Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label TranBachDang-NguyenSang. Show all posts
Showing posts with label TranBachDang-NguyenSang. Show all posts

Monday, 12 September 2022

 HỒI KÝ CỦA TRẦN BẠCH ĐẰNG ĐÃ NÊU TÊN NHỮNG ĐỨA VIỆT CỘNG NẰM VÙNG Ở ÚC: LƯU VĨNH PHONG QLD - NGUYỄN SANG (Cựu Nghị Viên Melb) - BS TRẦN THANH NHƠN Footscray - DI TRÚ ĐỖ MINH ( TRẦN MINH HOÀNG) Richmond./- Mt68






HỒI KÝ TRẦN BẠCH ĐẰNG
TỐ CÁO NHỮNG ĐỨA LIẾM CHIM CỦA HẮN Ở ÚC CHÂU./- Mt68
 












Ăn cơm Quốc Gia Thờ ma Cộng Sản
_______

Trích Hồi Ký Trần Bạch Đằng
Chuyển gởi: Trần Đông


Trích Hồi Ký TRẦN BẠCH ĐẰNG Tiết Lộ Về Nằm Vùng NGUYỄN SANG (Melbourne) TRẦN MINH HOÀNG (Di Trú Đỗ Minh-Melbourne) và LƯU VĨNH PHONG (Brisbane)

Sunday, May 25, 2008, (Bài 1)

Tôi (Trần Bạch Đằng) lý do thăm Úc của tôi. Thời chống Mỹ, khi phụ trách Bí Thư Thành Ủy Sài Gòn, tôi được Đảng Ủy Hoa Vận Thành Phố bố trí nơi ăn ở trong nhà đồng bào Hoa. Một trong những ngôi nhà đó - Đường Phan Văn Chí, Quận 6 – nay nhà Truyền Thống Phong Trào người Hoa ở Sài Gòn là, một xưởng làm đồ chơi cho trẻ con, nằm sát bót cảnh sát ngụy quận 6. Tại đây, có lần, qua cửa hé, tôi thấy Nguyễn Ngọc Loan, Tổng giám đốc cảnh sát quốc gia Sài Gòn đến làm việc với cảnh sát quận.

Nhà có hai hầm bí mật (nay vẫn còn) để khi có động, tôi rút vào. Hầm trang bị điện, quạt và…súng ! Vợ chồng chủ nhà, các cháu và bà cụ hết lòng bảo vệ chăm sóc tôi, mặc dù rất nguy hiểm đối với họ nếu chẳng may tông tích của tôi bị bại lộ: Địch dán hình tôi khắp thành phố với tiền thưởng khá lớn cho ai chỉ hoặc giết tôi, nhưng không có bất kỳ chuyện xấu nào xảy ra.

Sau giải phóng, gia đình làm ăn khó khăn. Anh Nguyễn Văn Linh (* Tổng Bí Thư) trao đổi với tôi nên để gia đình ra đi hợp pháp, tìm cách sinh sống, khi tình hình khá sẽ tính sau. Họ ra đi năm 1986.Từ Hồng Kông, gia đình chuyển sang Úc và người chủ biết rằng có thể sống được – thậm chí sống khá - nếu kết hợp được nguồn nguyên liệu của Việt Nam với thị trường Nam Thái Bình Dương tuy nhỏ mà vừa với khẳ năng của gia đình.

Họ chọn nghề ướp cá mặn – món ăn quen thuộc của người Hoa và cũng vừa túi tiền dân các đảo Nam Thái Bình Dương, nói chung còn nghèo. Thế là thị trường Salomon, Papouasie, Tuvalu, Fiji, Karibati, v.v. mở ra. Cá mè Gò Công, chế biến ở quận 6, đóng container xuất sang các nước…Ngoài cá mặn, gia đình còn làm vi cá, cải muối, bào ngư, hải sâm…Công việc mở rộng thêm một bước: mua cá ở Úc và các đảo, sơ chế ở Brisbane, chuyển về tinh chế ở quận 6, thành phố Hồ Chí Minh, đóng container xuất sang Hồng Kông, các đảo Nam Thái Bình Dương với một số trạm phân phối như ở Karibati.

Bây giờ, đó là một công ty gia đình chế biến thêm thịt ngọc trai…Trong mỗi lần về nước, người chủ đều đến thăm tôi. Anh tỏ nguyện vọng: đón tôi sang Úc nghỉ, quan sát. Anh nói thêm: Mẹ anh đã 88 tuổi, luôn nhắc tôi và mong được gặp mặt – bà từng nấu ăn cho tôi thời bí mật. Sức khoẻ của người sắp lên cửu tuần không cho phép bà bay về nước.Có thể gọi những điều trên là “Cơ Duyên” đưa tôi đến Úc lần đầu tiên nầy…

*** SYDNEY
Chúng tôi theo đường Singapore đến Úc, trên chuyến bay của hảng Qantas. Như vậy chuyến bay dài gấp đôi thời gian bình thường, vì chúng tôi không lấy được chỗ bay trực tiếp từ thành phố Hồ Chí Minh tới Sydney - số Việt Kiều ở Úc về quê ăn Tết năm nay (*1996) đông hơn mọi năm và chúng tôi đi trùng dịp bà con quay lại nước Úc sau Tết ở quê hương...Người trong gia đình ông LƯU VĨNH PHONG, chủ công ty chế biến hải sản Nam Thái Bình Dương, đón chúng tôi và đưa về khách sạn Star City, nơi có sòng Casino nổi tiếng...

Chúng tôi đi thăm những địa điểm tiêu biểu nhất của thành phố: đường hầm 12 km xuyên biển, cầu Sydney bằng sắt hao hao cầu Long Biên – Hà Nội xây từ thế kỷ trước, nhà hát thành phố với kiểu dáng nhiều vỏ sò chụp lên nhau, sức chứa 2700 chỗ ngồi, xây trong 15 năm mới xong (1958-1973), tốn đến 650 triệu quan Pháp, vườn bách thú… là những nơi không xa lạ với công chúng Việt Nam. Tổng lãnh sự Việt Nam ở Sydney- một cán bộ ngoại giao 30 năm trong nghề, dịu dàng như mọi phụ nữ Việt Nam, đến cạnh chúng tôi và thông báo một số tình hình địa phương, nhất là tình hình người Việt định cư khá tập trung ở Sydney- trong tổng số 200 ngàn người Úc gốc Việt thì một nửa sống ở đây...Chúng tôi dành một ngày đi Canberra…

(Bài 2) Monday, May 26, 2008
Posted by Nam Tào

Tại Canberra...Ngay chuyện chúng tôi tìm sứ quán cũng không dễ. Khu sứ quán nằm bên ngoài trung tâm, phải cần xe sứ quán ra “tam kỳ lộ” dẫn dắt chúng tôi vào sứ quán. Đoàn chúng tôi được sứ quán đón nhiệt tình, từ đại sứ, tham tán đến cán bộ - vốn không đông lắm. Và sứ quán “thết” chúng tôi một bữa phở Bắc có chất lượng, với món nước mắm và rau thơm truyền thống.Tại đây, chúng tôi gặp đoàn đại biểu thanh niên Việt Nam thăm nước Úc, do anh Vũ Trọng Kim, Bí thư thứ nhất Trung Ương đoàn dẫn đầu, trong đoàn có anh Hà Văn Thạch, Tỉnh đoàn Nghệ An, Nguyễn Hoàng Năng, Thành đoàn Thành Phố Hồ Chí Minh. Đại sứ thông báo với chúng tôi mấy nét chính của tình hình Úc, Việt Kiều - gọn và súc tích.…Người lái xe và hướng đạo cho chúng tôi là anh Minh, từng đi thanh niên xung phong ờ Việt nam, đang sống ở Sydney.

Để hiểu thêm phần nào cuộc sống của người Việt ở Úc, tôi thuật một chuyện: Anh Minh - độ 40 tuổi - mỗi sáng tranh thủ đem phân phối giò heo đông lạnh từ Việt Nam, với 4 đùi heo, trong 2 giờ, anh nhận thù lao 400 đola Úc. Rời Sydney, chúng tôi đi Brisbane…Đây là lãnh địa của ông Lưu Vĩnh Phong. Sáu người con của ông lập nghiệp tại đây, 2 trai 4 gái, xoay quanh công ty chế biến hải sản Nam Thái Bình Dương mà ông đã “lên ngôi” Thái Thượng Hoàng - việc điều hành công ty ông giao cho các con, dâu rể của ông và ông chỉ góp ý. Tất cả 12 con dâu rể và 11 đứa cháu nội ngoại sống quanh thành phố, mỗi gia đình đã an cư trong những ngôi nhà có vườn hoa, không to nhưng ấm cúng bằng tiền dành dụm của họ và sự trợ giúp của gia đình ông. Xưởng không lớn, mượn lúc cao nhất 8 công nhân, bình thường 3, thu mua và chế biến vi cá, thịt ngọc trai, hải sâm, đồng thời là đầu não chỉ đạo các chi nhánh đặt ở vài đảo Nam Thái Bình Dương, Singapore, Hồng Kông và “cơ sở mẹ” ở quận 6 thành phố Hồ Chí Minh – nơi ông và bà vợ hướng dẫn chung về đường hướng sản xuất và kinh doanh.…Tuy ở khách sạn, song chúng tôi luân phiên ăn cơm nhà của các con ông Lưu Vĩnh Phong. Họ thuộc lớp lao động trung lưu - mỗi nhà có từ 2 ô tô, nhưng không ai dám mướn người giúp việc.…

