Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label QGHCTranXuanThoi 2021. Show all posts
Showing posts with label QGHCTranXuanThoi 2021. Show all posts

Thursday, 7 March 2024

Quốc Học Huế 
Trần Xuân Thời 

Các trường trung học thường mang tên một danh nhân như Pellerin,

Taberd, Puginier, Pétrus Ký, Chu Văn An, Trưng Vương, Gia Long…

nhưng đặc biệt một ngôi trường tọa lạc tại đất thần kinh, biểu tượng cho

nền giáo dục quốc gia mệnh danh là “Trường Quốc Học” (Collège

National) sánh với danh xưng “Quốc Học Viện” vào đời nhà Trần…Quốc học, trường trung học đầu tiên của Việt Nam được thành lập năm

1896, năm Thành Thái thứ 8. Tên trường “Quốc Học” cũng thăng trầm theo

vận nước nổi trôi. Năm 1907, chính phủ bảo hộ Pháp đã ép Vua Thành

Thái thoái vị và phong Vua Duy Tân lên kế vị. Năm 1916 Vua Duy Tân bỏ

kinh thành theo nghĩa quân kháng chiến chống Pháp. Người Pháp phong

Vua Khải Định kế vị Vua Duy Tân. Vua Khải Định băng hà năm 1925. Vua

Bảo Đại nối ngôi và muốn vinh danh tiên đế nên đổi tên trường Quốc học

thành trường Khải Định. Sau năm 1954 trường được đổi tên là Trường

Ngô Đình Diệm, nhưng đến năm 1956, dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, châu

lại về hiệp phố, danh xưng Quốc Học lại trở về với mái trường xưa.

Quốc Học đã đào tạo biết bao nhiêu nam thanh, nữ tú phục vụ trong mọi

ngành sinh hoạt của quốc gia. Năm nay, lễ kỷ niệm 128 năm (1896-2024)

Quốc Học không những sẽ diễn ra tại miền sông Hương núi Ngự, chốn cố

đô nghiêm mật mơ màng mà sẽ được cử hành khắp năm châu bốn bể vì

ngày nay đâu đâu cũng in hình dấu vết của cựu học sinh Quốc Học.

Nếu quan niệm gặp nhau là một cơ duyên, vào chung trường, ngồi chung

lớp là một sự tiến bộ và cùng tốt nghiệp ra trường là một sự thành công thì

những cựu học sinh tốt nghiệp Quốc Học đều đã công thành danh toại.

Tôi còn nhớ vào năm 1958, khoảng cuối hè và đầu thu, tôi nạp đơn vào

lớp Đệ Tam Quốc Học. Như truyền thống đã định, tất cả ứng viên phải trải

qua một kỳ thi nhập học. Tôi không nhớ đã thi những môn gì nhưng đây là


một loại "contest” đã loại một số học sinh không được nhận vào ngôi

trường nổi tiếng nầy.

Năm Đệ Tam là năm học tà tà, dưỡng sức cho năm đệ nhị chuẩn bị xông

pha trường thi trận bút. Năm Đệ nhị “tình hình chiến sự” có vẻ gây cấn

hơn, chẳng những phải “gạo” bài cho đệ nhất và đệ nhị lục cá nguyệt mà

còn phải học kỳ cho kỳ thi Tú tài I cuối năm. Thường thường tôi dùng 2/3

thì giờ để học bài thầy giảng trong chương trình và 1/3 đọc thêm những gì

không được giảng dạy nhưng có liên quan đến chương trình, như thế sẽ

khỏi bỡ ngỡ khi đề thi liên hệ đến kiến thức tổng quát. Cũng theo cách học

nầy mà tôi trúng tuyển dễ dàng hai kỳ Tú tài I và II.

Đã khá lâu nên không nhớ rõ hết các đề thi, duy chỉ có hai đề thi có phần lý

thú nên khó quên. Đó là đề thi Tú Tài I-1960 về văn chương VN “Con

người do 3 yếu tố tạo thành: Địa phương, giống tộc và thời đại, bạn hãy

căn cứ vào văn chương thế kỷ thứ XIX để chứng minh câu nói trên”. Đề thi

nầy phỏng theo đề thi “Dissertation litteraire “, kỳ thi BAC I tại Paris, thập

niên 1950, về văn chương Pháp, thế kỷ thứ XIX mà tôi đã có dịp đọc qua

luận văn bằng Pháp ngữ, chỉ khác là thay vì luận về văn chương Pháp thì

luận về văn chương Việt Nam thế kỷ thứ XIX. Nền giáo dục Tậy phương có

ưu điểm là thường in lại các đề thi và bài giải vế văn học, triết học cũng

như toán học, khoa học, của các kỳ thi trong quá khứ để giúp học sinh tự

luyện thi. Nền giáo dục Viêt Nam thời bấy giờ chưa đạt đế trình độ đó.

Khi còn học lớp Đệ Tứ, tôi và vaì người bạn khác thường mở các đề toán

Géométrie và Algèbre trong “Sách Học Trò” ra làm thử. Bài nào không giải

được thì mở “Sách của Thầy” ra xem bài giải. Cứ như thế mà giải hết các

bài trong sách của Gs Bossé thì rất dễ dàng giải quyềt các nan đề trong

phòng thi.

Đề thi triết Tú tài 2-1961 cũng rất gọn gàng và dễ nhớ “Vai trò của trí tuệ

trong tri giác ngoại giới”. Trong cả hai trường hợp, đọc qua đề thi thì hình

như dàn bài đã có sẵn trong trí, tôi viết một mạch 3 giờ liền, đọc lại và nạp

bài, ra khỏi phòng thi, thấy rất thoải mái vì chẳng những không “bí” mà còn

viết thao thao bất tuyệt, tự biết thế nào cũng “dính”.


Tuy vậy những lần đi nghe xướng danh cũng rất hồi hộp. Cái hồi hộp lý thú

của tuổi học trò. Những năm học ở trung học thi cử liên miên khiến cho

học sinh phải lo âu thường trực. Càng lo âu thì càng dễ trở nên thất vọng.

Có người không chịu nổi cái “đệ nhất buồn là cái hỏng thi” nên phải quyên

sinh. Học chế của mình kể ra cũng khắt khe. Cô, thầy thì nghiêm khắc vì

“Giáo bất nghiêm thì sư chi đọa”. Bài vở phần lớn học thuộc lòng, vận

dụng trí nhớ nhiều hơn suy luận. Chúng ta thuờng nghe nói: “gạo như gạo

vạn vật…”

Bây giờ thì tất quả đều quá vãng, có còn lại chăng chỉ dư âm thôi!

