Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label BSTranNguonPhieuVNCH. Show all posts
Showing posts with label BSTranNguonPhieuVNCH. Show all posts

Friday, 10 May 2013



ĐÂY THÁP MƯỜI PHƯƠNG NAM TA THÂN YÊU.../- Mt68

TRẦN NGUƠN PHIÊU

Ðồng Tháp Mười là một địa danh quen thuộc đối với những người sanh trưởng ở miền Nam. Tuy nhiên, số người thật sự có cơ hội đặt chân lên vùng xa xôi này hay được sinh sống trên phần đất này có thể nói là rất ít. Vì vị trí đặc biệt, thiếu phương tiện đường sá lưu thông nên Ðồng Tháp Mười vẫn được coi là một vùng đất hẻo lánh, nhiều bí ẩn.

Ðồng Tháp Mười là một cánh đồng rộng lớn, hằng năm bị ngập lụt lối bốn, năm tháng khi nước sông Cửu Long dâng cao. Biển Hồ Tonlé Sap ở Campuchia và Ðồng Tháp Mười ở Việt Nam là hai nơi lưu trữ nước thiên nhiên, nên đến mùa nước nổi, sông Cửu Long từ từ dâng cao, sau đó nước sẽ lần lần rút ra biển. Vì thế nên ở miền Nam, không có nhu cầu phải đắp đê để ngăn nước như sông Hồng ở miền Bắc. Mực nước mỗi năm tuy dâng cao nhưng từ từ nên ở miền Nam, không có cảnh thiệt hại to lớn của các trận lụt thình lình và chớp nhoáng gây chết chóc như thường thấy ở miền Trung. Diện tích Ðồng Tháp chiếm khoảng 8 ngàn cây số vuông, độ 800.000 mẫu tây. Chiều Nam-Bắc, từ Cao Lãnh tới Svay Riêng dài khoảng 70 cây số; chiều ngang từ Hồng Ngự đến Tân An tính ra khoảng 120 cây số.

Trên các bản đồ thời Pháp thuộc, vùng này có cái tên là Plaine des Joncs (Ðồng Cỏ Lác). Sau 30 tháng Tư năm 1975, tỉnh Sa Ðéc được đổi tên thành tỉnh Ðồng Tháp, diện tích bao trùm gần trọn Ðồng Tháp Mười. Tỉnh Ðồng Tháp nay giáp Campuchia ở phía Bắc, đường biên giới dài khoảng 52 cây số. Phía Nam giáp tỉnh Vĩnh Long, phía Ðông giáp tỉnh Long An và Tiền Giang, phía Tây giáp Cần Thơ và An Giang. Toàn diện tích tỉnh Ðồng Tháp tính ra vào khoảng 3 ngàn 300 cây số vuông.

Nhắc đến địa danh Ðồng Tháp, không thể nào không nhắc đến anh hùng kháng Pháp: Thiên hộ Võ Duy Dương. Võ Duy Dương đã lập nhiều đồn lũy và đã đóng tổng hành dinh tại vùng Tháp Mười. Truyền thuyết của người Miên cho rằng vùng này có tên là Tháp Mười vì nơi đây là nơi đặt ngọn tháp Chùa Miên thứ mười kể từ trên Campuchia xuống. Một số người am hiểu lịch sử miền Nam lại giải thích: tên Tháp Mười thật sự chỉ có từ thời kháng Pháp của Thiên hộ Dương. Ông Võ Duy Dương đã đặt nhiều đồn và tháp để canh chừng tàu của Pháp, kể từ sông lớn Vàm Ba Sao vào đến Tổng hành dinh và cái tháp nơi hành dinh là tháp thứ mười? Tổng hành dinh Tháp Mười được bao vây che chở từ xa bởi ba đồn: Ðồn Tả, Ðồn Hữu và Ðồn Tiền. Mỗi đồn có thể chứa 200 đến 300 nghĩa binh, trang bị với súng, thớt súng bắn đá, đại bác... Ngày 14 tháng Tư năm 1866, Ðô đốc De Lagrandière đã chia 500 quân làm ba mặt tiến vào Ðồng Tháp, xuất phát từ Gò Bắc Chiên đi xuống để đánh Ðồn Tả, từ Cần Lố đi lên tấn công Ðồn Hữu và cánh thứ Ba từ Cái Nứa để đánh Ðồn Tiền. Nghĩa quân đã chống trả từ ngày 15 cho đến ngày 18 thì các đồn Tả, Hữu thất thủ và Thiên hộ Dương phải bỏ Tháp Mười. Quân Pháp đã đốt phá, bình địa đồn, sau khi đã phải chịu thiệt hại trên 100 lính. Thiên hộ Dương tiếp tục chống Pháp nhưng sau chết vì bịnh. Về sau, trên một gò cao của di tích đồn Tháp Mười này, một ngôi chùa Phật đã được dựng lên, trang hoàng theo lối chùa Miên.

Một người Pháp tên Sylvestre, chức vụ Thanh tra, làm việc ở Cai Lậy và Sa Ðéc từ 1869 đến 1878 đã nhiều lần đến viếng Chùa Tháp Mười. Chùa được xây cất trên một gò đất cao độ bốn thước, rộng khoảng ba mươi thước đường bán kính. Nền chùa cất trên đá ong, tháp hình ngũ giác năm mặt, được người Miên gọi là Prasah Préam Loveng (Tháp Năm Căn). Người Việt thì lại gọi là Tháp Mười, có thể vì xưa tháp có 10 tầng nhưng đã đổ nát? Ông Sylvestre có lấy từ Tháp Mười (Ruines de la tour à cinq faces), một phiến đá có chạm hình bánh xe Pháp Luân còn nguyên vẹn với 12 căm bánh xe, gởi về tặng một viện bảo tàng nhỏ “Musée municipal de Rochefort sur Mer” ở Pháp. Các nhà khảo cổ danh tiếng như Etienne Aymonier và Henri Parmentier thuộc trường Viễn Ðông Bác Cổ đều đã viếng thăm Tháp Mười nhiều lần. Từ chợ Sa Ðéc, dùng ghe máy theo kinh Cái Bèo, Tháp Mười và kinh 4 bis (Cát Bích), đi khoảng bốn giờ sẽ đến Tháp. Một giáo sư Pháp văn trường Petrus Ký, sau làm quản thủ viện Bảo tàng Sài Gòn và được thăng Viện trưởng trường Viễn Ðông Bác Cổ, tên L. Malleret là người có công nghiên cứu nhiều nhất về Tháp Mười. Louis Malleret là tác giả bộ Le Delta du Mékong (Lưu vực sông Cửu Long), trong đó quyển thứ IV (Le Cisbassac) là quyển chuyên khảo về Ðồng Tháp. Các viên gạch di tích Tháp Mười còn được lưu giữ ở Bảo tàng viện Sài Gòn là do công của L. Malleret.

Trước thời Kháng chiến Nam Bộ, dân cư sống trong vùng Ðồng Tháp, gồm người Việt, người Miên và Trung Hoa chỉ vào độ 150.000. Hiện nay, theo các thống kê mới nhất của riêng tỉnh Ðồng Tháp, số dân được trên 1,6 triệu người. Cách xa thành phố Sài Gòn độ 162 cây số, ngoài một số đường nhỏ, Ðồng Tháp chỉ có 136 cây số Quốc lộ IA.

Thời Việt Nam Cộng Hòa, người có công phát triển Tràm Chim, từ một vùng cỏ lác hoang vu bên bờ kinh Ðồng Tiến, biến thành một trung tâm sung túc hiện nay, phải kể đến linh mục Bạch. Linh mục Bạch đã xin Tổng thống Ngô Ðình Diệm để hướng dẫn một số giáo dân vào khai khẩn lập nghiệp ở nơi đây. Trước thời Cha Bạch, vùng trung tâm Ðồng Tháp này vào mùa nước nổi bao la như một miền biển rộng. Cha Bạch đã xây dựng được nhiều công trình như: nhà thờ, trường học, chợ, phố xá bằng vật liệu nặng, xi măng, bê tông cốt sắt, vôi gạch... nên đến mùa nước nổi, giữa biển nước mênh mông, nhờ có các công trình kiến trúc mới, Tràm Chim đã trở thành một ốc đảo vững chắc cho ghe thuyền dân chúng neo, tụ họp sinh hoạt trong mùa nước lụt. Người viết bài đã có một thời phục vụ ở bộ Xã Hội nên đã có được cơ hội giúp linh mục Bạch trong các chương trình xây cất định cư các gia đình cơ cực trong vùng.

