Giáo Hoàng Francis đứng
cạnh Phó TT Joseph Biden sau khi phát biểu trước Quốc Hội Hoa Kỳ trong chuyến
tông du đầu tiên tại Mỹ, ngày 24/9/2015.
Ông
Joseph Biden, khi tuyên thệ nhậm chức sẽ trở thành Tổng Thống Mỹ thứ 46, và là
người thứ nhì theo Công Giáo, sau TT thứ 35, John Kennedy. Theo
thống kê, trong cuộc bầu cử vừa rồi, chỉ có 49% giáo dân Công Giáo bỏ phiếu cho
ông Biden, trong khi 50% Công Giáo bỏ phiếu cho ông Donald Trump.
Tại sao
tín hữu Công Giáo tín nhiệm ông Trump hơn ông Biden? Người viết không có câu
trả lời, chỉ có thể ghi lại đây mấy nét đặc biệt của ông Trump về mặt tôn giáo,
hy vọng bạn đọc sẽ tự tìm được câu trả lời.
Ông
Trump theo Tin Lành, phái Tin Mừng Thịnh Vượng (Prosperity
Gospel, cũng còn được gọi là Prosperity Theology). Một nữ mục sư của môn phái
này là Paula White; tên cũ của bà. Gần đây hơn, tên bà được viết là Paula
White-Cain. Đây là tên bà được ghép với tên người chồng chính thức thứ ba đang
sống với bà.
Tổng Thống Trump và Mục
Sư Linh Hướng Paula White.
Môn
phái này theo Chúa, không phải để chuẩn bị cho phần hồn được hưởng phúc đời
sau, mà để Chúa ban cho mạnh khoẻ và giầu sang ở đời này. Muốn được như vậy,
bổn đạo phải chăm chỉ đóng tiền, để Mục Sư ghi tên mình vào danh sách những
người sẽ được Chúa ban ơn.
Tin
tưởng này khác với lời Chúa trong Phúc Âm. Theo Thánh Mác Cô, Chúa giảng cho
các tông đồ rằng, người muốn theo Chúa, phải từ bỏ hết của cải, vì: “Con lạc đà
chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào nước Chúa” (“It is easier for
a camel to go through the eye of a needle, than for a rich man to enter into
the kingdom of God” — Mark 10:25 – King James Bible).
Ông
Trump quen bà White từ năm 2002. Hiện nay, cả hai người cùng là cư dân của tiểu
bang Florida. Trong lễ nhậm chức của Tổng thống Trump ngày 20/1/2017, bà
White là một trong các vị lãnh đạo tinh thần được ông Trump mời đọc lời cầu
nguyện, cùng với Hồng Y Công Giáo Timothy Dolan, và một số quý vị lãnh đạo tinh
thần các tôn giáo khác.
Trong
lời nguyện, Hồng Y Dolan đã căn cứ vào Sách Khôn Ngoan, xin ơn
khôn ngoan cho ông Trump: “Xin cho chúng con sự khôn ngoan, vì chúng
con là tôi tá Chúa, yếu đuối và đời sống ngắn ngủi, thiếu hiểu biết về xét đoán
và luật pháp. Thật thế, dù một người hoàn hảo trong số những người khác, nếu
thiếu sự khôn ngoan đến từ Chúa, chúng con chẳng đáng kể gì”.
Bà
Paula White cũng xin ơn khôn ngoan: “Chúng con xin Thiên
Chúa ban cho tổng thống của chúng con sự khôn ngoan cần thiết để lãnh đạo đất
nước vĩ đại này, ơn sủng để đoàn kết, và sức mạnh để gìn giữ những gì là danh
dự và lẽ phải trong sự quan phòng của Chúa”.
Hồng Y
Dolan nói với báo chí rằng, ông cũng từng xin ơn khôn ngoan cho chính mình,
nhưng chưa được Chúa nhận lời. Riêng bà White, đã được ông Trump mời làm Linh
Hướng (Spiritual Advisor), tức cố vấn tinh thần tại Bạch Ốc, và rất gần gũi với
Tổng thống thứ 45.
Theo
báo The Guardian, ngày 27/1/2020, bà White cho biết, bà được Tổng
thống Trump chọn làm cố vấn là do ý Chúa “an assignment from God”. Vẫn theo báo
này, bà White tin rằng, sự thịnh vượng về tài chánh là dấu hiệu được Chúa chấp nhận.
Điều này có nghĩa là, Chúa rất thích bà – bà có nhà trị giá nhiều triệu đô la
và máy bay riêng. Tiếp theo là Chúa cũng rất thích Donald Trump.
Vẫn
theo The Guardian, trong một cuộc phỏng vấn, MSNBC hỏi bà White: “Có phải
bà nói với bổn đạo rằng, hễ họ cho tiền bà thì sẽ được Chúa cho giầu có không?” Bà trả
lời rằng: “Có thể tôi đã nói như vậy, nhưng ở tuổi 50 tôi không làm
những gì như đã làm thuở 20, 30 hay 40”.
Nhưng
theo Orlando Weekly ngày 20/2/2020, bà White vẫn tiếp tục làm
những gì như đã làm. Bà đã nói thẳng với cộng đồng tôn giáo của mình,
rằng “Tôi không muốn tà tà đợi bánh mứt trên trời. Tôi muốn có giò
nạc nơi tôi sống” (I don’t want pie in the sky by and by. I want some ham where I
am). Vẫn theo báo Orlando:
Mới tháng
này, bà ấy rao giảng “tin mừng thịnh vượng” cho hàng ngàn người tại King Jesus
Supernatural Ministry School (Trường Sứ Vụ Chúa Giê Su Vua Siêu Nhiên) ở Miami.
Bà ấy bảo họ rằng, để được Chúa ban ơn là phải dâng cúng số tiền
kiếm được tuần lễ đầu tiên hàng tháng cho nhà thờ, trước khi trả các khoản chi
khác.
Theo The
Jerusalem Post, ngày 8/11/2020; sau ngày truyền thông dòng chính Mỹ đồng
loạt loan tin Joe Biden đắc cử; Linh Hướng Paula White của Trump có một bài
giảng nhiệt tình về bầu cử được loan truyền rộng rãi (Passionate election
sermon by Trump’s spiritual advisor goes viral). Qua bài giảng này, bà White
xin Chúa cho Cộng Hoà thắng lợi, và nói bà “chống lại những kẻ làm việc ở cấp
cao đã liên kết với bọn ma quỷ và kế hoạch bí mật để đánh cắp cuộc bầu cử khỏi
tay Trump.
Trong
bài giảng, có lúc bà White đã xử dụng ngôn ngữ thần bí (speaks in tongues), như
đàm thoại với một thế giới nào đó, rồi nói rằng “các thiên thần đã được phái đi
bây giờ” (angels are being dispatched right now). Bà còn nói rằng “các thiên
thần đã được phái đi ngay cả từ châu Phi” và “họ đang tới đây” (angels have
even been dispatched from Africa and they are coming here).
Vẫn
theo Jerusaalem Post, trong một video, có thể nghe thấy bà
White nói, bà có đủ quyền và thẩm quyền để tuyên bố rằng Bạch Ốc là đất thánh
vì bà đang đứng ở đó, và nơi nào bà đứng, nơi đó là đất thánh. Bà
còn giảng, “nói không với Tổng thống Trump cũng như nói không với Chúa”
(to say no to President Trump would be saying no to God).
Có lẽ
nhờ vững tin vào Chúa và các thiên thần tới cứu, ông Trump vẫn không chịu thua.
Đó là
mấy nét về tôn giáo của Tổng thống Trump được báo chí ghi lại, có thể kiểm
chứng.
***
Với tín
hữu Công Giáo, muốn biết về phẩm hạnh của một người nào, tương đối khá dễ, vì
đã có sẵn trong tay một chuẩn mực rõ ràng. Giống người thợ mộc, muốn biết khúc
gỗ dài ngắn rộng hẹp ra sao, đã có sẵn đơn vị đo lường là cái thước. Người
Công Giáo đã có sẵn chuẩn mực để đo phẩm hạnh của một người, cả người thường
lẫn ứng cử viên, là Mười Điều Răn (The Ten Commandments).
Muốn
biết mình đã chọn ông Trump đúng hay sai, chỉ cần xem ông có coi trọng Mười
Điều Răn không?.Người
viết có thể dễ dàng nêu ra nhận xét của mình, nhưng không làm. Trước hết, bất
cứ ai cũng có thể tự làm việc này được. Thứ đến, để khỏi mang tiếng đánh người
ngã voi.
Bây
giờ, xin đề cập một chút tới vai trò của truyền thông Công Giáo, giới truyền
thông khoác áo đạo đức đã góp phần trong việc hướng dẫn giáo dân ủng hộ ông
Trump.
Ngày
13/11/2020, các phái viên của Associated Press – AP – là Will Weissert và David
Crary, với sự cộng tác của Nicole Winfield từ Rome, gửi đi bản tin mở đầu như sau:
“Không
hẳn là do can thiệp của thần linh, nhưng ngay cả giáo hoàng cũng coi như cuộc
bầu cử tổng thống Mỹ đã kết thúc.
Tổng
thống đắc cử Joe Biden, người cả đời theo Công Giáo, đã nói chuyện với Giáo
Hoàng Francis hôm thứ Năm, bất kể Tổng thống Donald Trump từ chối nhượng bộ.
Trump tố cáo – không bằng chứng – rằng cuộc bầu cử đã bị ăn cắp khỏi ông ta qua
rất nhiều hành động gian trá không nêu rõ.
Nhóm
chuyển tiếp của Biden nói trong một tuyên bố rằng, tổng thống đắc cử đã cảm ơn
[giáo hoàng] Francis về việc ngài đã ‘ban phép lành và chúc mừng cũng như ghi
nhận sự biết ơn của ông’. Ông cũng hoan nghênh giáo hoàng về ‘địa vị lãnh đạo
thăng tiến hoà bình, hoà giải và những nối kết chung của nhân loại khắp thế
giới’…”
Tin Đức Giáo Hoàng gọi điện chúc mừng ông Joe Biden là tin giả. Đính chí...
