Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label BinhchungTQLCVNCH. Show all posts
Showing posts with label BinhchungTQLCVNCH. Show all posts

Tuesday, 8 October 2019

TIN TỨC MỘT NGÔI MỘ TQLC


mong ai biết tin về gđ anhTìm thân nhân.
Anh chị nào quê ở Cầu Hai, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế thì xin vui lòng dọ tìm hoặc chia sẻ dùm thông tin để người nhà của người lính này được biết.
Những hình ảnh dưới đây là mộ của ông NGUYỄN TẤN THANH, mất năm 28 tuổi.
Ông thuộc Tiểu đoàn 2 TQLC - VNCH và tử trận khi tái chiếm Quảng Trị năm 1972.
Thi hài ông trôi theo sông Thạch Hãn. Dân làng đưa lên và đắp mộ tại xã Triệu Độ, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Theo giấy tờ mang trong người, cha của ông tên NGUYỄN TẤN PHÁT, mẹ tên TRẦN THỊ MAY. Quê ông ở Cầu Hai, Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Hiện dòng sông nơi có mộ ông đang sạt lở mạnh. Mộ có nguy cơ bị mất.
Nếu tìm ra người thân của ông Nguyễn Tấn Thanh, vui lòng cung cấp cho họ số điện thoại sau để liên lạc: 0979282045 gặp ông Trần Công Binh là người ở gần ngôi mộ và đã cung cấp thông tin này.(tháng 5-2019)
-chia sẻ trên mạng-

Sunday, 10 April 2016

RỪNG LÁ THẤP

Tôi còn nhớ rõ một buổi trưa nắng chang chang của năm 78, 79 gì đó. Đang ngồi đợi trên xe buýt ở Lăng Cha Cả khởi hành đi Chợ Lớn thì tôi nghe có tiếng hát rất hay, nhưng vô cùng u uất: ‘’Rừng lá xanh xanh cây phủ đường đi...Thành phố sau lưng...’’ Rồi bước lên xe là một thương binh Việt Nam Cộng Hòa trẻ khoảng 25-26 tuổi. Anh ta cụt một chân, trên cổ treo cây guitar vừa đàn hát vừa xin tiền. Anh ta mặc chiếc quần của Thủy Quân Lục Chiến rằn sọc ngang, áo thun bạc phếch, trên đầu đội nón vải đi rừng của lính Việt Nam Cộng Hòa.

Dường như một số người trên xe biết và có cảm tình với anh ta nên có lẽ nói cho mọi người đều biết: ‘’Ảnh là Thủy Quân Lục Chiến, bây giờ tội nghiệp lắm...’’
Người thương binh Việt Nam Cộng Hòa khẽ gật đầu như muốn chào mọi ngưòi nhưng vẫn hát...Một bà cụ ngồi phía sau chạy lên dúi vào tay anh ta mấy cái bánh ú và hỏi: ‘’Q. sáng giờ con ăn gì chưa ?’’. Người thương binh ngưng hát trả lời: ‘’Dạ, con ăn chút bánh mì rồi ngoại...’’ Thì ra bà cụ biết người thương binh này và vẫn thường giúp đỡ anh ta cho nên anh ta gọi bà cụ là ngoại. Đây cũng là cách gọi thân mật trong của người Nam.
Lúc đó có nhiều người dúi tiền vào chiếc túi vải treo trước ngực người thương binh. Mỗi lần ai cho anh, anh đều nói: ‘’Xin cảm ơn ông/bà’’. Dường như mọi người đều cho một ít như muốn nói ‘’Tặng anh một chút để anh sống qua ngày...Chúng tôi dù sao còn may mắn hơn anh...’’
Khi anh ta bước gần đến tôi, tôi nhìn gương mặt anh ta tôi có cảm tình ngay. Gương mặt sáng và thông minh. Anh tuy mất một chân nhưng rất rắn chắc. Tôi cũng lấy ít tiền dúi vào túi vải, anh ta nói: ‘’Đa tạ ông’’. Tự dưng tôi cầm lấy tay anh ta và hỏi: ‘’Anh bị thương năm nào ?’’ Anh trả lời: ‘’Dạ em bị thương năm 1972 đó ông Thầy...’’
Có lẽ anh ta nghĩ tôi là sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa nên trả lời và gọi tôi ‘’Ông Thầy’’. Lính Việt Nam Cộng Hòa thường gọi sĩ quan là ‘’Ông Thầy’’.
Tôi nghe thế tôi rất xúc động vì tôi cũng bị thương năm 1972...có điều là chúng tôi... khác chiến tuyến nhưng tôi lại được lính Biệt Động Quân Việt Nam Cộng Hòa cứu sống...
Tôi vội nói: ‘’Tôi cũng bị thương năm 72...’’
Anh ta dường như không chú ý câu nói của tôi và như có người chia sẻ, anh ta khe khẽ kể tiếp: ‘’Đơn vị Thủy Quân Lục Chiến của em chặn quân Bắc Việt tại bờ Nam sông Thạch Hãn vào tháng Tư năm 1972...tụi nó đông lắm, xe tăng, bộ binh của chúng đông nghẹt luôn... Tiểu Đoàn 3 Sói Biển tụi em tuy chặn đứng chúng nhưng thiệt hại 50 % đó ông thầy ạ...Em bị thương trận đó...Bây giờ...Khổ lắm...’’
Dường như nước mắt của cả tôi và anh ta đều giàn giụa...
Anh ta khẽ gật đầu chào và quay đi...
Anh bước xuống xe và tiếp tục lời hát: ‘’...Sao không hát cho những bà mẹ từng đêm nhớ con xa...Hay hát cho những người vừa nằm xuống chiều qua...’’
Bóng người thương binh Thủy Quân Lục Chiến dần lẫn vào đám đông những người buôn thúng bán bưng...những đứa trẻ gầy gò bưng bình trà đá bán dạo tại bến xe...Trời trưa nắng chang chang nhưng tôi nghe như mưa đổ trong lòng...Cơn mưa khóc hận cho miền Nam hưng thịnh nhân bản ngày nào bây giờ đang sống dưới tay loài quỉ Đỏ...
Và từ đó tôi không có dịp gặp lại người thương binh Thủy Quân Lục Chiến đó... Không biết anh trôi dạt nơi nào....
Anh bị thương năm 72, tôi cũng bị thương năm 72...Anh và tôi cùng được chữa trị bởi Quân Y Viện Việt Nam Cộng Hòa...Không biết lúc đó tôi và anh có cùng Quân Y Viện không? Tôi lúc đó được nằm trên giường...Anh có thể nằm...dưới đất nhường chỗ cho tôi...
Việt Nam Cộng Hòa đối xử rất nhân bản với tôi.
(Trích hồi ký của một cựu bộ đội Bắc Việt)
Link