Tràm Chim Tam Nông nay là một địa điểm du lịch đặc biệt vì là nơi để du khách có thể quan sát loại sếu đầu đỏ, một giống chim hiếm có, mình cao trên một thước. Tháng Giêng đến tháng Năm là mùa mà các hồng hạc này bay trở lại vùng để du khách có được dịp quan sát, chụp ảnh.

Ngoài tên Tràm Chim, nhắc đến Ðồng Tháp, không thể không kể thêm một vài địa danh khác đã đi vào lịch sử như Cù lao Ông Chưởng, nơi danh thần Nguyễn Hữu Cảnh đã chết vì bịnh khi kéo binh trở về, sau chiến thắng vua Chân Lạp vào năm 1699. Gần nhất, phải kể đến rạch Ðốc Vàng Thượng, nơi Việt Minh đã bày mưu đặt kế để ám hại Ðức Thầy Huỳnh Phú Sổ cũng như những vùng xa xôi, sát biên giới Miên là Tân Thành, Cái Cái, nơi Việt Minh đã thủ tiêu, chôn sống tập thể hàng ngàn tín đồ Phật giáo Hòa Hảo.

Phật giáo, một tôn giáo lớn, dạy người đời nên làm lành, lánh dữ, giữ tâm trong sạch, đã được phổ biến ở Việt Nam trên hai ngàn năm. Khi được truyền bá vào Nam nhân cuộc Nam Tiến, Phật giáo đã uyển chuyển hòa hợp vào điều kiện sinh sống mới của dân chúng, vào vùng đất trù phú “làm chơi, ăn thiệt.” Phật giáo Hòa Hảo được Ðức Thầy Huỳnh Phú Sổ phát triển ở đồng bằng sông Cửu theo phương pháp hành đạo của Phật Thầy Tây An, đã được nông dân Nam Bộ hưởng ứng chấp hành. Một nền Phật giáo Thời đại, không chủ trương dựng chùa to, đúc tượng lớn, không hệ thống Tăng ni, Sư sãi, không chuông mõ, đã được hằng triệu tín đồ miền Nam chấp nhận. Thay vì xây các chùa lớn, giáo dân theo chủ trương của Phật Thầy Tây An đã hình thành những trại ruộng là nơi để vừa cấy cày sinh sống, vừa tu học, hành đạo; tự túc không nhờ đến sự cúng dường của dân chúng. Các Trại ruộng lớn như Láng Linh, Cần Lố... cũng là các nơi nuôi dưỡng tinh thần chống thực dân Pháp.

Thời Gia Long phải bôn tẩu ở miền Nam, Sa Ðéc ven biên Ðồng Tháp là nơi Gia Long đã có một thời ẩn trú lâu dài. Vì thế nên ở làng Long Hưng tức Nước Xoáy, có sự tích Cây da bến Ngự là nơi chúa Nguyễn thường ngồi câu cá và suy tính tìm mưu chống Tây Sơn. Năm 1787, Gia Long cho xây một đồn nơi đây, nay còn di tích. Chúa Nguyễn và binh lính cũng đã được một gia chủ tên Nguyễn Văn Hậu ở Long Hưng nuôi cơm. Chúa Nguyễn nhận Ông là cha đỡ đầu, vì thế ở Long Hưng năm 1807 có xây Lăng Ông Bõ (cha đỡ đầu của vua). Bảo Ðại lên ngôi vua năm 1932 nhưng mãi đến năm 1942, lần đầu tiên, chánh quyền thực dân mới đồng ý cho Bảo Ðại vào thăm Nam Kỳ, nhân dịp Bảo Ðại được vua Shihanouk mời viếng Campuchia. Trong thời gian cư ngụ ở Sài Gòn, Bảo Ðại đã ngỏ ý muốn đến viếng Lăng Ông Bõ ở Long Hưng. Chánh quyền Sa Ðéc viện cớ là từ Sa Ðéc đến làng Tân Dương có đường bộ nhưng từ đây vô Nước Xoáy, tức Tân Hưng phải đi tàu máy, rất bất tiện để đưa vua Bảo Ðại đi thăm Lăng. Thật sự thì Pháp không muốn cho Bảo Ðại được có cơ hội gây cảm tình và uy tín đối với dân chúng miền Nam. Bằng cớ là trong việc vua Bảo Ðại muốn đến thăm Bến Tre là sinh quán của Ðức bà Từ Dũ, mẫu thân của vua Tự Ðức, Thống Ðốc Ðông Dương là Ðô đốc Decoux chấp nhận, nhưng chánh quyền Pháp ở Nam Kỳ lại ra chỉ thị cấm dân chúng dọc đường không được tụ tập hoan hô!

Cao Lãnh cũng là một địa danh thường được nhắc đến. Dân mê thích đá gà ngày trước đã kháo nhau:

Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh,
Gái nào đẹp bằng gái Nha Mân?


Nha Mân, vùng Cái Tàu Hạ, có con rạch Nha Mân êm đẹp, hiền hòa. Theo sử sách Miên, nơi đây vốn là nơi có các thiếu nữ đẹp khiến các vua Miên thường chọn làm hoàng hậu.

Cao Lãnh nằm vào ven biên Ðồng Tháp, một vùng ruộng vườn xanh tốt nhưng vì ngày xưa không có đường lộ giao thông như con đường nối liền An Hữu đến Hồng Ngự hiện nay, nên là nơi đất lành chim đậu, nơi nương náu của nhiều nhà cách mạng chống Pháp. Nơi đây đã từng là nơi có những cuộc biểu tình của dân chúng chống thực dân. Người viết bài còn nhớ chỉ hôm sau ngày 9 tháng Ba năm 1945, ngày quân Nhật đảo chánh thực dân Pháp ở Sài Gòn, thì ngay sáng hôm đó đã có truyền đơn rải ở vùng Cao Lãnh để thông báo cho dân chúng tình hình chánh trị mới!

Ðồng Tháp là vùng đất thấp nên từ trước đến nay chưa có các công trình xây cất đường sá hẳn hoi. Tuy nhiên, nhờ được có nhiều kinh lạch được đào nên giao thông bằng đường thủy đã được sử dụng cho việc chuyên chở. Việc đào kinh đã được thực hiện từ xa xưa do người Chân Lạp như hố Cái Bác từ ngọn Cái Cái đến ngọn Vàm Cỏ Tây, hoặc những con kinh đứt khúc vùng Ðông-Bắc. Ðặc biệt dưới thời các chúa Nguyễn trong cuộc Nam tiến, nhiều kinh chiến lược quan trọng đã được thực hiện như Thoại Ngọc Hầu đã đào kinh Vĩnh Tế... Thời Pháp chiếm đóng, nhiều kinh lớn khác đã được thiết lập trong ý đồ thâm nhập và phát triển vùng đất hoang vu, nơi trú ẩn của các người ái quốc chống Pháp. Con kinh Lagrange, được người Việt một thời kêu là kinh Lạc Giăng (tên của viên Chánh Tham biện tỉnh Tân An đã chủ trương) là một kinh quan trọng trong trung tâm Ðồng Tháp, rộng trên 20 thước, tàu bè có thể chạy thông thương lên phía Gẫy để đến rạch Cái Cái. Ðặc biệt có con kinh Cát Bích, nghe tưởng là tên chữ Hán-Việt nhưng thật ra là lối phát âm bình dân để đọc tên Pháp là kinh số “4 bis”! Thời Việt Nam Cộng Hòa, việc hoàn tất con kinh Ðồng Tiến, bề ngang rộng đến 100 thước, là một thành tích đáng ghi nhớ. Bác sĩ Phan Quang Ðán và tác giả bài này, trong chương trình Khẩn hoang Lập ấp, đã vô cùng kinh ngạc khi có được dịp trở lại thăm vùng kinh được đào sau một năm. Trên hai bờ kinh, suốt dãy đất được xáng múc đổ lên, các nông dân đã năng động biến thành các vườn dưa hấu bạt ngàn!