Đến đây, hầu chắc có thể xác định rằng: Câu chuyện Đức Thánh Cha Phanxicô nhấc phone gọi điện thoại...
đăng một bản tin
chính với tựa đề: Tin Đức Giáo Hoàng gọi điện chúc mừng ông Joe Biden
là tin giả. Đính chính của Zenit
Bản tin
mở đầu như sau: “Tin Đức Giáo Hoàng gọi điện chúc mừng ông Joe Biden xuất
phát từ hãng tin Ý Zenit là tin giả. Đây không phải là lần đầu tiên cơ quan này
tung ra các tin giả chết người”.
Tiếp
theo là mẩu tin nói về việc hãng Zenit đã từng loan tin không đúng sự thật về
Giáo Hoàng Benedict từ năm 2013, không liên hệ gì tới tin đương kim giáo hoàng
nói chuyện điện thoại với ông Biden. Chỉ cốt để người đọc
chuẩn bị thành kiến là Zenit chuyên môn đăng tin giả.
Sau mẩu
tin dọn đường, bản tin của VietChatolicNews chuyển ý từ Đức Benedict sang Đức
Phanxicô, để người đọc tin cả hai vụ đều là tin giả. Bản tin viết:
“Tương
tự như tin Đức Bênêđíctô sau khi trải qua ‘một kinh nghiệm thần bí’ bèn từ
chức, là tin Đức Thánh Cha Phanxicô gọi điện chúc mừng ông Joe Biden.
Ngày 14
tháng 12, cử tri đoàn mới chính thức bầu tổng thống. Danh hiệu ‘tổng thống’
hiện nay của ông Joe Biden là do báo chí phong cho. Chưa chắc là thật. Đức
Thánh Cha Phanxicô trên cương vị lãnh đạo tinh thần của một tôn giáo lớn nhất
hoàn cầu không làm chuyện tếu (sic) lâm như thế.
Lại
nữa, khi hai bên vẫn còn tranh chấp, khi vội vã công nhận một bên,
Đức Thánh Cha làm mếch lòng ít nhất là 70 triệu người Mỹ đã bầu cho Donald
Trump, trong đó có không ít những người Công Giáo. Đức Thánh Cha không làm như
thế.
Trước
áp lực của các phương tiện truyền thông Công Giáo khác, để chữa thẹn, Zenit, đã
ra một thông báo đính chính ngay trên trang nhất với nội dung như sau”.
Điều mà
VietCatholicNews nói là Zenit “đính chính để chữa thẹn”, đúng ra, không phải là
đính chính. Zenit chỉ nói“Vatican không thể xác
nhận nội dung cuộc nói chuyện hay ai gọi ai”, không hề nói cuộc nói
chuyện là không có thật. Nguyên văn như sau, được đăng lại qua ảnh chụp, để
chắc chắn đúng nguyên văn:
Vatican
không xác nhận nội dung cuộc nói chuyện hay ai đã gọi
“Một
cuộc gọi telephone giữa Giáo Hoàng Francis và Tổng thống đắc cử Hoa Kỳ Joe
Biden, đã diễn ra hôm qua, 12 tháng 11, 2020, Vatican đã xác nhận với Zenit
tiếng Anh.
Văn
phòng Báo Chí Toà Thánh không thể xác nhận nội dung cuộc nói chuyện hay ai gọi
ai.
Kết quả
bầu cử Hoa Kỳ đã phát sinh căng thẳng ở Hoa Kỳ khi Chính Quyền Trump chính thức
tranh chấp về người thắng, tố cáo rằng việc kiểm phiếu ở những tiểu bang chủ
chốt không diễn ra hợp pháp.
Hàng
Giám Mục Hoa Kỳ đã gửi lời chúc mừng tới Joe Biden qua một bản tuyên bố”.
Hai hôm
trước ngày VietCatholicNews loan tin cuộc nói chuyện giữa Giáo Hoàng Francis và
Joe Biden là tin giả, tin chính thức từ VaticanNews, ngày 13 tháng 11 đã xác nhận đây
là tin thật. Sau đây là hình chụp phần đầu bản tin:
Sau đây
là bản dịch toàn văn tin của Vatican News, ngày 13-11, 2020:
Nói
chuyện qua telephone giữa Giáo Hoàng Francis và Joe Biden
Giám
Đốc Báo Chí Toà Thánh xác nhận đã có cuộc nói chuyện. Cuộc gọi tiếp theo chúc
mừng từ các Giám Mục Hoa Kỳ.
Giám
Đốc Văn Phòng Báo Chí Toà Thánh, Matteo Bruni, đã xác nhận rằng Giáo Hoàng
Francis và Joe Biden đã nói chuyện qua điện thoại ngày Thứ Năm.
Cuộc
nói chuyện tiếp theo chúc mừng từ các Giám Mục Hoa Kỳ, đến qua hình thức một
thông điệp từ chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ (USCCB), Tổng Giám Mục José
Gomez của Los Angeles, người đã chúc mừng Biden như tổng thống Công Giáo thứ
nhì, sau John F. Kennedy.
“Chúng
ta cảm tạ Chúa đã ban phước cho tự do”, Tổng Giám Mục Gomez đã
viết như thế trong lá thư của ông. “Người dân Mỹ đã lên
tiếng trong cuộc bầu cử này. Bây giờ là lúc để các lãnh đạo của chúng ta đến
với nhau trong tinh thần quốc gia hợp nhất và cùng nhau can dự vào cuộc đối
thoại và thoả hiệp cho lợi ích chung”.
Ông nói
thêm” “Là người Công Giáo và người Mỹ, ưu tiên và sứ mạng của chúng
ta đã rõ ràng. Chúng ta ở đây đề theo chân Jesus Christ, để làm chứng cho tình
yêu của Người trong đời sống chúng ta và xây dựng Vương Quốc Người trên trái
đất. Tôi tin rằng vào thời điểm này trong lịch sử Hoa Kỳ, Công Giáo có một
nhiệm vụ đặc biệt để tạo hoà bình, để gia tăng thân hữu và tin tưởng lẫn nhau,
và cầu nguyện cho một tinh thần đổi mới của tình yêu nước đích thực trong đất
nước chúng ta”.
Tổng
Giám Mục Gomez kết thúc thông điệp của ông bằng lời cầu xin Đức Bà, viết rằng, “Chúng
ta xin Mẹ Đồng Trinh đầy Ơn Phước, là vị bảo trợ của đất nước vĩ đại này cầu
bầu cho chúng ta. Giúp chúng ta làm việc cùng nhau để thực hiện viễn kiến tươi
đẹp của các vị thừa sai và các vị đã tạo ra Hợp Chúng Quốc: một quốc gia dưới
Thiên Chúa, nơi sự thiêng liêng của sinh mạng mọi người được bảo vệ và tự do
lương tâm và tôn giáo được bảo đảm.
(Đề
tài: Giáo Hoàng Francis, 13 November 2020. Vatican Radio)
ĐỌC KỸ NHỮNG BÀI VIẾT CỦA ĐINH TỪ THỨC SẼ THẤY TỪ THỨC LÀ ĐỒNG BỌN SỐNG BÊN NẦY THÁN PHỤC BÊN KIA NHƯ TRỊNH CÔN SƠN, NGUYỄN HƯNG QUỐC, ĐÀO VĂN BÌNH, VŨ ÁNH, NHẬT TIẾN ... VÀ NHỮNG ĐỨA TRỰC HỜ PHẢN PHÉ, PHẢN BỘI BÊN NẦY VĨ TUYẾN 17./-TCL
================
Đinh Từ Thức
- Trước 1975 làm báo ở Sài Gòn, cộng tác với các báo Chính Luận ( Bút Hiệu SỨC MẤY), Hòa Bình, Sống, Sàigònbáo… - Sang Mỹ 1975, sống, làm việc, hưu trí tại Bắc Virginia.
Ký giả Đinh Từ Thức
nguyên là một giáo sư Trung học tại Sài gòn trước khi chính thức bước
vào làng báo năm 1957, phụ trách trang Sinh Viên Học Sinh hàng tuần
trên Nhật Báo Tự Do. Nổi tiếng với bút hiệu Sức Mấy, ông là người
chuyên viết phiếm luận rất được độc giả ưa chuộng trên các nhật báo
Sống, Saigon Báo, Hoà Bình, Chính Luận,... Cùng với nhà thơ Nguyên Sa,
ông là người sáng lập tờ bán nguyệt san Gió Mới, một tạp chí chuyên đề
về giáo dục và đồng thời cũng là Tổng Thư Ký của nguyệt san Luận Đàm,
cơ quan ngôn luận của Tổng Hội Giáo Giới Việt Nam cuối thập niên 50,
đầu 60. Hiện nay ký giả Đinh Từ Thức đang cộng tác thường xuyên với tạp
chí Thế Giới Ngày Nay.
CHÍNH TRỊNH CÔN SƠN CŨNG THỪA BIẾT "mình sang đó, sợ các ông ấy đập mình."- CHỈ CÓ NHỮNG KẺ NGU XUẨN NHƯ TỪ THỨC MỚI CỐ BÀO CHỮA CHO TÔI LỖI CỦA TRỊNH CÔN SƠN./-TCL
===============
Trịnh công Sơn và những
ngày Văn khoa Từ thức-Paris Một ngày đầu tháng tư
(2001), tôi lên phi trường Charles de Gaulle đón một người bạn từ Việt nam qua.
Trên xe về Paris, anh ta hỏi : cậu có nghe tin về Trịnh công Sơn (TCS) ? Tôi
gật đầu : mấy hôm trước, có người gọi dây nói cho hay Sơn vừa từ trần.
