Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label RungUMinhKGiang. Show all posts
Showing posts with label RungUMinhKGiang. Show all posts

Saturday, 24 August 2013

BÁO VIỆT CỘNG

ĐĂNG LẠI ĐỂ NHỚ NHỮNG ĐỊA DANH RẠNG ĐÔNG, BÌNH MINH, HIẾU LỄ, U-MINH ... và RẤT TIẾC CHÚNG TA ĐÃ KHÔNG NHỔ HẾT CỎ U-MINH NÊN MỚI CÓ NGÀY 30-4-1975./- Mt68

Chiến dịch “nhổ cỏ U Minh” tàn bạo của giặc và ý chí cách mạng kiên cường của quân và dân U Minh

Lợi dụng những khó khăn tạm thời của ta, ngày 30-1-1970, địch lại tập trung lực lượng tổ chức cuộc càn quét lấn chiếm mang tên chiến dịch “Nhổ cỏ U Minh”. Rút kinh nghiệm những lần trước, lần này, lấn chiếm tới đâu địch đóng đồn ngay ở đó rồi mới tiếp tục lấn tới những khu vực khác.

Theo kế hoạch, chiến dịch “Nhổ cỏ U Minh” của địch chia làm 3 đợt: Đợt 1 (đến tháng 5-1971) sẽ lấn chiếm và xây dựng

4 căn cứ: Bình Minh và Rạng Đông ở Thứ Mười Một (U Minh Thượng), Toàn Thắng ở Thới Bình và Hòa Bình (U Minh Hạ). 