“Thôi đã xa rồi vạn gót hương

Của người đẹp đến tự muôn phương

Xa rồi những bước không hò hẹn

Đã bước trùng nhau một nẻo đường”

Nẻo đường Quốc Học của thời niên thiếu vẫn luôn luôn chập chờn trong trí

tưởng với hình ảnh của con sông xưa, thành phố cũ.

“Áo em lụa trắng sông Hương

Qua đò Thừa Phủ nhớ thương rạt rào”

Nỗi nhớ, niềm thương đó vẫn canh cánh bên lòng như bản nhạc vàng ru

trọn đời mình. Dù vì quốc biến nên có những người đi không về. “Xa xôi rồi

quên ước thề”! Hoài niệm về trường xưa, bạn cũ không chỉ là hoài niệm

đơn thuần tình cảm mà còn tiềm ẩn tinh túy của Quốc học là những gì lưu

lại sau khi đã quên hết “La culture (de QH) c’est ce qui reste après on a

tout oublié”.

Xuất thân từ Quốc Học cũng như xuất thân từ cửa Khổng sân Trình. Con

người hấp thụ được tinh hoa của cổ và tân học. Nếu con người do ba yếu

tố tạo thành: Hoàn cảnh, thời đại và giống tộc thì Quốc học đã là hoàn

cảnh, là môi trường tốt cho cựu học sinh triển nở, khiến cho nam thanh nữ

tú, hàng hang, lớp lớp từ thế hệ này sang thế hệ khác xuất thân từ ngôi

trường thân thương nầy và đã trở thành biết bao anh tài cho Tổ quốc.


Cái tinh hoa của nền Quốc Học là ngoài khả năng, kiến thức tổng quát,

cựu học sinh được bồi dưỡng tinh thần bằng niềm hãnh diện về trường

xưa, bạn cũ và quan niệm về giáo dục qua phong cách giảng dạy, lối sống

và triết lý giáo dục của nền quốc học Việt mà một vị Nho sĩ, Cụ cố Ngô

Đình Khả, đã được bổ nhiệm nhậm chức Chưởng Giáo của Quốc Học.

Triết lý giáo dục nhằm vào chủ đích không những làm cho con người giỏi

giang hơn (trí dục) mà chính là làm cho con người sống cao thượng hơn

(đức dục). Ngày nay học tập để ngày mai giúp đời. Giúp đời chứ không chỉ

biết vinh thân, phì gia. Nguyễn Du Tiên sinh rất hữu lý khi nói lên triết lý

hành động qua lời Từ Hải:

“Phong trần mài một lưỡi gươm.

Những loài giá áo túi cơm sá gì”.

Lưỡi gươm đây còn mang ý nghĩa là đem sở học và sự hiểu biết để phụng

sự nhân quần xã hội, sửa trị những sự việc trong xã hội cho chính trực như

tinh thần Nguyễn Công Trứ

“Trong lăng miếu ra tài lương đống.

Ngoài biên thùy rạch mũi can tương”.

Lợi ích của sự giáo dục là để phát triển kiến thức về luân thường đạo lý

(đức dục) và kiến thức chuyên môn (trí dục). Nền quốc học chủ trương

“Tiên học lễ hậu học văn” chú trọng đến sự phát triển con người toàn diện

về cả ba khía cạnh đức dục, trí dục và thể dục, cốt đào tạo những người

có đức hạnh, trí óc sáng suốt, có liêm sỉ, để cải taọ xã hội chính trị, hơn là

chỉ chú trọng đào tạo những người có kiến thức chuyên môn như nền giáo

dục Tây phương.

Nhận chân được khuyết điểm là có khoa học mà vô lương tâm chỉ đem lại

phiền não, bại hoại tâm hồn. “Science sans conscience n’est que ruine de

l’âme”, ngày nay nhiều đại học ở Tây phương tìm cách nhân văn hóa các

chương trình khoa học bằng cách đưa các môn triết học, nhân chủng, xã

hội, đạo đức, tâm lý… vào khóa học để giúp sinh viên tốt nghiệp sẽ trở nên

con người toàn diện, hiểu người, biết mình, hơn là con người kỹ thuật, máy

móc (robot).


Sự học tô điểm cuộc đời, giúp chúng ta khám phá những kỳ hoa dị thảo

trong vườn hoa kiến thức của nhân loại. Càng hiểu biết con người càng

trầm tĩnh, ít lo âu, ít hoảng hốt, tâm bớt động và nhờ đó thái độ được trầm

tĩnh và tránh đuợc lầm lẫn hay sợ sệt:

(1) Ít lo âu vì nhận diện được vấn đề và biết cách ứng phó đúng với câu

“Khi vui đến thì hãy vui mà chớ kiêu căng, tự phụ, khi tai họa đến thì phải

suy nghĩ mà chớ buồn phiền” Chính nhờ sự suy nghĩ mới có thể mưu sinh

thoát hiểm thay vì buồn phiền sẽ sinh ra nản chí và thất hại.

(2) Tránh được lầm lẫn là nhờ khả năng nhận biết phải trái, phân rõ trắng

đen qua kinh nghiệm giải quyết sự việc của tiền nhân và của người đương

thời. Ngày nay khoa quản trị học (management science) đào tạo những

chuyên viên quản trị biết kỹ thuật tổ chức, điều hành và phương pháp giải

quyết vấn đề. Tiêu chuẩn phán xét phải, trái, không hẳn do ý kiến của một

cá nhân, vì ý kiến cá nhân có khi lầm lẫn. Do đó ý kiến đúng hay sai phải là

ý kiến của đa số trong một hoàn cảnh và thời gian nào đó. Tiêu chuẩn

đúng sai do đa số quyết định “What is right or wrong being determined by

the will of the majority” (John Locke, Treatise On Civil Government – 1679).

Ý kiến của đa số hay là ý chí chung có thể được tham khảo qua nhiều

phương thức, đặt nặng về luân thường, đao lý, tình nghĩa và nhẹ về lý,

hoặc do phong tục tập quán lấy ý kiến chung ở chốn đình trung, hoặc do

biểu quyết, hay trưng cầu dân ý qua lá phiếu.

(3) Ít sợ sệt vì hiểu được vấn đề, không lo ngại và chấp nhận dấn thân mà

không e dè sợ sệt, hùng tâm dũng chí.