Anh bạn nói đám tang Sơn
rất đông. Người ta ở đâu đổ về như kiến, chật cả đường phố. Quen có, lạ có.
Không đủ chỗ đặt vòng hoa phúng điếu .Tôi nói với ông bạn : như vậy, cái xứ của
ông vẫn còn văn minh, vẫn còn thuốc chữa.
Đó là cái tin lạc quan
nhất về Việt nam mà tôi được nghe từ nhiều năm nay. Dostoievski nói : cái đẹp
sẽ cứu vãn nhân loại. C’est la beauté qui va sauver le monde. Bỏ công ăn
việc làm , đến tiễn đưa một thi sĩ- TCS trước hết là một thi sĩ, tác phẩm TCS
là những bài thơ phổ nhạc- chứng tỏ người ta còn nghĩ đến cái đẹp, người ta còn
có tâm hồn.
Tự nhiên tôi nghĩ đến bác
sĩ Jivago ( Zhivago ) (1) của Boris Pasternak. Cũng như Sơn, Jivago là một thi
sĩ. Cũng như Sơn, Jivago bị cuốn hút trong cơn lốc của lịch sử, bị quẳng vào
một bi kịch kinh thiên động địa từ trời giáng xuống. Như hàng triệu người Nga,
Jivago bị đánh bạt ra khỏi gia đình, quê hương khi cách mạng vô sản ập xuống
nước Nga, cuốn trôi tất cả : gia sản, vợ con, bè bạn, tình ái, trong một xã hội
thay đổi tận gốc rễ.
Chỉ có một điều không bao
giờ thay đổi : là một thi sĩ, Jivago tiếp tục làm thơ. Lấy thơ làm nhân chứng.
Lấy thơ làm cái phao. Lấy thơ làm một nguồn hy vọng để vươn lên, để sống. Như
Phùng Quán : Có những lúc ngả lòng / Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy
‘Khi Jivago chết, người
ta ở đâu đổ về rất đông , nhiều người không hề quen biết. Pasternak viết :
người Nga yêu thơ, yêu thi sĩ. Nghĩa là yêu cái đẹp, nghĩa là chưa hoàn toàn
tuyệt vọng. Chỉ hoàn toàn tuyệt vọng khi ngươi ta không còn thiết tha đến điều
gì, ngay cả cái đẹp. Đó là nét lạc quan nhất trong một cuốn sách đầy thảm kịch
: chiến tranh, tang tóc, chia lìa, đổ vỡ. Một tia sáng loé lên trong bầu trời
đen tối.
Từ Thức và TCS ( bên
phải, đeo kính ), vài ngày trước năm 2000
MƯA VẪN MƯA RƠI…
Khi Victor Hugo từ trần,
trên hai triệu người đổ xuống đường đưa tiễn tác giả Les misérables, một
cuộc tuần hành lớn nhất trong lịch sử Pháp, đông hơn cả đám đông xuống đường
ngày giải phóng Paris. Victor Hugo không giải phóng nước Pháp, ông dẫn người
Pháp tìm cái đẹp. Một nhà báo viết chưa bao giờ trong một đám tang người ta
thấy vắng bóng cái chết, chỉ thấy tương lai và hạnh phúc trên mỗi khuôn mặt .
Khi Charles Trenet chết, hàng chục ngàn người kéo về đưa tang một thi sĩ hiện
đại nổi tiếng nhất của Pháp. Đưa tang Trenet, người Pháp, trong vài giờ, quên
mình đang sống trong một xã hội vật chất, suốt ngày túi bụi dành dựt. Trong vài
giờ, thấy mình vươn lên, thấy đời có ý nghĩa hơn, bởi còn yêu cái đẹp. Trenet
viết : Những thi sĩ đã qua đời, nhưng tiếng hát của họ vẫn bay nhẩy trên khắp
đường phố. (2)
TCS đã qua đời, nhưng
tiếng hát của anh vẫn bay nhẩy trong các hang cùng, ngõ hẹp. Không phải chỉ ở
Việt nam , mà trên khắp địa cầu. Người Việt, tan tác như một đàn gà mất mẹ,
nương thân trên khắp nẻo đường thế giới, mang theo những kỷ niệm quê hương,
mang theo mùi nước mắm, mùi sầu riêng, mùi phở, mang theo thiếng hát TCS.
Tôi đã nghe TCS qua tiếng
hát nhừa nhựa khói thuốc của Khánh Ly, tiếng hát thánh thót, không có tuổi của
Thái Thanh, tiếng hát truyền cảm của Lệ Thu , và rất nhiều tiếng hát vô danh.
Tiếng hát của những người sống ở ngoại quốc nhưng chỉ nói tiếng Việt, của những
người thuộc thế hệ sau này, hát TCS với một thứ tiếng Việt pha giọng Mỹ, giọng
Pháp, giọng Đức. Tôi đã nghe tiếng hát TCS vọng ra từ những căn nhà ở New-york,
Tokyo, Budapest, Athène hay Palerme…
Một buổi chiều tàn, trong
một bìa rừng ở Brésil, cách Rio de Janeiro hàng ngàn cây số, một nơi khỉ ho cò
gáy, tưởng như không có hơi người, tôi nghe một giọng khàn khàn vọng ra từ một
căn nhà gỗ. Mưa vẫn mưa bay, trên tầng tháp cổ. Dài tay em với những
thoáng mây bay (3)…Người hát là một ông già gốc Ấn Độ, sống ở Việt nam từ
nhỏ. Vượt biển, thuyền đắm, ông già đươc tầu Ba tây vớt, ở lại Ba tây, làm nghề
canh rừng. Suốt ngày, lủi thủi một mình, tháng năm dài đằng đẵng, ông già Ấn mơ
đến những cơnmưa trên tầng tháp cổ ở một xứ ông đã nhận làm quê
hương.
Một ngày ở ngoại ô La
Havane, Cuba, trong một quán cóc trên bờ biển, tôi nghe một giọng hát đàn bà,
rất trong, rất ngọt từ trong bếp vọng ra. Ngày gió lớn, tai nghe môi gọi
thầm. Gọi tên em, tên Việt nam , trong tiếng nói da vàng. Ngươi hát là một
bà Bắc kỳ, từ Hà nội tới Cuba, trong một chương trình hợp tác gì đó giữa hai
nước xã hội anh em , có lẽ đã mệt nhoài sau nhiều năm thề ăn gan uống máu
quân thù .
Tác phẩm TCS đã đi sâu
vào tâm hồn dân tộc. Nước ta có trên 80 triệu dân. Trừ trẻ con và những người
không biết đọc, biết viết, có khoảng 50 triệu người làm thơ. Sư thực, không cần
phải biết đọc, biết viết mới biết làm thơ : tác giả những câu thơ đẹp nhất
trong văn chương Việt nam–ca dao-là những người nông dân không biết đọc biết
viết . Trong số 50 triệu người làm thơ, mỗi thế hệ cho vài ba thi sĩ. Những thi
sĩ đi sâu vào tâm khảm đám đông, gặp gỡ tâm hồn một dân tộc còn hiếm hoi hơn
nữa. TCS thuộc cái số hiếm hoi đó.
SAIGON ,NHỮNG NGÀY XÁO
TRỘN
Tiếng hát TCS đến với Sài
gòn vào những năm 60, ở trường đại học Văn khoa Sàigon , nằm trên góc đường Gia
Long-Nguyễn trung Trực, ngay trung tâm thành phố.
Sơn ở Bảo Lộc trôi giạt
về , lai vãng thường xuyên vì cái sinh hoạt trẻ ở đó rất náo nhiệt. Trường đang
rục rịch di chuyển một phần về cơ cỡ mới gần sở thú Sài gòn vì số sinh viên
tăng rất nhanh, trường cũ không đủ chỗ. Văn khoa là trường đông sinh viên nhất
ở Việt nam . Xa rồi, cái trường Văn khoa đầu tiên ngoài Bắc , do giáo sư Cao
xuân Huy sáng lập năm 1949 , với số sinh viên vẻn vẹn có bẩy người, gọi là thất
hiền. ( 4 ).
Trường di chuyển, nhiều
gỉảng đường bỏ trống. Gọi là giảng đường cho sang, sự thực đó chỉ là những căn
nhà tiền chế.Tất cả những gì gọi là sinh hoạt văn hoá xã hội của giới trẻ Sai
gòn kéo về, chiếm đóng những căn nhà tiền chế. Một phần dành cho Phong trào Học
đường Phục Vụ Xã hội, một phần cho Hội Hoạ sĩ Trẻ, đoàn văn nghệ Nguồn Sống.
Phần còn lại, một số sinh viên chúng tôi tịch thu làm nơi tâp trung, hội họp.
Hồi đó ngươi ta tự hào thuộc giới trẻ , có lẽ vì thất vọng với những gì ‘’lơp
già ‘’ để lại. Gia tài củamẹ để lại cho con, gia tài của mẹ, một
nươc Việt buồn. Hoạ sĩ trẽ, nhạc sĩ trẻ, ca sĩ trẻ… quên rằng người ta sớm
muộn gì cũng …già. Các cụ trong nhóm làm văn nghệ ngày nay đa số là những người
trẻ ngày xưa ở sân trường Văn khoa.