Đợt 2 (từ tháng 6 đến tháng 10-1971) mở rộng khu vực bình định và xây dựng thêm 2 căn cứ: Lâm Dương ở Khánh Lâm và Tân Phú ở Trí Phải (U Minh Hạ). Đợt 3 (từ tháng 11-1971), sau khi hoàn tất đợt 1 và đợt 2, Sư đoàn 9 sẽ ở lại duy trì sự chiếm đóng U Minh Thượng, còn toàn bộ Sư đoàn 21 cơ động xuống U Minh Hạ lập thêm 2 căn cứ Bình Đông và Bình Tây ở huyện Trần Văn Thời; sau đó lập tiếp căn cứ Tia Sáng ở huyện Cái Nước và Trời Mọc ở huyện Đầm Dơi làm bàn đạp để tiến xuống bình định Nam Cà Mau.
Như vậy, có thể thấy, nỗ lực của địch là tập trung lực lượng bình định lấn chiếm xong U Minh trong năm 1971.
 Phải nói rằng, chiến dịch của địch đã gây cho ta rất nhiều khó khăn: Nhiều cán bộ cơ sở và du kích xã, ấp không hoạt động được; số du kích giảm một nửa so với năm 1969. Giữa năm 1971, có khá đông dân chúng phải bỏ chạy ra chợ Thới Bình và xung quanh chi khu Rạch Ráng, bám các trục giao thông thủy bộ để tránh bom, pháo của địch. Thời kỳ này, bình quân một người dân U Minh phải hứng chịu 700kg bom, pháo; trên 70% rừng tràm, trên 3.000 công ruộng lúa, hơn 1.000 công hoa màu bị tàn phá; hàng ngàn người dân và cán bộ bị nhiễm chất độc hóa học.
Người dân U Minh vót chông tham gia đánh giặc.
Cùng lúc mở chiến dịch “Nhổ cỏ U Minh”, địch tập trung quân bao vây phong tỏa khu vực Ba Hòn liên tục trong 78 ngày đêm, càn quét vùng Mo So... làm gián đoạn tuyến đường 1C chi viện cho căn cứ địa U Minh. Tại địa bàn ven căn cứ, B-52 tăng cường ném bom rải thảm để tạo "vành đai trắng"; 80% dân vùng ven đã phải bỏ nhà cửa chạy ra bám các trục lộ giao thông để tránh sự đánh phá của B-52.
Bên trong căn cứ, các cơ quan đầu não của Quân khu và Khu ủy liên tục phải thay đổi chỗ ở để tránh bị địch tập kích, đánh phá. Thậm chí một số cơ quan đã buộc phải tính tới khả năng lui về vùng Nam Cà Mau để bảo đảm an toàn. Thủ đoạn vừa đánh phá quyết liệt, vừa bao vây kinh tế của địch đã làm cho U Minh từng là nơi có nguồn lương thực, thực phẩm dồi dào, được coi là hậu phương tại chỗ của miền Tây Nam bộ, trở nên thiếu thốn mọi thứ nghiêm trọng. Lương thực không đủ, LLVT và các cơ quan đã phải ăn cháo rau hàng tháng thay cơm. Vũ khí thiếu, đặc biệt là các loại đạn hỏa lực và thuốc nổ - những loại vũ khí đặc chủng để đánh tàu địch trên vùng sông nước. Chủ trương "đặc công hóa bộ binh" mà lãnh đạo, chỉ huy đưa ra cũng là để góp phần giải quyết tình trạng thiếu vũ khí lúc bấy giờ. Chiến sự ác liệt nên không thể tăng gia sản xuất được như trước, nhiều cơ quan, đơn vị đã chủ động móc nối với cơ sở bên ngoài, đưa được một số lương thực ít ỏi vào căn cứ, còn phần lớn chủ yếu là tận dụng nguồn thực phẩm tự nhiên tại chỗ như cá, khoai rừng để duy trì cuộc sống.
Đến giữa năm 1971, về cơ bản địch đã chiếm được phần lớn U Minh Thượng và một nửa U Minh Hạ. Âm mưu của chúng là gấp rút triển khai đóng 17 đồn bót nữa để "tô dày, lấp kín" U Minh, sau đó sẽ tràn xuống Nam Cà Mau. Lúc này ở U Minh, địch có 16 tiểu đoàn bộ binh, 12 tiểu đoàn bảo an, 46 đại đội dân vệ, 5 tiểu đoàn pháo 105mm và 155mm, 7 giang đoàn, trong đó chỉ có 6 tiểu đoàn làm nhiệm vụ cơ động, còn lại chủ yếu đóng chốt tại chỗ trong 130 đồn và 8 căn cứ cấp trung, tiểu đoàn.
Cũng không phải là không có cơ sở khi Nguyễn Văn Thiệu - Tổng thống Việt Nam cộng hòa khi đó lạc quan với kết quả sau ba cuộc hành quân bình định lấn chiếm U Minh. Ngày 1- 6-1971, đích thân Nguyễn Văn Thiệu dẫn đầu đoàn tùy tùng gồm 300 quan chức ngụy quyền trực tiếp đáp máy bay trực thăng xuống căn cứ Thứ Mười Một và chi khu Hiếu Lễ (U Minh Thượng) để thị sát tình hình và thị uy trước bàn dân thiên hạ.
Tại đây, y đã lớn tiếng tuyên bố: "Quân đội VNCH đã bình định được 97% lãnh thổ U Minh. Chủ lực của Việt cộng không còn nữa, hiện chỉ còn khoảng 120 du kích ở U Minh Hạ mà thôi". Lời tuyên bố huênh hoang của Nguyễn Văn Thiệu đã được bộ máy chiến tranh tâm lý của địch lợi dụng triệt để nhằm gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân và khích lệ tinh thần binh lính địch thôn tính hoàn toàn căn cứ địa U Minh.
Cuộc tiến công “Nhổ cỏ U Minh” của địch đã gây cho ta những tổn thất và những khó khăn không nhỏ: Lực lượng bị hao hụt, có tiểu đoàn chỉ còn 1/3 quân số, vùng giải phóng bị thu hẹp, quần chúng nhân dân hoang mang lo lắng, công tác phát triển Đảng không bù đắp kịp sự hy sinh mất mát; các tổ chức đoàn thể giải phóng cũng bị tổn thất, hoạt động chững lại. Đây là thời kỳ khó khăn ác liệt nhất của căn cứ địa U Minh trong kháng chiến chống Mỹ. Tuy vậy, cũng cần phải thấy rằng, kế hoạch bình định lấn chiếm U Minh của địch thời kỳ này tuy có thu được một số kết quả khả quan nhưng xét trong mối tương quan toàn cục, địch cũng đang gặp rất nhiều khó khăn. Sau một loạt thất bại của các cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh ra Đường 9 - Nam Lào, Toàn thắng 10 -71 ở Công Pông Chàm (Đông Bắc Campuchia); Quang Trung 4 ở Ngã ba Biên Giới... chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của địch đang đứng trước nguy cơ phá sản. Việc co kéo lực lượng để tập trung cho phòng ngự chiến lược ở các chiến trường khác ít nhiều cũng có ảnh hưởng đến kế hoạch bình định, lấn chiếm U Minh của chúng. (còn tiếp)
                                                                                          MẠNH TIẾN
(Theo "Căn cứ địa U Minh" NXB Quân đội nhân dân 2007)