Gia đình ông Lưu tề tựu đông đủ đón tôi. Bà cụ 88 tuổi gặp tôi, vẫn nhớ những ngày tôi ở nhà cụ cạnh bót quận 6, kỷ niệm sống lại sinh động. Cụ rưng rưng nước mắt ôm tôi, thều thào : Điều sở nguyện của cụ đã đạt. Qua cặp kính lão khá dày, cụ ngắm nghía tôi rất lâu, vốn không nói được tiếng Việt, cụ phều phào tiếng Triều Châu, sờ nắn tôi và cười: Còn khoẻ lắm! Một bữa ăn thực sự gia đình đã diễn ra. Mọi người đều chăm sóc Thiên Lý, cháu ngoại của tôi cùng đi với tôi.Trừ bà cụ và người rể của ông Lưu, tất cả đều nói tiếng Việt. Tôi xúc động gặp lại cháu Lưu Tuệ Lan, con đầu lòng của ông Lưu, người xướng ngôn đầu tiên Hoa Ngữ của Đài truyền hình thành phố Hồ Chí Minh sau giải phóng. Cô nay đã hơn 40 tuổi, có 2 con, vẫn tiếp tục tìm sách báo tiếng Việt trong nước đọc, đang làm việc ở ngành Ngân Hàng. Bữa cơm gia đình ấy được tổ chức ở nhà người con út của ông Lưu, thực sự chưa hiểu sâu về Việt Nam bởi lúc ở trong nước cậu còn rất bé. Tôi nhớ, năm 1968 – sau hai đợt Mậu Thân, cậu chỉ lên 2 hay 3 tuổi gì đó. Cậu tên là Nghĩa, bây giờ đã có 2 con bụ bẫm.

Theo chỉ đạo của bà cụ và bà Lưu Vĩnh Phong lo cho tôi ở Chợ Lớn năm xưa.…Có lẽ cần nói thêm đôi điều nữa về gia đình này. Khi cô Tuệ Lan làm việc ở đài truyền hình thành phố Hồ Chí Minh, một số người Hoa ở Chợ Lớn căm ghét cả gia đình, cho là họ đã “phản bội tổ quốc” , thậm chí đánh đập cậu con tên Mẫn, còn bé.Nhưng vừa rồi, năm 1998, tại hội nghị chung kết “tiếng hát truyền hình” toàn quốc ở Hà Nội, một thí sinh được giải rất cao, tên lương chí Cường – anh hát 2 bài, một của Phạm Minh Tuấn, một của Thuận Yến, tất nhiên bằng tiếng Việt, có sức truyền cảm đặc biệt. Lương Chí Cường, lấy theo họ mẹ, họ chính của anh là Lưu. Hiện Lương Chí Cường là quân nhân tại ngũ, công tác ở Quân khu 7.

Anh mang dòng máu hoàn toàn Hoa – cha mẹ đều là người Hoa, nhưng anh sinh ở Chợ Lớn, trong một gia đình lao động, tòng quân và tình nguyện trở thành quân nhân chuyên nghiệp. Khi anh được giải, ông Lưu nhận được vô số cú điện thoại của người Hoa chúc mừng ông với niềm tự hào. Cha của Lương Chí Cường là em ruột của ông Lưu (Vĩnh Phong).…Chúng tôi lại từ Brisbane, sau ba ngày nghỉ ngơi, bay đến Melbourne, thành phố công nghiệp, một hải cảng quốc tế, thủ phủ của Bang Victoria ….

Trần Bạch Đằng (Bài 3)

Tại Melbourne…Thượng nghị sĩ Sang Nguyễn (Nguyễn Sang,) người Việt mang quốc tịch Úc thu xếp nơi ăn ở và các cuộc tiếp xúc của chúng tôi. Đầu tiên, chúng tôi thuê 1 phòng ở một motel - kiểu ký túc xá, cạnh trường Đại Học Victoria. Phòng quá chật, tuy giá rẻ (cho 4 người 50 đô la Úc 1 ngày.) Thượng nghị sĩ Sang lại thu xếp cho chúng tôi đến nhà ông TRẦN MINH HOÀNG, một Việt kiều, giám đốc công ty in trong khu chế xuất Tân Thuận (Sand print group) – ngôi nhà 2 tầng rộng rãi; chúng tôi ở đây suốt 5 ngày thăm Melbourne. Gia đình ông Hoàng tổ chức một bữa ăn chào chúng tôi, có mặt ông cụ thân sinh ông, các em cháu, đông đủ cả, do bà mẹ ông Hoàng đứng bếp. Gia đình thượng nghị sĩ Sang cũng tổ chức một bữa ăn nấu theo kiểu Việt Nam (canh chua, thịt kho tộ…) do chị Sang nấu.…

Chúng tôi thăm thành phố Brimbank (thuộc Melbourne) do thị trưởng Ciro Lombardi (gốc Ý) cùng các phụ tá tiếp, thăm trụ sở Quốc Hội, thăm Ủy Ban Bầu Cử (đang sát ngày bầu cử địa phương theo định kỳ) do ông Chedomir Flego trong hội đồng bầu cử tiếp, thăm trụ sở đảng Lao Động (đối lập) và đảng Tự Do đang cầm quyền...Nhưng có lẽ cuộc gặp gỡ giữa chúng tôi với Ban giám hiệu trường Đại học Swinburne đáng ghi nhận hơn cả. Phó hiệu trưởng John Pidgeon, cô trợ lý Patrica Di Virgilio, người điều hành các chương trình hợp tác với nước ngoài, trong đó có Việt Nam, ông quản trị trường thông báo với chúng tôi hoạt động của trường, nhất là cuộc họp ở Hà Nội về đề tài “Toàn cầu hóa cùng những hậu quả của nó,” về sự giúp đỡ đào tạo sinh viên Việt Nam.…

Ở Melbourne , hiện nay 60 ngàn Việt Kiều sinh sống. Thật thú vị khi chúng ta dạo phố, hiệu mang tiếng Việt 100% chen với cửa hàng, văn phòng tiếng Anh và của người Hoa. Riêng một số khu vực - những đoạn đường hàng cây số - chúng tôi xúc động khi đọc tên phở Pasteur, hủ tiếu Mỹ Tho, chả cá, giò lụa, tiệm cơm Nam Trung Bắc, văn phòng Luật sư, kiến trúc sư người Việt. Muốn ăn một bát phở ngon, có lẽ quá dễ dàng ở Melbourne, đủ cả rau thơm,giá luộc, chanh, ớt ngâm dấm, nước mắm Phú Quốc… Thái độ chính trị của Việt kiều ở Melbourne: hướng về tổ quốc, rất ít nhóm quá khích, họ gặp chúng tôi với thái độ trân trọng, yêu mến - họ biết tôi qua sách vở trong nước và ở Mỹ, qua truyền hình và báo chí. Lúc đầu tôi cũng hơi ngại, song càng về sau, tôi chẳng thấy có gì không bình thường cả. Tôi đang ngồi trong một quán ăn, một người trẻ đến chào; Chào ông Trần Bạch Đằng, thật vui thấy ông đến đây ! Vài phút sau, anh thay đổi xưng hô: Bác, cháu…

Tôi đến kiểm tra sức khoẻ ở phòng mạch riêng của một bác sĩ người Hoa từ Việt Nam sang, nói thạo tiếng Việt –bác sĩ TRẦN THANH NHƠN, cùng mở phòng mạch với một nữ bác sĩ Việt. Đọc tên tôi, ông đã vồn vã ra đón và không lấy phí, cả thuốc mà ông cấp.Có thể xem như tôi kết thúc chuyến thăm Úc ở Melbourne . Dù sao , thăm Melbourne 5 ngày cũng là quá ngắn...

Một số thế lực chống đối vẫn còn nhưng teo tóp dần. Trước đây , hàng năm đến ngày 30.4, sứ quán Việt Nam ở Canberra, tổng lãnh sự quán ở Sydney bị một số Việt Kiều đến la ó, phản đối, nhưng số lượng cứ mỗi năm mỗi giảm và ngày 30.4.98, tại Canbrra con số chỉ còn vài trăm. Đó là xu thế tất yếu…./.

Chúng tôi trích những gì TRẦN BẠCH ĐẰNG đã kể lại trong thời gian viếng Úc hồi đầu năm 1999. Trong đó một lần nữa chứng minh cụ thể cho thấy NHỮNG TÊN ĐÂM SAU LƯNG NGƯỜI VIỆT TỴ NẠN CHÚNG TA: Như gia đình Lưu Vĩnh Phong ở Brisbane, NGUYỄN SANG, TRẦN MINH HOÀNG ở Melbourne…Những tên này ngoài mặt chúng phô trương màu cờ sắc áo LÀ NGƯỜI TỴ NẠN TỰ DO, nhưng trong lòng chúng lại VỀ VỚI VIỆT CỘNG. Mà trước đây vẫn có người ngây thơ bênh vực cho chúng. Nay chính Trần Bạch Đằng đã công khai xác nhận rõ ràng về bộ mặt gian xảo, điệp đôi của chúng nó.