Phải sống ở Văn khoa
những ngày ấy mới thấy sinh hoạt văn nghệ , sinh hoạt xã hội là một nhu cầu
thiết yếu của tuổi trẻ, và nếu có cơ hội , sinh hoạt ấy bùng lên, tuổi trẻ bùng
lên, đất nước không còn là một nước Việt buồn
Sống ở đó rất tiện : Văn
khoa nằm ngay trung tâm thành phố, đi vài bước là tới những tiệm cà phê nổi
tiếng trên đường Catinat, Ciné Lê Lợi, vài bước tới Khai Trí, tiệm sách lớn
nhất Sài gòn, tha hồ đọc sách cọp. Ông chủ Khai trí là một người mê sách, muốn
phát triển văn hoá, ông ấy khuyến khích sinh viên đọc sách cọp. Nhà cửa điện
nước đều của chùa, rất tiện , trong khi hầu hết chúng tôi đều nghèo kiết xác,
từ những ông hoạ sĩ trẻ, những ông văn nghệ sĩ có tiếng nhưng không có miếng ở
đất nươc của Tản Đà ( văn chương hạ giới rẻ như bèo ), những ông ký giả
đầu tháng đã hết lương, những ngày cuối tháng khó khăn, nhất là 30 ngày cuối
tháng (Coluche) (5), đến đám sinh viên trong đầu đầy những mộng đổi đời ,
dời núi và trong túi không có đủ tiền uống một ly cà phê.
ĐẠI BÁC ĐÊM ĐÊM VỌNG VỀ…
Từ 1963, sinh hoạt giới
trẻ Sài gòn cực kỳ náo nhiệt. Chúng tôi sống ở ngoài đường nhiều hơn ở trong
nhà hay trong lớp học. Hết biểu tình, hội thảo chống đàn áp Phật giáo dưới thời
ông Diệm, đến hội thảo, biểu tình chống các chính phủ thi nhau lên xuống .
Xuống đường trở thành một
sinh hoạt thường nhật. Giữa những cuộc biểu tình, những buổi hội thảo, thỉnh
thoảng ghé vào giảng đường học vài chữ cho phải phép. Đó là giai đoạn giới trẻ
tham gia tích cực vào đời sống chính trị xứ sở. Với lòng nhiệt thành, và cố
nhiên với đôi chút ngây thơ. Ngây thơ tin vào sức mạnh vạn năng của tuổi trẻ,
nhất là khi thấy chỉ vài buổi xuống đường cũng đủ lật đổ một chính phủ, một ông
tướng, một chính khách. Quên rằng trong cái hỗn loạn của đất nước, người Việt
chỉ là những quân cờ thí.
Trước tết Mậu thân, lớp
trẻ Sài gòn còn tin tưởng, chưa hoàn toàn mệt mỏi, tuyệt vọng. Những ngày đầu
thập niên 60, chiến tranh chưa thưc sự len vào thành phố , mặc dù hàng ngày vẫn
đọc trên báo những cuôc đụng độ nẩy lửa ở Pleiku, Cà mau, Đồng Xoài, Bình giã .
Thỉnh thoảng chứng kiến
những vụ pháo kích ; thỉnh thoảng họp nhau, nhậu vài két la de , lạc rang, củ
kiệu, tiễn một người bạn lên đường nhập ngũ. Chiến tranh còn ở xa, đại bác
đêm đêm vọng về, người phu quét đường dựng chổi đứng nghe.. Dân Sài gòn
chưa thấy tận mắt những xác người nằm chết như mơ, những xác người nằm
dưới mái sân chùa, trên góc đường thành phố,
Sinh hoạt trẻ Sai gòn ồn
ào , sinh hoạt trẻ Văn khoa còn náo nhiệt hơn nữa. Bên cạnh những hoạt động
chính trị, những cuộc xuống đường, còn rất nhiều những đêm không ngủ, những hội
Tết, những đêm văn nghệ Nguyễn Đức Quang, Nguồn Sống, những ngày túi bụi làm
báo Xuân, nguyệt san Đối Thoại.
Ở đó, ( và ở trụ sở Tổng
hội Sinh viên SG ), Phạm Duy ra mắt trường ca Mẹ Việt nam , Vũ thành An ra mắt
bài hát đầu tay.
Chúng tôi, tuổi 20 , kề
vai nhau nghe Lệ Thu ru ngủ đi em, mộng bình thường, ru em sẵn tiếng thuỳ
dương đôi bờ , nghe Thái Thanh ca tụng mẹ Việt nam không son không phấn
, mẹ Việt nam chân lấm tay bùn; và thực tình xúc động với cái viễn ảnh Việt
nam quê hương đất nước sáng ngời . Cái viễn ảnh ấy, trong những đêm không
ngủ, tựa vai nhau, chỉ nghĩ lại cũng đã muốn khóc. Trước cái trống rỗng của
hiện tại, và cái lo lắng cho một tương lại mù mịt, người ta ngồi sát lại nhau ,
ngưới ta nắm tay nhau, xin chờ những rạng đông. Những câu hát đẹp như
thơ của Sơn đã đi thẳng vào lòng người, thấm từng thớ thịt.
Phong trào hoạt động xã
hội cũng phát triển rầm rộ. Ảnh hưởng của phong trào thanh niên chí nguyện quốc
tế của Kennedy, những hội đoàn như CPS, Thanh Niên Thiện Chí, Thanh Niên Chí
Nguyện vv … mọc ra như nấm. Tuổi trẻ tích cực tham gia nhũng cuộc cứu lụt ngoài
Trung, cải trang những xóm nghèo ở thành phố, leo lên những làng Thượng dạy
học, đào giếng, chữa bệnh. Có anh tham dự những ngày cuối tuần, có anh bõ học ,
hoạt động hai ba tháng, nhiều khi cả năm. Đó là một tuổi trẻ còn đầy lý tưởng,
còn yêu đời, yêu người, còn đầy tình người trong mạch máu, ngày sau sỏi đá
cũng cần có nhau.
Điều đó chứng tỏ tuổi trẻ
rất tha thiết dến dân tộc, sẵn sàng đóng góp cho đất nước. Nếu họ thờ ơ với đất
nước như người ta than phiền, lỗi không phải ở họ : người ta đã không tạo cơ
hội cho tuổi trẻ tham gia. Họ bị gạt ra ngoài lề. Đất nước không còn là đất
nước của họ. Họ đã được nhào nặn để trở thành những cái máy vô cảm. Bởi vì
những cái máy vô cảm là những viên gạch xây dựng chế độ độc tài.
ĐƯỜNG PHƯỢNG BAY
TCS đên với Văn khoa trong
bối cảnh đó. Sơn không phái sinh viên VK ; anh ở Huế vào, đúng ra là từ Bảo Lộc
tới, bỏ học vì hoàn cảnh gia đình.
Những đêm trăng, chúng
tôi ngồi trên baĩ cỏ trước quán Văn, nghe Sơn đàn, nghe Khánh Ly hát. Khánh Ly
sinh ra để hát TCS, cũng như Thái Thanh sinh ra để hát Phạm Duy.
Quán Văn là một ngôi nhà
tiền chế, nằm giữa sân trường VK. Một nhóm thổ công VK sửa sang lại, biến thành
môt quán cà phê, làm nơi tụ họp, gặp gỡ. Đúng là môt cái quán, đơn sơ, nhưng
đầy tình bè bạn. Giống như một cái quán ở miền quê, nơi người nông dân ghé qua,
uống một bát chè tươi, hút một điếu thuốc lào, ngâm vài câu thơ, vài câu ca
dao, tán gẫu với nhau, hay tán nhau sau nhưng giờ lao động.
Ở đó, chúng tôi khám phá
ra cái đậm đà của tình bạn, cái thi vị của những buổi hẹn hò. Ở đó đã nở ra
những mối tình, đôi khi dang dở, nhưng có nhiều cặp còn keo sơn tới ngày nay.
Quán Văn
Người nhỏ bé, gầy gò , ăn
nói nhỏ nhẹ, ôn tồn ( tôi chưa hề thấy một TCS giận dữ, gây gổ ). Sơn trở thành
bạn của mọi người một người một cách rất tự nhiên.
Đôi mắt tinh anh, láu
lỉnh, nụ cười hiền lành như một thầy tu, Sơn có cái phong thái của một thi nhân,
cái khiêm tốn của một người có thực tài. Từ cách nâng ly uống một ly rượu, tiếp
truyện với bạn bè, cách trang phục, giản dị nhưng trang nhã, cái phong thái thi
nhân ấy hiện diện ở Sơn, thường trực , tự nhiên.
Đừng tưởng ông thi sĩ nào
cũng có phong thái thi nhân. Sartre nói về Heidegger , một triết gia hàng đầu
mà chính ông chịu nhiều ảnh hưởng : ‘có những người, ta chỉ nên biết tác phẩm,
không nên biết đến con người, nếu không muốn thất vọng ’. Heidegger là một
triết gia lỗi lạc, lai cũng là ngươi theo chủ nghĩa nazi. Tôi đã quen
những ông thi sĩ, tác giả những câu thơ rất đẹp, ăn uống , cư xử như một con
heo đực. TCS ở ngoài đời rất giống TCS người ta tưởng tượng khi nghe những bản
nhạc tình của anh.
Chúng tôi, mới đầu, ngạc
nhiên thấy một gã người Huế, rất thanh nhã, rất ung dung , từ tốn; không phải
cái từ tốn của một ông già, mà là cái ung dung quí phái của một con mèo; với nụ
cười hiền hoà thường trực trên môi. Sơn học chương trình Pháp, nhưng xử dụng
tiếng Việt một cách tài tình.
Nhiều chữ rất tầm thường,
với Sơn, chợt trở nên truyền cảm ; nhiều chữ do Sơn bịa ra, nhiều hình ảnh đến
từ một trí tưởng tượng phong phú, nếu không nghe Sơn giải thích , chắn chắn
không ai hiểu. Mặc dù vậy, người ta cũng vẫn rung động, vẫn thấy cái Sơn nói
đến rất thực, rất gần gũi. Đó là cái ma lực của chữ nghĩa , của thơ. Khi thơ
đạt, khi chữ nghĩa có duyên nợ với nhau. Nhiều chữ, nhiều câu rất cũ, đôt nhiên
ở Sơn trở thành rất mới. Nhiều chữ nhiều câu rất cầu kỳ, đột nhiên gần gũi. Khi
thất tình - người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ-, khi tuyệt vọng
, mùa thu không về, mùa xuân cũng ra đi, ngay cả khi nói đến chiến tranh
tang tóc , xác người nằm chết như mơ, TCS không lúc nào quên mình là thi
sĩ. Những bài hát của Sơn là những chansons à texte, là những bài thơ,
như những bài hát của Jacques Brel hay Bob Dylan, không phải chỉ là những điệp
khúc ngớ ngẩn anh yêu em, em nhớ anh như hầu hết các nhạc phẩm hiện đại.