RỪNG U-MINH RẠCH GIÁ, CÀ MAU


NHỚ THƯƠNG U-MINH

Kính tặng anh lính chiến VNCH và phu quân tôi.
Đại hội họp bạn, vào ngày 31 tháng 8 năm 2013
của SĐ21/BB “Sét Miền Tây” ở Nam CA

DƯ THỊ DIỄM BUỒN
 
 
Đêm Tân Uyên thương câu hò Cái Nứa
Cơm lửa rơm, cá kho nghệ vàng tươi
Tháng mười một trắng cành bông so đũa
Cuống mật ngọt ngào đượm thắm bờ môi

Qua Xẻo Muồng nhớ thuốc rê giấy quyến
Chòi lá sơ sài gió tạt mưa xuyên
Thôn xóm tiêu điều trong cơn chinh chiến
Trời tối thui đơm đớm rộ lên đèn

Về Cần Thơ, ghé thăm ngôi trường cũ
Phan Thanh Giản còn loang vết đạn bom
Sân trường lớp học con đường tình sử
Ngày xanh ơi, những kỷ niệm vui buồn

Đường về ngoại sình lầy mưa sùi sụt
Hồn trũng buồn theo vết tích quê hương
Đón đưa em cổng trường Nông Lâm Súc
Học trò nghèo không giữ được người thương

Sáng Cham-pa, chiều Ya-li, Ái Tử…
Khuya trăng lên, thôn Hòa Hảo êm đềm
Tiếng kinh kệ đưa vào hồn cô lữ
Chợt rời xa những lo lắng muộn phiền

Châu Đốc, Vĩnh Bình, Khe Xanh, Đồng Tháp...
Lội nước quá lưng, rừng, núi... cheo leo
Nắng cháy da dưỡng quân chiều Đá Bạc...
Suối trong veo bát ngát uốn chân đèo

Trời rựng sáng quân về U Minh Thượng
Trú chân “sư đoàn hai mốt” bản doanh
Mưa nhiệt đới, mây âm u tám hướng
Trùm Pon-sô, màn đen phủ xây thành

Bên nước đục ngọt, bên trong lờ lợ
Bao hiểm nguy đời lính chiến phong sương
Hành trang nặng ba-lô niềm thương nhớ!
Phép thường niên là mơ ước bình thường

Giờ nữa vòng trái đất... xa xôi quá!
Sau giặc tràn vào cưỡng chiếm miền Nam
Chưa thảnh thơi, dù xứ người giàu, lạ...
Dân khổ đau... nên nhiều việc phải làm...

Bốn Vùng Chiến Thuật bôn ba xuôi ngược
Yêu quê mìnhyêu đời lính bộ binh
Chiều U Minh con vắt, rừng tràm, sậy, đước...
Ôi cố hương, sao quằn nặng thâm tình!



DƯ THỊ DIỄM BUỒN