tôi không viết lách gì hết. Tôi không viết lách gì hết nhưng trong thời gian đó tôi cũng rất cẩn thận là vì tôi cũng không viết gì nữa hết chứ không phải là không viết lách.

Riêng mình cộng tác vớí chế độmới thì thực sự thời gian đó tôi cũng không viết, không xuất hiện gì cả.

Mười hai năm sau, đến Năm 1987 thì tôi mới viết lại và truyện đầu tiên tôi viết là Mộng, rồi loạt truyện Dị Mộng, Qua Sông, Thằng Bắt Quỷ, một loạt đó được in. Rồi sau đó tập hợp xuất bản thành tập truyện Thằng Bắt Quỷ đó.

Mặc Lâm : Như ông vừa trình bày là ông có vài tác phẩm trong giai đoạn sau năm 1987, vậy cơ quan nào nhận in ấn hoặc xuất bản cho ông những tác phẩm này, thưa ông?Nhà văn Cung Tích Biền : Một phần lớn truyện của tôi là như truyện Qua Sông, trưyện Thằng Bắt Quỷ, Dị Mộngđăng ngay tại Việt Nam , nhưng mà có vấn đề là vì đăng rồi thì Ban Biên Tập Sông Hương với lại Cửa Việt bị phê phán nặng lắm chứ không phải êm xuôi, nhưng có điều đặc biệt là đến sau nhiều năm, sau độ mấy năm đó, bảy tám năm gìđó, thì nhà xuất bản Hà Nội họ mới in lại Tuyển Tập Truyện Ngắn Việt Nam Thế Kỷ20 thì không biết tại sao họ lại lấy cái truyện đó họ in vào đó anh à.

Mặc Lâm : Ông có biết gì về tin tức của những nhà vănđồng thời với ông như là Nguyễn Thụy Long hay Nguyễn ThịHoàng…thì những người này đã được nhà nước đối xử với tác phẩm của họ như thếnào ạ?

Nhà văn Cung Tích Biền : Cái lớp cũ của chúng tôi thì còn lại ở trong nước như chị Nguyễn Thị Hoàng, anh Nguyễn Thuỵ Long, anh Dương Nghiễm Mậu. Anh Nguyễn Thuỵ Long có biết lại nhiều và có đăng trên Khởi Hành, tôi có đọc một loạt truyện anh đăng trên Khởi Hànhđó. Chị Nguyễn Thị Hoàng thì sau có viết lại, có in ở Việt Nam một tập dưới dạng gần như hồi ký, rồi sau đó không biết thế nào mà chị lại không viết nữa.

Đặc biệt anh Dương Nghiễm Mậu thì ảnh không viết gì cả, nhưng vừa rồi có in 4 tập truyện của anh, chăc anh cũng biết cái tình hình đó. In ra thì cũng bị đánh lên đánh xuống vậy đó. Tức là cái lớp nhà văn cũ thì người viết lại đăng ở ngoài, người viết lại rồi lại không viết tiếp, người yên lặng rồi được in lại sách, nhưng mà cuốc cùng thì cũng nói chung theo cái từ bây giờ là “cũng có vấn đề”.

Mặc Lâm : Còn các tác giả trẻ mà tiểu sử của họ không có vấn đề, nổi bật như Nguyễn Ngọc Tư chẳng hạn, thì ông nhận thấy ra sao, thưa ông?

Nhà văn Cung Tích Biền : Cái lớp anh em họ xuất hiện về sau này, tôi không có đề cập đến quý vị nhà văn nhà nước, tôi không dám đề cập đến quý vị đó. Tuy không dám thế thôi, có một ẩn dụchứ không phải là sợ đâu, là vì quý vị đó được nói tới nhiều quá thành thử tôi không cần thiết phải nhắc tới.

Tôi chỉ nói ra ở đây cái lớp trẻ, chẳng hạn quý vị các lớp trẻ mà cũng ở trong Hội Nhà Văn, rất là trẻ ví dụ như Trần Thuỳ Mai, cô Nguyễn Ngọc Tư, trong đó tôi thấy trội nhứt là Nguyễn Ngọc Tư.Cổ là người Nam, cổ rất là còn trẻ mà bút pháp rất là sắc sảo cũng nói lên được một số tình hình xã hội ởtrong nước như thế này đây, nhưng mà khi cổ in ra thì cũng bị đánh lên đánh xuống vậy. Nhưng tôi thấy đây cũng là tài năng.

Trong cái toàn cảnh này thì không có ngòi bút nào viết hết nổi đâu anh ạ, kể cả những tài năng lớn cũng không thể viết hết, bởi vì nó có nhiều cái giới hạn quá đi.Nhà văn Cung Tích Biền : Các anh em trẻ như anh Nguyễn Viện, anh Trần Tiến Dũng, hoặc là nhóm của anh Bùi Chát, Nguyễn Đợi thì tôi thấy nhóm đó là một nhóm tiến bộ và thật sự họ có tài năng, cộng thêm với tài năng là họ cũng khá can đảm.

Tất cả anh em đó sống trong nước này, thay vì các ảnh nghiêng người một chút thì sống ổn định hơn, nhưng mà các anh đó thì tôi thấy là tốt đấy, cũng thẳng lưng lên để đi và có những cái gì đương đầu thì tính sau, nhưng mà họ yêu chuộng tự do, dám viết. Tôi thấyđiều đó thì tôi cũng rất là mong.

Trong chương trình phát thanh kỳ tới mời quý thính giả tiếp tục theo dõi phần phân tích tác phẩm “Xứ Động Vật” của nhà văn Cung Tích Biền để biết thêm một phần xã hội Việt Nam trong thời gian hội nhập dưới bút sắc sảo và rất nhân bản của ông.

Theo RFA

 Một Vụ Án Văn Chương


Dương-Nghiễm-Mậu---Bản-vẽ-của-Chóe
Dương Nghiễm Mậu - Bản vẽ của Chóe.
 