TCS nói về những cái rất
riêng tư, những kỷ niệm rất riêng tư, qua một ngôn ngữ rất riêng tư. Và lạ
lùng, cái riêng tư ấy của thi sĩ thấm vào lòng người nghe . Người ta xúc động
mặc dù không hiểu từng câu, từng chữ. Nhất là trong những bản nhạc tình. Nói về
chiến tranh, ngôn ngữ TCS là ngôn ngữ của mọi người ; chiến tranh là một tai
hoạ chung, một thảm kịch của cả một dân tộc, không phải là thảm kịch của một cá
nhân, mặc dù mỗi cá nhân là một thảm kịch.
Một người bạn tôi nói khi
nghe Sơn hát đường phượng bay mù không lối vào, thấy hình ảnh rất đẹp,
rất mới , nhưng không biết tác giả nói gì, cho đén một hôm, ở một tỉnh nhỏ, anh
ta thấy hoa phượng rơi, bị gió cuốn mịt mù, đỏ rực cả con đường trước mắt,
đường phượng bay mù không lối vào.
Nếu không quen Sơn, ít ai
biết ngày mai nối bước Sơn khê,nói đến một người bạn gái tên Khê ; ngàn
cây thắp nến hai hàng, mầu nắng bây giờ trong mắt em mô tả những tia nắng
cuối cùng của một buổi chiều tà đọng trên những ngọn cây, giống như ngàn cây
thắp nến. (6)
Ngôn ngữ TCS khác với
ngôn ngữ Phạm Duy (PD). Ngôn ngữ PD là ngôn ngữ ca dao. Hình ảnh của PD là hình
ảnh của ca dao. Nhiều câu,nhiều hình ảnh trong nhạc PD không hiểu là của PD hay
mượn từ ca dao. Đó không phải một lời chỉ trích ; đó là một lời ca ngợi. Bởi vì
dùng ngôn ngữ của một dân tộc, nói lên tình tự của dân tộc không phải ai cũng
làm được, là một điều rất đáng tự hào
Lời ca của PD ai cũng
hiểu, hình ảnh của PD ai cũng đã từng thấy, vì trong tiềm thức, chúng ta đã
sống với ca dao từ bốn ngàn năm nay.
Trong môt bài báo ngày
xưa ở trong nưóc (7), tôi viết tiếng hát Thái Thanh không có tuổi, vì đã làm
say mê ba thế hệ. Tôi nghĩ thêm : tiếng hát Thái Thanh qua nhạc PD không có
tuổi vì chúng ta vẫn nghe từ hàng ngàn năm . Tiếng hát ấy gợi ra trong đầu
người nghe những cánh đồng lúa xanh, tiếng cười rúc rích cúa cô thôn nữ, những
làn khói lam trên những mái nhà tranh, tiếng chuông chùa ngân nga, tiếng hò hát
cũa người nông dân những ngày được mùa, tiếng nghẹn ngào của bà mẹ mù mắt chờ
con đi chinh chiến, tiêng than vãn của những đời lầm than, đen tối, tiếng nức
nở của bà mẹ đi tìm xác con bị giặc chặt đầu. Bạn sẽ ít xúc động hơn khi nghe
Thái Thanh, nếu chưa thây những đồng luá xanh mùa gặt, chưa thấy khói lam chiều
trên nóc nhà tranh ..
PD sống với ca dao, thở
với ca dao, cười khóc bằng ca dao. Ít có người Việt nam nào Việt nam hơn PD. Có
lẽ có một người : Nguyễn Bính. Nguyễn Bính là ca dao, ca dao là NB .
HAI NGHỆ SĨ,HAI CUỘC
CHIẾN
Trên bãi cõ trường VK, trước
quán Văn, TCS và Khánh Ly hát trước hàng ngàn người hay chỉ năm, bẩy anh em.
Không phái chỉ hát cho tình yêu. Sơn càng ngày càng bị ám ảnh bởi chiến tranh.
Từ hình ảnh lãng mạn cùa người phu quétđường dựng chổi đứng nghe, chiến
tranh trở thành cụ thể hơn, ghê rợn hơn :
Một buổi sáng mùa xuân
Một đứa bé ra đồng
Một trái mìn nổ chậm
Xác không còn đôi chân.
Nhạc tình TCS là những
tiếng thở dài , có buồn cũng chỉ buồn thoang thoảng : mùa đông vời vợi , mùa
hạ khói bay, có trách cũng chỉ trách nhẹ nhàng : người tình bỏ ta đi ,
như những giòng sông nhỏ. Một thái độ rất thiền, rất ‘zen’ ; trên hai
vai ta đôi vầng nhật nguyệt, rọi xuống trăm năm một cõi đivề.
Nói về chiến tranh, TCS
kêu gào, phẫn nộ. Chiến tranh không còn từ xa vọng về như những ngày đầu, nó sờ
sờ trước mắt : Xác người nằm trôi sông, phơi trên ruộng đồng, trên nóc nhà
thành phố , trên những đường quanh co.
Cùng với cuộc chiến càng
ngày càng dữ dội , tiêng kêu gào của Sơn càng ngày càng thảm thiết. Sơn nói đến
những em bé loã lồ, suốt đời lan
g thang, đến những xác người nằm bơ vơ,
dưới mái hiên chùa, đến những trái mìn nổ chậm , người chết hai lần.
Chiến tranh trở thành khốc liệt, tang tóc đổ xuống dân tộc kinh hoàng . Từng
vạn chiếc xe , claymore lựu đạn. Hàng vạn chuyến xe mang vô thị thành. Từng
vùng thịt xương , có mẹ có em. TCS của chiến tranh trở thành một người dở
điên, dở dại, thất thểu , chiều đi trên đồi cao, hát trên những xác người. Hình
ảnh bi thảm, ma quái . Một thi sĩ thất thểu trên bãi dâu, hát bên những xác
người . Đi trên đồi cao, bên cạnh xác người, là một hình ảnh bi thảm, nhưng hát
bên những xác người, hình ảnh mang thêm một cái gì ma quái , điên dại. Điên dại
như những con ngựa hí điên cuồng trong tác phẩm về chiến tranh, Guernica, của
Picasso.
Ngôn ngữ TCS về chiến
tranh khác với ngôn ngữ TCS về tình yêu. Chiến tranh trong nhạc TCS cũng khác
chiến tranh trong nhạc Phạm Duy (PD)
PD có ‘’ cái may ‘’ sống
trong một cuộc chiến tranh chống Pháp, có địch, có thù, chiến tuyến phân minh.
PD, 24 tuổi lên đường
tham gia kháng chiến,như hàng ngàn hàng vạn thanh niên khác. Chiến tranh trong
nhạc tiền chiến của PD nó hào hùng, nó bừng bừng khí thế. PD tiền chiến không
có cái cấu xé, cái dằn vặt. Cái chọn lưa của PD nó hiển nhiên. Nhạc PD không có
cái lưỡng lự, nó là một tiếng quân ca, tiếng gọi lên đường. Bên cạnh cái hào
hùng là cái lãng mạn của một trí thức tiểu tư sản ở tuổi 20 , của một nghệ sĩ
giầu tình cảm. Đó là cuôc chiến của những cô nàng gánh lúa cho anh đi diệt
thù, của những chiến sĩ dừng chân trên chiếc cầu biên giới tưởng tới
người yêu ở quê xa.
Điều đó không có nghĩa là
trong nhạc PD không có cái bi thảm của chiến tranh. Nhạc PD có bà mẹ Do Linh
lên đường đi kiếm xác con bị giặc chặt đầu, có bà mẹ đón người con thương binh
trở về , tiếc rằng ta đôi mắt đã loà vì quá đợi chờ .PD nói ông làm tới
ba bài người thương binh vì ông sống qua ba cuộc chiến.
Tác giả Con Đường Cái
Quan nói ông khác xa những nghệ sĩ khác thờ tiền chiến vì họ chỉ làm nhạc hùng
; trong khi ông nói cả đến cái bi thảm của chiến tranh. Nhưng cái tàn phá của
chiến tranh, cái thảm hoạ đổ lên đầu dân tộc càng khiến PD thấy cuộc chiến
tranh của mình có ý nghĩa hơn. PD thuộc những người, như Malraux nói, không
thích chiến tranh- bởi vì có những người thích chiến tranh, coi đó là lẽ sống-
nhưng tham chiến một cách dứt khoát vì là chuyện phải làm.
Cuộc chiến của TCS khác,
cái nhìn của TCS khác. Đối với Sơn,đó chỉ là một cuộc nội chiến tương tàn. Nạn
nhân là nước Việt,nười Việt :
Hàng vạn tấn bom trút
xuống ruộng đồng
Cửa nhà Việt nam cháy đỏ
cuối thôn
Lật xác người chết, chỉ
thấy đồng bào,cha mẹ ,anh em :
Bên xác người già yếu
Có xác còn thơ ngây
Xác nào là em tôi
Dưới hầm hố này
Trong vùng lửa cháy
Bên những vườn ngô khoai
Những câu hát làm người
ta nghĩ đến chiến tranh của Quang Dũng :
Mẹ già tôi em có gặp đâu
không
những xác già nua ngập
cánh đồng
tôi cũng có đàn em nhỏ
dại
bao nhiêu rồi xác trẻ
trôi sông
Ngay cả ở cùng một thời
điểm, cái nhìn về chiến cuộc của hai nhạc sĩ cũng khác nhau.