Với ba đặc điểm ít lo âu, tránh lầm lẫn, ít sợ sệt; người khôn ngoan thường

nhận xét sự việc một cách khách quan, theo lẽ phải hơn là thiên kiến. Để

đạt đến tính cách khách quan, sự nhận xét phải có tính cách vô ý, vô tất,

vô cố và vô ngã:

(1) Vô ý: nghĩa là không khư khư theo ý riêng của mình mà phải chấp nhận

bàn bạc để tìm ra lẽ phải và làm theo lẽ phải để tạo sự đồng thuận trước

khi thi hành công tác. “Discussion is the anvil upon which the spark of the


truth is struck”. Tiếp xúc cá nhân, chia sẻ và đối thoại là phương thức để

tìm ra lẽ phải.

(2) Vô tất: Đừng vội quyết đoán là công việc làm được hay không làm

được mà phải tạo cơ hội để thực hiện mới biết dễ hay khó. Không nên chủ

quan bác bỏ ý kiến của người khác theo nhãn quan thiển cận của mình mà

phải biết chấp nhận thử thách.

(3) Vô cố: Không nên cố chấp, nệ cổ mà phải biết chấp nhận sáng kiến.

(4) Vô ngã: Cái tôi là đáng ghét (le moi est haissable) đừng vì quyền lợi cá

nhân hay phe phái mà sinh ra mù quáng, nhìn bạn thành thù, nhìn thù

thành bạn, lộng chân thành giả, lộng giả thành chân.

Bốn phương cách xét định công việc nêu trên giúp chúng ta đạt được sự

chánh ý trong vấn đề suy luận và phát biểu nhằm giảm sự xung khắc về tư

tưởng và hành động. Dụng đích của sự học không những chỉ để gia tăng

sự hiểu biết mà còn giúp phát triển các đức tính khác như Đức Khổng Tử

đã giáng cho Tử Lộ sáu điều tai hại của sự thất học:

(1) Người ham điều nhân mà không học thì bị cái hại là ngu muội.

(2) Người ham đức trí mà không học bị cái hại là phóng đãng.

(3) Người trọng chữ tín mà không học thì có hại là dễ bị lừa gạt.

(4) Người thích sự ngay thẳng mà không học thì hóa ra nóng nảy.

(5) Người dũng cảm mà không học thì hoá ra phản loạn.

(6) Người cương quyết mà không học thì hóa ra cường bạo.

Giáo dục không chỉ là học từ chương trích cú để lãnh được mảnh bằng

theo sách vở mà phải biết suy luận, áp dụng kiến thức vào những hoàn

cảnh khác nhau vì mỗi hoàn cảnh đòi hỏi một phương cách riêng để giải

quyết vấn đề. Do đó” tri và hành phải hợp nhất”. Học mà không biết đem

sự hiểu biết áp dụng vào đời sống thì kiến thức đó hoàn toàn vô dụng, cho

nên Luận Ngữ có câu:


“Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ”.


Tây Phương cũng có câu” Action without knowledge is better than

knowledge without action”. Hành mà không học tốt hơn học mà không


hành.!. Aristote cũng lưu ý mục đích kiến thức là để áp dụng vào đới sống.

Tri hành hợp nhất. “The purpose of knowledge is action”.

Học mà đem ra áp dụng được thì chẳng phải vui lắm sao! Tham gia chiến

trận khi quôc gia lâm nguy, thưc hiện các công tác sinh hoạt xã hội, chính

trị, văn hoá, kinh tế, y tế, giáo dục khi thái bình…đều là những cơ hội học

hỏi chứ không phải chỉ đến nhà trường mới gọi là học.

Theo thầy Tử Lộ thì “Cai trị nhân dân, cúng tế thần đất đai, mùa màng, thì

cũng là học, hà tất phải đọc sách rồi mới gọi là học”. Quan niệm này rất

hữu lý và tiến bộ vì ngoài lối học sách vở, còn phương pháp huấn luyện

OJT (On the job training) ngày nay rất thịnh hành tại các nước tân tiến.

Muốn học hỏi trước tiên phải:

(1) Khiêm nhường và phục thiện Những người kiêu căng, chỉ biết nói và

không biết nghe thì không học hỏi gì được. Khiêm nhường tức là hỏi người

dưới không lấy làm thẹn “Bất sỉ hạ vấn”.

(2) Có thiện chí tìm hiểu hỏi han. Đức Khổng Tử nói: “Người nào không hỏi

phải làm sao? phải làm sao? thì ta cũng chẳng có cách nào chỉ bảo cho

được. Kẻ nào không hăng hái muốn hiểu thì ta không thể giúp cho hiểu

được, kẻ nào không tỏ ý kiến thì ta không thể giúp cho phát biểu ý kiến

được. Ta vén lên cho một góc mà chẳng tự tìm được ba góc kia thì ta

không giảng cho thêm nữa”.

Thế thì giáo huấn cũng còn tùy người, tùy tánh nết, tùy trí tuệ, tư cách của

mỗi nguời, cũng như may áo, tùy kích thước của mỗi người." Cưỡng bách

giáo dục tại một số quốc gia tân tiến thường đến lớp 9 (đệ tứ) hoặc lớp 12

(đệ nhất) phần học còn lại là do thiện chí muốn tiếp tục sự học. Phương

pháp giáo huấn tùy người có từ trên 2000 năm về trước, ngày nay nhiều

đại học đang áp dụng các chương trình giáo dục “University without wall”

và các chương trình “Non traditional” tức là cá nhân hóa chương trình cho

phù hợp với sở trường thực dụng của mỗi cá nhân.

Con nguời được thọ tạo như những viên ngọc quý. Nhưng ngọc bất trác thì

bất thành khí, hay như những cây gỗ qúy, nhưng nếu không biết trau dồi

học hỏi thì gỗ quý sẽ biến thành gỗ mục, mà “Gỗ mục thì không chạm khắc

gì được, cũng như vách bằng đất bùn thì không tô vẽ gì lên được”.


Phương pháp học hỏi hữu hiệu là vận dụng tri giác (thu nhận kiến thức qua

giác quan – perception) mà nghe và thấy là hai giác năng quan trọng nhất

giúp con người thu nhận ngoại giới. Do đó, cổ nhân khuyên là “Nên nghe

cho nhiều, điều gì còn nghi ngờ thì để đó, tìm hiểu thêm. Điều gì biết rõ

ràng, chắc chắn thì nên nói, nhưng nên nói một cách ôn tồn.” và “Nên thấy

cho nhiều, những gì chưa được rõ thì để đó đừng làm, còn những gì biết

rõ thì cũng phải làm một cách cẩn thận như vậy sẽ ít phải ăn năn”.