Sau tháng Tư năm 1975, tất cả những tác phẩm truyện ngắn truyện dài của các tác giả Việt Nam Cộng Hòa [1954-1975] đều bị chế độ mới, Xã hội chủ nghĩa cấm in ấn, phổ biến, lưu trữ. Tên tuổi tác giả, tác phẩm được công bố rõ ràng.

Việc tưởng xong, là quá khứ. Bỗng dưng 32 năm sau năm, 2007, từ Hà Nội một nhà văn có chức quyền, có Đảng tịch, ông Phạm Xuân Nguyên, vận động, hô hào sẽ in lại một số tác phẩm Miền Nam, đang bị cấm. Trước tiên là 4 [bốn] tập truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu.
   
Đó là các tác phẩm Đôi mắt trên trời, Cũng đành, Tiếng sáo người em út và Nhan sắc. Khi sách được phát hành có ngay phản ứng. Rất nhiều bài báo lần lượt xuất hiện liên tiếp trên các báo tại Sàigòn “đánh/ đập” ra trò. Hóa ra, những người vận động in lại sách là các cán bộ văn hóa từ Hà Nội. Hung hăng đánh phá là những cây bút… Sàigòn. Trong đó có Vũ Hạnh, một cán bộ nằm vùng, người trước kia bị chế độ Miền Nam bắt giam tù, Dương Nghiễm Mậu là một trong số các nhà văn, ký đơn xin ân xá cho Vũ Hạnh.
    
Trong số nhiều bài viết về vụ này, chúng tôi thấy có ba bài viết, bài của Phạm Xuân Nguyên, bài của Vũ Hạnh, và bài của một bạn trẻ, là đáng hiện ra thành chữ nơi đây, chúng ta có thể hiểu rõ hơn, nội dung sự vụ.
   
1/ Bài viết của Nhà văn Phạm Xuân Nguyên [trích đoạn]:
    
Truyện ngắn Dương Nghiễm Mậu
   
Văn chương dân tộc Việt Nam thế kỷ XX, do nhiều hoàn cảnh lịch sử và lý do khác nhau, đã không thuần nhất và thống nhất. Có một thực tế đã trở thành lịch sử là trong giai đoạn 1954-1975 đất nước bị chia thành hai miền lãnh thổ với hai thể chế khác nhau và dưới hai thể chế trên hai miền lãnh thổ ấy đã tồn tại hai nền văn chương khác biệt về ý nghĩa chính trị. Nhưng ở những tác giả và tác phẩm tiêu biểu, ở bên này hay bên kia, đó đều là văn chương đúng nghĩa, tức là có giá trị nhân bản, nhân văn đối với con người. Tôn trọng lịch sử thì phải thừa nhận một thực tế khách quan là văn chương Việt Nam thế kỷ XX có các bộ phận khác nhau, và để hình dung bức tranh đầy đủ về văn chương dân tộc thì phải có sự tổng hợp, thống nhất các giá trị văn chương đích thực từ các bộ phận cấu thành ấy.
   
[…] Lựa chọn in lại những tác phẩm có giá trị văn chương của các nhà văn nhà thơ từng sáng tác ở Sài Gòn giai đoạn 1954-1975 là nhìn văn học ở tư cách văn học dưới con mắt lịch sử. Hơn thế, đó còn là đưa trả lại cho văn chương nước nhà những giá trị xứng đáng của nó và đem lại cho độc giả văn chương những tác phẩm họ cần biết, cần đọc để hiểu đầy đủ, toàn diện hơn nền văn chương dân tộc thế kỷ XX. Có thời ném đá đi và có thời lượm đá về.
   
Bốn tập truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu (Đôi mắt trên trời, Cũng đành, Nhan sắc, Tiếng sáo người em út) vừa được ra mắt ở Nhà xuất bản Văn nghệ là trên tinh thần này. […] Truyện Dương Nghiễm Mậu như nhẹ nhàng nhưng thực ra rất trĩu nặng những suy tư, triết lý về nhân sinh, cuộc đời mà người đọc phải tự mình chiêm nghiệm hiểu ra. […] Được viết ra cách nay xa thì non nửa thế kỷ, gần thì cũng ba chục năm, những truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu vẫn tươi mới về giọng điệu, vẫn sắc bén trong câu chữ, lời văn, vẫn thâm trầm ý tưởng, để khiến đọc vào người đọc phải đối diện với chính mình, phải bị lột trần trong tâm tưởng, từ đó có một khoái cảm tự phân tích, tự nhận thức để thấy ra thân phận và kiếp sống mình. Trong nền văn chương Sài Gòn trước 1975, Dương Nghiễm Mậu có vị trí khá đặc biệt nhờ ở văn tài của ông. […]
   
Hà Nội 12/4/2007
   
(Ghi chú của CTB:  Xin mời đọc thêm toàn văn bài này tại, talawas.org)
   
2/ Về bài viết của Vũ Hạnh, chúng tôi nghĩ chỉ trích môt vài đoạn là đủ. Trong đời cầm bút Vũ Hạnh, đã quen với giọng tố cáo, đánh phá, mạ lỵ, vu cáo; là tác phong của một viên an ninh văn hóa nằm vùng.
   