Với TCS, đó là một cuộc
nội chiến mà người Việt nam là nạn nhân. Với PD , đó là cuộc chiến Quốc Cộng
nối dài, mặc dù sau này, PD, vì một lý do cá nhân, đã vứt bỏ cái hình ảnh của
một nghệ sỉ dấn thân, bỏ rơi vai trò thần tượng của một thế hệ để đóng vai trò
‘hàng thần lơ láo ’
Ca ngợi cái chết của môt
phi công-Phạm Phú Quốc -PD gọi tên anh, anh là Quốc. Gọi tên anh, anh là
nước. Đặt tình yêu nước vào nôi
Viết cho một phi công khác
tử trận, TCS không nói đến chiến công, không ca ngợi anh hùng, chỉ nói đến một
kiếp người : anh đã đến, đã bay cao trong vòm trời này, đã vui chơi trong
cuộc đời này.
Trong bài « Em hỏi anh
bao giờ trở lại “ PD viết anh trở về bại tướng cụt chân. Nếu Sơn là tác
giả, tôi nghĩ chắc Sơn viết anh trở về vì đã cụt chân. Đối với Sơn,
không có chiến có bại ; chỉ có người Việt nam bị cuốn hút vào một cuộc chiến
tương tàn. Nếu chưa bị cụt chân thì còn đánh nhau. Đó là một cái nhìn cực kỳ bi
đát về cuộc chiến.
Trong cuộc chiến ấy, TCS
không có chỗ đứng.
Người Cộng sản, có thể đã
lợi dụng, nhưng không chấp nhận anh là chuyện đương nhiên. Với người CS không
có chuyện lưng chừng, lưỡng lự, phân vân. Những người không hoàn toàn theo họ
là những kẻ thù.
Những người chống Cộng lên
án Sơn đã trở cờ. Nhưng đọc kỹ những lời ca anh viết sau 75 ,không thấy một lời
ca chứng tỏ anh về hùa, tâng bốc nhà cầm quyền. Nó vẫn chỉ là những lời ca ngợi
tình yêu ; kêu gọi tình anh em, nghĩa đồng bào. ''
Nối vòng tay lớn '' có
thể là chuyện ngây thơ, hay vô duyên, vô trách nhiệm, trong lúc một nửa nước
tìm đường chạy trốn CS, nhưng không ra khỏi ngôn ngữ của một nghệ sĩ.
Không hề thấy anh hô hào
thù hận, như Xuân Diệu chẳng hạn, khi ‘ nhà thơ của tình yêu ’ ( ! ) kêu gọi
đấu tố năm nào :
Lôi cổ bọn chúng ra đây
bắt quỳ gục xuống, dập
đầu chết thôi
bắt chúng đứng, cấm cho
ngồi…
Còn nhạc gọi là phản chiến
trươc 75 ? TCS chỉ làm công việc của một nghệ sĩ : diễn tả cái thảm kịch của
chiến tranh, cái đoạ đầy của mộ dân tộc. Ai không chia sẻ giấc mộng của Sơn : khi
đất nước tôi không còn giết nhau, trẻ em đi hát đồng dao ngoài đường.
Một câu hỏi đáng được đặt
ra : TCS có ảnh hưởng xa gần dến việc miền Nam thua trận ? Có thể. Rất có thể.
Một người lính xúc động vì hàng vạn tấn bom trút xuống ruộng đồng ; từng
vùng thịt xương có mẹ có em chắc chắn không chiến đấu hăng say bằng những
người cuồng tín. Một người lính than vãn ‘ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè,
ngựa hồng đã mỏi vó, chết trên đồi quê hương’, chắc chắn không hữu hiệu
chém giết bằng một người lính suốt đời chỉ đưọc dạy ăn ganuống máu
quân thù. Một quân đội suốt ngày nghe ( trên dài phát thanh nhà nước ! )
những câu người già co ro, buồn nghe tiếng nổ. Em bé loã lồ, khóc trẻ thơ
đi, chắc chắn không xả súng tưng bừng bằng một cán bộ suốt đời chỉ biết vực
sâu thăm thẳm, vực nào sâu bằng chí căm thù.( Hò Kéo Pháo )
Nhưng nếu cuộc tranh đấu
cho tự do, dân chủ của miền Nam có ý nghĩa, cái ý nghĩa ấy chính ở chỗ nó cho
phép mọi người, trong đó có nghệ sĩ, được tự do diễn đạt tư tưởng của mình . Đó
là cái đẹp và cũng là chỗ yếu của một chế độ dân chủ, ngay cả dân chủ tương đối
, dân chủ tập sự . Năm người mười ý, trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. Đó cũng
là lẽ sống của một nền dân chủ. Cái giá phải trả ; bởi vì không có chọn lựa nào
khác. Nói theo kiểu Winston Churchill : dân chủ là chế độ dở nhất , nếu không
kể các chế độ khác (8)
Khó trách người nghệ sĩ
bày tỏ sự rung động của mình trước cái đau thương của đồng bào. Ngay cả Phạm
Duy, tác giả bài ca tụng Phạm phú Quốc, người đã tử nạn trong chuyến oanh tạc
Hà nội, gọi tên anh anh là Quốc, gọi tên anh là nước, gọi tình yêu nước vào
nôi, cũng đã kêu giết người đi thì ta ở với ai ? Khó trách nghệ sĩ
bày tỏ sư rung động của mình.
Ai gây ra chiến tranh, ai
là nguyên nhân của nồi da xáo thịt, giải thích chuyện đó là chuyện của chính
trị gia, của tâm lý chiến. Cái điều lạ, cái cảnh khó tin nhưng có thực , là
những đêm không ngủ chống chiến tranh ở Văn khoa ngày xưa diễn ra ngay ở trung
tâm Sài gòn, với …cảnh sát , quân đội giữ an ninh chung quanh sân trường. Nếu
TCS sống ở miền Bắc, chắc chắn anh đã bỏ mạng trong trại cải tạo, và chúng ta
không có Diễm xưa, Tuổi đá buồn.
Nhiều người trách cái
ngây thơ chính trị của TCS, oán cái thái độ ‘nối vòng tay lớn’ vô ý thức của
Sơn những ngày CS chiếm miền Nam. Nhưng cái ngây thơ chính trị của nghệ sĩ, của
trí thức là chuyện rất phổ thông. Chỉ cần nêu trường họp Jean Paul Sartre, suốt
đời hô hào ủng hộ cách mạng vô sản, nhắm mắt trước cái dã man , chà đạp nhân
quyền trong những goulag. Chiến tranh, chính trị phức tạp hơn là tình cảm của
nghệ sĩ.
Chẳng hạn, TCS day dứt về
‘thân phận da vàng ’, đến kiếp nô lệ da vàng , hết tiếng nói da vàng đến dư
khúc da vàng . Làm như cái bất hạnh của dân tộc nằm trong cái nghiệp sinh ra từ
mầu da, quên rằng nhiều dân tộc khác, cũng vàng khè không thua gì người An nam
ta , đang tiến nhanh, tiến mạnh. Nhật Bản đã làm Tây phương thất điên bát đảo
trên mọi phương diện, Đại hàn trở thành một cường quốc, Trung Hoa sẽ là một
trong hai lãnh tụ thế giới, và những nước phát triển nhất trên địa cầu, Đài
Loan, Singapore là những nước da vàng.
Một triết gia nói : ‘có
hai loại người , những người chấp nhận làm nô lệ và những người không chấp
nhận’. Vàng, xanh ,trắng, đỏ không liên hệ gì đến thân phận của một dân tộc.
Tôi chưa hề gặp một ngưới Nhật nào có mặc cảm da vàng. Họ không muốn thua ai,
không muốn bằng ai, họ muốn trên mọi người, đứng đầu thiên hạ, họ không biết
hai chữ thân phận, vàng hay xanh.
Những câu hát phản chiến
của TCS là những tiếng nói của tình cảm, không phải là một phân tách chính trị,
không phải những hô hào chính trị. Đó chỉ là những giọt nước mắt thương đất,
đất cằn cỗi bao năm. Đó chỉ là giọt nước mắt thương dân, dân mình phận
long đong, thoát ra từ trái tim, mặc dù những giọt nước mắt đó, vì khả năng
truyền cảm của nó, chắc chắn đã có ảnh hưởng đến chính trị, đến chiến cuộc.
Nhiều người oán đến độ
muốn cấm cả những buổi hát nhạc TCS, dù là nhạc tình. Thay vì hãnh diện vì một
chế độ đã cho phép thi sĩ làm những bản nhạc tuyệt hay, người ta muốn làm quà
tất cả tác phẩm đó cho CS, là một chế độ coi nghệ sĩ là kẻ thù , một chế độ đã
đốt sách , hành hạ người cầm bút.
Cái khác giữa miền Nam
với miền Bắc : miền Nam có TCS, có PD, có không biết bao nhiêu nghệ sĩ đi tìm
cái đẹp, ca tụng tình người. Trong khi đó, miền Bắc đã biến tác giả của ‘ tôi
khờ khạo quá , ngây thơ lắm. Chỉ biết yêu thôi, chẳng biết gì ’ của ‘những
người con gái buồn không nói. Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì ?’ ( Xuân Diệu )
thành một anh khát máu , ‘lôi cổ bọn chúng ra đây..’ . Biến tác giả của ‘Rặng
liễu đìu hiu đứng chịu tang. Tóc buồn rơi xuống lệ ngàn hàng’ , của con
nai vàng ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô ( Lưu Trọng Lư ) thành một ông điên
cuồng đấm ngực, ca tụng tên độc tài khát máu Bắc Hàn : tay dong tay, thét nổ
mặt trời. Lời cất vọng tung cao : Kim Chủ tịch…hay trơ trẽn hò hét man rợ :
Còn hẹn với anh Hồng Quân yêu quí. Giết, giết nữa, bàn tay không chút
nghỉ…Cho Đảng bền lâu, rập bước chung lòng. Thờ Mao Chủ Tịch, thờ Xít Ta Lin
bất diệt. Cái đẹp sẽ cứu vãn nhân loại. Cái đẹp không phải chỉ là cái đẹp
của nghệ thuật. Còn là cái đẹp của một xã hội trong đó con người sống tử tế với
nhau, không đòi chém giết, không hành hạ nhau, không làm nhục nhau, không gào
‘lôi cổ bọn chúng ra đây ’
Dù thái độ chính trị của
họ không như ý mọi người, tác phẩm của PD, của TCS vẫn là sản phẩm văn hóa của
miền Nam. Ở Đức, Heidegger là một triết gia có tư tưởng nazi, có tội ác với
nhân loại, nhưng tác phẩm của ông vẫn được giảng dạy, nghiên cứu, trọng vọng.