Tuesday, 15 March 2016

CÁC CHIẾN HỮU CÙNG NHAU CHÚNG TA HÃY SỐNG CHO XỨNG ĐÁNG VỚI CHIẾN TRƯỜNG XƯA BẤT KHUẤT./- TCL/Mv.

Người lính Việt Nam Cộng Hòa sau 30 tháng Tư 
Mũ Xanh Quái Điểu 
1
Nghe tin ông Dương Văn Minh đầu hàng, như lưỡi dao sắc lẻm, chặt đứt hết mọi hy vọng mong manh còn sót lại trong chúng tôi. Lúc đó, tôi và gia đình đang tạm trú ở trong một căn lều tạm được dựng lên ở ngoài Ấp chiến lược khu Minh Đức, nay là khu Suối Tiên, Thủ Đức, ngang Trường Đại học Nông nghiệp. Cách Căn cứ Sóng Thần của TQLC chừng 5 cây số.

Nhìn ra xa lộ, xe tăng Việt cộng đang chạy vào Sài Gòn. Pháo binh VNCH kéo pháo chạy trong đoàn xe tăng! Khi nhận ra mình đi lạc trong đội hình địch. Mấy anh pháo binh tách vội khỏi đoàn, cho xe chạy kéo pháo vào khu làng Đại học hạ càng súng, tiếp tục chiến đấu bắn vào đoàn xe tăng. Dân đông quá, mấy xạ thủ chỉ chơi đạn nổ chụp thật chính xác, nhưng không hiệu quả. Không kẹt dân chúng, mấy anh chơi trực xạ khối cua T 54 phải đổ kềnh ngổn ngang trên xa lộ là cái chắc.



Vậy là cùng đường! Chúng tôi ngao ngán dọn đồ để chuẩn bị trở về nhà. Ra đường, đám bộ đội mặt xanh bủng, non choẹt, quần áo lính khác lạ, đầu đội nón cối, đã vượt qua sông Đồng Nai, đang hàng một, súng gườm gườm tiến về Sài Gòn. Thế là hết, cuộc chiến gần như chấm dứt!



Chẳng riêng gì chúng tôi, mà hầu như mọi người dân Miền Nam thảy đều thất vọng. Đoàn quân cướp xâm lược hùng hổ đến mà lại khoác lên mình danh hiệu đoàn quân giải phóng. “Giải phóng” cái tên nghe nó đểu đểu làm sao! Cứ như hồi nhỏ mình đang đứng vững vàng ở đâu đó, bị một thằng đến xô cho một cái chúi nhủi, xong nó lại giữ mình lại miệng nhoẻn cười nói: “Không có tao mày ngã nhá.”



Buồn rũ rượi, nhưng tự an ủi, thôi cũng xong, chiến tranh hết và hòa bình trở lại, dù gì cũng là người Việt Nam cả. Đúng vậy, họ đúng là người Việt Nam, cũng máu đỏ da vàng, nhưng tất cả đã lầm! Phải mãi sau này mới biết, mới hiểu, thì đã muộn! Những người Việt Nam ấy không còn máu Việt Nam, vì họ được gột rửa và nhồi nhét chất Cộng sản mà họ tự hào là mang tính đảng!