Lời Vũ Hạnh:
 
“…Hơn ba mươi năm trôi qua, những thứ sản phẩm, gọi rằng văn hóa, rất độc hại ấy đã được xếp xó cùng với bao khối bom, mìn, súng ống đủ loại từng gây chết chóc, thương tật cho những con người yêu nước và tưởng rằng sự yên nghỉ ngàn thu của các sản phẩm như thế là chuyện lịch sử đã an bài rồi. Và các tác giả – là Dương Nghiễm Mậu, Lê Xuyên – sống lại ở thành phố này vẫn được đối xử bình đẳng, không hề gặp phải bất cứ sự quấy phiền nào. Những nỗi khổ đau và những sai lầm đã được xếp vào dĩ vãng, được khuyên khép lại, quên đi để cùng nhìn vào thực tại, hướng về tương lai…
   
…Vì những lẽ đó, rất nhiều bức xúc, phẫn nộ của các bạn đọc khi thấy ấn hành sách của ông Dương Nghiễm Mậu. Các bạn đọc này gồm nhiều thành phần: vị tướng đã từng xông pha trên các chiến trường chống Mỹ, nhà giáo dạy văn, một cựu sĩ quan quân đội, nhà thơ, nhà báo… Đem những vũ khí độc hại ra sơn phết lại, rêu rao bày bán là một xúc phạm nặng nề đối với danh dự đất nước” 
(SGGP số ngày 22/4/2007).
    
3/ Bài của Lý Đợi:
  
Ngày xưa Vũ Hạnh

Sau khi đọc bài viết của tác giả Vũ Hạnh, mà nói như kiểu Quảng Nam: “hùm chết để da, người ta chết để tiếng” – đây là thứ tiếng gì, cũng không biết nữa – tôi chợt nhớ về mấy chuyện ngày xưa ở trong sách, năm 1973 tại Sài Gòn. 
   
1. Từ lời nhà xuất bản 
   
Trong tuyển tập Những truyện ngắn hay nhất của Quê hương chúng ta, với 45 tác giả, mỗi người một truyện, Nhà xuất bản Sóng muốn giới thiệu những cây bút viết truyện [mà theo họ là] quan trọng nhất của văn học miền Nam từ 1954 đến 1973.
   
Cuốn sách này hoàn tất cuối năm 1973, xuất bản lần đầu năm 1974, với rất nhiều tác giả quen thuộc [xếp theo A, B, C] như Bình Nguyên Lộc, Cung Tích Biền, Doãn Quốc Sỹ, Du Tử Lê, Duyên Anh, Dương Nghiễm Mậu, Hồ Hữu Tường, Huỳnh Phan Anh, Mai Thảo, Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Đức Sơn, Nguyễn Mạnh Côn, Nguyễn Sỹ Tế, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thuỵ Long, Nguyễn Xuân Hoàng, Nhã Ca, Nhất Hạnh, Nhật Tiến, Sơn Nam, Thanh Tâm Tuyền, Thế Uyên, Trần Thị Ngh, Tuý Hồng, Viên Linh, Võ Phiến, Vũ Hạnh, Vũ Khắc Khoan…
   

Có điều dễ thấy là nhà văn Dương Nghiễm Mậu và Vũ Hạnh cùng chung một tuyển tập tự nguyện, bình đẳng. Tại sao nói là tự nguyện? Vì trong Lời nhà xuất bản có viết: “Bạn đọc sẽ thấy rõ từng sắc thái nhà văn qua tiểu sử, truyện ngắn và quan niệm về truyện ngắn của mỗi người, mà Sóng đã phỏng vấn tóm tắt qua 3 câu hỏi, trong đó có, câu 1: 
    
1) Xin quý anh chị vui lòng cho biết sơ qua tiểu sử; 
   
Cả hai tác giả này, cũng như 43 tác giả khác đều tự nguyện trả lời và tự do tham gia, ai không muốn có thể không tham gia. 
   
2. Đến lời tự khai 
   
Để trả lời 3 câu hỏi của nhà xuất bản, tác giả Vũ Hạnh viết như sau trong phần tiểu sử, có ký tên nghiêm chỉnh: 
   
“Tên thật là Nguyễn Đức Dũng, sinh ngày 15.7.1926 tại Bình Nguyên, Thăng Bình, Quảng Nam. Học ở quê nhà (Thăng Bình) rồi Đà Nẵng, và Huế. Sống trong vùng kháng chiến Liên khu Năm cho đến Hiệp định Genève. Đấu tranh đòi hiệp thương hai miền Nam Bắc năm 1955, bị chánh quyền Diệm bắt giam; cuối 1956 được tự do, vào Sài Gòn viết báo và dạy học, cộng tác với Bách Khoa, Mai, Văn… Năm 1961 chính quyền Diệm bắt lại nhưng nhờ báo chí can thiệp nên sớm được tự do. Năm 1967 đã tham gia Lực lượng Bảo vệ Văn hóa Dân tộc.” 
   
Sài Gòn thời đó, ra tù còn được viết báo và đi dạy học ư? Chuyện hình như quá hiếm thấy thời nay. Sài Gòn thời đó, nhà văn - trí thức bị bắt, báo chí can thiệp, đòi trả tự do, chuyện cũng quá hiếm thấy thời nay. Mà báo chí là ai? Cũng là các nhà văn đứng phía sau; trong đó có những tác giả nổi tiếng trong tuyển tập này đứng ra bênh vực, ký tên vào bản yêu sách đòi trả tự do cho Vũ Hạnh.
   
Điều này có thể hỏi những tác giả còn sống trong tuyển tập này thì sẽ rõ. Sài Gòn thời đó, ngay trên mảnh đất được xem là của “địch”, Vũ Hạnh vẫn được đối xử như một nhà văn, được đối xử như một “người Việt cao quý”, được những đồng nghiệp (không phân biệt chính kiến, quan điểm) bênh vực [mà nói theo giọng Quảng Nam là “binh giực”]. Trong khi Sài Gòn ngày nay, trên xứ sở được xem là đã “giải phóng”, đã hoà bình, thì không; những người như nhà văn Dương Nghiễm Mậu quả là quá xui xẻo, đã bị chính những “đồng nghiệp” cùng ăn cháo với mình ngày xưa cắm mảnh bát vào tác phẩm.
   