Bên Pháp, Céline đã cộng tác với phát xí Đức, bị kết án phản quốc, nhưng tác
phẩm của ông vẫn được ấn hành, ca tụng , tác giả của Voyage au bout de la
nuit vẫn được coi là một trong ba nhà văn đáng kể nhất của văn chương Pháp
thế kỷ 20. Người ta, kể cả người Do Thái, vẫn xếp hàng mua vé nghe Lucchini đọc
văn Céline.
Người ta biết phân biệt
tác giả và tác phẩm. Có thể đả kích tác giả, nhưng tẩy chay tác phẩm, nhất là
những bản nhạc tình ? .Người ta không dại gì đổ nước tắm, đổ luôn đứa nhỏ trong
chậu nước (9). Đó là một thái độ văn hóa trưởng thành.
Hãy nhìn Do Thái. Thù
trong giặc ngoài, cả lịch sử là lịch sử chiến tranh. Mặc dầu vậy, sinh hoạt văn
hóa Do Thái xứng đáng là một nước dân chủ kiểu mẫu. Nghệ sĩ hoàn toàn tự do.
Mặc dầu vậy, không có người Do thái nào sờn lòng. Họ biết đâu là lẽ sống
CHỮ NGHĨA ÍCH GÌ ?
Từ những năm 64, 65 chiến
tranh càng ngày càng dữ dội. Xã hội càng ngày càng xáo trộn, tình hình chính
trị càng ngày càng nát bét. Ngay cả trong bối cảnh đó, trường Văn khoa vẫn sinh
hoạt mạnh. Số sinh viên càng ngày càng đông. Ban giảng huấn đã tất tận tuỵ góp
phần vàp việc phát triển Văn khoa Sai gòn. Cố nhiên, đó chưa phải là một trường
đại học tân tiến, kiểu mẫu. Phương pháp giáo huấn còn cổ hủ, từ chương khoa cử
, chưa thực sự có đối thoại, trao đổi giữa thầy và trò. Nhưng sau này,ở đại học
Sorbonne, Paris , tôi cũng vẫn thấy cái cảnh ông thầy ngồi trên giảng đường, thao
thao bất tuyệt, đám sinh viên ngồi dưới hí hoáy biên chép.
Nền giáo dục Việt nam
thời đó hoàn toàn miễn phí , từ mẫu giáo đến đại học. Trong một nươc chiến
tranh, thực hiện một nền giáo dục hoàn toàn miễn phí là một cố gắng đáng kể.
Người ta có thể chê trách chế độ rất nhiều điểm, nhưng đó là một điểm son phải
ghi nhận. Điểm son đó là nhờ ý thức của những người có trách nhiệm, hay nhờ
truyền thống tôn trọng học vấn của một xã hội Khổng giáo ? Khổng giáo, trên
phương diện đó, có khía cạnh tích cực với xã hội VN
Điều chắc chắn : nếu
không có nền giáo dục hoàn toàn miễn phí, hầu hết chúng tôi đã bỏ học từ lâu.
Một câu hỏi luẩn quẩn
trong đầu tôi từ nhiều năm : một trường Văn khoa đóng vai trò gì trong một nước
chiến tranh ? Chữ nghĩa ích gì cho buổi ấy ?(Nguyễn Khuyến). Bên cạnh
bom nổ, thịt rơi , cái sống cái chết gần kề, có phi lý không khi ngồi đó mổ xẻ
Tứ thư ngũ kinh, phân tích tư tưởng Socrate, tìm hiểu nguồn gốc chữ nôm. Bên
cạnh cái nghèo đói của một xã hội lạc hậu, có vô nghĩa không khi ngồi đó tụng
niệm kinh điển bách gia, rung động với Lord Byron hay Beaudelaire ?.Sartre nói bên
cạnh một đứa trẻ chết đói, cuốn La Nausée không có một giá trị gì.
Câu hỏi ấy lởn vởn trong
đầu , rất nhiều năm,và tôi đã thực sự nhiều lúc hoài nghi , không tìm được câu
trả lời.
Câu trả lời, mãi sau này
tôi mới tìm ra, tình cờ. Nhờ mộ cô bạn người Pháp. Câu trả lời tên là Céline.
Một buổi chiều thứ bẩy, tôi lên phi trường đón Céline từ Sarajevo về. Céline là
một thiếu nữ thông minh, có bằng cấp cao, có chỗ làm tốt trong một đại công ty,
sống nhàn hạ trong cái xã hội hưởng thụ là cái xã hội Pháp.Weekends bay qua
Madrid hay Marakech. Mùa đông trượt tuyết ở Courchevel, mùa hè nghỉ mát ở Bali
hay Bora Bora. Tóm lại, cô nàng có đủ thứ để hạnh phúc. Nhưng thay vì hạnh phúc
, Céline lúc nào cũng tất tả ngược xuôi, mệt mỏi cả thể xác lẫn tinh thần .
Nhất là tinh thần. Rồi thuốc ngủ, thuốc an thần, hết Lexomil đến Prozac.
Một buổi, Céline dẹp hết,
bỏ việc, bán nhà, bán xe.Và biệt tăm. Adieu Céline. Cho đến cái hôm ở phi
trương, tôi gặp lặi Céline, nhưng một Céline khác, má rất hồng và miệng rất tươi.
Céline nói sau khi vứt bỏ mọi chuyện, cô nàng gia nhập một ban hợp tấu, lưu
diễn khắp nơi. Céline là một tay violon thiện nghệ, từ nhỏ vẫn mơ thành
nhạc sĩ. Céline lãnh một số lưng tượng trưng, đủ cà- phê , thuốc lá, vì ban
nhạc thường đi trình diễn ở những nước nghèo. Họ vừa ở Sarajevo về. Trình diễn
hoà tấu ở Sarajevo, nơi người ta giết nhau như ngoé, nơi người ta thí mạng để
cướp một ổ bánh mì, một cái mền ? Ở đó, người ta chờ bột mì, thịt cá, đường
muối, bột giặt, aspirine, ai chờ Beethoven với Mozazt ? Ban đầu, Céline cũng
nghĩ như vậy. Nhưng đêm trình diễn nào cũng đông nghẹt.
Trong một ngôi nhà thờ đổ
nát,một trường học còn đang cháy dở, mưa dột vì mái nhà bị pháo kích loang lổ,
người ta chen lấn nhau tới nghe nhạc. Ban ngày, người ta chạy bom, giành dựt
nhau miếng ăn, một mớ củi để sưởi .Đêm xuống, người ta kéo nhau đi nghe nhạc.
Đàn bà lục hành lý, lôi ra những nữ trang, những bộ quần áo đẹp . Có ông thắt
cà vạt chỉnh tề. Có bà vừa nghe nhạc vừa lặng lẽ khóc. Céline vừa chơi nhạc vừa
cầm nước mắt. Cô nàng vừa tìm thấy hạnh phúc. Chưa bao giờ cô nàng thấy yêu đời
như vậy, yêu mình như vậy. Lần đầu tiên, Céline thấy mình có ích. Cô ta tìm
thấy hạnh phúc của mình trong cái hạnh phúc của người khác. Y chang cái tâm
trạng chúng tôi khi đi cứu lụt, đi làm việc xã hội ngày nào.
Céline nói có thấy tận
mắt cái cảnh người ta lấy tờ báo che mưa nghe nhạc trong một ngôi nhà đổ nát ,
mới thấm thía cái câu quen thuộc : Người ta không phải chỉ sống bằng bánh
mì.(10). Ngay cả trong những lúc khốn cùng, cái đẹp, cái thẩm mỹ không phải
là một xa xỉ, vô ich. Cái đẹp sẽ cứu nhân loại, không phải Marx hay Lénine,
không phải Ben Laden hay Bush.
Cái đẹp sẽ cứu vãn nhân
loại. Người ta đã từng giết nhau, hành hạ nhau . bỏ tù nhau nhân danh tôn giáo,
nhân danh chính nghĩa, nhân dang giáo điều, nhân danh đất nước, nhân danh đồng
bào, nhân danh chân lý. Chưa bao người ta giết nhau nhân danh cái đẹp. Người ta
giết nhau vì thánh kinh, vì Coran, vì Hitler, vì Mao, vì Mác, vì Bác, chưa bao
giờ người ta giết nhau nhau vì Picasso, Beaudelaire, Nguyễn Du. Sau này, khi
giận hờn sẽ quên, những gì người ta nhớ lại về TCS là những bát hát, nhửng
câu thơ đẹp.
Ismail Kadaré nói ngay cả
trong những lúc cực kỳ khó khăn vẫn phải có thái độ nghiêm trọng đối với văn
hoá. Kadaré sinh ra, lớn lên và viết văn trong một hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, ở
một nước Cộng sản độc tài bực nhất thế giới : Albanie . Kadaré viết văn trong
một xứ kiểm duyệt khắt khe, một nước vỏn vẹn ba triệu dân,nghèo đói, người mù
chữ đông hơn người biết đọc, biết viết. Và viết bằng tiếng Albanie. Măc dầu
vậy, ông viết văn với một thái độ cẩn trọng. Ngày nay, Kadaré được coi là một
trong những nhà văn quan trọng nhất thế giới.