*** Riêng Trần Minh Hoàng chính là chủ nhân của Văn Phòng dịch vụ DI TRÚ với bảng hiệu ĐỖ MINH

Sunday, 22 June 2014

NÓI VỚI LS NGUYỄN (VÔ) TÂM SAN JOSE

TÊN LÁO TÁO NGUYỄN TÂM NẦY - BẦU CHO NÓ THÌ RỐT CUỘC CŨNG NHƯ CAO QUANG ÁNH, HÒANG GIAN HÙNG THẾ THÔI./- Mt68
*Trích y 1 đọan:
*TRẦN BẠCH ĐẰNG (Trương Gia Triều) chú của TRƯƠNG GIA VY- Gốc Miền Trung ? (vụ án Trương gia kỳ Sanh bị ném ra Hà Tỉnh, vùng an tòan Việt Minh 1950.)

(Một tiểu sử tóm tắt của ông được viết ngoài lề của cuốn sách. Tên thật là Trương Gia Triều, còn có bút danh khác là Hưởng Triều, Nguyễn Trương Thiên L‎ý, tên thường gọi là Tư Ánh. Sinh ngày 15/7/1926 trong một gia đình nho học tại làng Thạnh Hưng (nay là Hoà Hưng), quận Giồng Riềng, tỉnh Rạch Giá, nay là Kiên Giang.)


Nói đến luật sư Nguyễn Tâm, chúng ta phải kể một chiến thắng vẻ vang của ông ta là thắng vụ kiện kiện tờ báo Việt Mercury mà người ta thường gọi là tờ báo Ốc mượn hồn, do ông Trần Đệ làm chủ bút. Tờ này chép nguyên văn 28 chữ trích trong tờ Saigon USA của luật sư Nguyễn Tâm mà không nêu xuất xứ. Chứng cớ rành rành nên bị đơn đành phải thương lượng ngoài tòa (?). Ngoài chiến thắng này, có thể nói tất cả những gì mà ứng cử viên Tâm Nguyễn nêu ra để cho là thành tích vẻ vang của mình đều là nửa vời hay thành tích ảo. Đó là sự thật 100% mà tôi xin chứng minh ra đây:
- Vụ Bích Câu, ban đầu "ra tay tế độ" nhưng cuối cùng phải đến tay luật sư Mỹ, luật sư Tâm Nguyễn đã tự chấm dứt "nửa chừng Xuân".
- Vụ Hội Tàu và vụ "Đòi Hỏi Công Bằng", luật sư Tâm Nguyễn cũng đánh trống khua chiêng rồi "âm thầm đi vào ngỏ cụt", khiến cho nhiều hội viên nghi ngờ thiện chí của luật sư Tâm, họ cho rằng "luật sư Tâm" làm đẹp lòng cả 2 bên, nhưng bên những nạn nhân thiệt thòi rất nhiều".
           Mới đây, nhân vụ Giám Sát Viên Cindy Chavez đề nghị Quận Hạt cấp cho một ngân khoản để xử dụng cho cuộc NGHIÊN CỨU & PHÁC HỌA về một Trung Tâm Dịch Vụ Xã Hội cho người Mỹ gốc Việt  - Vietamese American Service Center, do Betty Duong, Policy Aide Office of Supervisor Cindy Chavez phổ biến lời mời của bà Cindy Chavez, nhưng ứng cử viên Tâm Nguyễn chép lại lời mời này nhưng lại "yêu cầu liên lạc với luật sư Tâm tại số phone...". Sau đó, còn lên radio AM1500 ba hoa chích chòe ra cái điều ta đây ĐANG ĐẺ ra cái Trung Tâm này. Có phải đây là một cách chôm credit của người khác?
Về nghề nghiệp thì luật sư Tâm Nguyễn là một luật sư từng bị treo bằng hành nghề. Trên làn sóng 1500AM khi trả lời câu hỏi luật sư Tâm nghĩ sao về Measure B liên quan đến vấn đề hạn chế lương và tiền hưu của lính cứu hỏa và cảnh sát San Jose đã được cử tri chấp thuận "cắt giảm" khiến nhiều cảnh sát đã rút lui và đi đầu quân nơi khác. Mặc dù đã được người phỏng vấn mớm ý, luật sư Tâm cũng rất lúng túng. Nhiều cử tri gốc Việt đã bất mãn cách trả lời lòng vòng của luật sư Tâm.
-Đúng ra trước đây, khi kinh tế cả nước, trong đó có kinh tế San Jose lên như diều gặp gió thì benefit của cảnh sát và lính cứu hỏa San Jose được ưu đãi đặc biệt: lương đã rất cao mà khi về hưu lại được lãnh hàng tháng số tiền tương đương trên dưới 80% số lương sau cùng.- Luật sư Nguyễn Tâm chỉ trả lời huề vốn.
          Nhưng, chuyện kiện tụng trước tòa án của luật sư Tâm Nguyễn và Đỗ Vẫn Trọn là đáng lưu ý nhất, đồng thời cũng chuyển lời cảnh báo đến toàn thể đồng hương "những người đã từng được Việt Cộng móc nối, từng cộng tác với Việt Cộng thì khó mà vùng ra được". Chuyện lớn thì chúng ta thấy bọn chóp bu Việt Cộng hiện nay, dù toàn dân, dù cả thế giới coi như bảo đảm sẽ giúp đỡ Việt Cộng chống lại Trung Cộng. Cái gương sờ sờ trước mắt là 2 quốc gia Nhựt Bản và Philippines đã ký kết các hiệp ước bảo vệ song phương thì Trung Cộng chỉ đưa mắt nhìn chứ không dám hành động xâm lăng trắng trợn, nhưng bọn VC vẫn không dám dứt khoát chỉ vì chúng đã bị Trung Cộng cho uống "thi đan thần não" tức là bị cấy "sinh tử phù". Suy cho cùng thì muốn chống Trung Cộng phải loại Việt Cộng trước. Ở hải ngoại này, muốn đoàn kết chống Cộng cũng phải loại trừ những kẻ có thành tích dính líu với Việt Cộng. Tiếc thay, luật sư Tâm Nguyễn đã có bằng chứng dính líu tới Việt Cộng "cấp cao", cỡ thủ tướng (chứ không phải thủ trưởng) Võ Văn Kiệt.
          Đọc đến đây, những ai binh vực luật sư Tâm, ứng cử viên nghị viên đơn vị 7 sẽ hỏi "như vậy, những ai đã một lần dính tói VC là vô phương cứu chữa sao? Chính sách chiêu hồi, thêm bạn bớt thù ở đâu?". Đúng! Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh người chạy lại. Tiếc thay, ứng cử viên Nguyễn Tâm không chạy trở lại một cách quang minh chính đại. Câu trả lời của luật sư Tâm là "đang dạy Anh văn thì bị mật vụ đến bắt đi đến chụp hình với thủ tướng". Một thủ tướng, dù là thủ tướng VC cũng không đến nỗi rảnh rỗi và  lại "mết" chụp hình như vậy. Nếu luật sư Nguyễn Tâm  là một giai nhân chân dài thì lời biện bạch trên có thể thuyết phục. Đằng này không phải vậy. Điều này khiến cho cử tri gốc Việt thấy lạnh người.
          Cũng vì vụ đính líu với Việt Cộng mà mặc dù ứng cử viên Vân Lê hầu như không có pha vận động nào "ra hồn" nhưng vẫn được số phiếu khá cao, thiếu chút nữa là vào chung kết. Vì thế, ứng cử viên Nguyễn Tâm dù có kêu rát cổ "Người Việt bầu cho người Việt" những kẻ đã chọn Vân Lê chắc chắn không chọn "người Việt Tâm Nguyễn". Vì cái bức ảnh chụp chung với Việt Cộng Võ Văn Kiệt.
          Hai bài viết "Cám ơn cử tri" của Nguyễn Thiếu Nhẫn và "Thư cảm tạ gởi bà Madison..." của tôi tuy văn phong không đặc sắc, tuy lời nói thật "nhiều khi mất lòng", nhưng đã được cử tri gốc Việt rất hài lòng, rất ưng ý, và hứa sẽ suy nghĩ nhiều lúc chọn ứng cử viên khu vực 7. Nhưng trên hết, cử tri gốc Việt đã thoát ra khỏi cái lồng sắt "Người Việt bầu cho người Việt". Hai bài viết này có số thu hoạch rất cao, nếu không nói là bội thu. Chúng tôi với luật sư Nguyễn Tâm không thù, không oán, nhưng:
          "Thương anh em để trong lòng, 
          Việc công em cứ phép công em làm".

          Xưa nay, tuần báo Tiếng Dân và chúng tôi vẫn chỉ một con đường chống Cộng, chống những ai phá hoại cộng đồng tị nạn Cộng Sản.

Kiêm Ái

Sunday, 24 March 2013

Mt68: TỔ "HƠI TRÁC " TRƯƠNG MINH HÒA - 
TÀI LIỆU TRẦN BẠCH ĐẰNG ĐẾN ÚC DO Mt68 TRÍCH Y TỪ CUỐN HỒI KÝ CỦA TRẦN BẠCH ĐẰNG là của MỘT NGƯỜI BẠN MANG TỪ VN v ÚC CHO MƯỢN XEM- CUỐN HỒI KÝ ĐÓ HIỆN NẰM TẠI WOY WOY , CENTRAL COAST, CÁCH SYDNEY ĐỘ GẦN 100 KM- NHÀ CỦA MỘT NGƯỜI BẠN ĐÃ QUA ĐỜI - TRONG LÚC BỆNH NẶNG MÀ VẪN NÀI NĨ MUỐN XEM CUỐN NHỰT KÝ - DO ĐÓ CUỐN NHỰT KÝ HIỆN NẰM Ở WOY WOY KHÔNG HIỂU VẪN CÒN ĐÓ HAY NÓ ĐÃ LƯU LẠC ĐẾN ĐÂU ???