Những tác phẩm có đầy đủ giá trị tự thân, được kiểm định qua thời gian, nó xứng đáng [và hợp chủ trương] là giới thiệu ra công chúng, vậy mà bị người ta vu cho cái tội đồi truỵ, phản động, và nên cho vào tù. Sài Gòn ngày xưa, nhà văn tranh đấu bị bắt vào tù, được đồng nghiệp đấu tranh xin ra; Sài Gòn ngày nay bình yên, hoà hợp, vậy mà có vài nhà văn in tác phẩm thì gần như bị chụp mũ, tước mất quyền tự do ngôn luận. Cũng lạ. 
   
3. Và lời kết 
   
Quả là những người như Vũ Hạnh quá may mắn, đã từng có “những ngày xưa”, và đương nhiên có luôn “vinh quang ngày hôm nay”. Còn những người như nhà văn Dương Nghiễm Mậu, Lê Xuyên… trong cái nhìn của những người có cùng chủ trương như Vũ Hạnh, thì không bao giờ! Kiểu giọng giang hồ hay nói:
   
Mày hết đường rồi con! 
   
Ba mươi mấy năm qua, số tiền và vật lực mà Việt kiều gởi về xây dựng quê hương là bao nhiêu? Con số khó cụ thể, nhưng chắc ai cũng hình dung ra được là không nhỏ. Mà Việt kiều, đa phần là gồm những ai, chắc cũng không cần phải nói thêm nữa! Đa phần họ làm sao để có tiền, đương nhiên là phải bỏ trí lực ra lao động, tự lực tự cường. Vậy mà chỉ một vài cuốn sách bình thường của những người cũ [xin lỗi vì tôi phải gọi như thế], đã qua biên tập, thẩm định, kiểm duyệt khắt khe, được xuất bản thì lại nhảy dựng lên như gà mắc phải dây thun. Thật khó hiểu. Tiền thì nhận tha hồ; còn những công cụ như sách vở giúp ta tự lực tự cường, giúp làm ra tiền… thì không được.
   
Chẳng lẽ chúng ta cam tâm làm phận “ăn xin” mãi sao? Điều này càng khó hiểu hơn khi ta đối chiếu với chủ trương, đường lối chính sách (nhất là trong ngoại giao và vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền) mà Việt Nam đang muốn xây dựng. Vậy câu hỏi được đặt ra là trong đời sống hôm nay (năm 2007) là: những bài viết như kiểu của Vũ Hạnh và những cơ quan truyền thông chuyển tải nó đến công chúng, đang muốn gì? Theo một vài nhà phân tích thì những bài kiểu này rất “phản động”, theo nghĩa là nó chống lại sự chuyển động chung của đất nước, chống lại ích lợi chung của cộng đồng.
   
Còn với những người trẻ như bọn tôi, những công dân sinh sau cái khoảng chuyện “ngày xưa” ấy, đang không muốn cam tâm làm phận theo đuôi và ăn xin thì nói thật, càng không biết những chủ trương ủng hộ các quan điểm như kiểu Vũ Hạnh đang muốn gì? 
   
Đất nước, dù thế nào, và dù muốn dù không cũng phải thuộc về thế hệ trẻ, hay ít ra, nên hướng về thế hệ trẻ. Vậy thì để tránh những suy diễn không cần thiết, thiết nghĩ, đại diện nhà nước cũng cần có những trả lời cụ thể để chúng tôi biết đường mà tính, biết đường mà đi. [La Hán Phòng, 10.5.2007 ]
 
***
 
Xin phép, tôi được gọi đây là một “Vụ án”, và mong được đồng ý rằng, “Đúng là vụ án văn chương”. Ở một nơi mà ba quyền căn bản trong việc trị nước, Lập pháp, Hành pháp, và Tư pháp chỉ quy vào một nơi; nơi này có toàn quyền trong hành trình theo dõi, bắt người, giam tù, xử án; còn phía kia, tiêu biểu là dân chúng, phải tuyệt đối chịu trận, tuân thủ, dù phải tuân thủ một bản án chết oan; thì đương nhiên công lý chết toi.
   
Nếu một nơi quyền công dân được tôn trọng, Dương Nghiễm Mậu có thể khiếu kiện, bắt buộc Vũ Hạnh phải chứng minh trước tòa, v/v văn chương Dương Nghiễm Mậu độc hại như thế nào. Ở những nước có nền dân chủ, giả dụ một cô gái tố cáo một anh nào đó quấy rối tình dục, nếu chứng minh anh kia có thật như thế trước tòa, anh kia phải chịu tội; nếu không chứng minh được sự thật, cô gái phải đền bù danh dự cho người kia. Y chang hành trình làm sáng tỏ danh dự con người, đúng ra là công lý, như thế, ắt có và đủ cho một vụ án về việc “Gây độc hại, làm phật lòng một vị tường! Làm phiền lòng bà con chống Mỹ cứu nước, bôi nhục danh tự giống nòi”.  Vụ án, chẳng xôm tụ là gì.
 
– Cung Tích Biền
Garden Grove 6-2023

Thursday, 27 June 2019

Xuân Sàigòn Xuân Tha Hương


Cung Tich Bien
Nhà văn Cung Tích Biền tên thật Trần Ngọc Thao, sinh năm 1937 tại Thăng Bình, Quảng Nam, với nhiều bút hiệu khác nhau lúc ban đầu như Chương Dương, Việt Điểu, Uyên Linh trước khi có bút hiệu Cung Tích Biền. Bút hiệu Cung Tích Biền xuất hiện lần đầu tiên trên tuần báo Nghệ Thuật tháng 3-1966 tại Sàigòn, với truyện ngắn Ngoại Ô Dĩ An và Linh Hồn Tôi. Nhanh chóng có truyện đăng trên hầu hết các nhật báo, tuần báo, tập san văn học nghệ thuật có giá trị, trước và sau 1975, trong và ngoài nước.