Nếu sát nhập vào khu Ðồng Tháp vùng kế tiếp là khu phía Ðông sông Vàm Cỏ Tây tới tận sông Vàm Cỏ Ðông thì mới hiểu vì sao Ðồng Tháp là một chiến khu quan trọng trong suốt cuộc chiến. Chiến khu Ðồng Tháp như vậy là một vùng rộng lớn giữa sông Tiền và sông Vàm Cỏ Ðông. Ðây là một trũng nước lõm, thâu nhận nước sông Tiền từ mặt Ba Nam chảy xuống. Mé Ðông là các gò chạy dài từ Mỹ Tho qua Bến Lức, Tân An. Mé Nam cũng có nhiều giồng để chận nước lại. Vùng bùn lầy bất tận này có lõm ở giữa là Gò Bắc Chiên và Tháp Mười. Ðây là một vùng dân cư thưa thớt. Ðồng Tháp năm nào cũng lụt lội, thảo mộc thường là cỏ năng, lác, bàng. Khu giữa hai con sông Vàm Cỏ mỗi năm cũng lụt vào mùa mưa và là một vùng đầy loại thảo mộc khác hẳn Ðồng Tháp là lau sậy. Thời Pháp, quân đội chưa có phương tiện trực thăng chuyển quân nên hành quân vào vùng rất khó khăn, chỉ có thể dùng các toán nhảy dù. Ðể ngăn chặn các chuyển quân hoặc tuần tiễu bằng đường thủy, kháng chiến quân đã đóng nhiều cản chặn trên các ngõ vào các kinh lạch.

Quân đội Pháp đã không có khả năng hành quân quan trọng vào Ðồng Tháp vì bốn trở ngại chánh: bùn, muỗi, đỉa và nắng. Mỗi năm Ðồng Tháp bị lụt lội gần năm tháng. Vào mùa khô đất vẫn còn rất nhiều nơi bùn lầy. Lội bùn với giày nhà binh là một việc vô cùng vất vả. Cây cối ở Ðồng Tháp rất thưa thớt, ít tìm được nơi có bóng mát, nắng nóng cháy da mà nguồn nước ngọt lại rất hiếm. Ðối với muỗi, dân địa phương quen dùng nóp ngủ nên không thấy trở ngại. Nóp là một bao đệm bàng, loại túi ngủ rất ấm áp lại tránh khỏi bị muỗi cắn, một vật bất ly thân của nông dân và bạn chèo ghe Nam Bộ.

Ðỉa Ðồng Tháp thường là loại đỉa trâu, rất lớn con, bám vào da rất khó gỡ ra. Thời Kháng chiến, tác giả bài này có biết một nữ sinh đã có can đảm thoát ly gia đình, bỏ học tham gia tranh đấu. Nhưng chị lại có một cái sợ khủng khiếp đến ngất xỉu khi bị đỉa đeo! Những khi liên lạc viên dẫn đường, phải qua các trũng nước sâu, rộng, mọi người đều phải cố sức vượt qua rất mau vì là vùng trống trải. Nếu bị phi cơ tuần thám phát hiện thì kể như tàn đời. Một anh bạn đã ra tay nghĩa hiệp tình nguyện cõng chị khi phải vượt qua các vũng nước. Cuối cùng là về sau, anh chị đã là bạn đời với nhau!

Toàn khu Ðồng Tháp, đến mùa nước lụt lớn, nhìn mênh mông như mặt biển. Nhấp nhô trên mặt, thỉnh thoảng có những nơi cao, có cây cối, bụi rậm, được gọi là các giồng. Mùa nước lớn nơi các giồng là chỗ tụ tập tránh lụt của hằng trăm rắn rít, chuột. Các rắn đủ loại thường quấn nhau thành nuồi trên các cành cây, trông rất dễ sợ. Gặp mùa nước lên, nếu có ghe thuyền thì chống chèo đi đâu cũng dễ dàng nếu biết rõ phương hướng.

Ðến mùa khô, di chuyển trong Ðồng Tháp cũng không phải là chuyện dễ nếu không phải là người địa phương biết tránh các vũng bùn lầy, biết len lỏi định hướng theo các giồng quen thuộc. Nhiều nơi trong Ðồng Tháp là những đầm sen to lớn giữa thiên nhiên. Có nhiều dịp được di chuyển bằng trực thăng bay trên các đầm sen bạt ngàn này, nhất là vào các buổi sáng sớm hay chiều hôm, mùi hương sen do cánh quạt trực thăng khuấy động đã bay lên ngào ngạt khắp không gian! Lúc còn trẻ, mỗi năm người viết bài thường tháp tùng theo các người lớn trong gia đình, bơi xuồng vào các đầm sen để cắt bông sen về làm trà, dùng cho cả năm. Cánh bông sen và gương non được phơi sấy khô để làm trà dùng thường ngày. Riêng nhụy sen vàng được chọn để sấy trên ơ bằng đất nung, dành để cúng trong các buổi lễ lớn. Trà nhụy sen này khi được pha nấu với nước mưa, ngoài hương vị đặc biệt lại còn có một màu ửng hồng trông rất đẹp mắt.

Một độc đáo khác thường được thấy ở Ðồng Tháp là những nơi có loại “lúa trời.” Ðây là những vùng đất thấp, thường ngập nước, có loại lúa mọc từ lòng đất vươn cao lên khỏi mặt nước, giống như loại lúa nổi. Dân nghèo dùng xuồng nhỏ, thấp, len lỏi vô các bưng có lúa trời, dùng thanh tre dài lùa đập các cộng lúa để hột lúa rụng rớt vô xuồng. Ði đập mót lúa trời cũng là một nguồn sinh sống cho dân cư cùng khổ, không đất canh tác.

Ðồng Tháp Mười, như trên đã nói là một vùng đất trũng rộng lớn. Có giả thuyết đã cho rằng có thể nơi đây, khi xưa, là dấu vết cũ của sông Cửu Long. Vì một lý do thiên nhiên nào đó, sông Cửu Long đã bỏ lòng sông cũ để chảy qua vị trí hiện nay. Hai vùng trũng thiên nhiên rộng lớn là Ðồng Tháp Mười và Ðồng Cà Mau là hai hồ nước để chứa nước sông Cửu vào mùa nước nổi. Ðến mùa nước đổ, cá con sanh từ Biển Hồ Tonlé Sap tràn vào hai hồ nước thiên tạo này, lớn lên nhờ rong, rễ non và sanh trưởng nhanh chóng. Ðây là một vựa cá trời cho dân miền Nam. Phải có dịp sống ở miền này vào mùa cá linh mới hiểu được cái diễm phúc trời dành cho miền này: Cá linh nổi lền trên mặt nước. Dân chúng chài vớt hay đóng đáy bắt cả hàng tấn cá, lớp ăn tươi, lớp làm mắm, lớp dùng làm phân để bón cây, thuốc lá... vì ngày trước không có kỹ nghệ ướp lạnh cá hay làm đồ hộp! Ðến mùa gió chướng, cá hình như có linh tính biết mùa hạn sắp đến nên lại lội ngược dòng về Tonlé Sap để gây giống mùa năm sau.

Kinh rạch là một phương tiện giao thông rất quan trọng ở miền Nam để chuyển vận hàng hóa. Các kinh đào đã tiếp nối để ghe thuyền có thể giao lưu từ các sông Tiền Giang, Hậu Giang vận chuyển tiếp tế đến thủ đô Sài Gòn. Ðối với giới thương hồ, tên các kinh Tháp Mười hay kinh Phong Mỹ, kinh Tổng đốc Lộc từ Rạch Ruộng (Sa Ðéc) đến Rạch Bà Bèo (Cai Lậy), kinh 12, kinh Cái Bèo, kinh Bo Bo, kinh Ngang, kinh Chợ Gạo..., các chỗ giáp nước như Thủ Thừa, Ba Cụm, Chợ Ðệm... là những tên quen thuộc được nhắc đến hằng ngày trong các câu chuyện làm ăn. Sau Hiệp định Genève năm 1954, các địa danh như Mỹ An, Mỹ Trà, kinh Phong Mỹ... thường được báo chí nhắc đến hằng ngày vì là nơi tập trung để bộ đội Việt Minh vùng Ðồng Tháp được lên tàu tập kết ra Bắc.
Ðường bộ giao thông trong Ðồng Tháp không có là bao. Thông thường, phần lớn toàn là những đường mòn chỉ người địa phương mới biết xử dụng. Việc vận tải hàng hóa chỉ nhờ ở các thủy trình, kinh rạch. Trong suốt cuộc chiến, lực lượng quan trọng để bảo vệ an ninh đường thủy là Lực lượng Giang đoàn của Hải Quân.