Trong thiên hạ thường có 4 hạng người:

(1) Không ai dạy mà biết được đạo lý là hạng ưu tú – Sinh nhi tri chi giả,

thượng dã – Đó là hạng người thông minh vốn sẵn tính trời, là hạng ưu

việt.

(2) Học rồi mới biết là hạng trung – Học nhi tri chi giả, thứ dã – gồm đa số

khoa bảng, chuyên viên.

(3) Dốt mà chịu học là bậc thấp – Khốn nhi học chi, hữu kỳ thứ dã – là

những thành phần hiếu học để thăng tiến.

(4) Dốt mà không chịu học là hạng cuối cùng của xã hội – Khốn nhi bất

học, dân tư vĩ hạ hỉ – Hạng thứ tư nầy đa số bất cần đời, sinh lộn kiếp.

“Cũng liều nhắm mắt đưa chân, thử xem con tạo xoay vần đến đâu?”

Tại Hoa Kỳ nguời ta cũng thường đề cập đến ba hạng chuyên viên:

(1)-Hạng chuyên viên ưu tú thường nêu ra sáng kiến, phát minh.

“Professionals with great minds talk about ideas”

(2)- Hạng chuyên viên trung bình thường bàn về những chuyện đang xảy

ra “Professionals with average minds talk about current events”; và

(3)- Hạng chuyên viên thường hay bàn chuyện người khác.” Professionals

with small minds talk about people”.

Dù thuộc loại chuyên viên nào chăng nữa, trong một ngày mình nên xét ba

điều:

(1) Mình giúp ai việc gì, có giúp hết lòng không?

(2) Mình giao du với bạn bè có giữ được chữ tín không?

(3) Mình có học hỏi thêm điều gì mới mẻ trong ngày không?


“Mỗi ngày biết thêm điều mình chưa biết, mỗi tháng không quên những

điều mình đã biết như vậy là biết học rồi đó”. Nhưng cũng nên biết rằng

“Biết học không bằng ham học và ham học không bằng vui mà học”. “Nếu

mình yêu thích công việc mình làm, thi xem như suốt đời không làm gì hết

“! Cũng hợp lý vì khi yêu thì tam tứ nuí cũng trèo, thất bát sông cũng lội,

thập ngủ đèo cũng qua”, không chỉ áp dụng trong tình yêu nam nữ mà còn

thể hiện trong nhiều lãnh vực của đời sống như yêu nghề, nghiệp, yêu quê

hương, nhân loại

Diễn trình giáo dục là diễn trình thu nhận kiến thức, tinh luyện suy

luận và phát triển sáng tạo. Tuy vậy, đó chỉ mới là giai đoạn đầu hay nói

khác đi là giai đoạn “cách vật chí tri”, hiểu biết sự việc ngoại giới mà chứng

chỉ, bằng cấp là biểu tượng cho giai đoạn này. Nếu đến giai đoạn này rồi

tự thõa mãn và ngưng học hỏi, tu thân, thì chỉ là hiểu biết vòng ngoài,

nghĩa là mới thu nhận được kiến thức ngoại giới nhưng chưa đạt đến trình

độ: “Thành tâm, chánh ý, tu thân, tề gia, trị quốc và bình thiên hạ”.

Triết lý giáo dục cổ của Việt Nam vốn chịu ảnh hưởng của Nho học, dùng

Tứ Thư, Ngũ Kinh làm sách giáo khoa qua các triền đại quân chủ …. giúp

con người phát triển đạo tu thân và đạo trị quốc qua 8 phương cách chính:

 

(1)  Cách vật: tìm tòi học hỏi (investigation of things); (2) Trí tri: để đạt sự

hiểu biết thấu đáo cái nguyên lý của sự vật, (extension of knowledge); (3)

Thành tâm (the will becomes sincere): mỗi khi hiểu rõ sự kiện tâm sẽ thành

thât; (4) Chánh ý (the mind is rectified): Tâm thành thì Ý sẽ được chính

trực ;(5) Tu thân (personal life is cultivated); nhờ đó thân sẽ đươc tu dưỡng

(6) Tề gia (the family regulated): gia đình sẽ an vui, phu phụ hòa gia đạo

thành; (7) Trị quốc (the state is put in order): Quốc gia sẽ được an trị và 8)

Bình thiên hạ (and peace is established throughout the world) sẽ được thái

bình.

Kiến thức thu nhận được ở nhà trường từ tiểu học đến đại học chỉ là kiến

thức căn bản ai cũng có thể học được miễn có thì giờ và phương tiện để

trở thành chuyên viên. Đó là sự thực, vì nhìn vào xã hội chúng ta thấy sinh

đồ càng ngày càng đông và trường học càng ngày càng nhiều.


Học để hiểu biết và hiểu biết hơn về một ngành chuyên môn để trở thành

“chuyên viên” (professional) là điều tốt, nhưng nếu chỉ để “cầu mong an

nhàn, sống lâu giàu bền’, còn việc nước việc cộng đồng, xã hội, aí hữu,

không thèm nghĩ đến thì chưa đạt đến trình độ “Trí thức”.

Để đào luyện (formation) trí thức, triết lý giáo dục nhân bản của nền Quốc

Học không ngưng lại ở mức độ thu nhận kiến thức chỉ để trở thành chuyên

viên mà còn tiến đến chủ đích làm cho con người trở nên cao thượng hơn:

“Thương vị đức, hạ vị dân”.

Phối hợp đạo lý làm người và kiến thức để giúp đời, là dấu chỉ của người

trí thức, của kẻ sĩ. Cụ Nguyễn Công Trứ đã từng quan niệm:

“Kinh luân khởi tâm thượng,

Binh giáp tàng hung trung.

Vũ trụ chi giai ngô phận sự.

Nam nhi đáo thử thị hào hùng”.

Khi quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Kẻ sĩ không phải là hạng

người ngồi khoanh tay khi sơn hà nguy biến!

Phải chăng Quốc Học là trường xây dựng nền tảng cho nền Việt học, phối

trí giữa kiến thức và tâm đạo. Kiến thức có thể diễn tả qua tư tưởng, kỹ

thuật, phương trình, công thức… còn tâm đạo được thể hiện qua tinh thần

đạo đức, lương tâm chức nghiệp của quý Thầy, quý Cô.

“Kỳ thân chính, bất lệnh nhi hành”. Với lương tâm chính trực, tận tụy của

quý Thầy, quý Cô, học sinh đương nhiên vì mến Thầy, thương Cô mà học

không phải vì Thầy la, Cô mắng.