I.
Người Việt đón Tết Nguyên Đán, chào Xuân Mới, vào ngày Một tháng Giêng [1-1] mỗi năm âm lịch. Thưởng ngoạn thiên nhiên tươi đẹp, sống trong thân thiện, tình cảm cộng đồng, lễ nghĩa với tổ tiên ông bà, thụ hưởng cuộc hội hè, ăn chơi trong và sau tết, bà con gọi chung thời gian này là Ăn Tết; Tết Ta.

Gọi rằng Tết Ta, để phân biệt với ngày đầu năm dương lịch [1-1] dân chúng thường gọi là Tết Tây. Tết Tây không được nghỉ lễ dài ngày, dân chúng có tiệc tùng mừng vui, nhưng đơn giản hơn nhiều, so với Tết Ta. 

Nguyên là đầu, sơ nguyên, Đán là sớm, lúc mặt trời vừa mọc. Sau Tết Nguyên Đán hãy còn nhiều cái tết khác tiếp theo trong một năm. Tất cả đều tính theo ngày, tháng âm lịch. Chỉ kể những cái tết chính, hiện nay dân chúng còn nhớ để sinh hoạt, là:

- Tết Nguyên Tiêu, nhằm ngày rằm tháng giêng [15-1]. Âm lịch tính theo chuyển vần của mặt trăng. Trăng tròn tháng giêng là vừng trăng tròn đầu tiên [nguyên] trong một năm. 

- Tết Đoan Ngọ, ngày mồng năm tháng năm. Dân chúng có tục lệ hái lá Mồng năm, chữa bệnh, vào lúc Chính-Ngọ, chính giữa trưa [giờ Ngọ khởi từ 11 giờ sáng đến 1 giờ chiều] 

- Tết Trung Thu, rằm tháng tám, dành cho thiếu nhi.

**

Chuẩn bị cho dịp Tết, phải tốn rất nhiều công sức, thời gian, và lòng thành. Giàu theo cách giàu, nghèo khó cũng gắng thu gom dành dụm, việc cúng kiến, lễ nghi, giao tế qua lại sao cho “đẹp mặt”, với chòm xóm láng giềng. 

Những tục lệ cũ xưa, nay đời sống tân tiến, nhưng tết nhứt mà quên đi lề xưa thói cũ của ông bà đã từng, trong lòng mình cũng bâng khuâng, thương cảm. 

Làm mới cửa nhà. Ít nhứt ai nấy sơn quét, làm đẹp mặt tiền nhà mình nhìn ra đường phố. Đặt những chậu hoa, treo câu đối Tết. Vật dụng trong nhà, cái gì hư cũ bỏ đi, thay cái mới, lấy hên, đuổi như đổi tà những xui xẻo, nghèo khó, buồn phiền đi chỗ khác chơi. “Tống cựu nghinh tân”, giả biệt năm cũ, chào năm mới. Nhà nhà tặng nhau qua lại, quà cáp. Trẻ em, cha mẹ già, được tặng áo quần mới. Nhà giàu, thay mới luôn đệm giường ngủ, ra giường, bao gối, màn cửa; năm mới, tình ái mới. 

Bà con ta gọi tháng cuối năm âm lịch là tháng Chạp [chạp mả]. Con cháu tỏ lòng hiếu thảo với ông bà tổ tiên. Dẫy cỏ, sơn quét, xây mới mồ mả. Ngày tháng Giêng, trong gió đầu xuân, nghĩa địa nào cũng sáng tươi dưới ánh mặt trời. Một số địa phương chạp mả vào tháng Ba âm lịch, gọi là lễ Thanh minh. // Thanh minh trong tiết thang Ba / Lễ, là tảo mộ, Hội, là đạp thanh. [*]

**

Nơi thôn quê, bà con đốt lá khô cây mục trong vườn, làm sạch sẽ đường làng. Tu sửa đền chùa, miếu đình, thu dọn việc nông tang, vườn tượt đâu ra đó, mọi cái phải tươm tất. Nhà khá giả, dựng cây nêu trước sân, làm sạch sẽ chuồng trâu bò heo gà. Tết nhứt, chung cùng ăn tết, người - vật cùng sạch sẽ tươi vui. Mùa Xuân là của muôn loài, trời đất cũng đổi thay. Rừng núi, cây lá, nụ hoa lọn cỏ cũng tự làm mới mình. Cây tự xanh lá sau mùa đông ủ dột, hoa tự nở bởi ấm áp hơi xuân, con suối dòng sông tự trong lành sau mùa bão lũ, ong bướm con chim én chắc cõi lòng cũng lâng lâng nên bay lượn rộn ràng.

**

“Mồng Một tết cha, Mồng Hai tết mẹ, Mồng Ba tết thầy”. Trẻ em ngày Mồng Một theo cha mẹ tới nhà ông bà nội bái lạy tổ tiên, chúc thọ ông bà, nhận bao tiền lì xì năm mới. Mồng Hai theo cha mẹ về nhà ông bà ngoại, được lì xì tiền, lạy bàn thờ bên nhà ngoại. 

Mồng Ba, học trò tất thảy đến nhà thầy tạ ơn công dạy dỗ. Tạ ơn vị thầy thuốc chữa bệnh cho mình. Tạ ơn thầy dạy võ, có võ nghệ, cứu giúp kẻ bị gây oan, bị hà hiếp. Cả việc vợ chồng cùng có món lễ đến tạ ơn bà mai ông mối xưa kia, xe duyên đôi lứa sống bao năm đầm ấm, ít cãi cọ nhau đầm đìa mệt nghỉ.

Công nhân, viên chức, học trò, công cũng như tư, được nghỉ ngơi thỏa mái, thời gian rất dài, thường là 10 ngày. Người thôn quê ra phố thị làm ăn, những ai tha phương cầu thực, hoàn cảnh ra sao, dù thế nào, sau một năm cực nhọc, được trở về làng quê xóm cũ, là một niềm vui ngọt ngào. Cho em chiếc áo mới, tặng mẹ một mớ tiền, cho cha già cái cái máy tra đĩa nhạc vô nghe chơi; cùng bạn bè ăn nhậu, cụng ly vui vầy.