Thời Pháp và thời Việt Nam Cộng Hòa, trên các kinh, rạch Ðồng Tháp thường có đặt các trạm Thủy lợi, còn được gọi là nơi thiết trí “cây đo nước.” Mực nước được ghi mỗi giờ để các chuyên viên điều nghiên, trù liệu việc đào kinh tháo nước phèn. Dòng nước phải được tính toán trước để trù liệu cho chảy từ chỗ cao đến nơi thấp để tháo nước. Sau ngày 30/4/1975, chánh quyền Xã Hội Chủ Nghĩa đã bắt dân chúng, trí thức, sinh viên đi làm công tác thủy lợi. Họ bắt đào thế nào mà thay vì tháo phèn lại làm việc trái ngược ở vài nơi, khiến nước mặn tràn vào vườn tược, làm hư hại cây cối mùa màng đang tươi tốt của dân!

Ðồng Tháp Mười, giữa Sông Tiền và sông Vàm Cỏ Ðông rộng trên 930.000 mẫu, nếu cộng thêm Ðồng Cà Mau sẽ là một cánh đồng bất tận ở miền Nam, có tiềm năng kinh tế vĩ đại khi có được chương trình phát triển quy mô. Chỉ tính riêng Ðồng Tháp Mười, với gần một triệu mẫu tây đất, nếu được điều nghiên phát triển, thì nơi đây sẽ nuôi sống được biết là bao dân chúng? Sau ba mươi năm chinh chiến, một chánh quyền thời bình, nếu có thực tâm vì dân vì nước, thì đã xây dựng xứ sở để đem lại hạnh phúc thiết thực cho mỗi gia đình. Sau 30 tháng Tư 1975, tương lai đất nước thay vì được cơ hội vươn lên trong hoàn vũ, lại bị để sa lầy trong một thời gian dài ở Campuchia, uổng phí mấy mươi năm quý báu để có dịp phát triển cơ sở nông nghiệp thiết thực và vững chắc! Nhưng vùng “Phật Ðịa” bao la trời dành cho miền Nam vẫn còn đó, trông chờ muôn vạn bàn tay xây dựng của các thế hệ thanh niên mới, trong một chánh quyền mới.

06/ 2006


Trần Nguơn Phiêu, sanh năm 1927, lớn lên ở quê nội Cao Lãnh Sa Ðéc. Cựu học sinh Petrus Ký và Chasseloup Laubat. Ðã tham gia báo Nam Thanh của tổ chức Nam Bộ Thanh Niên Kháng Chiến Ðoàn. Tốt nghiệp Y Khoa Bordeaux Pháp. Trước 1975, phục vụ trong Quân Y Hải Quân, nguyên Tổng trưởng Xã Hội. Ðã cộng tác với các tập san: Thế kỷ 21, Văn Hóa, Lướt Sóng, Y Tế, tập san Y-Nha-Dược... Ðã xuất bản hai tác phẩm: Phan Văn Hùm ( Thân thế và Sự nghiệp );  Những Ngày Qua.
!. 

Thursday, 9 May 2013

HỒI KÝ
GIÓ MÙA ĐÔNG BẮC của TRẦN NGUƠN PHIÊU.

Đây là một cuốn bút ký hiếm quý. Hiếm vì cuốn sách hầu như chứa đựng được hầu hết những biến cố quan trọng của đất nước chúng ta từ sau đệ nhị thế chiến cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, đặc biệt ở Miền Nam. Tác giả từng là một thiếu niên tham gia vào những sinh hoạt tranh đấu dành độc lập cho xứ sở. Phụ trách báo Nam Thanh của tổ chức Nam Bộ Thanh Niên Kháng Chiến Đoàn. Đã trực tiếp thấy bộ mặt tàn bạo của Cộng Sản, ông bỏ vào thành tiếp tục đi học và trở thành Bác Sĩ Y Khoa Hải Quân. Biến cố nào tác giả cũng có những dữ kiện chứng minh thật cụ thể do chính mình tham dự, hay do những nhân chứng đáng tin cậy. 

Quý, bởi xuyên suốt 500 trang sách ta thấy được tấm lòng tha thiết của tác giả với đất nước, với thân tộc, cũng như với bằng hữu. Có người ở phe này, kẻ ở phe kia, khi là người cùng chung sống lúc hàn vi, khi là những kẻ bên kia chiến tuyến. Giữa những cảnh huống éo le, tác giả luôn thể hiện được tấm lòng chung hậu. Và bẳng một bút pháp êm đềm, rộng lượng của Miền Nam, tác giả đã cho chúng ta thấy được lòng bao dung, đơn giản của người Miền Nam cùng sự sung túc của đất nước này bao phủ lên mọi cảnh huống của thời cuộc trong hoà bình cũng như trong thời ly loạn. Qua những trang sách ta gặp những người từng là danh nhân của thời cuộc, nhưng ta cũng thấy họ từ những ngày còn trẻ thơ, đã được nuôi dưỡng trong những gia đình nề nếp. Riêng với những người cộng Sản thì lại khác. Từ trong trứng nước họ là những người khác, suy nghĩ khác, đầy xảo quyệt, dối trá và cực kỳ tàn bạo. Hệt như những người Cộng Sàn ở Bắc, họ đã thẳng tay tàn sát những người tuy cùng chiến đấu chống Pháp, nhưng khác chính kiến với họ. 

Ta hãy nghe Dương bạch Mai nói với Phan văn Hùm: “ ‘Anh Hùm, tôi nhớ lúc ở Côn Đảo, trong những bữa ăn như chiều hôm nay, anh thường ngồi bìa, đưa lưng hứng chịu roi vọt của cai tù để anh em được ăn yên ổn. Nhưng nay chúng tôi lãnh đạo cách mạng. Chúng tôi không chấp nhận đường lối: Đánh chung, Đi riêng của các anh’. Sau bữa chiều đó, nhóm chiến sĩ đệ tứ đã bị đưa đi, không còn hiện diện trong trại giam nữa.” ( trang 300). Từ đó người ta không ai gặp Phan văn Hùm ở đâu nữa. Những cảnh huống như thế tràn đầy trong sách. Kể từ 30 tháng 4 năm 1975, người Cộng Sản đã tạm thời cướp được đất nước chúng ta. Nhưng đất nước sẽ đi về đâu. Ta có thể lấy lời của Giáo Sư Phạm Thiều, một người đã bỏ cả cuộc đời đi theo Cộng Sản, khi về già từ Bắc về lại Miền Nam, ông nhận xét về người Cộng Sản như sau :
“Dốt mà lãnh đạo nên làm Dại.
Dại mà muốn thành tích nên báo cáo Dối.

Dốt, Dại, Dối, đó là ba điều làm cho các nước Xã Hội Chủ Nghĩa sụp đổ, làm cho nước ta đi từ sai lầm này đến sai lầm khác”. ( trang 37).

Bỏ ra ngoài vấn đề của một thời oan trái, cuốn sách còn lấp lánh những góc cạnh rất đẹp của đời sống. Nói về những kỷ niệm khi còn bé được mẹ dội nước tắm cho, ông viết : “Nắng chiều chiếu qua những giọt nước còn đọng trên mi, mặt mẹ Triệu cúi gần mặt Triệu, nên khi mở mắt Triệu thấy hình ảnh mẹ lung linh tuyệt đẹp…” Trong văn chương Việt Nam, có lẽ đây là lần đầu tiên hình ảnh người Mẹ được ghi lại thân thương, đơn giản mà đẹp đẽ như thế, khiến “Tám chục năm về sau, mỗi lần tưởng nhớ đến mẹ, Triệu vẫn còn giữ mãi nét mặt của mẹ qua ánh nước long lánh của buổi chiều ngày đó.” (trang 23).