Trên đường về, trời hâm hâm nóng, dù chiều hôm trước có một trận mưa lớn. Không gian như vương vấn khói lửa và mùi thuốc súng của cuộc chiến vẫn còn, lác đác những tràng súng, những tiếng nổ của những người lính không chịu đầu hàng, họ vẫn chiến đấu. Trên Cầu Đồng Nai những bánh TNT cột vào nhau ngang cầu xô dạt, Những chiếc M 113 gài ngang chắn đường không cho VC tiến qua cầu đã bị kéo ra một lối nhỏ đủ chỗ cho xe đi lại. Xác những chiến sĩ Thiết giáp anh dũng hy sinh còn nằm bên cạnh, trông thật tội nghiệp! Đường xa lộ thưa thớt đến điêu tàn! Phải hơn 1 giờ sau, chúng tôi mới đưa được gia đình trở lại căn nhà cũ. Đến nhà, một cảnh tượng buồn hơn hiện ra, lửa của những trái B 40 được quân giải phóng bắn bậy, đã giải phóng sạch cả khu xóm tôi ở, đen thui bình địa! Heo gà chúng tôi không mang hay bán kịp cũng đã hy sinh vì sự nghiệp “giải phóng.”



Đang là lính, buông súng rã ngũ, chúng tôi bị coi còn tệ hơn dân thường, mặc dù dân thường bây giờ cũng chẳng thể được coi là công dân của một đất nước vừa mới có hòa bình. Quân chiến thắng huênh hoang đi giải phóng, nhưng họ lo lắng thấy rõ. Đi đâu cũng súng ống gườm gườm, giương đôi mắt cú vọ soi mói, nghi ngờ! Họ mua bán bất cứ thứ gì thì ghi chép tên từng người bán, bán thứ gì, từ bó rau, đồng muối, con cá, miếng thịt, nhất nhất đều phải ghi rõ, chỉ sợ những người mang ơn giải phóng lại đầu độc, giết hại mình, hại đoàn quân giải phóng!

1



Sau khi ổn định tình hình, những cán bộ xã ấp hình thành với sự trợ lực của đám bộ đội và đặt trong tình trạng quân quản, họ bắt đầu tìm cách quản lý chúng tôi. Sau khi kêu gọi mọi người đăng ký, trình diện, các sĩ quan thì đi tập trung, còn lại binh sĩ và HSQ cải tạo tại chỗ. Hàng ngày, mọi người cứ sáng đến sân nhà thờ ngồi nghe quản giáo thuyết giảng, nghe mà tức như bò đá vì họ nói ngược, nói bắt phải nghe, rồi cùng bắt chúng tôi tìm kiếm để kể tội ác của Mỹ Ngụy có nghĩa là tội ác của chính mình! Chiều chiều, thì lại phải rủ nhau đi họp do Cán bộ xã ấp chủ trì, về nhà thì trời đã khuya.



Những việc họ làm lúc đó, mình cứ nghĩ là đi họp để được cho biết về chủ trương đường lối chính sách của chính quyền mới, nhưng thực ra là phải đến để họ kiểm soát những hoạt động của mình, ai ở nhà với lý do gì hoặc có ý đồ chống đối lại chính quyền cách mạng. Những cuộc họp, sinh hoạt buổi tối cứ tổ chức liên tục từ ngày này tiếp ngày khác mà chẳng có cuộc họp nào mới hơn cuộc họp trước. Cũng chỉ ê a như vẹt, cái “đểu” là nó sợ chúng tôi không hiểu.



Khi mọi việc mà họ tạm gọi là nắm hết lý lịch mọi người xong, chúng tôi phải đi lao động cho cuộc sống gia đình. Trước khi là lính, chúng tôi là những thanh niên lao động, làm đủ thứ nghề để kiếm tiền mưu sinh. Khi vào lính, chúng tôi có một số được học nghề chuyên môn, còn lại hầu hết là những người lính chiến, nay quay về với ruộng vườn, những việc thật quen thuộc khi xưa, nhưng nay phải lao động theo lối khác, vì ruộng vườn không còn được máy móc hỗ trợ.



Trâu không có, bò cũng hiếm, vì trước kia đã quen với máy móc trợ giúp. Giờ với chính quyền mới, máy móc cũng đã được cải tạo để giác ngộ Cách mạng và đã bị tập trung, mà các chủ máy cũng không ai muốn đầu tư thêm vào ngành nghề của họ để phát triển thêm. Chưa nói, ai cũng muốn rút bớt vốn đầu tư để giảm những rủi ro vì bị nhà nước chú ý quản lý! Do đó, máy móc hư hỏng dần vì không được tu bổ và kể cả bị phá cho hư. Nên cũng công việc làm ruộng trồng lúa như xưa, thì nay chúng tôi phải bỏ công sức ra mà hăng say lao động. Hình ảnh những con người kéo cày bừa thay trâu bò của thời xa xưa mà chúng tôi chỉ được biết qua sách vở, giờ lại thấy xuất hiện nhìn thấy rõ ràng trên những cánh đồng quê hương “giải phóng.” Lao động sản xuất với cái bụng đói, vì lúa không phân bón và các loại thuốc trừ sâu giả!