Những ngày xáp tết, các bến xe ga tàu rộn rịp, chen chúc; phải tìm mua cái vé tàu, vé xe từ ba bốn tháng trước mới có chỗ. 

Hồi mới lên Sàigòn tìm việc, chỉ một cái túi xách nhẹ tơn; bây chừ trở về quê, nhờ ân sũng phố thị, vai mang tay xách bao là va ly đồ đạc; bà con chốn quê được hưởng, được mừng lây nỗi mừng thành tựu. Thời Cộng Hòa chiến chinh lan tràn, nhưng cũng tìm mọi cách để trở về. Đường sá bom mìn, cầu cống hư hỏng, có khi về tới đầu làng đã thấy cảnh tiêu điều. Nhưng phải về. Cái dạ nó nao nao, người ta về quê cả rồi, công sở nghỉ việc, trường học buồn teo, phố thị vắng hiu, ở lại mần chi! Buồn đứt bóng.
Người Việt định cư ở nước ngoài, các xứ tiên tiến công nghiệp, không có lễ nghĩa tục lệ rườm rà, không có một ngày nghỉ nào dành cho những ngày đầu năm âm lịch. Để níu cái Hồn nước, giữ truyền thống, để nhớ quê cha đất tổ, bà con xa xứ bày biện ra một Bóng-dáng-Quê-nhà, nơi công cộng, ở mỗi nhà nhà.

Ở đất Mỹ, chợ Phước Lộc Thọ trên đường Bolsa phần nào biểu trưng cái Bóng-dáng-Quê-nhà thân yêu ấy. Little Saigon, được bà con gọi là trái tim, là Thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa Hải ngoại. 

Bước tà tà, dọc đường phố, mắt đã thấy lai rai khung cảnh chợ Tết, lòng đã chùng nỗi nhớ, tai đã nghe đì dùng tiếng pháo. Lại có tiếng pháo điện tử nổ lẹt đẹt lạch tạch, từ những phong pháo giả dạng treo dài thòng giống như loại pháo có thuốc pháo. Nổ, không cần châm lửa, không thấy làn khói xám của hồn pháo lửng lơ, không xác pháo nát tan trên mặt đường. Rõ, là thiếu cái bừng nở, tháo tung nỗi hân hoan. 

Chợ đây rồi. Nhìn một loáng. Hàng hóa ngập con mắt; chẳng thiếu một thứ/món/vật gì. Khung cảnh, hình ảnh, cái tình tự nhân gian một Chợ Tết, không phải tựa tựa, mà y chang một thu nhỏ, của chợ Bến Thành, một chợ Bình Tây, Bà Chiểu, Tân Định. 

Chợ Bến Thành, nay hãy còn, nhưng với một số bà con xa xứ, nhất nhất hơn bốn mươi năm không hề trở lại thăm quê, Bến Thành đã trở thành chốn trăm năm cũ. Đã hằn sâu trong đáy lòng, một cách // Xếp tàn y lại để dành hơi //[*] 

TU_DO_2 CTB

Những ai nhất định không về thăm, chẳng phải quên Sàigòn, mà vì thương quá, một Sàigòn nay bị thay dạ đổi tên, bị xóa dấu bôi. Đau lắm, khi nhìn lại một người yêu cũ nay bị tâm thần lãng đãng, bị giựt kinh phong méo mồm. 

Sàigòn, trong cái giờ phút khốc liệt của lịch sử, thân phận mỗi con người Miền Nam bị bức lìa, thất lạc nhau. Mất những cái cao xa nhất, mất cả những gần gũi cầp thiết nhất, một hạt cơm, một hơi thở. Để hiểu cái “hoàn cảnh tuyệt vọng”, cái “khí hậu thiếu ô-xy” ấy, ta hãy đọc một đoạn thơ của Thi sĩ Trần Dạ Từ, những thi ngữ giản dị nhưng tha thiết, đạt đỉnh của “Nội dung thời thế”, dưới đây:
Tôi không biết giờ này em ra sao
Có lượm lại đủ lũ con cái tan tác không
Tôi không biết giờ này chúng thế nào
Em có gì để ăn, cho chúng ăn
Em có cách gì để thở, cho chúng thở
Em còn chỗ nào để nương náu, tạm bợ
[Hòn Đá Làm Ra Lửa, trích từ đoạn 2]

Bài thơ này được làm khi Nhà thơ đang trong trại tù. Cũng như các tù nhân khác, không có giấy và bút, không được truyền tải cho bạn bè; chỉ đọc thầm và nhớ trong tâm dạ; khi ra tù, đúng ra khi ra được nước ngoài, ông mới chép lại bằng chữ. 

Đối tượng của bài thơ là một diện mục, một nhân ảnh khác, rất riêng tư; nội dung đoạn thơ này không một chữ nói tới Sàigòn, nhưng ngôn ngữ Trần Dạ Từ có tầm mở rộng, khái quát. Tiếng kêu này, tiếng kêu chung. Nỗi lòng này, nỗi lòng tổng thể, cùng chung sử lịch. Đọc, đã thấy cánh cửa để thoát ngoài, và dẫn đến một trải nghiệm sâu xa, chân thực. Là, cùng nhớ ngay tới Sàigòn thời buổi ấy. Và, số phận này là một bao trùm, một lịch sử tối đen, mọi người chẳng ai còn/đến một que diêm cuối cùng. 

Lại nói về những chuyện đời thường của Sàigòn hôm nay. Quán cà phê Cái Chùa [La Pagode], nơi theo thói quen là dành riêng cho các văn nghệ sĩ, tụ điểm của tài hoa; Givral, nơi gặp gỡ của các nhà báo nước ngoài; nhà sách Xuân Thu, danh tiếng nhiều sách ngoại văn; vũ trường Queen Bee; cả khu Eden những hành lang quen thuộc, toàn bộ nay đã bị đập bỏ. 