Và suốt chiều dài của đời sống, từ một ngưởi học trò sống ở vùng quê, mồ côi mẹ rất sớm, lớn lên ở Sài Gòn dưới sự trông nom của ông bà ngoại, rồi đi du học tại Pháp để trở thành vị Bác Sĩ Y Khoa của Hải Quân Việt Nam. Với biết bao thay đổi, nhưng dưới nhận xét tinh tế của ông, hầu như không có cảnh trí nào đặc biệt mà ông không ghi nhận. Sống ở Bordeaux, Pháp trong 6 năm trời, cái nôi của rượu vang, ta hãy nghe ông nói về cách thưởng thức rượu vang của xứ này : “... Khách sành điệu cần nhìn bề mặt rượu trong ly. Ven bờ rượu thấy trong sáng và tròn trịa là rượu còn non ngày tháng. Ven bờ rượu màu hổ phách là rượu đúng tuổi uống. Nếu màu ven rượu chuyển sang màu đỏ như gạch thì quả đã quá già ... để biết tuổi rượu là nên nghiêng ly cho rượu sắp trào rổi nhanh nhẹn dựng ly trở lại. Nếu chân rượu rút từ từ xuống ven bờ là độ cồn đã cao, không phải rượu non tuổi. Theo chủ quán tiếng nhà nghề gọi là ‘chân rượu’ ( jambe).” Những ghi nhận chi ly như thế nhiều lắm. Một ghi nhận khác về Hải Quân, khi ông nhắc đến khiến tôi giật mình. Đó là trên chuyến hải hành vượt Thái Bình Dương của chiến hạm Nhật Tảo, HQ 10, kỳ hiệu M được kéo lên trên kỳ đài khi có sự hiện diện của vị y sỹ trên chiến hạm. 

Điều ấy ai là những sĩ quan Hải Quân cũng biết, cũng được học, nhưng hầu như không phải xử dụng bao giờ, nên không nhớ. Và cũng trên hải trình lịch sử từ Mỹ vượt Thái Bình Dương về Việt Nam, tôi cũng đã trải qua. Khi đã ra khỏi eo biển của Phi Luật Tân, radio trên tàu HQ 504 đã bắt được làn sóng thân thương của đài Sài Gòn, quê nhà đã gần, bỗng có một nhân viên thần trí bất thường vì những ngày dài hải hành trên đại dương mông mênh, bốn phương không bờ bến, nên anh ta phát khiếp, bỗng lấy dao cứa nát bắp tay mình, máu phun như tưới. Anh y tá cuốn chặt cánh tay người bị thương để cầm máu, rồi Hạm Trưởng phải liên lạc gấp với Sài Gòn, xin trực thăng bay ra, đáp xuống sân chiến hạm bốc anh ta về bịnh viện Cộng Hoà. Khi ấy, nếu gặp chiến hạm có kéo cờ M (Medecin), thì mọi việc đã được giải quyết gọn gàng. Chính ghi nhận này đã chứng tỏ rằng Bác Sĩ Trần Nguơn Phiêu là một người rất chi tiết, ông không bỏ sót một sự kiện gì đáng chú ý trong cuộc sống. Song cũng chính suy nghĩ này khiến tôi tìm chưa ra ý nghiã tên sách: Gió Mùa Đông Bắc. Trong 500 trang sách, Mùa Gió Đông Bắc chỉ được ông nhắc đến hai lần. 

Lần một khi ông tham dự đón đồng bào Miền Trung đi định cư ở Miền Nam. Ông đã chứng kiến cảnh sóng gió như thế nào khi Gió Mùa Đông Bắc thổi, khiến mọi người trên tàu nôn mửa, có mấy ngưởi đàn bà đẻ non, được Bác Sĩ Phiêu săn sóc, mẹ tròn con vuông. Và chót hết ở cuối sách ông viết sau khi đã thắp hương lên bàn thờ gia tiên và bàn thờ Phật, cung kính khấn lời giã từ, chính lúc ấy đài phát thanh loan tin tức khí tượng và ông đã ghi lại: “Tin tức cho tàu chạy ven biển: Hôm nay gió mùa Đông Bắc thổi mạnh trên biển Nam Hải. Trời không nhiều mây nhưng sẽ có mưa rào rải rắc. Biển động mạnh.”

Cuốn sách đã được đóng lại với hàng chữ này, khiến lòng tôi ngẩn ngơ.

Phải chăng cuộc đời ông đã bị Gió Muà Đông Bắc mời gọi. Ngọn gió làm điêu đứng những người đi biển, những người lính mà ông, tuy không phải dày dạn với gió mưa, nhưng ông đã suốt đời gắn bó với họ qua bao nhiêu nỗi vui buồn. Khi vận nước đã khác, như đa số những người lăn lộn với thời cuộc, tất cả đã phải bỏ nước hướng ra biển khơi, không biết ngày mai ra sao. Giữa lúc ấy, cuối tháng 4 năm 1975, là cuối mùa Đông Bắc, “biển động mạnh.”

Phải chăng đó là kỷ niệm, là nỗi niềm của vị Hải Quân Y Sỹ Đại Tá Trần Nguơn Phiêu, nguyên Trưởng Khối Quân Y Hải Quân, nguyên Cục Phó Cục Quân Y, nguyên Tổng Trưởng Xã Hội của chính phủ VNCH?
Nghĩ thế, là một người đi biển, người viết xin trân trọng cám ơn Bác Sỹ và luôn nghĩ rằng, ở ngoài tuổi 80, ông đã có một món quà hiếm quý để lại cho mai sau. Một tấm gương trong sáng của người trí thức Miền Nam.

Phan Lạc Tiếp



GIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (1) LỜI NÓI ĐẦU Chương 1 : Bên bờ Rạch Cát http://www.diendantheky.net/2011/04/gio-mua-ong-bac_09.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (2) : Tuổi thơ http://www.diendantheky.net/2011/04/gio-mua-ong-bac-2.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (Chương 3) : Thời Trung học http://www.diendantheky.net/2011/04/gio-mua-ong-bac-chuong-3.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (Chương 4) : Một thời sôi động trước Nam bộ Kháng chiến http://www.diendantheky.net/2011/04/gio-mua-ong-bac-chuong-4.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (Chương 5) : Phong trào Thanh niên http://www.diendantheky.net/2011/04/gio-mua-ong-bac-chuong-5.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (Chương 6) : Về quê Cao Lãnh . Trở lại Sài Gòn trước cơn khói lửa http://www.diendantheky.net/2011/04/gio-mua-ong-bac-chuong-6.htmlGIÓ MÙA ÐÔNG BẮC (Chương 7) : Cách Mạng Mùa Thu (1) http://www.diendantheky.net/2011/04/gio-mua-ong-bac-chuong-7.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (Chương 8) : Những ngày đầu Nam bộ Kháng chiến http://www.diendantheky.net/2011/04/gio-mua-ong-bac-chuong-8.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (Chương 9) : Lần đầu chạm địch http://www.diendantheky.net/2011/04/gio-mua-ong-bac-chuong-9.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (Chương 10) : Những ngày tản cư 

http://www.diendantheky.net/2011/04/gio-mua-ong-bac-chuong-10.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (Chương 11) : Hồi cư về Sài Gòn (1) http://www.diendantheky.net/2011/04/gio-mua-ong-bac-chuong-11.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (Chương 11-2) : Hồi cư về Sài Gòn (2) http://www.diendantheky.net/2011/04/gio-mua-ong-bac-chuong-11_23.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (Chương 12) : Gặp lại Nàng Thơ http://www.diendantheky.net/2011/04/gio-mua-ong-bac-chuong-12.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (Chương 13) : Vướng vòng lao lý http://www.diendantheky.net/2011/04/gio-mua-ong-bac-chuong-13.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (Chương 14) : Rèn cán, Chỉnh quân http://www.diendantheky.net/2011/04/gio-mua-ong-bac-chuong-14.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (Chương 15) : Những ngày xa xứ http://www.diendantheky.net/2011/04/gio-mua-ong-bac-chuong-15.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (Chương 16) : Gặp lại Duy Thảohttp://www.diendantheky.net/2011/05/gio-mua-ong-bac-chuong-16.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (Chương 17) : Miền Nam nước Pháp