Đọc bài nầy của TRƯƠNG MINH HÒA, thấy có những điểm sai do TRƯƠNG MINH HÒA copy từ 3 bài TRÍCH Y của Mt68 đã phổ biến nên Mt68 XIN ĐIỀU CHỈNH CHO THẬT ĐÚNG, hầu tránh được lỗi lầm thông thường TAM SAO THẤT BỔN . Mong tác giả TRƯƠNG MINH HÒA dành một chút TẬN TÂM, CHÂN THẬT SUY NGHĨ giùm:

1- TRẦN BẠCH ĐẰNG qua Úc vào ĐẦU THÁNG GIÊNG 1999 - KHÔNG PHẢI vào Tháng 5- 2008. Ngày 25-5-2008 LÀ NGÀY Mt68 post bài trên Trang Mậu Thân 68 cũ, đã bị phá hủy vào Tháng 6/2012. Nhưng may là chúng tôi còn Back Up được khá nhiều tài liệu mà chúng tôi đã đăng.

2- NGƯỜI MUA VÉ cho TRẦN BẠCH ĐẰNG chính là thương gia LƯU VĨNH PHONG - Chứ không phải LƯU VĨNH PHÚC mà Trương Minh Hòa đã ghi. LƯU VĨNH PHONG là người giấu TRẦN BẠCH ĐẰNG dưới hầm nhà, một hãng làm đồ PLASTIC, nằm ngay bên cạnh BÓT CẢNH SÁT QUẬN 6; Đường Phan Văn Chí, Q.6, trong suốt thời gian TRẦN BẠCH ĐẰNG làm bí thư thành ủy SÀIGÒN trước 1975. LƯU VĨNH PHONG có đứa CON GÁI là đứa đọc TIN TIẾNG HOA trên đài phát thanh SàiGòn lần đầu tiên sau Ngày 30-4-1975. Gia đình LƯU VĨNH PHONG không phải vượt biển trốn chạy, mà được TRẦN BẠCH ĐẰNG đề nghị với VÕ VĂN KIỆT cho "BỐ TRÍ" gia đình LƯU VĨNH PHONG ra nước ngoài sinh sống.

Thưa TRƯƠNG MINH HÒA;

QUA bài viết nầy, chúng tôi nhận thấy TRƯƠNG MINH HÒA chỉ là NGƯỜI CHÉP TÀI LIỆU; dựa vào tài liệu góp nhặt mà viết thành BÀI BẢN, khiến cho người đọc LẦM TƯỞNG TÁC GIẢ là một người HỌC RỘNG, HIỂU NHIỀU, NHỚ DAI với những chất liệu của CÁ NHÂN. NHƯNG thật sự thì hoàn toàn KHÔNG PHẢI !!! Những bài viết sông sâu, bể rộng của TRƯƠNG MINH HÒA chỉ toàn là những tài liệu cóp nhặt, chắp vá ... lập lờ mờ mờ, ảo ảo cố làm cho người đọc tưởng mình có đến 4 BỒ CHỮ (Nguyễn Công Trứ chỉ có 3 thôi).

Tiện đây, cũng xin để trả lời dư luận vừa mới chất vấn Mt68: Xin cho biết thêm về việc Bà NỮ HOÀNG ANH đã CHÚ Ý đến 3 quyển sách CHỐNG CỘNG bằng ANH NGỮ của TRƯƠNG MINH HÒA ? ....!!!

Kính bái NGƯỜI HÙNG CHỐNG CỘNG !!!
Mt68
Tháng 3/2013.







TẠI SAO TRẦN BẠCH ĐẰNG TIẾT LỘ CƠ SỞ SAU KHI THĂM VIẾNG ÚC CHÂU?
     
     Tên ác ôn Việt Cộng Trần Bạch Đằng, tức là Trương Gia Thiều, từng giữ những chức vụ quan trọng trong thời Việt Minh như chủ nhiệm tờ Nhân Dân Miền Nam ( thay thế Lưu Quí Kỳ, vì tên chủ nhiệm đầu tiên nầy có bài phát biểu khác hơn bài tham luận của Lê Duẫn về cái gọi là" dân chủ nhân dân" tại Ấp Nhàn Dân, tỉnh Bạc Liêu), dù đã từng bị Hồ Chí Minh có ý định giết như tướng Nguyễn Bình do chính sách kỳ thị bắc nam, sau đó, Trần Bạch Đằng nhận lịnh ra bắc họp nhưng hắn rét mà không đi, tuy nhiên tên nầy vẫn mù quáng ôm chân đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, làm tay trọn đời cho đảng cộng sản, là tay chỉ huy đội quân khủng bố Việt Cộng trong cuộc chiến Việt Nam, hắn cúc cung đảng bác cho đến ngày tiêu diêu nơi miền Lê Mác. 

 Trần Bạch Đằng là tên tội đồ dân tộc, tham gia đảng cướp Việt Cộng gần như trọn đời. Được biết tên Trần Bạch Đằng là người phong quân hàm thiếu tá quân đội nhân dân cho tên nhạc sĩ nằm vùng Trịnh Công Sơn ( tài liệu có trong quyển Ngành Đặc Biệt 1 của đại tá Nguyễn Mâu, vị chỉ huy cảnh sát đặc biệt miền nam, thời thiếu tướng Trần Văn Hai làm tổng giám đốc cảnh sát quốc gia. Sau vụ bắt trọn cụm tình báo chiến lược A 22, thì tướng Hai và Nguyễn Mâu bị đổi đi, thay vào là thiếu tướng Nguyễn Khắc Bình, đây là nghi vấn đặt ra với tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, tại sao ông loại bỏ những người có công lớn khám phá và bắt trọn ổ gián điệp Việt Cộng nằm vùng trong phủ tổng thống?. Hình như ông Thiệu tức giận vì đã bị tướng Trần Văn Hai và đại tá Nguyễn Mâu phá vở kế hoạch cải tổ nội các, đưa Huỳnh Văn Trọng làm thủ tướng, Vũ Ngọc Nhạ làm bộ trưởng nội vụ..?. Hành vi và việc làm của ông Thiệu rất khó hiểu, có thể ông là một siêu điệp trèo cao lặn sâu?)

     Trần Bạch Đằng xuất ngoại đi" tham quan" các nước tư bản phản động để biết tình hình và làm công tác, do đó trong chuyến" du hý" theo chính sách, vào thán 5 năm 2008, tên ác ôn Việt Cộng Trần Bạch Đằng ghé Úc Châu, nhưng hắn dấu nhẹm tông tích, không rần rộ như những tên khác, chỉ có vài cơ sở nằm vùng tiếp đón và chiêu đãi và âm thầm đi khảo sát tình hình ở Úc Châu. Nếu hắn chính thức đi công tác, thì chắc chắn là nhận được sự phản ứng của hơn 200 ngàn người Việt tị nạn, bày tỏ lập trường:" không chấp nhận cộng sản dưới bất cứ hình thức nào".

     Tuy nhiên, sau khi xong chuyến du hý, thì trở lại vùng" thiên đàng cộng sản dành cho cán ngố", tên Trần Bạch Đằng tung ra hồi ký, trong đó hắn bạch hóa những người đón tiếp, chiêu đãi, nên người ta đặt ra nghi vấn: tại sao tên Trần Bạch Đằng phá hủy những cơ sở nằm vùng, đây là những người bí mật, cần được bảo vệ để thi hành những công tác khác, lâu dài trong cộng đồng người Việt hải ngoại?. Đào tạo nuôi dưỡng, xâm nhập, tạo cơ sở là công tác quan trọng, nhứt là cơ sở nằm trong vùng đất thù nghịch, không lẽ tên Trần Bạch Đằng, cáo già trong  lãnh vực tình báo, tuyên truyền mà lại vụn về như thế?. Đó là những câu hỏi đặt ra để tìm hiểu lý do nào mà tên trùm khủng bố, ác ôn Trần Bạch Đằng công bố những cơ sở, tiếp đãi hắn rất là chân tình, thân thương. Tại Úc Châu, những nhân vật đã tiếp đón, hướng dẫn và" chiêu đãi" tận tình trên trùm khủng bố Trần Bạch Đằng đã được hắn bạch hóa như sau:

1-Ông Trần Minh Hoàng, tức là người điều hành văn phòng Di Trú Đổ Minh, một nhân vật mà ít ai biết, nhưng lại đón tiếp trên cán bộ cao cấp, trung tướng Việt Cộng. Theo kinh nghiệm, thì bất cứ ai làm nghề mở văn phòng lo dịch vụ di trú bảo lãnh, du lịch…nếu muốn làm ăn khá, dịch vu nhanh, thì phải có quan hệ với nhà nước Việt Cộng qua sứ quán. Do đó, bất cứ ai, dù gốc là sĩ quan, công chức VNCH, mà mở văn phòng di trú, đều phải đi qua cửa ải" sứ quán" nên những kẻ nào làm việc thiện nguyện trong các ban chấp hành cộng đồng, quân nhân, nhưng có văn phòng lo di trú, là hãy đề phòng, đây là những kẻ phản bội, sẵn sàng bán đứng mọi người để thủ lợi cá nhân và không chừng những hình ảnh, hồ sơ tổ chức cộng đồng, hội đoàn đã bị gởi về cục tình báo hải ngoại để" điều nghiên". Đừng tưởng là sĩ quan cao cấp, công chức gạo cội, khoa bảng nổi tiếng mà không phản, như thiếu tướng Nguyễn Cao kỳ là bằng chứng. Do đó, ông Trần Minh Hoàng tiếp đón nồng hậu tên Trần Bạch Đằng cũng là điều không ngoài suy nghĩ của mọi người, làm ăn là phải chiều lòng đối tác, nhứt là đối tác có thẩm quyền cấp hộ chiếu, hồ sơ bảo lãnh, hôn nhân ( thiệt-giả).