Sàigòn, những tên đường các vị Chúa/Vua nhà Nguyễn như Nguyễn Hoàng, Hiền Vương, Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Đồng Khánh... những con đường mang tên các danh thần như Lê văn Duyệt, Nguyễn văn Thoại [Thoại Ngọc Hầu], Võ Di Nguy, Ngô Tùng Châu, Võ Tánh, Ngô Thành Nhân, Nguyễn Huỳnh Đức, Phan Thanh Giản ...những danh nhân như Tản Đà, Nhất Linh, Hoàng Đạo, Trần văn Thạch, Phan văn Hùm...đều đã bị xóa tên. Thay vào đó là những tên đường lạ lẫm, cả tên những “danh nhân thực phẩm”, Huỳnh văn Bánh, Đoàn văn Bơ, Nguyễn văn Đậu... 

**

Tôi đang trong tục lụy, nhớ cái nhớ nhỏ nhoi. Chợ Tân Định thuở kia, khuya lắm rồi, ngồi góc chợ đầu con đường Trần Văn Thạch; xa bên kia đường giáo đường tịnh vắng, đường khuya đầy xác pháo; đèn chợ tắt cả, mới thấy một trời đầu năm không ánh trăng, cái thênh thanh tối thẳm, lung linh một trời sao; một ly rượu nhấm một miếng mồi đặc sản cùng anh; hết phép rồi, mai trở lại tiền đồn. 

Sáng mồng hai bà con xô nhau đi ăn hủ tiếu, tiếu là cười vui, mong có cái may mắn, luôn gặp hên, đánh bài cào chín nút, dì dách ngũ linh quơ trọn bàn tiền. Hủ tiếu bánh bao Cả Cần, hủ tiếu Nam Vang. Phở Pasteur, bánh hỏi thịt nướng phở hẻm Gia Long... 

Ăn uống lễ tiệc trong gia đình ớn quá ra đường tìm món ăn ngoài đường; bao là món lạ. Đi bách bộ đường phố, dừng góc đường Bonard với Pasteur, uống rượu rát bỏng cần cổ chơi ly ly nước mía Viễn Đông mát rười rượi. Ngồi lề đường quán Kim Sơn, Victoria, nhìn nam thanh nữ tú dạo phố chiều xuân. Vô nhà hàng Thanh Thế, là luôn gặp Duy Khánh, Nhật Trường, Huy Cường, Long Đất....

Nhớ quá, Chợ Bà Chiểu, nằm trên con đường từ Ngã tư Phú Nhuận chạy xuống Hàng Sanh, mãi tới năm 1962 hai bên đường hãy lưa thưa nhà cửa, hai hàng cây cao su cao vút, bọn nhỏ đá banh trên những bãi cỏ rộng. Nhìn nụ hoa chợ Phước Lộc Thọ nhớ chợ hoa cuối năm trên đại lộ Nguyễn Huệ, thời Cộng Hòa. Nhìn hoa cúc vàng, nhớ Làng Hoa Gò Vấp một vùng chuyên trồng hoa; dưới nắng vàng cuối đông những bạt ngàn cánh đồng màu màu sắc; gió se lạnh cái lạnh sau những ngày Noel; chiếc xe lam ba bánh, chiếc xe thổ mộ con ngựa già dậm chân vẫy đuôi đuổi bầy ruồi trên lưng, tất cả chờ xe đầy hoa, chạy lọc cọc vào đô thành. Nhìn màu lay-ơn nhớ hoa Đà Lạt; có nhiều năm đường sá bị mìn, bị đào đường, phục kích, xe hoa không về được, dân Sàigòn thiếu các loại hoa xinh đẹp yểu điệu, chỉ có ở miền cao. 

XUAN_CTB

Cuộc chia ly là con đường dẫn tới những đoái hoài. Kỷ niệm không từ mơ tưởng, hư cấu mà có, nó phải là một thực tại ta từng trải qua. Sàigòn, một cái tên mười người, chín người nhớ. Sàigòn đi qua trí người tha hương là một thường trực. 

Thời nội chiến khắp thị trấn nhỏ nhoi, các làng mạc vùng quê, đều băng bộ vô Sàigòn, lên Sàigòn, về Sàigòn, tới Sàigòn, để tị nạn, để mong tìm một số phận may mắn hơn. Những ngày bỏ nước mà đi, phần đông cũng từ Sàigòn. Nhiều niềm vui Sàigòn. Nhiều nước mắt nhất cũng Sàigòn. 

Sàigòn không của riêng ai. Nhưng, ai cũng có một Sàigòn cho riêng mình.

**

Một huyền bí, một ẩn tình, là đường dây nối Sàigòn quê nhà với Litlle Sàigòn. Một liên thuộc dòng máu và thần linh. Là, mỗi một bên mỗi cánh con Chim Việt cùng làm tổ nơi Cành Nam. Việt Điểu Sào Nam chi. [*] 

Dù lũ ma quỷ, bầy sài lang hôm nay đã ở trong làng. Không phải ai, bất cứ người thân yêu nào bị ma quỷ đọa dày, bị sài lang bóc lột dày xéo cũng trở thành sài lang ma quỷ. Chính họ mới là nạn nhân. Hãy còn vô số những lương tâm rực rỡ trong chốn Việt Nam đang bị lưu đày hôm nay. Hãy còn bao trái tim nồng cháy rực lòng yêu nước, cùng nhau xuống đường chống bạo tàn, trong vạn hiểm nguy đến thân mạng. Hãy sáng ra một tấm lòng. Và hãy cũng nhau một lòng trước hiện tình vong quốc. 