Những chuyện vui và tiếng lóng: chà đồ nhôm (chôm đồ nhà), bảng đỏ sao vàng (bỏ đảng sang giàu), bán đồ ăn (mang đồ nhà đi bán để ăn), những câu chuyện tiếu lâm mới về người dân Miền Nam như lời cầu nguyện của một người, cầu Chúa thì Chúa chỉ ngón tay lên, nhìn lên thấy nhà mình lợp tôn, ý Chúa mách bảo giỡ tôn bán mà ăn, loanh quanh đến lúc chẳng còn gì và cuối cùng ra Bến Bạch Đằng cầu Đức Trần Hưng Đạo, sau khi khấn xong, ngước mắt lên, thấy tay ngài chỉ xuống sông, mới ngộ ra là ngài bảo ra sông mà vượt biên. Những chuyện vui tiếu lâm như vậy được dân Miền Nam kể cho nhau nghe lén rồi cười với câu tục ngữ mới: “Con nuôi má, hay con nuôi cá. Còn con bị bắt thì má nuôi con!” Để chỉ những người vượt biên, vượt biển.



Là những người lính, lúc đó chúng tôi mong được các vị lãnh đạo trong quân đội mà mình đã một thời được vinh dự đứng trong hàng ngũ xưa tổ chức đứng ra tập họp chúng tôi về dưới cờ để tiếp tục chiến đấu. Nhưng tất cả chỉ là ảo mộng. Lợi dụng lòng mong ước đó, VC lợi dụng tổ chức ra những tổ chức ma để tóm gọn những người lính với hào khí còn đầy, nhiều mẻ lưới chúng giăng sẵn để bắt anh em. Chúng còn lợi dụng tình huynh đệ chi binh của người lính quốc gia đưa những tên cò mồi ra làm bẫy.



Ai ở Hố Nai mà không biết tên Khởi. Trước làm trong Ban 2 Chi khu Đức Tu. Tay này đã nhẫn tâm bán đứng anh em chỉ để được chúng ban cho cái chức Quản lý chợ (coi chợ)! Khởi đã giăng bẫy đưa rất nhiều anh em trong Ban 2 cũ của Chi khu Đức Tu vào tù CS! Tưởng với thành tích đó, mà chúng cho Khởi làm việc dưới quyền chúng mãi. Nhưng không, chỉ điếu đóm được vài năm, Khởi không còn làm cò mồi được nữa, chúng cho lô đất ở bên xa lộ về ngồi bán cơm, không biết Khởi còn được giao công tác gì nữa không! Khởi chỉ là 1 trong nhiều trường hợp điển hình ở Miền Nam sau 30 Tháng 4 Năm 1975.



Khi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa còn hùng mạnh. Chắc ai có ý tưởng huấn luyện cho người lính VNCH cách chiến đấu khi thua trận là một ý tưởng điên rồ. Chúng ta là một quốc gia với chính nghĩa sáng ngời. Chuyện thua một vài trận nhỏ thì có, chứ nghĩ đến ngày tang thương như Ngày 30 Tháng 4 Năm 1975 chắc chưa bao giờ có ai nghĩ tới! Vì thế, khi điều đấy xẩy đến, toàn thể mọi người đều bất ngờ đến sững sờ! Sau đó, phải sống trong lòng địch, chúng ta đã chẳng thể làm gì hơn. Để chúng gọi một tiếng đau hơn là “Ngụy”! Một sự phân biệt đối xử với quyền lợi thì không, mà trách nhiệm thì nặng. Có công tác gì như đào mương, đắp đập v.v... thì chúng ưu tiên gọi đi làm. Khi cần phải đóng góp gì như đóng góp lương thực, góp quỹ này nọ, thì chúng luôn luôn nhớ tới! Ngược lại, khi phân phối nhu yếu phẩm thì chúng lờ đi. Lòng đau như cắt, khi bị đối xử bất công, vì ăn còn thiếu mà chúng còn bắt nộp! Nếu những hy sinh của người lính cũ như chúng tôi mà làm cho xã hội tốt đẹp hơn thì cũng đáng, nhưng điều trớ trêu là chúng chỉ làm cho đất nước ngày càng lụn bại! Nhớ tới cấp chỉ huy oai dũng năm xưa thì tất cả đã bị chúng lùa vào tù.