Một khi xuất thân từ Quốc Học, học sinh đều thành danh phụng sự xã hội

với tinh thần Nhân, Trí, Dũng: Phối hợp được lòng nhân ái, tâm đạo, kiến

thức, nghị lực, quả cảm để xây dựng cộng đồng xã hội, quốc gia dân tộc.


Dù tha hương, sống nơi góc bể chân trời, nhưng đến ngày kỷ niệm Quốc

học năm thứ 128 (1896- 2024), chúng ta vẫn hướng về mái trường thân

thương nơi con sông xưa thành phố cũ, ngâm khúc hoan ca:

“Trường xưa lưu mãi bóng hình

Trăm năm Quốc Học hiển vinh muôn đời”


Trần Xuân Thời

QH 1958-1961

Lể Kỷ niệm 100 năm Quốc Học tại San Jose, CA năm 1996 (1896-1996)



Chủ tịch Trần Xuân Thời (trái), Công Đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ, tặng Gs

Hà Như Chi (giữa) bức ảnh Trường Quốc Học và GS Nguyễn Châu (phải).

Sunday, 30 April 2023

TƯỞNG NIỆM 30-4-2023 & HIỆU TRIỆU CỦA LÃNH TỤ TRƯỜNG BỘ BINH THỦ ĐỨC - TIẾN SĨ TRẦN XUÂN THỜI QGHC MINNESOTA./-Mt68

____________________

Kính gởi Quý Vị Đồng Hương 

 

Tưởng niệm ngày 30 tháng 4 năm 2023 đánh dấu hai sự kiện : 50 năm ký Hòa Ước Ba Lê và 48 năm quốc nạn.  Đảng CS Hà Nội theo lệnh của chủ nghĩa Xã hội CS quốc tế đã phản bội tình đồng hương, nghĩa đồng bào, vi phạm Hoà Ước Ba Lê, xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa. Đồng bào Việt Nam quốc nội cũng như hải ngoại quyết tâm giải thể chế độ Cộng sản để tái lập tự do, dân chủ, nhằm kiến tạo hạnh phúc chân chính cho đồng bào và sự toàn vẹn lãnh thổ cho Viêt Nam.

 

 Cũng trong tinh thần nầy, Ha Viện Quốc Hội Hoa Kỳ đã thong qua Nghị Quyết số 9 ngày 2 tháng 2 năm 2023   tố cáo chủ nghĩa xã hội tàn bạo giết hại hơn một trăm triệu sinh linh trên thế giới.  “Whereas socialism has repeatedly led to famine and mass murders, and the killing of over 100,000,000 people worldwide”. Quốc hội Hoa Kỳ quyết định tố cáo chủ nghĩa xã hội dưới mọi hình thức... “Resolved by the House of Representatives (the Senate concurring), That Congress denounces socialism in all its forms …” 

                                                                                       *

 

Quyền Dân Tộc Tự Quyết

 Hiệp Định Paris (Paris Agreement on Ending the War and Restoring Peace in Vietnam) ngày 27 tháng 1 năm 1973 minh định công nhận quyền Dân Tộc Tự Quyết của Miền Nam Việt Nam : 

Điều 9, chương IV bản Hiệp ước ấn định :

The Government of the United States of America and the Government of the Democratic Republic of Viet-Nam undertake to respect the following principles for the exercise of the South Vietnamese people's right to self-determination : (a) The South Vietnamese people's right to self-determination is sacred, inalienable, and shall be respected by all countries. (a) Quyền tự quyết của nhân dân Miền Nam là quyền thiêng liêng, không thể chuyển nhượng và các quốc gia phải tôn trọng. (b) The South Vietnamese people shall decide themselves the political future of South Viet-Nam through genuinely free and democratic general elections under international supervision. (b) Nhân dân Miền Nam Việt Nam sẽ quyết định chính phủ tương lai cho Nam Việt Nam qua cuộc bầu cử thật sự tự do và dân chủ dưới sự giám sát quốc tế.

Trong thực tế CS Hà Nội đã vi phạm Hiệp Ước Paris, xâm lăng VNCH và áp đặt chế độ độc tài CS lên nhân dân miền Nam Việt Nam từ 1975 đến nay.

1-Ý niệm “Quyền Dân Tộc Tự Quyết” đã được đề cập đến từ thế kỷ thứ 16 “All nations have the right to govern themselves and can accept the political regime it wants, even if it is not the best “. Các dân tộc có quyền tự trị và chấp nhận chế độ chính trị theo ý muốn, dù chế độ đó chưa được hoàn mỹ. 

Năm 1918, Tổng Thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson (1913-1921) đã từng tuyên bố “National aspirations must be respected, people may now be determined and governed only by their own consent. “Self-determination” is not a mere phrase ; it is an imperative principle of action”.  Nguyện vọng của các quốc gia phải được tôn trọng, các dân tộc từ nay có thể tự quản theo ý muốn của mình. Dân tộc tự quyết không phải chỉ là một câu văn, mà là một nguyên tắc hướng dẫn hành động.

 

2- Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, Chương 1, Điều 1, khoản 2 (United Nations Charter- 1945) đã ấn định : “The purpose of the United Nations is to develop friendly relations among nations based on the respect for the people of equal rights and self-determination of peoples, and to take appropriate measures to strengthen the universal peace”. Mục đích của bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc là để phát triển liên hệ thân hữu giữa các quốc gia đặt căn bản trên sự tôn trọng nguyên tắc công bằng và quyền dân tộc tự quyết của các dân tộc và áp dụng những biện pháp thích nghi để thăng tiến nền hoà bình thế giới. Chủ trương này còn được minh thị đến trong hai Công Ước về quyền chính trị (ICCPR) và quyền kinh tế xã hội (FCESCR) do LHQ ban hành :

“All peoples have the right of self-determination. By virtue of that right, they freely determine their political status and freely pursue their economic, social and cultural developments”. Tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết. Bằng vào quyền này, họ được tự do quyết định về thể chế chính trị và tự do theo đuổi sự phát triển về kinh tế, xã hội và văn hóa của họ”.

 

3- Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (Universal Declaration of Human Rights) năm 1948 ấn định : “Everyone has the right to self-determination and that no one should be arbitrarily deprived of a nationality or denied the right to change nationality”. Mọi người đều có quyền tự quyết, không ai bị tước đoạt quốc tịch hay bị từ chối quyền thay đổi quốc tịch.