Nghệ thuật, cái đẹp có
công dụng gì ? Nó chẳng có công dụng gì. Nhưng đời sống không có cái đẹp sẽ
buồn tẻ biết bao nhiêu. Bức tượng của Michel Ange, bức tranh của Van Gogh không
có công dụng gì, nhưng hãy tưỡng tượng một thế giới không có Michel Ange, Van
Gogh. Hãy tưởng tượng Paris không có tháp Eiffel, New-York không Nữ thần Tự do.
Nghệ thuật không có công dụng gì, nhưng là một lẽ sống. Inutile et
Indispensable.Vô ích nhưng không thể thiếu.
Nghe cô nàng Céline kể
chuyện về những buổi trình tấu ở Sarajevo, tôi hiểu rằng trong một xứ chiến
tranh, nghèo đói, một trường Văn khoa chẳng có ích lợi thiết thực gì, nhưng nó
là cái cốt yếu cho một dân tôc còn muốn vươn lên.
ĐỜI SAO IM VẮNG
Tôi gặp lại TCS những
ngày cuối cùng của năm 1999 , khi về thăm Việt nam .Sơn ngồi trước một cái bàn
nhỏ, trong sân Hội Văn nghệ sĩ gì đó ở Sai gòn.Vẫn nụ cười hiền lành, nhưng
buồn bã, vẫn thái độ từ tốn, phong nhã, vẫn đôi kính đồi mồi nhưng trước mắt
tôi là một TCS lục tuần bịnh hoạn, mệt mỏi, mặc dầu đôi mắt vẫn sáng lên khi
nghe đến tin bè bạn. Sơn hỏi thăm tin tức về người này ở bên Tây, người kia ở
bên Mỹ. Sơn nói về những người ở lại, kẻ mất, người còn.
Bơi trong cái áo sơ mi
rộng thùng thình, Sơn nói : mình chỉ còn 39 kí. Sơn nói rượu đã tàn phá lá gan
đến độ không có thuốc gì chữa nổi. Có người sẵn sàng đưa anh đi ngoại quốc giải
phẫu gan nhưng anh từ chối. Sơn nói anh rất mệt ,nhiều khi xây xẩm mặt mày vì
bịnh áp huyết thấp (hypotension).
Vừa nói truyện, Sơn vừa
chào hỏi của những người qua lại.Nhạc sĩ lão thành Nguyễn Duy, tác giả bài Dư
Âm nổi tiéng hồi nào ở Hà nội ( đêm qua mơ dáng em đang ôm đàn mơ bao tiếng
tơ…) kể truyện đi thăm bác sĩ, chuyện thuốc men. Nhạc sĩ Trần Tiến nói về
đêm ca nhạc thành công tuần trước. Ông Vũ Hạnh lăng xăng chạy qua chạy lại hối
bài cho một đặc san kỷ niệm cuộc chiến ‘chống Mỹ cứu nước.’
Trước mặt tôi, trong cái
nóng gay gắt của Saigon, không phải là một người ngồi chờ những rạng đông. Sơn
ngồi đó, mỉm cười buồn bã. Tôi hỏi Sơn có tính đi ngoại quốc chơi một chuyến,
nhân tiện chữa bệnh, dù tôi biết Sơn đang sống những ngày tháng cuối cùng. Nếu
người nghiện rượu tiếp tục uống, dù có thuốc thánh, dù có gỉai phẫu gan cũng
không thay đổi gì. Sơn không muốn nghỉ rượu, hay không nghỉ được. Sơn nói mình
uống ít hơn trước nhiều. Sơn mỉm cười : mình sang đó, sợ các ông ấy đập mình.
Rồi tiếp : sự thực thì ở bên Pháp không có vấn đề gì, bên Pháp ít có người quá
khích ; kỳ trước mình qua Pháp, anh em đãi ngộ rất tử tế.
Sơn tiếp : nói cho đúng,
mình mệt lắm, có muốn cũng không đi được. Sơn nói, từ tốn, không lộ một chút
xúc động.
Anh đang ở một cõi khác,
những cái lăng nhăng ở cuộc đời này không liên hệ gì đến anh nữa. Nghe tôi sắp
đi Nhật, Sơn nói đến một cô sinh viên Nhật Bản làm một luận án về nhạc của Sơn,
về ngôn ngữ và chiến tranh trong nhạc TCS. Phải chờ một người Nhật nghiên cứu
về ngôn ngữ TCS !
Khi tôi ra về, Sơn đưa
cho tôi số điện thoại ở nhà riêng : ráng đến chơi, mình có chuyên muốn nói.
Tôi nghĩ Sơn muốn nói
những gì không thể nói được ở một nơi có nhiều người qua lại. Tôi ân hận vì
không có thì giờ tới nhà Sơn như đã hứa, vì phải rời Việt nam ngày hôm sau.
Tôi rời Sai gòn ngày mùng
1 tháng giêng năm 2000. Thế giới đang bước sang một thế kỷ mới. Đất nước tôi
không còn giết nhau, nhưng chuyện trè con đi hát đồng dao ngoài đường
chỉ là một giấc mơ. Mẹ già lên núi tìm xương con mình là chuyện vạn nan,
vì người ta đã san bằng nghiã trang, mồ mả, để dựng hộ, xây khách sạn.
Tôi gọi điện thoại chào
Sơn. Anh hỏi : cậu đi ngày đầu năm 2000, không sợ ‘ sự cố ’ à ? . Tôi nói, oai
hùng, sự cố nó sợ tôi chứ tôi sợ gì nó. Hồi ấy, ở Sai gòn, người ta kỵ đi máy
bay ngày đầu năm 2000 . Sơn nói , gịong buồn : nếu gặp lại X,Y cho mình gởi lời
hỏi thăm ; chắc mình không có dịp gặp lại anh em nữa. Ôi chinh chiến đã mang
đi bạn bè. Ngựa hồng đã mỏi vó chết trên đồi quê hương. Đất nước không còn
chiến tranh, nhưng trẻ em không hát đồng dao ngoài đường. Trẻ em đi đánh giầy,
bán dâm trên vỉa hè thành phố. Đàn bà bán mình cho người Tầu người Hàn lấy tiền
đong gạo.
Mỗi lần nghe nhạc TCS,
tôi nghĩ đến cái cô đơn cùng tận của người nhạc sĩ ngồi trước cái bàn nhỏ ngoài
sân, mỉm cười vu vơ với người này người kia , nhưng đầu óc ở một nơi khác. Sơn
ngồi đó, cô độc. Một mình tôi về với tôi . Đem cái cô đơn của kiếp người
nhân lên gấp mười , bạn có cái cô đơn của người nghệ sĩ, nhân lên trăm lần có
cái cô đơn của người nghệ sĩ Việt nam . Cái cô đơn của một người suốt đời ca
ngợi tình yêu, tình đồng bào –ngày mai sỏi đá cũng cần có nhau-mà cuối
cùng bị chỉ trích từ mọi phía. Sơn ngồi đó, nâng niu cô đơn từng ngày. Cuộc
đời còn nhiều đắng cay. Sơn ngồi đó, một mình, giữa nhiều người
Đời sao im vắng
Như đồng lúa gặt xong
Như rừng núi bỏ hoang
Người về soi bóng mình
giữa tường trắng lạnh câm
Cái sân chỗ Sơn ngồi đông
người qua lại, và ngoài đường xe hơi, xe gắn máy chạy loạn xà ngầu, nhưng Sơn
ngồi đó, giữa tường trắng lạnh câm.
Sơn ra đi ngày 1 tháng tư
2001, hưởng thọ 62 tuổi. Đời người như gió qua. Bên Pháp, ngày 1 tháng
tư là ngày ‘ cá tháng Tư ’( poissons d’Avril ) , ngày người ta đùa nhau
bằng những chuyện hoàn toàn bịa đặt . Báo cho một ông nhà văn hạng nhì là ông
ta vừa chiếm giải Goncourt. Thú với cô fiancée là đã có vợ với ba con,
rồi sau đó cho hay đó chỉ là những cá tháng Tư, những chuyện đùa chơi.
TCS ra đi thật hay chỉ
thả một một con cá tháng Tư ? Dầu sao, Sơn đã đến, đã vui chơi trong cuộc
đời này. Bây giờ có lẽ anh đang bay cao trong vòm trời này. Nhưng,
nhiều lúc, tôi tự hỏi có quả thật anh đã vui chơi trong cuộc đời này. Có bao
nhiêu người Việt nam đã thực sự vui chơi trong cuộc đời này ?
TỪ THỨC ( Paris, một ngày
tháng Tư )
(1) Tên người, tên sách
trong bài này ghi theo chữ Pháp
(2) Charles Trénet :
Longtemps, longtemps, longtemps /Après que les poètes ont disparu / Leurs
chansons courent encore dans les rues
(3) Những chữ in ngả
trong bài là chữ của TCS, hay những tác giả khác
(4) Cao Xuân Huy .Tư
tưởng Phương Đông. Văn Học, Hà nội ; 1995
(5) Coluche, nghệ sĩ trào
phúng Pháp ( 1944-1985 ) : Le plus difficile c’est la fin du mois, surtout
les trente derniers jours
(6) Trịnh Cung,Phan Thanh
Tâm.Thế kỷ 21.May 2001
(7) Đất Mới. Saigon 1964
(8) Churchill : La
démocratie est le pires des régimes à l’exeption de tous les autres
(9) Thành ngữ Pháp : Jeter
le bébé avec l’eau du bain, đến từ thành ngữ Anh : to throw the baby out
with the bathwater
(10) On ne vit pas que
du pain. Từ Thánh kinh : l’être humain ne vit pas seulement que de pain