2-Thương gia Lưu Vĩnh Phúc ở Brisband ( tiểu bang Queesnland) là chủ nhân công ty hải sản Thái Bình Dương, là người đưa Trần Bạch Đằng vào cư ngụ tại khách sạn sang trọng ở Casino. Công ty hải sản, thì có quan hệ đến việc bán cá, nhập cảng từ Việt Nam, nên ông thương gia nầy lo cho Trần Bạch Đằng cũng là lý do làm ăn, nhưng ông nhà buôn nầy quay lưng với lập trường tị nạn, muối mặt để tiếp đón tên khủng bố Trần Bạch Đằng, là thái độ thông thường của phường" vi phú bất nhân" thì lập trường không kể số gì, miễn sao đặt lợi nhuận như câu:" miếng ăn là miếng tồi tàn, mất ăn một miếng, lộn gan lên đầu". Tại hải ngoại, trong những thương gia chân chính, thì cũng có một số gian thương, núp bóng tị nạn, buôn bán với Việt Cộng, nên người Việt hải ngoại nên cẩn thận, cảnh giác trước những thương gia nào có đặt hàng ở Việt Nam. Thành phần thương gia thường hay đi đêm, nhưng cũng có ngày gặp ma là tán gia bại sản như những kẻ làm ăn tại VN: Úc kiều Nguyễn Trung Trực, vua chả giò Trịnh Vĩnh Bình, cháu ngu ghẻ bác Hồ là Trần Trường cũng đã bị" trấn lột" tán gia bại sản, bỏ của chạy lấy người, đã vậy mà còn chạy về Mỹ, được băng đảng Việt Tân" nâng bi" mở cuộc họp báo với không đầy 20 mạng, để vận động tài chánh cho Trần Trường về Việt Nam thưa kiện để lấy lại tài sản, và đáng cười là họ còn" mặt chay mày đá" đưa lên internet để phổ biến, như vậy quả là:" một tên Việt gian lâm nguy, cả bọn đón gió cùng chia xẻ". Tuy nhiên chỉ có hai nữ doanh gia nước ngoài là Carina Hoàng Oanh và Nancy Bùi là làm ăn trong" thanh tâm trường bền vững" cũng là điều ngoại lệ trong cái:" xã hội chủ nghĩa, cầu ỉa cũng phải rào"…nên Việt kiều nào làm ăn bền mà không bị trấn lột? Câu trả lời nầy dành cho mọi người và cả hai nữ doanh gia" sáng giá" nhứt trong số những người về làm ăn tại Việt Nam.

3-Bác Sĩ Trần Thanh Nhơn, không rõ ông" lương y như từ mẫu" nầy đã có mối" quan hệ hữu cơ" ra sao với trung tướng quân hại nhân dân là Trần Bạch Đằng, nhưng khi tên ác ôn nầy" quá độ" đến phòng mạch, sau khi nghe xưng danh tánh, thì bác sĩ nầy rất " ái mộ" tiếp đón rất là" thân kính" nên không tính tiền, vì khách ngoại quốc không có qui chế y tế Medicare, nên phải trả tiền cao. Chẳng lẽ bác sĩ nầy làm chùa cho cán cộng, nên từ nay, hể bất cứ bịnh nhân nào đến phòng mạch, chỉ cần xưng danh là" cán bộ" chắc là được đối xử như Trần Bạch Đẳng, nếu có mang theo" công vụ lịnh" thì chắc là được chữa trị miễn phí?. Còn dân thường, dân tị nạn ở đó, là thành phần" phản động" nước ngoài, nên bác sĩ phải tính tiền, từ gạt Medicare, chớ bác sĩ nào làm chùa cho dân" phản động" nên bác sĩ nầy đúng là" lương y như đồ bỏ". Người ta không biết bên trong như thế nào, nhưng bác sĩ tị nạn lại không dám tính tiền tên Việt Cộng cốm, dù hắn đi du hý, xâm nhập âm thầm vào vùng đất tị nạn, chung quanh là những" ân oán chồng chất".

4-Ông nghị Nguyễn Sang: từ lâu, ông nghị đảng Lao Động cánh tả ở hội đồng lập pháp tiểu bang Victoria, là" chàng nghị sĩ vốn dòng thân cộng, đã bao phen làm lợi bạo quyền" nhưng chưa được xác minh, dù ông ta có những việc làm sau đây:

-Được phó chủ tịch quốc hội Vẹm ca tụng (đăng trên tờ báo Việt Luận trước đây).
-Thường tham gia vào các bửa tiệc với những tên thủ lãnh như Đổ Mười, sang" tham quan và ăn mày" ở Úc, thay vì đi biểu tình cũng các cử tri và có các các dân biểu, nghị sĩ người Úc, thì ông nghị Nguyễn Sang làm công tác" phục vụ cử tri" một cách tận tình và" theo định hướng xã hội chủ nghĩa" là đi ăn tiệc với cán ngố Việt Cộng. Đó là thành tích nổi bật trong thời gian làm ông nghị đến 10 năm ( 2 nhiệm kỳ), chắc là những ai phụ trách các chi bộ đảng Lao Động người Việt ở Melbourne nên coi đây là" thành quả xuất sắc" trong việc vận động để đưa ông nghị sang vào chính trường. 

Nghe đâu, chi bộ đảng Lao Động gốc Việt ở Victoria có kế hoạch đưa Nguyễn Thế Phong ứng cử vào chiến ghế dân biểu, khi có ông dân cử Lao Động sắp về hưu? Nhưng Nguyễn Thế Phong là ai, thì nhiều người biết, cứ hỏi Võ Long Ẩn là được" cho xem miễn phí " xấp  tài liệu về tình trạng chi thu" bất thường" từ 2000 đến 2009 từ quỷ cộng đồng do chính phủ cấp và tiền đóng góp của người Việt, cũng như sự sai biệt tiền quyên góp từ thiện giúp nạn cháy rừng ở Victoria, khác nhau giữa tiền công bố trên báo và tiền giao cho Hồng Thập Tự đến gần 50 ngàn Úc Kim. Những tài liệu nầy đã được công bố và ngoài ra Nguyễn Thế Phong còn là người có mối" quan hệ hữu cơ" với băng đảng Việt Tân, nên mới được làm chủ tịch cộng đồng tiểu bang và liên bang, chớ không phải là Việt Tân, làm sao chen chân được.

-Trong thời gian còn" thay cho người Việt để ăn nói", nghe đâu Nguyễn Sang có kế hoạch vận động các đồng viện, dân cử Úc, về Việt Nam để ăn  mừng đại thắng mùa xuân, nhưng kế hoạch nầy bị tiết lộ và bị bể, không thực hiện được.

-Nguyễn Sang thường ra vào Việt Nam lúc tại chức và được ở Dinh Quốc Khách, thật là có thế lực và đẻ bọc điều, dù ông nghị nhà ta phải nhờ người nào đó viết tiếng Anh để phát biểu trong nghị trường.

-Ông Nghị từng cho vợ lớn mượn công xa để vào siêu thị ăn cắp, có báo đăng.

    Tại sao Trần Bạch Đằng, sau khi đến Úc Châu được các cơ sở tiếp đón, chiêu đãi chân tình trong bí mật, lại trở về viết hồi ký, kể rõ từng người, có phải là hại không? Nhưng người ta không ngạc nhiên về bản chất:" ăn cháo đá bát" hay là:" ăn trái giết kẻ trồng cây, uống nước bế nguồn" từ thời súc vật Hồ Chí Minh còn sống đến nay, vẫn không bao giờ thay đổi: thời kháng chiến, biết bao gia đình giàu, địa chủ hiến của, như trường hợp bà Nguyễn Thị Năm ở Hải Phòng, hiến rất nhiều vàng và hàng ngày công ruộng, thế mà sau khi ban hành cải cách ruộng đất, Hồ mang bà Năm ra đấu tố đầu tiên để làm gương. Nhiều người hưởng ứng giúp cán ngố nương tựa qua chính sách tam cùng:" cùng ăn, cùng ở, cùng làm", nhưng khi làm chủ miền bắc, thì những tên cán bộ từng ăn dầm nằm về trong nhà lại dẫn người đến tịch thu tài sản, đấu tố và biết tiền, vàng dấu ở đâu….dân miền nam cũng bị lừa, nên ngày nay trong hàng ngũ dân oan, có nhiều" bà mẹ chiến sĩ" từng hăng hái" đánh Mỹ cứu nước" nay bị chính những kẻ từng được che dấu tịch thu đất, nhà…

     Việc Trần Bạch Đằng tiết lộ tên họ những người đã giúp hắn được hưởng thú vật chất" tại nước tư bản phản động" như Úc và che dấu tông tích rất kỷ như" mèo dấu cứt", nếu không thì sẽ bị biểu tình, nhưng Trần Bạch Đằng lại hại họ, đó là chính sách trước sau như một, lý do đơn giản là Trần Bạch Đằng cũng như tất cả cán cán bộ đều nghi kỵ lẫn nhau, các ĐỒNG CHÍ thân thương còn ĐÌ CHÓNG nhau quyết liệt, nên những cơ sở, có thể là năm vùng, tay sai, không được bảo đảm, nhứt là những người sống lâu năm ở nước ngoài, lại càng không tin được, nên Trần Bạch Đằng thực thi chính sách đảng:" khi người thợ săn biết con chó của mình không còn khả năng săn mồi được nữa, thì người thợ săn phải biết ăn thịt chó".