“Right of a people to self-determination is a cardinal principle in modern international law – Jus cogens-. The right to freely choose their sovereignty and international political status with no interference”. Quyền dân tộc tự quyết là quyền căn bản trong luật quốc tế hiện đại. Quyền tự do chọn chủ quyền và vị thế chính trị trên chính trường quốc tế mà không bị can thiệp. 

 

4- Các Hiệp Ước Quốc Tế về Việt Nam.

(1)-Hiệp định Geneva ngày 20 tháng 7 năm 1954 do Cộng sản và thực dân ký kết đã tước đoạt quyền dân tộc tự quyết của nhân dân Việt Nam khi quyết định chia cắt đất nước VN thành hai miền Nam Bắc trước sự phản đối của chính phủ Quốc Gia Việt Nam do Quốc Trưởng Bảo Đại lãnh đạo. 

Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ đã bày tỏ thái độ qua lời phát biểu : “Chính phủ Quốc gia Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Quốc gia Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho xứ sở”. Đến năm 1956, chính phủ VNCH bác bỏ đề nghị tổng tuyển cử hiệp thương giữa hai Miền Nam Bắc vì (1) không thể có bầu cử tự do tại Miền Bắc do CS kiểm soát (2) Quốc gia Việt Nam đã không ký vào Hiệp Ước Geneve năm 1954 nên không có trách vụ thi hành (3) Đồng minh Hoa Kỳ cũng đã không ký vào Hiệp Định Geneve năm 1954 vì Hoa Kỳ chấp nhận Trung Hoa Quốc Gia và bác bỏ tư cách đại diện của Trung Cộng trên diễn đàn chính trị quốc tế (4)  Không có điều khỏan nào trong Hiệp Định ấn định thể thức Tổng Tuyển Cử mà chỉ là phần đàm luận trong bản Tuyên cáo chung sau Hội Nghị.

 (2)-Hiệp định Paris (Paris Agreement on Ending the War and Restoring Peace in Vietnam) ngày 27 tháng 1 năm 1973 công nhận quyền Dân Tộc Tự Quyết của Miền Nam Việt Nam: Chương IV, điều 9 ấn định:

(a) The South Vietnamese People’s right to self-determination is sacred, inalienable, and shall be respected by all countries. - Quyền tự quyết của nhân dân Miền Nam là quyền thiêng liêng, không thể chuyển nhượng và các quốc gia phải tôn trọng

(b) The South Vietnamese People shall decide themselves the political future of the South through genuinely free and democratic general elections under international supervision- Nhân dân Miền Nam Việt Nam sẽ quyết định chính phủ tương lai cho Nam Việt Nam qua cuộc bầu cử thật sự tự do và dân chủ dưới sự giám sát quốc tế.

Thực tế CS Hà Nội đã vi phạm Hiệp Định Paris, xâm lăng VNCH và áp đặt chế độ độc tài CS lên nhân dân miền Nam Việt Nam từ 1975 đến nay

Điều 19: The parties agree on the convening of an international conference with 30 days of the signing of this agreement to acknowledge the signed agreements, to guarantee the ending of the war, the maintenance of peace in Vietnam, the respect of the Vietnamese people’s fundamental national rights, and the South Vietnamese people’s right to self-determination, and to contribute to and guarantee peace in Indo China-  Các quốc gia tham dự Hội nghị đồng ý triệu tập Hội Nghị quốc tế trong vòng 30 ngày kể từ ngày ký thỏa ước để công nhận thỏa ước đã được ký kết, bảo đảm chấm dứt chiến tranh, duy trì hòa bình cho Việt Nam, tôn trọng những quyền căn bản của nhân dân Việt Nam và quyền dân tộc tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam, đóng góp và bảo đảm hòa bình tại Đông Dương. Thi hành điều 19 thượng dẫn, ngày 2 tháng 3 năm 1973, 12 quốc gia họp trước sự chứng kiến của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc đã ký một văn kiện gọi là ACT of the Paris Agreement ending the War and restoring Peace for Vietnam.

(3) -Định Ước (Act of the Paris Agreement on ending the War and Restoring Peace in Viet Nam), do 12 quốc gia ký ngày 2 tháng 3 năm 1973 được xem như là bản “Tông Đồ Công Vụ” của 12 vị Bộ Trưởng Ngoại Giao của 12 thành viên tham gia vào Hòa Hội Paris, gồm có Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Việt Nam Cộng Hòa, Canada, Nam Dương, Ba Lan, Hung Gia Lợi, Trung Cộng, Cộng sản Bắc Việt và Việt Cộng. Bản Định Ước này quy định biện pháp áp dụng trong trường hợp có sự vi phạm Hiệp Ước Ba Lê.  Định ước này có tính cách quan trọng trong vấn đề đòi lại quyền dân tộc tự quyết cho Việt Nam khi Việt cộng vi phạm Hiệp Định Ba Lê xâm lăng Việt Nam Cộng Hoà, áp đặt chế độ độc tài đảng trị CS lên toàn dân Việt từ 1975 đến nay.

Điều 2: The Agreement responds to the aspirations and fundamental national rights of the Vietnamese people, i.e. the independence, sovereignty, unity, and territorial integrity of Viet-Nam, to the right of the South Vietnamese people to self-determination, and to the earnest desire for peace shared by all countries in the world. The Agreement constitutes a major contribution to peace, self-determination, national independence, and the improvement of relations among countries. The Agreement and the Protocols should be strictly respected and scrupulously implemented-  Bản Định Ước xác định nguyện vọng và các quyền cơ bản của nhân dân Việt Nam, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, quyền dân tộc tự quyết của nhân dân Miền Nam Việt Nam phải được tôn trọng…

 Điều 7 (a) In the event of a violation of the Agreement or the Protocols which threatens the peace, the independence, sovereignty, unity, or territorial integrity of Viet-Nam, or the right of the South Vietnamese people to self-determination, the party signatory to the Agreement and the Protocols shall, either individually or jointly, consult with the other Parties to this Act with a view to determining necessary remedial measures. - Nếu có sự vi phạm Hiệp Định Ba Lê nguy hại đến nền hòa bình, một hay nhiều quốc gia có quyền tham khảo với các quốc gia khác để quyết định biện pháp giải quyết.

(b) The International Conference on Viet-Nam shall be reconvened upon a joint request by the Government of the United States of America and the Government of the Democratic Republic of Viet-Nam on behalf of the party signatory to the Agreement -Hội Nghị Quốc Tế sẽ được tái triệu tập khi Hoa Kỳ và CS Hà Nội yêu cầu.