Anh em cùng binh chủng cũ gặp nhau chỉ còn biết ngồi thở than, nuối tiếc lại thời oanh liệt cũ. Nhiều khi gặp bọn cắc ké kỳ nhông, bọn theo voi ăn bã mía mà dân chúng gọi là bọn 30 Tháng 4. Chúng làm nhiều chuyện bất nhân, thất đức cũng nổi máu muốn cho chúng một trận, để dạy cho chúng một bài học làm người. Không thiếu gì anh em đã săn tay áo chỉ vào mặt ba thằng nhãi ranh, bất chấp hiểm nguy cho bản thân và gia đình mà nói. Đ.m mày coi tay bố mà đây này TQLC Sát Cộng. Cỡ oắt con như mày, bố chỉ vặn cổ một cái là chết tươi nhe con.



Mãi sau này, khi kinh tế ổn định, chúng tôi lại gặp nhau để ôn chuyện cũ. Nay qua nước người, nhờ tự do, được đọc các hồi ký của những đàn anh trong binh chủng. Thấy chúng hèn hạ trả thù các anh bằng nhiều cách. Riêng chúng tôi ở ngoài cũng chẳng sung sướng gì hơn. Kiếm miếng ăn cũng vô cùng khó khăn, với sự dàn dựng trả thù tinh vi với mọi người dân Miền Nam, bằng mọi thủ đoạn như ngăn sông cấm chợ, tự túc lương thực, chính sách công an trị, sưu cao thuế nặng v.v... Chỉ hơn các đàn anh là còn có thể tìm đường vượt nhà tù lớn ra biển, vượt biên giới đi tìm tự do đích thực.



Sắp qua 41 năm kể từ biến cố đau thương đó. Người lính của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nói chung và những Chiến binh Thủy Quân Lục chiến Việt Nam nói riêng, đã phải sống qua một thời kỳ đen tối nhất của lịch sử! Chúng ta cùng đồng hành theo Dân tộc Việt Nam nên vẫn còn phải chịu sống trong nền cai trị hà khắc của nhà cầm quyền cộng sản Việt nam, và liệu chúng còn cai trị Dân tộc ta cho đến bao giờ?





Mũ Xanh Quái Điểu



Thursday, 5 March 2015

KHÔNG HIỂU TÁC GIẢ MUỐN GÌ ? CÂU CHUYỆN KHÔNG THỂ NÀO LÀ THẬT ĐƯỢC

CÓ 1 CHI TIẾT RẤT XẠO - Ở GẦN CUỐI BÀI CÓ NÓI "Cái khăn cột cổ màu tím của TQLC mà cô ta giữ kỹ và có lần giặt phơi bị gió cuốn đi xa đến 5 cây số, bạn nhặt được và hòan trả cho khổ chủ ???" Xạo ở khỏang cách 5km đấy !!!./- Mt68