    Hy sinh vài cơ sở, nhưng đạt được mục tiêu lớn trong tuyên truyền qua hồi ký Trần Bạch Đằng, thì dân trong nước tin là Trần Bạch Đằng sang Úc, chẳng những không bị biểu tình, chống đối, trốn chui trốn nhủi, mà còn được" người Việt ở Úc" chiêu đãi, ở khách sạn, khám bịnh miễn phí bởi những thành phần có vai vế trong xã hội như bác sĩ, thương gia, dân cử gốc Việt, chủ văn phòng dịch vụ di trú…đó là lối tuyên truyên láo, thì hy sinh vài người cũng không quan trọng, khi cứu cánh biện minh cho phương tiện./.

 Trương  Minh Hòa
24.03.2013 



3 BÀI Mt68 ĐÃ ĐĂNG  
Trích Hồi Ký TRẦN BẠCH ĐẰNG Tiết Lộ Về Nằm Vùng NGUYỄN SANG (Melbourne) TRẦN MINH HOÀNG (Di Trú Đỗ Minh-Melbourne) và LƯU VĨNH PHONG (Brisbane)

Sunday, May 25, 2008, (Bài 1)

Tôi (Trần Bạch Đằng) lý do thăm Úc của tôi. Thời chống Mỹ, khi phụ trách Bí Thư Thành Ủy Sài Gòn, tôi được Đảng Ủy Hoa Vận Thành Phố bố trí nơi ăn ở trong nhà đồng bào Hoa. Một trong những ngôi nhà đó - Đường Phan Văn Chí, Quận 6 – nay nhà Truyền Thống Phong Trào người Hoa ở Sài Gòn là, một xưởng làm đồ chơi cho trẻ con, nằm sát bót cảnh sát ngụy quận 6. Tại đây, có lần, qua cửa hé, tôi thấy Nguyễn Ngọc Loan, Tổng giám đốc cảnh sát quốc gia Sài Gòn đến làm việc với cảnh sát quận.

Nhà có hai hầm bí mật (nay vẫn còn) để khi có động, tôi rút vào. Hầm trang bị điện, quạt và…súng ! Vợ chồng chủ nhà, các cháu và bà cụ hết lòng bảo vệ chăm sóc tôi, mặc dù rất nguy hiểm đối với họ nếu chẳng may tông tích của tôi bị bại lộ: Địch dán hình tôi khắp thành phố với tiền thưởng khá lớn cho ai chỉ hoặc giết tôi, nhưng không có bất kỳ chuyện xấu nào xảy ra.

Sau giải phóng, gia đình làm ăn khó khăn. Anh Nguyễn Văn Linh (* Tổng Bí Thư) trao đổi với tôi nên để gia đình ra đi hợp pháp, tìm cách sinh sống, khi tình hình khá sẽ tính sau. Họ ra đi năm 1986.Từ Hồng Kông, gia đình chuyển sang Úc và người chủ biết rằng có thể sống được – thậm chí sống khá - nếu kết hợp được nguồn nguyên liệu của Việt Nam với thị trường Nam Thái Bình Dương tuy nhỏ mà vừa với khẳ năng của gia đình.

Họ chọn nghề ướp cá mặn – món ăn quen thuộc của người Hoa và cũng vừa túi tiền dân các đảo Nam Thái Bình Dương, nói chung còn nghèo. Thế là thị trường Salomon, Papouasie, Tuvalu, Fiji, Karibati, v.v. mở ra. Cá mè Gò Công, chế biến ở quận 6, đóng container xuất sang các nước…Ngoài cá mặn, gia đình còn làm vi cá, cải muối, bào ngư, hải sâm…Công việc mở rộng thêm một bước: mua cá ở Úc và các đảo, sơ chế ở Brisbane, chuyển về tinh chế ở quận 6, thành phố Hồ Chí Minh, đóng container xuất sang Hồng Kông, các đảo Nam Thái Bình Dương với một số trạm phân phối như ở Karibati.

Bây giờ, đó là một công ty gia đình chế biến thêm thịt ngọc trai…Trong mỗi lần về nước, người chủ đều đến thăm tôi. Anh tỏ nguyện vọng: đón tôi sang Úc nghỉ, quan sát. Anh nói thêm: Mẹ anh đã 88 tuổi, luôn nhắc tôi và mong được gặp mặt – bà từng nấu ăn cho tôi thời bí mật. Sức khoẻ của người sắp lên cửu tuần không cho phép bà bay về nước.Có thể gọi những điều trên là “Cơ Duyên” đưa tôi đến Úc lần đầu tiên nầy…

*** SYDNEY
Chúng tôi theo đường Singapore đến Úc, trên chuyến bay của hảng Qantas. Như vậy chuyến bay dài gấp đôi thời gian bình thường, vì chúng tôi không lấy được chỗ bay trực tiếp từ thành phố Hồ Chí Minh tới Sydney - số Việt Kiều ở Úc về quê ăn Tết năm nay (*1996) đông hơn mọi năm và chúng tôi đi trùng dịp bà con quay lại nước Úc sau Tết ở quê hương...Người trong gia đình ông LƯU VĨNH PHONG, chủ công ty chế biến hải sản Nam Thái Bình Dương, đón chúng tôi và đưa về khách sạn Star City, nơi có sòng Casino nổi tiếng...

Chúng tôi đi thăm những địa điểm tiêu biểu nhất của thành phố: đường hầm 12 km xuyên biển, cầu Sydney bằng sắt hao hao cầu Long Biên – Hà Nội xây từ thế kỷ trước, nhà hát thành phố với kiểu dáng nhiều vỏ sò chụp lên nhau, sức chứa 2700 chỗ ngồi, xây trong 15 năm mới xong (1958-1973), tốn đến 650 triệu quan Pháp, vườn bách thú… là những nơi không xa lạ với công chúng Việt Nam. Tổng lãnh sự Việt Nam ở Sydney- một cán bộ ngoại giao 30 năm trong nghề, dịu dàng như mọi phụ nữ Việt Nam, đến cạnh chúng tôi và thông báo một số tình hình địa phương, nhất là tình hình người Việt định cư khá tập trung ở Sydney- trong tổng số 200 ngàn người Úc gốc Việt thì một nửa sống ở đây...Chúng tôi dành một ngày đi Canberra…

(Bài 2) Monday, May 26, 2008
Posted by Nam Tào

Tại Canberra...Ngay chuyện chúng tôi tìm sứ quán cũng không dễ. Khu sứ quán nằm bên ngoài trung tâm, phải cần xe sứ quán ra “tam kỳ lộ” dẫn dắt chúng tôi vào sứ quán. Đoàn chúng tôi được sứ quán đón nhiệt tình, từ đại sứ, tham tán đến cán bộ - vốn không đông lắm. Và sứ quán “thết” chúng tôi một bữa phở Bắc có chất lượng, với món nước mắm và rau thơm truyền thống.Tại đây, chúng tôi gặp đoàn đại biểu thanh niên Việt Nam thăm nước Úc, do anh Vũ Trọng Kim, Bí thư thứ nhất Trung Ương đoàn dẫn đầu, trong đoàn có anh Hà Văn Thạch, Tỉnh đoàn Nghệ An, Nguyễn Hoàng Năng, Thành đoàn Thành Phố Hồ Chí Minh. Đại sứ thông báo với chúng tôi mấy nét chính của tình hình Úc, Việt Kiều - gọn và súc tích.…Người lái xe và hướng đạo cho chúng tôi là anh Minh, từng đi thanh niên xung phong ờ Việt nam, đang sống ở Sydney.

Để hiểu thêm phần nào cuộc sống của người Việt ở Úc, tôi thuật một chuyện: Anh Minh - độ 40 tuổi - mỗi sáng tranh thủ đem phân phối giò heo đông lạnh từ Việt Nam, với 4 đùi heo, trong 2 giờ, anh nhận thù lao 400 đola Úc. Rời Sydney, chúng tôi đi Brisbane…Đây là lãnh địa của ông Lưu Vĩnh Phong. Sáu người con của ông lập nghiệp tại đây, 2 trai 4 gái, xoay quanh công ty chế biến hải sản Nam Thái Bình Dương mà ông đã “lên ngôi” Thái Thượng Hoàng - việc điều hành công ty ông giao cho các con, dâu rể của ông và ông chỉ góp ý. Tất cả 12 con dâu rể và 11 đứa cháu nội ngoại sống quanh thành phố, mỗi gia đình đã an cư trong những ngôi nhà có vườn hoa, không to nhưng ấm cúng bằng tiền dành dụm của họ và sự trợ giúp của gia đình ông. Xưởng không lớn, mượn lúc cao nhất 8 công nhân, bình thường 3, thu mua và chế biến vi cá, thịt ngọc trai, hải sâm, đồng thời là đầu não chỉ đạo các chi nhánh đặt ở vài đảo Nam Thái Bình Dương, Singapore, Hồng Kông và “cơ sở mẹ” ở quận 6 thành phố Hồ Chí Minh – nơi ông và bà vợ hướng dẫn chung về đường hướng sản xuất và kinh doanh.…Tuy ở khách sạn, song chúng tôi luân phiên ăn cơm nhà của các con ông Lưu Vĩnh Phong. Họ thuộc lớp lao động trung lưu - mỗi nhà có từ 2 ô tô, nhưng không ai dám mướn người giúp việc.…