 (c) or upon a request by six or more of the Parties to this Act- hoặc theo lời yêu cầu của sáu hay nhiều hơn trong 12 quốc gia tham dự vào bản Định Ước.

Nếu chúng ta vận động mạnh mẽ với 9 quốc gia tự do trong 12 thành viên ký vào bản Định Ước thì chúng ta có cơ hội thành công.

 (4) - Đạo luật Public Law 93-559 do Tổng Thống Gerald Ford ban hành ngày 30 tháng 12 năm 1974.

Section 34(b) : “In order to lessen the human suffering in Indochina and to bring about a genuine peace there, the Congress urges and requests the President and the Secretary of State to undertake the following measure … Điều 34 (b) ấn định vấn đề tái triệu tập Hội Nghị Ba Lê “Để giảm thiểu sự đau khổ của nhân dân và mang lai hòa bình thực sự cho Đông Dương, Quốc hội khẩn thiết yêu cầu Tổng Thống và Bộ Trưởng Ngoại Giao áp dụng biện pháp sau đây. (4) to reconvene the Paris Conference to seek full implementation of the provisions of the Agreement of January 27, 1973 on the part of the Vietnamese parties to the conflict- Tái nhóm Hội Nghị Ba Lê để tìm phương cách thực thi toàn vẹn các điều khoản của Hội nghị ký ngày 27 tháng 1 năm 1973 về các thành viên liên hệ đến cuộc xung đột tại Việt Nam.

Đạo luật này chưa được thực hiện hay hủy bỏ, do đó còn có hiệu lực. Mặc dù nhân sự đã thay đổi trong các chính phủ, nhưng trách nhiệm thi hành các hiệp ước, đạo luật không phải vì thế mà bị thời tiêu.

     Phương cách thực thi quyền Dân Tộc Tự Quyết

1-Các quốc gia tự do thường tôn trọng những gì họ đã ký kết, nghĩa là dùng phương thức vương đạo, giấy trắng mực đen. Phương thức bá đao không phải sở trường của người quốc gia. Mỗi khi quyền lợi bị vi phạm, chúng ta có quyền đặt vấn đề, khiếu nại.

Do đó, chúng ta không ngại khi phải

 (1) Yêu cầu các quốc gia tự do tái xét và thực thi những điều đã ký kết, trước sự hiện diện của đại diện Liên Hiệp Quốc, hoàn trả quyền dân tộc tự quyết cho nhân dân Việt Nam như đã được quy định trong luật quốc tế và trong các văn kiện quốc tế đã được ký kết liên quan đến Việt Nam.

(2) Chiếu theo nguyên tắc căn bản của Luật pháp quốc tế phổ quát (Universal International law) ấn định các hiệp ước đa quốc gia phải được thi hành.   Công Ước Vienna ngày 23/5/1969, điều 26 ấn định - Pact sunt servanda- Thoả ước phải được tôn trọng : “Every treaty in force is binding upon the parties and must be performed by them in good faith”. Hiệp ước quốc tế phải được thi hành, luật pháp có tính cách ràng buộc.

(3) Tích cực hỗ trợ các cá nhân và tổ chức, phong trào tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền ở quốc nội.

2-Dù khó khăn, nhưng đối với những chiến sĩ nhân quyn hiểu biết, có dũng khí, can đảm và kiên trì thì tranh đấu về phương diện pháp luật quốc tế, thể hiện đại nghĩa, vẫn là chiến lược hợp tình, hợp lý trong hoàn cảnh hiện nay để thắng hung tàn. Nói khác đi là phương thức hữu lý, khả thi, theo nghĩa là hiện nay,  song hành với phương thức hỗ trợ các chiến sĩ nhân quyền đang tranh đấu cho tự do, dân chủ trong lòng địch tại Việt Nam và phương thức vận động đồng bào, tôn giáo quốc nội bất tuân lệnh của ngụy quyền CS.

Kết quả nhanh hay chậm còn tùy hoàn cảnh, nhưng còn tốt hơn ngồi than thân trách phận, chê bai lẫn nhau hay nguyền rủa bóng tối. Chúng ta phải vận động tích cực trong tất cả các quốc gia có người Việt cư ngụ, vận động đồng loạt và liên tục. Nếu đã bắt đầu nhưng chưa thành công, thì phải bắt đầu lại, như Platon đã nói : “Hãy bắt đầu vì đó là ngưỡng cửa của sự thành côn”.

3-Quyền dân tộc tự quyết có thể thực thi qua các cuộc tổng tuyển cử, trưng cầu dân ý, bầu cử tự do. Điều 9(b) Hoà Ước Ba Lê ký ngày 27/1/73 đã quy định : “The South Vietnam shall decide themselves the political future of South Vietnam through genuinely free and democratic general elections under the international supervision – Miền Nam Việt Nam sẽ tự quyết định thể chế chính trị cho tương lai Miền Nam Việt Nam bằng các cuộc bầu cử thực sự tự do và dân chủ dưới sự giám sát quốc tế”.

Tổ chức bầu cử tự do tại Việt Nam là một trong những giải pháp mà các cộng đồng, đoàn thể đang chuẩn bị và vận động. Yêu cầu LHQ, Hoa Kỳ và các quốc gia tự do hỗ trợ giải pháp tổ chức bầu cử tự do như đã quy định trong các văn kiện quốc tế. Nghĩa là không đặt vấn đề vu vơ mà nói có sách, mách có chứng và khả thi hơn chù trương dùng bạo lực.  Trong hiện tình an ninh quốc tế, CĐVNHN không thể chiêu mộ và huấn luyện các lực lượng vũ trang. Vì thế “biện pháp tiên lễ, hậu binh” là phương thức chẳng đặng đừng.

4-Ngoài các văn kiện quốc tế về Việt Nam, bản Tuyên Ngôn Quốc Tê`Nhân Quyền mà tất cả các nước hội viên đã ký kết tuân thủ thực thi các quyền căn bản về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo dục khi gia nhập Liên Hiệp Quốc.  Điều 21 bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền ấn định :

(1)-Everyone has the right to take part in the government of his country, directly or through

freely chosen representatives. -Mọi người đều có quyền tham chính trực tiếp hoặc gián tiếp được tuyển chọn qua các cuộc bầu cử tự do.

Cộng sản Hà Nội khủng bố và cấm đoán người Việt quốc gia ứng cử, các ứng cử viên đều do đảng Cộng Sản đề cử. “Đẳng cử, dân bầu”.