Đôi Bờ Chiến Tuyến

Tác giả là sĩ quan Thuỷ Quân Lục Chiến VNCH, định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO-20. Bài viết của ông được một cựu đồng ngũ chuyển tới, với ghi chú đây là câu chuyện thật. Thật nhưng khó tin: một cựu nữ chiến binh Việt Cộng, nhiều năm sau chiến tranh, đi vào tận trại tù tìm thăm người sĩ quan VNCH cô từng gặp trên chiến trường, và rồi... 
*** 
 Sau 3 ngày quần thảo ác liệt với địch quân, chúng tôi mới chiếm được mục tiêu, đơn vị chủ lực miền của địch thuộc tỉnh Bến Tre đã bị xóa sổ, nhưng tiểu đoàn của chúng tôi cũng bị thiệt hại khá caọ Trung đội 4 của tôi được lệnh bung rộng ra kiểm soát từng hầm hố, từng công sự của địch. Cảnh vật hoang tàn đổ nát, những thân cây dừa bị mảnh đạn pháo binh băm nát lỗ chỗ. Hầu như không còn chỗ nào nguyên vẹn, mùi thuốc súng nồng nặc khó chịu vẫn còn vương lại nơi đâỵ Tôi với Kính, người mang máy truyền tin, cẩn thận từng bước trên bờ mương nhỏ. Chợt Kính nói nhỏ:
- Ông thầy! Coi chừng hình như có người trong lùm cây đàng kia.
- Tản rộng ra, theo dõi kỹ chung quanh và coi chừng đồ chơi của tụi nó.
Tôi ra lệnh cho Kính xong  là lom khom phóng qua những thân cây nằm ngổn ngang trên mặt đất, khẩu M16 lên đạn sẳn sàng, Kính theo kế bên hông.Tiếng rên nho nhỏ của phụ nữ văng vẳng ra từ trong lùm cây rậm rạp.
- Một đồng chí nữ nhà ta đấỵ Kính reo nho nhỏ.
Kinh nghiệm chiến trận cho tôi biết không bao giờ hấp tấp trước mọi tình huống, có thể địch gài mìn bẫy xung quanh, hoặc gỉa vờ bị thương để dẫn dụ đối phương tới gần rồi sát hạị Dơ ngón tay ra hiệu lệnh và chỉ vào lùm cây, tôi quan sát lần nữa rồi rón rén bước nhẹ, đằng kia thằng Kính lăm le khẩu súng trên tay trông chừng. Tôi lấy mũi súng vạch đám lá, một cô gái trạc độ 18,19 tuổi nằm gối đầu lên chiếc ba-lô mầu “cứt ngựa”, vai trái bị trúng đạn máu tuôn ra ướt đẫm, mắt nhắm nghiền nhưng miệng vẩn không ngớt rên rỉ:
- Nước...Nước..cho tôi miếng nước”.
Trước tình trạng nguy hiểm đến tính mạng của “cô” địch quân sau khi ngừng tiếng súng, việc đầu tiên là phải cầm máu, tôi lấy băng cá nhân lau nhẹ trên vết thương, đoạn dùng lưỡi lê cắt khoảng áo trên vai, đỡ cô ngồi dựa vào người tôi đoạn bảo Kính:
-  Mày băng dùm cho tao, nhớ nhẹ taỵ
-  Ông nhân từ quá, gặp em con nhỏ này tiêu đời.
Kính vừa băng vừa cằn nhằn.
Tôi im lặng không nói gì, Kính nói đúng, những người lính của tôi đã ngã xuống, máu của họ đổ ra cho sự tự do, người Cộng Sản có nhân từ với người anh em của tôi không?
-  Nước... Cho tôi xin miếng ..... nước.
-  Đ. Mẹ ... Câm miệng mày lại.
Kính quát tháo giận dữ, tôi lừ mắt nhìn người đệ tử ra vẻ không hài lòng.
-  Mày đừng nói như vậy, với một người sắp sửa chết mình đừng nuôi thù hận nữạ Thôi mày ra ngoài trông chừng cho tao đi.
Tôi lấy cái khăn màu tím cột trên vai áo, dấu hiệu nhận diện của đơn vị, thấm chút nước rót từ bình tông lau nhẹ trên mặt cô gáị Tôi ngẩn người trong giây lát vì sắc đẹp của cô, khuôn mặt thanh tú với hàng mi cong vút nhất là sống mũi cao nom cô phảng phất như minh tinh màn bạc dù trắng xanh vì mất máu nhưng cô ta vẫn có nét thu hút đặc biệt. Ghé bình tông nước vào miệng cô gái, tôi nói nhỏ:
-  Cô uống đi, nhớ từ từ từng chút một .
Cô ngoan ngoãn nghe lời như một em bé. “Cám ơn ông nhìều”. Giọng nói yếu ớt và mệt mỏi.
-  Tôi sẽ tiêm cho cô 2 mũi thuốc trụ sinh và cầm máu, cố chịu đau nghe.
-  Không cần đâu, làm phiền ông nhiều rồi, vả lại tôi cũng sắp chết đến nơi.
-  Bậy bạ, vết thương này đâu có gì nguy hiểm.
-  Đừng an ủi như vậy, hồi nãy ông nói tôi sắp chết đừng nuôi hận thù nữa
-  Tại vì...Tại vì...Tôi không muốn lính của mình ăn nói kỳ cục như vậỵ
Cô gái mở mắt nhìn tôi với vẻ cám ơn, trong đáy mắt chứa nhiều điều muốn nói, lâu lắm cô nói thều thào:
-  Bây giờ ông sẽ làm gì với tôỉ, bắn một phát súng có lẽ nhẹ nhàng hơn là giao tôi cho cơ quan điều tra.
Thật tình tôi không biết trả lời sao với cô, chưa kịp phản ứng thì cô tiếp:
-  Tôi sinh ra ở miền đất mênh mông sông nước, hãy để thân xác này vùi dập nơi đâỵ Xin ông đừng giao cho ai hết. Tôi van xin ông.
-  Thôi được rồi, tôi sẽ làm theo lời yêu cầu của cô. Nhưng trước nhất hãy để tôi tiêm thuốc cái đã đừng bướng bỉnh như vậỵ
Cô gật nhẹ đầu mà không nói lời nào. Kéo ống tay áo lên, lộ làn da trắng nõn nà, tôi chăm chú chích mũi Penicilline mà không thấy má của cô thoáng đỏ vì hổ thẹn mà chỉ thấy cô nhăn nhó suýt soa vì đau, tôi bật cười:
-  Đi lính bị thương, bị bắn không đau, chỉ có mũi kim bé tí tẹo mà cô nhăn nhó, rên rỉ như….
- Sao không đau, ông ăn nói… như khỉ chứ gì?
Cô cướp lời, tôi cười trừ, đỡ cô gái nằm xuống ngay ngắn trên mấy tầu lá chuối rồi tôi đứng dậy cầm cây súng lên đạn .. rồi lấy trong ba-lô mấy hộp lương khô, bình nước đầy và cuộn băng cứu thương, tất cả đặt bên cạnh cô rồi nghiêm nghị nói:
-  Đơn vị tôi sẽ di chuyển đi nơi khác bất cứ lúc nào để tìm các đồng chí của cô, nhưng những thứ nầy cần thiết cho cô, tôi hy vọng người của cô sẽ trở lại tìm và cứu sống đồng đội của mình.
Tôi lấy khăn nhúng nước lau mặt cho cô đoạn cẩn thận lấy mấy tàu lá dừa che kín lại.
-  Này... Ông tên là gì vậy
-  Có quan trọng lắm không?
-  Ít ra sống hay chết tôi còn biết tên người đã đối xử tốt với mình chứ.
-  Vậy thì cô nói với Diêm Vương gã đó là Lam, Trần Hoài Lam và cô xin với ổng cho tôi tai qua nạn khỏi trong chiến tranh nàỵ
Tôi nghe tiếng cô cười nhỏ cùng tiếng nói thật nhẹ:
-  Dạ, Quyên đêm nào cũng sẽ cầu nguyện cho ông Lam tai qua nạn khỏi.
Quyên, người con gái mà tôi gặp gỡ một lần, và chỉ một lần duy nhất trong cuộc đời kế từ đó.
Bước chân người lính như tôi đã qua mọi đoạn đường đất nước, những trận đánh đẫm máu bằng cái chết của đôi bên lên rất cao. Vài lần bị thương nặng nhẹ nhưng tính mạng vẫn còn giử được, phải chăng Quyên hằng đêm cầu nguyện cho tôi được tai qua nạn khỏi như nàng đã hứa.
Đất nước thanh bình, tiếng súng lặng im, nhưng những người được gọi là sĩ quan QLVNCH như tôi và bạn bè khác không được thở hít không khí hòa bình ấy, sau bao năm trăn trở với chiến tranh, tất cả đi vào trại “cải tạo”, một danh từ mỹ miều  nhưng thực chất là đầy đọa, là giết lần mòn chúng tôi. Tôi bất lực nhìn bạn bè ngã xuống, đói, bệnh hoạn, đày đọa, khủng bố, đánh đập!
Thân xác anh em chúng tôi bị vùi dập ở nơi núi rừng hiu quạnh, ở hốc núi đen tối ngàn trùng. Tôi lặng lẽ sống như cái bóng tinh thần vững vàng, nhưng thể xác thì suy sụp nặng nề, bám víu ý nghĩ duy nhất “Trả nợ oan gia binh nghiệp”. Phải, sinh ra người lính thì chấp nhận mọi gian nguy may rủi về mình.
Ngày hôm ấy, trại Bù Gia Mập, nơi tôi đang “lao động  là vinh quang” có cơn bão rừng rất lớn, mọi người được phép nghỉ tại lán. Anh Đan, khối trưởng nhận thư từ quản giáo phân phát cho anh em. Là một kẻ không thân nhân, không họ hàng, tôi lảng đi nơi khác cho đỡ tủi thân.
-  Trần Hoài Lam có thư.
Cả phòng xôn xao ngạc nhiên vì ai cũng biết tôi là thằng “mồ côi”, là “con bà Phướ'c”, danh từ ám chỉ những kẻ không có ai thăm viếng lẫn thư từ. Rất ngạc nhiên tôi nghĩ thầm trong bụng có lẽ trùng tên với một người nào đó nên im lặng.
-  Trần Hòai Lam có thư.
Người khối trưởng lập lại với vẻ khó chịu.
Tôi dè dặt bước tới trong trạng thái hoang mang.
-  Có thật là của tôi không anh Đan?
-  Tên anh rành rành trên phong bì làm sao sai được, thôi nhận đi cho tôi còn làm việc, nếu có sai thì cho tôi biết.
Cầm lá thư tôi lật qua lật lại, xem kỹ có phải đúng tên mình không. Hoàn toàn đúng nhưng tuồng chữ lạ hoắc và cái tên cũng chưa bao nghe qua, nhưng một điều chắc chắn người viết là phái nữ, nét chữ mềm mại thẳng đứng nhưng rõ ràng. Trần Hoài Quyên, thật là lạ, trùng họ, trùng chữ lót, chỉ khác tên. Tôi tứ cố vô thân làm gì có họ hàng. Tôi đọc: 
“Anh Lam!
Có lẽ anh ngạc nhiên lúc nhận thư của Quyên, người con gái xa lạ gởi đến cho mình, nhưng khi em nói câu này chắc chắn anh hình dung Quyên là ai:
“Đi lính bị thương, bị bắn không đau, chỉ mủi kim bé tí teo này mà nhăn nhó rên rỉ như...”.