Gia đình ông Lưu tề tựu đông đủ đón tôi. Bà cụ 88 tuổi gặp tôi, vẫn nhớ những ngày tôi ở nhà cụ cạnh bót quận 6, kỷ niệm sống lại sinh động. Cụ rưng rưng nước mắt ôm tôi, thều thào : Điều sở nguyện của cụ đã đạt. Qua cặp kính lão khá dày, cụ ngắm nghía tôi rất lâu, vốn không nói được tiếng Việt, cụ phều phào tiếng Triều Châu, sờ nắn tôi và cười: Còn khoẻ lắm! Một bữa ăn thực sự gia đình đã diễn ra. Mọi người đều chăm sóc Thiên Lý, cháu ngoại của tôi cùng đi với tôi.Trừ bà cụ và người rể của ông Lưu, tất cả đều nói tiếng Việt. Tôi xúc động gặp lại cháu Lưu Tuệ Lan, con đầu lòng của ông Lưu, người xướng ngôn đầu tiên Hoa Ngữ của Đài truyền hình thành phố Hồ Chí Minh sau giải phóng. Cô nay đã hơn 40 tuổi, có 2 con, vẫn tiếp tục tìm sách báo tiếng Việt trong nước đọc, đang làm việc ở ngành Ngân Hàng. Bữa cơm gia đình ấy được tổ chức ở nhà người con út của ông Lưu, thực sự chưa hiểu sâu về Việt Nam bởi lúc ở trong nước cậu còn rất bé. Tôi nhớ, năm 1968 – sau hai đợt Mậu Thân, cậu chỉ lên 2 hay 3 tuổi gì đó. Cậu tên là Nghĩa, bây giờ đã có 2 con bụ bẫm.

Theo chỉ đạo của bà cụ và bà Lưu Vĩnh Phong lo cho tôi ở Chợ Lớn năm xưa.…Có lẽ cần nói thêm đôi điều nữa về gia đình này. Khi cô Tuệ Lan làm việc ở đài truyền hình thành phố Hồ Chí Minh, một số người Hoa ở Chợ Lớn căm ghét cả gia đình, cho là họ đã “phản bội tổ quốc” , thậm chí đánh đập cậu con tên Mẫn, còn bé.Nhưng vừa rồi, năm 1998, tại hội nghị chung kết “tiếng hát truyền hình” toàn quốc ở Hà Nội, một thí sinh được giải rất cao, tên lương chí Cường – anh hát 2 bài, một của Phạm Minh Tuấn, một của Thuận Yến, tất nhiên bằng tiếng Việt, có sức truyền cảm đặc biệt. Lương Chí Cường, lấy theo họ mẹ, họ chính của anh là Lưu. Hiện Lương Chí Cường là quân nhân tại ngũ, công tác ở Quân khu 7.

Anh mang dòng máu hoàn toàn Hoa – cha mẹ đều là người Hoa, nhưng anh sinh ở Chợ Lớn, trong một gia đình lao động, tòng quân và tình nguyện trở thành quân nhân chuyên nghiệp. Khi anh được giải, ông Lưu nhận được vô số cú điện thoại của người Hoa chúc mừng ông với niềm tự hào. Cha của Lương Chí Cường là em ruột của ông Lưu (Vĩnh Phong).…Chúng tôi lại từ Brisbane, sau ba ngày nghỉ ngơi, bay đến Melbourne, thành phố công nghiệp, một hải cảng quốc tế, thủ phủ của Bang Victoria ….

Trần Bạch Đằng (Bài 3)

Tại Melbourne…Thượng nghị sĩ Sang Nguyễn (Nguyễn Sang,) người Việt mang quốc tịch Úc thu xếp nơi ăn ở và các cuộc tiếp xúc của chúng tôi. Đầu tiên, chúng tôi thuê 1 phòng ở một motel - kiểu ký túc xá, cạnh trường Đại Học Victoria. Phòng quá chật, tuy giá rẻ (cho 4 người 50 đô la Úc 1 ngày.) Thượng nghị sĩ Sang lại thu xếp cho chúng tôi đến nhà ông TRẦN MINH HOÀNG, một Việt kiều, giám đốc công ty in trong khu chế xuất Tân Thuận (Sand print group) – ngôi nhà 2 tầng rộng rãi; chúng tôi ở đây suốt 5 ngày thăm Melbourne. Gia đình ông Hoàng tổ chức một bữa ăn chào chúng tôi, có mặt ông cụ thân sinh ông, các em cháu, đông đủ cả, do bà mẹ ông Hoàng đứng bếp. Gia đình thượng nghị sĩ Sang cũng tổ chức một bữa ăn nấu theo kiểu Việt Nam (canh chua, thịt kho tộ…) do chị Sang nấu.…

Chúng tôi thăm thành phố Brimbank (thuộc Melbourne) do thị trưởng Ciro Lombardi (gốc Ý) cùng các phụ tá tiếp, thăm trụ sở Quốc Hội, thăm Ủy Ban Bầu Cử (đang sát ngày bầu cử địa phương theo định kỳ) do ông Chedomir Flego trong hội đồng bầu cử tiếp, thăm trụ sở đảng Lao Động (đối lập) và đảng Tự Do đang cầm quyền...Nhưng có lẽ cuộc gặp gỡ giữa chúng tôi với Ban giám hiệu trường Đại học Swinburne đáng ghi nhận hơn cả. Phó hiệu trưởng John Pidgeon, cô trợ lý Patrica Di Virgilio, người điều hành các chương trình hợp tác với nước ngoài, trong đó có Việt Nam, ông quản trị trường thông báo với chúng tôi hoạt động của trường, nhất là cuộc họp ở Hà Nội về đề tài “Toàn cầu hóa cùng những hậu quả của nó,” về sự giúp đỡ đào tạo sinh viên Việt Nam.…

Ở Melbourne , hiện nay 60 ngàn Việt Kiều sinh sống. Thật thú vị khi chúng ta dạo phố, hiệu mang tiếng Việt 100% chen với cửa hàng, văn phòng tiếng Anh và của người Hoa. Riêng một số khu vực - những đoạn đường hàng cây số - chúng tôi xúc động khi đọc tên phở Pasteur, hủ tiếu Mỹ Tho, chả cá, giò lụa, tiệm cơm Nam Trung Bắc, văn phòng Luật sư, kiến trúc sư người Việt. Muốn ăn một bát phở ngon, có lẽ quá dễ dàng ở Melbourne, đủ cả rau thơm,giá luộc, chanh, ớt ngâm dấm, nước mắm Phú Quốc… Thái độ chính trị của Việt kiều ở Melbourne: hướng về tổ quốc, rất ít nhóm quá khích, họ gặp chúng tôi với thái độ trân trọng, yêu mến - họ biết tôi qua sách vở trong nước và ở Mỹ, qua truyền hình và báo chí. Lúc đầu tôi cũng hơi ngại, song càng về sau, tôi chẳng thấy có gì không bình thường cả. Tôi đang ngồi trong một quán ăn, một người trẻ đến chào; Chào ông Trần Bạch Đằng, thật vui thấy ông đến đây ! Vài phút sau, anh thay đổi xưng hô: Bác, cháu…

Tôi đến kiểm tra sức khoẻ ở phòng mạch riêng của một bác sĩ người Hoa từ Việt Nam sang, nói thạo tiếng Việt –bác sĩ TRẦN THANH NHƠN, cùng mở phòng mạch với một nữ bác sĩ Việt. Đọc tên tôi, ông đã vồn vã ra đón và không lấy phí, cả thuốc mà ông cấp.Có thể xem như tôi kết thúc chuyến thăm Úc ở Melbourne . Dù sao , thăm Melbourne 5 ngày cũng là quá ngắn...

Một số thế lực chống đối vẫn còn nhưng teo tóp dần. Trước đây , hàng năm đến ngày 30.4, sứ quán Việt Nam ở Canberra, tổng lãnh sự quán ở Sydney bị một số Việt Kiều đến la ó, phản đối, nhưng số lượng cứ mỗi năm mỗi giảm và ngày 30.4.98, tại Canberra con số chỉ còn vài trăm. Đó là xu thế tất yếu…./.

Chúng tôi trích những gì TRẦN BẠCH ĐẰNG đã kể lại trong thời gian viếng Úc hồi đầu năm 1999. Trong đó một lần nữa chứng minh cụ thể cho thấy NHỮNG TÊN ĐÂM SAU LƯNG NGƯỜI VIỆT TỴ NẠN CHÚNG TA: Như gia đình Lưu Vĩnh Phong ở Brisbane, NGUYỄN SANG, TRẦN MINH HOÀNG ở Melbourne…Những tên này ngoài mặt chúng phô trương màu cờ sắc áo LÀ NGƯỜI TỴ NẠN TỰ DO, nhưng trong lòng chúng lại VỀ VỚI VIỆT CỘNG. Mà trước đây vẫn có người ngây thơ bênh vực cho chúng. Nay chính Trần Bạch Đằng đã công khai xác nhận rõ ràng về bộ mặt gian xảo, điệp đôi của chúng nó.