http://www.diendantheky.net/2011/05/gio-mua-ong-bac-chuong-17.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (Ch. 18) : Những ngày ở Socoahttp://www.diendantheky.net/2011/05/gio-mua-ong-bac-ch-18.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (Ch. 19) : Nàng Thơ trên đất Pháphttp://www.diendantheky.net/2011/05/gio-mua-ong-bac-ch-19.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (Ch. 20) : Gặp Hồ Hữu Tườnghttp://www.diendantheky.net/2011/05/gio-mua-ong-bac-ch-20.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (Ch.21) : Trại Hè http://www.diendantheky.net/2011/05/gio-mua-ong-bac-ch21.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (Ch. 22) : Ngoại trú http://www.diendantheky.net/2011/05/gio-mua-ong-bac-ch-22.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (Ch.23) : Quân cảng Toulon http://www.diendantheky.net/2011/05/gio-mua-ong-bac-ch23.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (Ch.24) : Tiểu Ðăng khoa, Ðại Ðăng khoa http://www.diendantheky.net/2011/05/gio-mua-ong-bac-ch24.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (Ch.25) : Hoàn Cố hương http://www.diendantheky.net/2011/05/gio-mua-ong-bac-ch26.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (Ch.25 – 2) : Hoàn Cố hương (2) http://www.diendantheky.net/2011/05/gio-mua-ong-bac-ch25.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (Ch.26) : Ðời lính thủy

http://www.diendantheky.net/2011/05/gio-mua-ong-bac-ch26_16.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (Ch. 27) : Sóng Tình Thươnghttp://www.diendantheky.net/2011/05/gio-mua-ong-bac-ch-27.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (Ch. 28) : Hành nghề tưhttp://www.diendantheky.net/2011/05/gio-mua-ong-bac-ch-28.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (ch. 29) : Người Khách lạhttp://www.diendantheky.net/2011/05/gio-mua-ong-bac-ch-29.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (ch. 30) : Ðệ Nhất Cộng Hòa, những ngày cuối cùng http://www.diendantheky.net/2011/05/gio-mua-ong-bac-ch-30.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (ch.31) : Tết Mậu Thânhttp://www.diendantheky.net/2011/05/gio-mua-ong-bac-ch31.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (Ch.32) : Trở lại xứ Chùa Tháphttp://www.diendantheky.net/2011/05/gio-mua-ong-bac-ch32.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (Ch.33) : Mùa hè đỏ lửahttp://www.diendantheky.net/2011/05/gio-mua-ong-bac-ch33.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (Ch.34) : Ði Mỹ cầu việnhttp://www.diendantheky.net/2011/05/gio-mua-ong-bac-ch34.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (Ch.35) : Hòa đàm Paris

http://www.diendantheky.net/2011/06/gio-mua-ong-bac-ch35.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (ch.36) : Trở về đời sống dân sựhttp://www.diendantheky.net/2011/06/gio-mua-ong-bac-ch36.htmlGIÓ MÙA ĐÔNG BẮC (Chương 37) : Cuồng phong trên Ðất nướchttp://www.diendantheky.net/2011/04/gio-mua-ong-bac-chuong-37.htmlQuân Y Hải Quân Bác Sĩ Trần Ng ư ơn Phiêu Sau ngày ký kết Hiệp định Genève, chánh phủ Pháp lúc đó mới bắt đầu thật sự trao trả chủ quyền cho Việt Nam. Thật ra sự trao trả này cũng đã phải trải qua nhiều giai đoạn nhiêu khê vì người Pháp ở Đông Dương vẫn nuối tiếc thời vàng son của họ. Chánh Phủ Ngô Đình Diệm đã phải đương đầu với nhiều thủ đoạn, âm mưu của các thế lực thực dân cũ còn hối tiếc muốn tìm cách duy trì ảnh hưởng của Pháp để có thể một ngày nào đó phục hoạt được một phần nào thế lực chánh trị hay kinh tế Pháp. Quân lực Việt Nam đã được thành hình trong bối cảnh đó và Hải Quân cũng đã thật sự được tổ chức khi quân đội Pháp bắt đầu rút lui khỏi Đông Dương. 

Người đầu tiên được Tổng Thống Ngô Đình Diệm chỉ định lèo lái quân chủng Hải Quân là Thiếu Tá Lê Quang Mỹ. Bộ Tư Lệnh Hải Quân được đặt ở Trại Bạch Đằng sau khi Pháp bàn giao căn cứ Caserne Francis Garnier ở bờ Sông Sài Gòn. Nha Quân Y Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã chấp thuận bổ nhiệm Y Sĩ Thiếu Tá Phạm Tấn Tước vào chức vụ Y Sĩ Trưởng Hải Quân. Vào lúc đó, quân số Hải Quân kể cả Thủy Quân Lục Chiến không quá 5,000 người. Bộ Tư Lịnh TQLC cũng cùng đóng chung ở Trại Bạch Đằng và Y Sĩ Thiếu tá Phạm Tấn Tước cũng phụ trách phần quân y cho TQLC. Một cơ sở Hải Quân lớn khác được chuyển giao là Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang. Trước khi được chuyển giao thì Trung Tâm này cũng như Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân đều do người Pháp điều khiển. Y Sĩ Đại Úy Nguyễn Gia Quýnh được Bác Sĩ Phạm Tấn Tước bổ nhiệm để lo phần yễm trợ quân y cho Trung Tâm có nhiều khóa sinh này. Bệnh xá này nguyên là một bệnh viện tư của một y sĩ Pháp thành lập và được HQ Pháp mua lại khi xây cất Trung Tâm Huấn Luyện. Vì vậy bịnh xá phòng ốc rất tiện nghi, từ văn phòng y sĩ nhìn ra sẽ thấy một phần rất đẹp của bãi biển Nha Trang. Cơ sở Quân Y Hải Quân đầu tiên do Y Sĩ Thiếu tá Phạm Tấn Tước trách nhiệm được đặt tên là Bệnh Xá Bạch Đằng. Tên gọi cũ của Pháp là Infirmerie Francis Garnier, gồm cơ sở hai tầng lầu về phía Đông của Trại Bạch Đằng, ngó ra Công Trường Mê Linh, sau này được đổi tên là Công Trường Trần Hưng Đạo. Bệnh Xá Bạch Đằng là một bệnh xá có tầm vóc, có phòng quang tuyến,phòng Nha Khoa,phòng Dược, phòng Thí Nghiệm...Tầng hai là trại bịnh và tầng ba dành cho y sĩ trực gác và nhân viên y tá. Từ phòng y sĩ trực có thể nhìn được sinh hoạt dân chúng, giai nhân tài tử đi dạo mát ở Bến Bạch Đằng và Công Trường Mê Linh vì là thời còn tương đối thanh bình, đường trước Bộ Tư Lịnh HQ không có chắn kẽm gai như về sau này. Nha Sĩ Hải Quân đầu tiên là Nha Sĩ Đại úy Nguyễn Văn Hiền, tốt nghiệp ở Pháp và dược sĩ phụ trách Trung tâm Tiếp Liệu Y Dược là Dược Sĩ Đại úy Thái Hữu Đức, tốt nghiệp Đại học Toulouse, Pháp. Các quân y sĩ Hải Quân vào lúc khởi đầu thành lập như vậy là gồm toàn y sĩ trừ bị, được động viên và do Nha Quân Y thời bấy giờ phân phối cho quân chủng Hải Quân. 