Đọc mấy dòng chữ trên, tôi lặng người rất lâu, bàng hoàng và xúc động hơn bao giờ hết khi nhớ lại trong trận đánh ấy, một nữ VC khuôn mặt bê bết sình đất, tóc tai rũ rượi gối đầu trên ba lô nhỏ, ánh mắt thất thần khi tôi đến gần rồi nhẹ nhàng lấy khăn lau cho cô, khuôn mặt thiên thần trong sáng hiện ra Cô viết tiếp:
- Đúng như anh nói, đêm hôm ấy đồng đội đã mang em ra khỏi nơi mù mịt khói lửa và chữa trị ở bệnh viện Trung Ương, sau khi rời khỏi bệnh viện, em xin về đơn vị ngành để họat động, không còn muốn tham gia vào nơi lửa đạn nữa. Từng là chiến sĩ xuất sắc trong khu, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, vậy mà thoái lui về hậu phương, kỳ lạ quá phải không anh Lam? Chính anh đã làm thay đổi lập trường của em. Những người đối đầu không hẳn đều tàn ác, bằng chứng là anh. Anh đối xử thật tốt, thật nhân đạo với kẻ thù, dù rằng thuộc hạ của anh không biết bao người đã ngã xuống vì những viên đạn của kẻ địch, mà có thể trong đó có cả em bắn ra.
Hòa Bình tái lập em không vui vì còn hận thù, vay nợ máu phải trả, phương châm của bạn bè, cấp  lãnh đạo đề ra. Em rất buồn vì biết anh đang đi vào ngõ cụt, không lối thoát, con đường đi đến cái chết. Như  đã nói, từ sau ngày bị thương, em ra khỏi cuộc chơi, không muốn dính líu đến thù hận nữa, bàng quan trước mọi việc nhưng không thể nào quên anh, em đã cậy cục, tìm kiếm tin tức của anh qua các trại học tập. Trời không phụ lòng người, rốt cục em cũng tìm ra anh. Anh Lam! Còn nhớ những gì em đã nói trước khi anh từ giã ra đi không?
“Quyên đêm nào cũng sẽ cầu nguyện cho ông Lam tai qua nạn khỏi.
Em đã cầu nguyện như vậy mỗi đêm để ơn trên ban mọi điều lành đến cho anh tai qua nạn khỏi đúng như lời đã hứa.  Em đang thu xếp công việc để đến thăm anh kỳ tới. Mong được găp lại anh. Hy vọng  đừng làm mặt lạ với Quyên . . . 
Từ đó tôi không còn là người cô độc nữa, Quyên thăm đều đặn, lần nào cũng khóc, giọt nước mắt long lanh trên má làm tôi xúc động muốn khóc theo. Ân tình của em làm sao tôi báo đáp cho nổi! Thôi thì chỉ còn cách là ...
 *
Trên đất tị nạn, Quyên bây giờ là mẹ của bầy con 3 đứa kháu khỉnh, xinh đẹp. Em chu toàn nhiệm vụ của người vợ hiền, người mẹ nhân ái. Sống ở xứ người văn minh tân tiến nhưng Quyên vẫn là của tôi dạo nào, áo bà ba và sợi thung buộc trên tóc. Những đêm con cái ngon giấc, em qua nằm kế bên tôi thủ thỉ trò chuyện tâm sự:
-  Quyên à, em thương anh từ lúc nào.
- Kỳ cục, ai mà nhớ, hỏi bậy bạ không à”. Em mắc cở phụng phịu.
-  Vậy thì thôi anh không hỏi nữa. Tôi làm bộ giận dỗi quay mặt đi nơi khác. Cô lật đật nắm lấy tay tôi năn nỉ:
-  Thôi đừng giận nữa, em nói, nhưng cấm không được cười à nha.
Quyên bắt tôi thề thốt đủ mọi điều rồi mới nói:
-  Em yêu từ lúc anh kéo tay áo lên để tiêm thuốc. Mắc cở muốn chết, đã vậy còn ghẹo người ta này nọ. Anh biết không, cái khăn màu tím ngày đó anh lau mặt cho em, em giữ mãi trong người, đi đâu cũng xếp lại bỏ vào túi áo, lâu lâu mở ra xem sợ rớt mất.
Cảm động tôi hôn lên trán vợ, không ngờ cô yêu thương tôi đến như vậỵ
 -  Anh biết không, có một hôm em giặt xong phơi ở hàng rào gió thổi mất tiêu. Trời đất, em khóc mấy ngày trời, bỏ ăn, bỏ ngủ, đi tìm nó. Không hiểu sao nó lại về với em, đứa bạn nhặt được mang trả lại. Nó nói cái khăn này bay tới tận khu ủy, cách đó gần 5 cây số. Em tin rằng anh luôn luôn bên cạnh để giúp em vượt qua nguy hiểm. Hôm bị thương nếu gặp người khác có lẽ cuộc đời của em không biết ra sao?  Có lẽ bị chết không chừng.
Quyên ngủ say bên vai tôi, tiếng thở nhẹ nhàng êm ái.  Một điều huyền diệu khó tin nhưng thật sự là vậỵ Phải chăng duyên số đưa đẩy để tôi gặp em trong hoàn cảnh đó. Đúng như Quyên nói, nếu gặp người khác em có thể bị bắn chết hoặc chết vì vết thương. Hôn lên trán vợ, tôi thì thầm:
- Duyên nợ trời định em ạ”.
Bên vai tôi, Quyên ngủ ngon lành khuôn mặt thiên thần không gợn chút bụi trần./

Mũ Xanh Hắc Long Lê Văn Nguyên