** 

Chừng như những hình ảnh quê nhà xinh đẹp có mặt nơi tha phương này, cái rực rỡ hội tụ của người xa xứ, đã ẩn chứa một nỗi nhớ xa và sâu. Bay thoảng một bóng hồn đã cũ. Lẩn khuất đâu đó hình bóng tre trúc, một dáng người. Tiềm ẩn một hy vọng trở về. Mong bước một bước trên con đường làng thật sự là làng quê. Không phải làng quê nào cũng đầy xe bốn bánh, những cây xăng, những Shopping Mall, Cosco, bình đẳng với phố thị. Làng quê của Việt Nam hôm nay, vẫn một lặng yên cũ kỷ, cách biệt với phố thị nhiều mặt . Vẫn // Quê em nghèo lắm ai ơi / mùa đông thiếu áo mùa hè thiếu ăn[*]

Đòn bánh tét, chiếc bánh chưng, lọn chả, chỗ chợ Phước Lộc Thọ, chừng như để ăn, đương nhiên rồi, nhưng chính là Để-Nhớ. Ăn ít nhớ nhiều. Ăn tại chỗ nhớ khắp trời. Nhìn cái Hôm Nay nhớ cái “Nghìn trùng xa cách”. 

Chiều Xuân, ngồi cùng bạn bè nhâm nhi ly rượu, rõ là uống cái lai láng nhớ. Cái nhớ đi ra từ bụi chuối mái tranh, từ mái tóc bạc mẹ già, cái lỗ rốn cháu bé, chiếc áo phơi phong trên bờ rào hàng xóm, nhớ mùi rơm cỏ trên cánh đồng, cây cầu khỉ. Cái nhớ đi ra từ một sông nước hữu tình, nhưng một đời sống hôm nay ai nấy chịu khe khắc, bạc tình cái thời thế; mọi thứ không theo một trật tự bình đẳng nào; nơi nỗi đau cần được chia sẻ, mà sự lạnh lùng lại là thói quen. 

III

Xuân tới, nơi rất xa không gian lẫn thời gian, hôm nay nghe lại những lời này, qua giọng ca Duy Khánh, mới thấm // Con biết bây giờ mẹ chờ tin con / khi thấy mai đào nở đầy bên song… Năm trước con hẹn đầu xuân sẽ về… nay én bay đầy trước ngõ / mà tin con vẫn xa ngàn trùng…” 

Duy Khánh hát từ phương trời nào? Còn đây một Trầm Tử Thiêng, với một phương trầm tư:

// Đêm nhớ về Sàigòn …tiếng nhạc vàng gọi từng âm xưa / ánh đèn vàng nhạt nhòa đêm mưa / ai sầu trong quán úa… Bóng mẹ hiền mờ mờ bên song / mắt người tình một trời mênh mông / gợi bao nhiêu cho cùng…

**

Chiều cuối năm. Chừng như trời đất có cái thói quen, chiều xuống thì nắng ngả vàng, yểu điệu. Thần Đêm sẽ tới, cỏ cây hoa lá phải tắm gội vội vã những tia nắng sót cuối ngày.

Vùng Little Saigon, thường là bầu trời thanh thản, gió rất khiêm tốn, và mây xam xám thường như nát ra từng tro bụi ở tít đâu trên kia. 

Quán cà phê, nhìn ra. Thấy đang bay trong gió bình an hai lá quốc kỳ, trên hai cây trụ cờ. Một cờ ba sọc đỏ trên nên vàng, một lá mười ba sọc trắng đỏ xen kẻ nhau, một vùng năm mươi sao trắng trên nền xanh, nơi góc trái, bên trên. 

Hai lá quốc kỳ ung dung bay nhẹ, như dìu nhau cùng bay. Như hai chéo áo dài, hai chị em cùng tha thước. Có thể một quãng phố đầy lá. Có thể có hương ngàn trong gió cuối mùa. Nền vàng đầm ấm kia trở nên im vắng. Một hun hút tiềm vọng. Màu cờ vàng vẫn là một kỳ vĩ, chỉ một thôi, trong mỗi phần linh hồn, mỗi thân phận quê hương. Chỉ một thôi. Một tấm lòng. Một thủy chung.

Trong đáy sâu sử lịch, những đỏ vàng xanh trắng trong nền cờ kia, rất ư lấp lánh dưới bóng mặt trời, tưởng là những màu sắc trung tính, vô tâm như tĩnh vật, như tự nhiên hằng có? Đâu phải vậy. Những sắc màu có mặt, trong mỗi lá quốc kỳ, là một giáp mặt những chí nguyện, lẫn tề tựu tổng thể hồn linh một giống nòi; nên chúng, sắc màu ấy, ắc phải có máu xương trong chính nó.

Mùa Xuân này, cờ vẫn bay. Nó có cái vĩnh cửu cùng bay.

**

Mỗi mùa Xuân, thêm niềm vui, nhiều nỗi nhớ. Nỗi nhớ mơ màng như cái nhớ về sáng nhớ giấc mơ đêm qua.

Một đời người luôn phải chỉnh sửa những hư hao. Luôn phải vượt thoát những chiêm bao. 

Một cái rung chuông của đất trời giao cảm, giờ Giao Thừa sẽ tới. Tôi, một cái sinh vật thơ dại của tháng Giêng năm 1937, và tôi, cái “vật” được sinh ra để trải qua, thử thách, chịu đựng, và/để cùng nhân gian, Chào 2019. Chào cái thời gian đầy bí mật phía trước. Chào, những hy vọng lạ mặt. 

Vẫn còn đầy nắng, một mùa Xuân hãy còn lâu dài ấm áp. Trong giấc ngủ, anh mơ thấy gì? Thấy rất nhiều cỏ xanh trong mơ.
Cung Tích Biền

Little Saigon, một đêm cuối năm 2018
[*] Những dòng chữ in nghiêng là thơ của Nguyễn Du, vua Tự Đức, Phan Bội Châu, lời nhạc của Phạm Đình Chương, Duy Khánh, Trầm Tử Thiêng.