Có một sự kiện đặc biệt là vào cuối năm 1950, khi Quân Đội Việt Nam mới bắt đầu thành lập ngành Quân Y được giao phó cho một sĩ quan Quân Y Pháp là Đại Tá Quân Y Pagès (Người viết bài không nhớ trọn tên). Như hầu hết các quân y sĩ Pháp phục vụ ở VN cũng như các bịnh viện lớn như Bệnh Viện Grall ở Sài Gòn, các quân y sĩ hiện dịch Pháp đều xuất thân từ Trường Quân Y Bordeaux. Ở Pháp có hai trường Quân Y, một là Trường Quân Y Lyon để đào tạo quân y sĩ cho quân đội đóng ở Pháp (Métropole) và trường thứ hai là Trường Bordeaux , gọi là Trường Quân Y Hải Quân và các Thuộc Địa (École de Santé Navale et Coloniale). Sở dỉ có sự phân chia đó vì Trường Lyon chuyên về chuẩn bị cho chiến trường Âu châu và Trường Bordeaux chuyên về Y khoa Nhiệt đới. Đại tá Pagès, người đầu tiên được biệt phái giúp thành lập quân y VN vốn tốt nghiệp trường Quân Y Bordeaux. Ông có một con trai học Trường Chasseloup Laubat và sau theo học chứng chỉ P.C.B. của Đại Học Sài Gòn vừa mới được thành lập không quá 2 năm. Đại Tá Pagès thường đến giao thiệp với sinh viên nhất là các bạn học của con ông để thuyết phục sinh viên VN tình nguyện gia nhập ngành quân y. Sau khi được chánh phủ Pháp chấp thuận, mười sinh viên đã được cấp học bổng sang Pháp học Trường Quân Y Bordeaux (5 thuộc Đại học Sài Gòn và 5 thuộc Đại học Hà Nội). Đây là lần đầu tiên Trường Quân Y Bordeaux nhận sinh viên nước ngoài, nên không có những biệt lệ gì cho mười sinh viên VN. Hai năm đầu ở trường được coi như hai năm đi quân dịch và cấp bực là thủy thủ không chuyên nghiệp (Matelot de Seconde classe, sans spécialité). Mỗi tháng được cấp 180 quan, 15 gói thuốc lá và 10 con tem để gửi thư. Chỉ sau 2 năm mới được coi là chuẩn úy và lãnh lương sĩ quan. Sinh viên sống nội trú trong doanh trại và y khoa thì phải theo học ở Trường Y khoa Đại học Bordeaux. Trường Quân Y có thêm chương trình riêng về quân sự và kiểm soát sự hiện diện của khóa sinh rất chặt chẽ ở Trường Y Khoa cũng như khi thực tập ở các bịnh viện. Mỗi năm, khi các sinh viên trường Đại học có được 3 tháng nghỉ hè thì khóa sinh quân y chỉ có được 1 tháng, 2 tháng kia được gửi đi thực tập ở các quân y viện hay các đơn vị quân đội. Khóa sinh VN tham dự các chương trình huấn luyện quân sự như các đồng đội Pháp, chỉ trừ các chương trình gọi là X,Y,Z thì không cho học vì liên quan đến chiến tranh hóa học, vi trùng và nguyên tử. Đến khoảng cuối năm 1956 thì các khóa sinh quân y VN bắt đầu trình luận án tốt nghiệp ở trường Y khoa Đại học Bordeaux. Vào thời buổi đó ở VN có xảy ra vụ Ông Ngô Đình Diệm truất phế Bảo Đại. Phó Giám đốc Trường Quân Y Bordeaux lúc đó đã bán chánh thức tiếp xúc riêng từng khóa sinh VN và cho biết là sau khi tốt nghiệp, các sinh viên có thể ở lại Pháp, không nhất thiết phải trở về VN vì chánh thể đã đổi. Một vài đồn điền lớn của Bỉ đã biết tin và tiếp xúc với vài sinh viên để xin đồng ý ký giao kèo làm việc ở các thuộc địa của họ ở Phi châu. Các anh em đã bàn với nhau và đã trả lời cho trường là các anh em đã đi học với học bổng tuy là của Pháp nhưng là tiền của dân chúng VN nên đã lựa chọn là phải về phục vụ lại dân chúng VN. Người viết bài không quên được giây phút cảm động khi Y Sĩ Đại Tá Phó Giám Đốc trường tên Đại Tá Simmon, trong văn phòng riêng của ông, sau khi nghe tôi giải bày, đã từ từ đứng lên, nghiêm nghị tuyên bố: "Anh hiện nay tốt nghiệp mang cấp hiệu Trung Úy, tôi mang cấp bực Đại Tá nhưng tôi xin đứng lên cung kính chào lòng thương nước của các anh." Các anh em quân y sĩ hiện dịch lần lược trở về và đã được Y sĩ Thiếu tá Phạm Tấn Tước bổ nhiệm vào phục vụ ở Bệnh xá Bạch Đằng, Bệnh xá Hải Quân Công Xưởng, Căn cứ Cát Lái, Bệnh xá Trung tâm Huấn luyện Hải Quân Nha Trang. Riêng bác sĩ Nguyễn Phúc Quế được chỉ định làm Y Sĩ Trưởng Thủy Quân Lục Chiến và cùng với Đại úy Lê Nguyên Khang tiếp nhận căn cứ Cam Ranh. Bệnh xá đầu tiên của TQLC được BS Quế thành lập ở Bình Ba, Cam Ranh. Theo thông lệ thời bấy giờ, sau khi tốt nghiệp ở ngoại quốc, sĩ quan được cho nghỉ phép một thời gian để sắp xếp việc sinh sống, nhưng hầu hết các quân y sĩ HQ khi về là đều đến trình diện Bộ Tư Lịnh HQ và đã được cấp ngay phương tiện nhà cửa để nhận công tác! Các công tác đầu tiên thời bấy giờ là việc di tản Việt kiều từ Cam Bốt về VN và việc chuyển vận định cư đồng bào miền Trung vào Cam Ranh hoặc Phú Quốc theo các chương trình của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Trong các công tác chuyển vận này các anh em y sĩ đã rất nhiều lần đỡ đẻ cho nhiều thiếu phụ vì các gia đình được di chuyển toàn bộ theo từng làng hay xứ đạo, không có sự lựa chọn những trường hợp người đang có bịnh hay đang mang thai gần ngày sinh. Khi ra biển, sóng nổi lên là có trường hợp nôn mửa và chuyển bụng. Theo truyền thống Hải Quân, các hạm trưởng là sĩ quan hộ tịch và các bà thường đồng ý lấy tên chiến hạm để đặt tên con. Ở VN hiện tại chắc hẳn rất có nhiều người mang tên các quân vận hạm Hóa Giang, Hát Giang, Hàn Giang... Vì quân y Hải Quân có những sắc thái riêng biệt cũng như quân y Không Quân v.v... nên về hoạt động vẫn theo những truyền thống riêng và không thể tránh khỏi những va chạm với Nha Quân Y (vào thời đó tổ chức Quân Y chỉ vào cấp Nha, chưa là Cục như về sau). Bệnh xá Bạch Đằng có xe cứu thương hiệu Peugeot sơn màu trắng như xe cứu thương Bệnh viện Grall. Chở bịnh đến Quân Y Viện Cộng Hòa trông rất le lói nhưng không giống ai! Khi xe hư thì Quân Cụ từ chối sửa chữa vì không phải loại quân xa thông thường, nhưng cũng may là có Hải Quân Công Xưởng sửa hộ. Y tá được huấn luyện riêng ở Nha Trang theo một chương trình của HQ Pháp. Nha Quân Y không chấp thuận và bắt phải theo học chương trình y tá quân đội CC1, CC2... Bịnh Xá Bạch Đằng có phòng mổ, phòng điện tuyến... nhưng xin bổ sung vật liệu thì không được chấp thuận vì chỉ là bịnh xá, cấp số không cho phép. Sau một lần kiểm kê của Nha, các dụng cụ phòng mổ và nhất là phòng khám mắt phải gởi về Nha vì quá sang trọng đối với một bịnh xá. Sự thiếu thông cảm vì không thấu đáo các truyền thống tổ chức quân chủng đã làm nản lòng một số y sĩ HQ. 