(2)-Everyone has the right of equal access to public service in his country. -Mọi người đều có quyền ngang nhau trong việc sử dụng các tiện ích công cộng.

Cộng Sản HN dành mọi tiện nghi, đặc quyền đặc lợi, dịch vụ công cộng cho cán bộ, đảng viên cộng sản, kỳ thị và kìm kẹp người Việt quốc gia trong mọi dịch vụ, sinh hoạt kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục

(3) The will of the people shall be the basis of the authority of government. This will shall be expressed in periodic and genuine elections which shall be by universal and equal suffrage and shall be held by secret vote or by equivalent free voting procedures. - Chính quyền phải lấy ý chí chung của toàn dân làm căn bản, ý chí này sẽ được thể hiện qua các cuộc bầu cử định kỳ và thực sự bằng thể thức phổ thông đầu phiếu, kín, hoặc bằng các phương thức bầu cử tự do tương đương.

Suốt 48 năm thống trị toàn cõi Việt Nam sau 1975, cộng sản Hà nội tự biên tự diễn, ngụy quyền CS không do ý chí của toàn dân Việt Nam tấn phong thể hiện qua các cuộc bầu cử tự do.

                                                                               **

Đảng Cộng Sản xâm lăng Việt Nam đã hình thành một giai cấp tài phiệt mới và quyết tâm phân chia đặc quyền, đặc lợi giữa các đảng viên, để “áo xiêm buộc trói lấy nhau”, thống trị đất nước trong cảnh bần cùng hóa nhân dân, khiến cho Việt Nam trở thành nghèo khổ nhất thế giới. Cộng sản rất sợ nhân dân giàu mạnh, vì phú quý sinh lễ nghĩa, đồng bào sẽ đòi hỏi tự do, dân chủ và mỗi khi giàu mạnh, sẽ có đủ phương tiện lật đổ chế độ cộng sản.

Nếu giải quyết vấn đề chính trị cho Miền Nam Việt Nam theo những điều khoản của Hiệp Định Ba Lê 1973 và bản Tuyên Ngôn QTNQ thì “Toàn quốc Việt Nam” sẽ được tự do, dân chủ, phú cường và độc lập khỏi bị Hán hoá.  Chúng ta, hãy dồn nỗ lực vào mục tiêu chính là “Dân Chủ cho Việt Nam” (Democracy for Vietnam) trong tinh thần đánh thức lương tâm nhân loại, gây áp lực với khối Cộng sản qua nhiều lĩnh vực văn hoá, xã hội, kinh tế, chính trị, ngoại giao, công pháp quốc tế, bang giao quốc tế từ các đơn vị sinh hoạt địa phương như thành phố, quận, tiểu bang, liên bang, đến cấp quốc gia, hoàn vũ.

4-Trong mọi tổ chức ái hữu dân, quân, cán, chính, xã hội, tôn giáo, cộng đồng Việt Nam hải ngoại nên có một cơ cấu tổ chức phụ trách chương trình bảo vệ nhân quyền với chương trình vận động đồng bào Việt nam tự do tại hải ngoại và các cộng đồng tự do quốc tế, nhằm hổ trợ công tác xây dựng dân chủ cho Việt Nam. Có như thế thì chúng ta mới thể hiện được thành tâm, thiện chí, thực sự lưu tâm đến quyền sống và nhân phẩm của đồng bào quốc nội một cách công khai, muôn người như một.

Chỉ có những chính quyền do nhân dân thực sự tự do tuyển chọn mới lưu tâm đến quyền lợi của dân chúng. Đây là vấn đề nhân đạo, là sứ mệnh thiêng liêng biểu lộ lương tâm chính trực. Chúng ta ở hải ngoại chỉ hưởng được hạnh phúc chân chính thực sự khi thấy đồng bào quốc nội được sống trong hạnh phúc.

5-Trong trường hợp giải pháp bầu cử tự do được thực hiện, để tránh vấn đề hợp thức hóa chế độ phi nhân CS hiện hữu, chúng ta phải chuẩn bị đâỳ đủ các lực lượng quần chúng quốc nội và hải ngoại để hỗ trợ khi có giải pháp bầu cử tự do.

Không ai đơn thương độc mã có thể hoàn thành sứ mệnh. Chúng ta cần có tổ chức, có đủ đại diện tại các quốc gia tự do, tại các tiểu bang có người Việt cư ngụ. Chúng ta vận động cán bộ địa phương trên toàn cõi VN gồm hơn 70 đơn vị hành chính cấp tỉnh và thị xã nhằm âm thầm vận động quần chúng trong công tác chuẩn bị toàn vẹn công tác “khai dân trí, chấn dân khí”. Nhất là phổ biến các tài liệu về quyền Dân Tộc Tự Quyết, bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và các văn kiện liên quan đến những quyền bất khả xâm phạm của con người, nỗ lực hỗ trợ các nhà tranh đấu cho nhân quyền ở quốc nội, một cách trực diện và qua các phương tiện truyền thông hiện đại. Lực lượng nầy gồm những người dấn thân, không phân biệt tuổi tác, giới tính, sinh sống tại hải ngoại hay quốc nội, miễn là có khả năng hoạt động để chuẩn bị tư tưởng quần chúng vì tư tưởng lên khuôn cho hành động, nhằm ứng phó với tình thế biến chuyển của quốc tế và quốc nội, sẵn sàng hỗ trợ chính phủ, do đồng bào quốc nội tấn phong qua thủ tục bầu cử tự do. 

Đây là một trong những vấn đề trọng yếu cần sự hỗ trợ của các đoàn thể cộng đồng, ái hữu, tôn giáo, xã hội, chính trị, dân, quân, cán, chính hải ngoại để kiện toàn cơ cấu tổ chức, thống nhất hành động, hợp quần gây sức mạnh, vận động nội công, ngoại hợp trong giai đoạn 2, sau 48 năm lưu vong ở hải ngoại.

Gần ½ thế kỷ trôi qua, thế hệ 30 là những niên trưởng cố vấn, thế hệ 40, 50... dù “hận nước chưa trả xong đầu đã bạc, nhưng gươm mài bóng nguyệt đã bao ngày”.  Hãy cùng nhau mưu cầu đại sự, một phen tri kỷ, cùng nhau tiến thoái, trong tinh thần “Tổ Quốc-Danh Dự và Trách Nhiệm” phục vu tổ quốc đến hơi thở cuối cùng !

Được như vậy thì đại nghiệp cứu quốc mới mong chóng được viên thành

                                    Hải ngoại ngày 30 tháng 4 năm 2023

     Trần Xuân Thời