Vì lý do đó và vì không đồng ý với tánh cách gia đình trị của Tổng Thống Diệm, một y sĩ có vợ là người Pháp đã cùng vợ bỏ về Pháp nhân ngày Tết Nguyên Đán. Theo truyền thống, các thủy thủ khi được bổ nhiệm lên các chiến hạm, đều được cho lương phụ trội (Prime de mer) vì phải xa gia đình và sóng gió thường làm suy giảm sức khỏe so với các đơn vị bờ, nhưng Tổng Thống Diệm đã nghe lời bàn của một sĩ quan lục quân và không cho trả phần lương phụ trội đó! Sau nhiều năm tranh đấu trình bày về các vần đề y tế, cuối cùng HQ được thuận cho cấp lại nhưng chỉ cho cho các ngày đi biển mà thôi, những ngày cập bến là những ngày cần bồi dưỡng thì bị cúp! Riêng phần Quân Y cũng vậy. Các quân y sĩ hiện dịch không được hưởng phần chuyên môn, lúc đó vào khoảng 2,000 đồng. Cùng với sự thỏa thuận với các quân y sĩ hiện dịch Lục Quân và Không Quân, chúng tôi đã viết từng đơn riêng, tránh việc làm trái phép là viết đơn tập thể, để xin được hưởng phần chuyên môn đó. Kết quả là từng người đã phải trình diện Cục An Ninh của Đại Tá Đổ Mậu để được điều tra biết ai là chủ mưu!Với đà lớn mạnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, quân số HQ đã gia tăng vào khoảng 30 ngàn, với tổ chức Hải Lực, Giang Lực, Duyên Lực. Thủy Quân Lục Chiến được tách rời thành một Quân chủng riêng. Vào lúc này Y Sĩ Thiếu tá Phạm Tấn Tước được giải ngũ, và các chức vụ điều khiển Quân Y HQ được giao cho các y sĩ hiện dịch tốt nghiệp Trường Quân Y HQ Bordeaux. Với chức vụ Y Sĩ trưởng HQ, người viết bài đã đảm nhận luôn chức vụ sĩ quan hộ tịch cho TQLC cho đến ngày xảy ra chiến cuộc Bình Giả. TQLC đã bị thiệt hại lớn trong chiến trận này. Các anh em thương binh đã khóc khi chúng tôi viếng thăm và cho biết các bộ đội cộng sản đã được Nga Sô yểm trợ AK 47 trong khi anh em vẫn còn phải xử dụng Garant M1 bắn từng phát một! Trại Cửu Long là nơi cư ngụ gia đình binh sỉ TQLC, sau một đêm, sáng dậy thấy toàn các thiếu phụ mang khăn sô trắng! Vì không còn kham nổi trách vụ nên người viết bài đã trình xin để TQLC lo hẳn phần vụ Hộ Tịch. Y Sĩ Thiếu tá Nguyễn Phúc Quế từ đó không còn trực thuộc Quân Y HQ và anh em y sĩ TQLC đã gầy dựng một ngành quân y riêng biệt với nhiều thành công rực rở. Nhận định thấy Bệnh Xá Bạch Đằng có một vị trí làm trở ngại việc phòng thủ Trại Bạch Đằng, mặc dầu cửa vào bệnh viện lối Công Trường Mê Linh đã được khóa lại và bịnh nhân phải ra vào do cổng chánh của trại, sau nhiều lần trình bày, Bộ Tư Lịnh HQ đã chấp thuận cho hoán chuyển bệnh viện về Trung Tâm Hành Chánh HQ đường Cường Để, trước Hải Quân Công Xưởng. Đây là một cơ sở biệt lập, thích hợp với vị trí một cơ quan quân y và có khả năng phát triển. Quân đội Mỹ lúc này đã tham chiến vào chiến trường VN nên sau nhiều buổi thảo luận, HQ Mỹ ở VN đã chấp thuận giúp khuếch trương bệnh xá, lo việc xây cất phòng ốc và xây thêm một Nhà Bảo Sanh cho gia đình binh sĩ HQ. Ngoài công tác yểm trợ quân y cho các chiến hạm, các giang đoàn,duyên đoàn, các y sĩ HQ thường tham gia các công tác dân sự vụ cho đồng bào các đảo và các miền duyên hải. Để có khả năng giúp đỡ hữu hiệu, Bộ Tư Lệnh HQ đã chấp thuận cho thành lập một tàu bệnh viện. Quân Y HQ đã phối hợp với HQ Công Xưởng để thiết lập sơ đồ biến cải quân vận hạm HQ 400 thành một bệnh viện lưu động với đầy đủ trang bị. Vào lúc này một bộ phận Quân y HQ Mỹ được biệt phái làm cố vấn cho ngành QYHQ. Y sĩ Thiếu tá Pye là viên cố vấn đầu tiên. Khi nhận viện trợ các chiến hạm Mỹ, HQVN đã nhận điều kiện không được biến cải tánh cách các chiến hạm . Các chiến hạm được coi như cho HQVN mượn xử dụng trong thời chiến nên Thiếu tá Pye đã giúp ý kiến dùng các quân xa chở hàng cỡ lớn của quân đội Mỹ có tiện nghi máy lạnh để trang bị thành các phòng khám bịnh, phòng giải phẩu, phòng thí nghiệm, phòng quang tuyến... 

Các xe này được ràng buộc trong lòng tàu vì HQ 400 là loại tàu đổ bộ cỡ trung bình LSM (Landing Ship Medium) nên việc thực hiện rất dễ dàng và mau chóng. Nhân viên y tá VN đã được gởi tu nghiệp ở Mỹ. Hai y sĩ Mỹ về nội thương và giải phẫu cùng toán y tá thí nghiệm, phòng mổ cũng được biệt phái cho chiến hạm bên cạnh y sĩ và y tá VN. Công tác dân sự vụ của HQ 400 đã đem đến cho dân chúng các đảo và các miền duyên hải một trợ giúp y tế hữu hiệu. Một tàu bệnh viện thứ hai HQ 401 đã được thành lập tiếp theo sau thành quả tốt đẹp của bệnh viện hạm HQ 400. Khi HQVN nhận lãnh được Dương Vận Hạm HQ 500 là loại lớn LST (Landing Ship Tanks) để mở đầu chiến dịch "Sóng Tình Thương" đổ bộ vào Mũi Cà Mau, các y sĩ HQ đã rất nô nức vì loại LST có phòng y tế trang bị để giải phẫu, có cả bãi đáp trực thăng. Nay HQVN lại có cả hai Bệnh viện hạm,đó thật là một bước tiến dài của ngành Quân Y HQ. Sự hiện diện của phái bộ cố vấn Quân Y Mỹ bên cạnh QYHQVN đã giúp rất nhiều về sinh hoạt và huấn luyện cho ngành. 

Sự thông hiểu sắc thái đặc thù của QYHQ đã được Cục QYVN thấu đáo chấp thuận. Việc di chuyển thương binh trên chiến hạm qua các cầu thang dựng đứng và chật hẹp hay từ chiến hạm này qua chiến hạm khác, không thể dùng các loại cáng thường mà phải cần buộc thương binh trong cáng thúng (basket litter); việc đào thoát và sống còn trên biển cả cần phải có những phương thức huấn luyện riêng; kho y dược HQ phải có kế hoạch yểm trợ đặc biệt cho các chiến hạm như các bệnh xá biệt lập, không thể chỉ có được cấp số như một đại đội Lục Quân... Đó là những sự việc mà anh em y sĩ trong ngành đã phải đương đầu trong lúc phôi thai, chuẩn bị cho sự gia nhập đông đảo về sau của các y sĩ tốt nghiệp ở VN. Giờ đây chiến cuộc đã tàn phai. 

Nhiều anh em y sĩ Hải Quân đã trở về trong lòng đất lạnh. Hồi tưởng lại buổi thiếu thời, sau khi đã nếm mùi biển động của Đại Tây Dương vùng Brest hay biển êm ả Địa Trung Hải ở vịnh Toulon (Pháp), lần đầu tiên được trở về phục vụ Hải Quân Việt Nam, nhìn nước biển một màu xanh biếc ở Cầu Đá Nha Trang, tâm hồn người y sĩ trẻ đã cảm thấy một niềm phấn khởi và hãnh diện vô biên . 

Quả thật: "Chốn quê hương đẹp hơn cả!" BÙi Bo Sơn CVA65 "When you cannot defend freedom through peaceful means, you have to use arms to fight..." Marek Edelman loitongthongThieuDon’t listen to the communists, but take a good look at what they have done .

 Note: When forwarding this email, please have the courtesy to respect the privacy and confidentiality of the sender by deleting all previous email trails and addresses before you proceed to forward this email to others. /-