*** Riêng Trần Minh Hoàng chính là chủ nhân của Văn Phòng dịch vụ DI TRÚ với bảng hiệu ĐỖ MINH

Sunday, 3 February 2013

MỘT CHÚT XÍU VỀ CON KÊN KÊN PHẠM DUY - NÓ THẤY NGƯỜI TA ĐÀO MỒ ĐỔ NGỌC YẾN MÀ NÓ KHÔNG ĐOÁN RA NGƯỜI TA SẼ CUỐC MẢ DÒNG HỌ BẤT LƯƠNG loạn luân CỦA NÓ./- Mt68




Ông Trần Bạch Đằng (ngồi giữa) từng bảo Phạm Duy 'hãy tự sát' hồi năm 1989
Bác sĩ Nguyễn Ngọc Hà mà tôi quen từ ngày gặp nhau tại Paris năm 1973 lúc đó đang là trưởng Ban Việt Kiều TP HCM, đưa tôi tới thăm ông Trần Bạch Đằng.
Tuy trước đây ông tuyên bố : “Phạm Duy hãy tự sát đi, chúng tôi sẽ cho phổ biến nhạc của ông ta”, nhưng tôi đã về VN mà chưa chết.
Vậy thì tôi phải tới thăm ông ta chứ !
Ông Trần Bạch Đằng (15 tháng 7 năm 1926—16 tháng 4 năm 2007) là một nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà báo Việt Nam.
Ông còn là một nhà chính trị lão thành của Việt Nam đã tham gia hoạt động cách mạng từ trước năm 1945.
Ông cũng là tác giả của quyển tiểu thuyết viết về một nhân vật tình báo bí ẩn trong lịch sử Chiến tranh Việt Nam: Đại tá Phạm Ngọc Thảo, với bút danh Nguyễn Trương Thiên Lý.
*
Có lẽ người mà tôi gặp gỡ nhiều nhất là cựu Thủ Tướng Võ Văn Kiệt và chúng tôi đã có nhiều điều để nói với nhau.
Tiếc thay, ông đã nghỉ hưu và đã qua đời trước khi công cuộc Đổi mới và cải cách chính sách ở Việt Nam được hoàn toàn thực hiện.
Ông Võ Văn Kiệt (23 tháng 11 năm1922 –11 tháng 6 năm 2008) tên thật là Phan Văn Hòa, bí danh Sáu Dân, là mộtnhà chính trị Việt Nam, nguyên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và sau đó làThủ tướng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam từ ngày 8 tháng 8 năm 1991 cho đến ngày 25 tháng 9 năm 1997. Ông được nhiều báo chí đánh giá là người đã đẩy mạnh công cuộc Đổi mới và cải cách chính sách ở Việt Nam kể từ năm1986, là "tổng công trình sư" nhiều dự án táo bạo của thời kỳ Đổi mới.
*
Thế là trong suốt một đời người, tôi vô tình được quen biết khá nhiều người. Vào lúc tuổi già, sau khi hoàn tất MINH HỌA TRUYỆN KIỀU giữa năm 2009, tôi không còn hứng thú sáng tác nữa nhưng có thời giờ để ngồi viết bút ký, tùy bút và bài NHỮNG CUỘC HẠNH NGỘ này là một tùy bút có tính chất hồi tưởng.
Tôi không có ý định làm công việc khoe khoang, “thấy người sang bắt quàng làm họ” mà chỉ tâm sự với độc giả rằng : quen biết những nhân vật có nhiều chính kiến khác nhau như thế, nhưng tôi vẫn là một nghệ sĩ độc lập, không bao giờ lợi dụng phục vụ ai cả.
Nghĩ mà thương cho cậu em Đỗ Ngọc Yến ở khu Bolsa, chỉ vì với tư cách của một chủ báo, chót chụp ảnh chung với ông Nguyễn Tấn Dũng ở San Francico mà bị một lũ quá khích đào mả và nguyền rủa.
Tôi rất hân hạnh là người quen của các nhân vật chính trị, văn nghệ sĩ thế giới và không hề có một chút mặc cảm nào cả. Chỉ vì tôi là một nghệ sĩ rất muốn là bạn của tất cả mọi người, là vua quan hay là người dân bình thường.

Friday, 23 November 2012

***Mt68 Ghi chú thêm:
Tấm hình nầy rọi lớn nhìn kỹ sẽ nhận ra TRẦN BẠCH ĐẰNG ngồi với NGUYỄN SANG, CHỤP tại bên trong NHÀ KIẾNG BOTANIC (trồng cây , bông nhiệt đới) ở FITZROY GARDEN. Gần chỗ nhà CAPTAIN COOK, phía sau cách QUỐC HỘI VICTORA không xa mấy. Chúng tôi SCAN tấm hình nầy từ CUỐN HỒI KÝ của TRẦN BẠCH ĐẰNG do một người về VN mang sang Úc TẶNG để làm tài liệu Nằm Vùng./- Mt68

Mt68: CUỐN HỒI KÝ CỦA TRẦN BẠCH ĐẰNG mà chúng tôi trích y nguyên con HIỆN NẰM TẠI WOY WOY -CENTRAL COAST NSW - VÌ NGƯỜI BẠN TRƯỚC KHI QUA ĐỜI MUỐN ĐỌC QUYỂN SÁCH ĐÓ - NẾU THẠCH SANH CÒN ĐÁNH DẤU HỎI THÌ CỨ HỎI THẲNG CU NGHỊ NGUYỄN SANG - DI TRÚ ĐỖ MINH - Bs TRẦN THANH NHƠN và LƯU CHÍNH PHONG (QLD) SẼ HẾT NỬA ÚP, NỬA NGỬA NGAY ./- Mt68


QUANH CHUYỆN " HỒI KÝ TRẦN BẠCH ĐẲNG".

- Thạch Sanh -

 

    Trong thời gian vừa qua, trên vài diễn đàn, gởi email cho nhau, có đoạn văn nói về:" Hồi Ký Trần Bạch Đằng", những sự kiện về nhân vật cộng sản tên tuổi, thâm niên, có quan hệ đến 2 cuộc chiến do đảng cộng sản phát động từ 1945-1954 với chiêu bài" đánh Tây giành độc lập" và từ 1954 đến 1975 là đánh Mỹ cứu nước, đã được nhiều tài liệu trong và ngoài đảng nói về hắn ta.

     Trần Bạch Đằng chỉ là tên giả, như hầu hết cán bộ cộng sản từ cấp nhỏ, đến trung ương thường có bí danh, tên giả để hoạt động, hầu bảo toàn bí mật và tránh thiệt hại. Trần Bạch Đằng, tên thật là Trương Gia Thiều, thời kháng chiến đánh Tây, là nhân vật quan trọng nằm trong trung ương cục miền nam, sát cánh với Lê Duẩn, được tín nhiệm là chủ nhiệm tờ Nhân Dân Miền Nam, sau khi Lưu Quí Kỳ ( có bà vợ tên Âu, Tây lai, bị câm). Lưu Quí Kỳ là người có trình độ, nên sau lần Lê Duẩn đọc tham luận ở ấp Nhàn Dân, thuộc tỉnh Bạc Liêu, thì Lưu Quí Kỳ lên phát biểu, hoàn toàn ngược lại những gì Lê Duẩn nói, nên sau đó bị mất chức chủ nhiệm tờ báo Nhân Dân, thế là Trần Bạch Đằng lên thay.

    Thời kỳ Hồ Chí Minh thanh toán cán bộ miền nam, trung tướng Nguyễn Bình, tức là Nguyễn Phương Thảo bị giết, Trần Văn Giàu bị quản thúc và làm tự kiểm từ năm nầy qua tháng nọ, ngồi chơi xơi nước và bị kiểm soát gắt gao sau khi ra bắc, bạn hắn là Dương Bạch Mai bị giết bằng thuốc độc ( uống ly trà lúc giải lao trong lần họp đảng, ngả lăn ra chết). Trần Bạch Đằng cũng nằm trong danh sách bị thanh toán, nhưng hắn nhạy bén mà không ra bắc, dù nhận lệnh Hồ Chí Minh ra bắc họp.

     Trong cuộc chiến do lệnh Nga Tàu thời chiến tranh lạnh, tên Trần Bạch Đằng là tên trùm khủng bố ở miền nam, từng cùng với huề thượng Thích Trí Dũng ( tức là huề thượng Thích Thịt Chó) và tên tướng Trần Hải Phụng tổ chức đánh phá miền nam bằng chiến tranh du kích.

    Sau năm 1975, Trần Bạch Đằng mang quân hàm trung tướng và phong cho tên nhạc sĩ Trịnh Công Sơn làm thiếu tá quân đội nhân dân. Trần Bạch Đằng lúc cuối đời, đã âm thầm đi ngao du tại các cộng đồng tỵ nạn, được các cơ sở nằm vùng hay là có quan hệ giúp đỡ, đón tiếp, hướng dẫn đi du hý và cũng làm công tác cho đảng.

    Hồi ký Trần Bạch Đằng được trích ra bài viết, nên chưa biết quyển sách thế nào, nhưng bài viết của Trần Bạch Đằng đề cập đến một số người Việt tỵ nạn ở Melbourne, Sydney (Úc Châu) đã dành nhiều ưu tiên, nồng hậu tiếp đãi một tên cộng sản khét tiếng, nhưng không ai biết hắn đến. Đó là bí mật mà hầu hết những tên cộng sản, cơ sở dấu kín. Phần hồi ký có đề cập đến một vị dân cử gốc Việt, thuộc đảng Lao Động cánh tả, là có thể kiểm chứng được, vì lúc còn làm nghị viên trong 2 nhiệm kỳ, mỗi lần có những cán bộ cao cấp như Đổ Mười, Phan Văn Khải…đến Úc, dân Việt biểu tình, thì ông nghị ăn mặc chỉnh tề đi ăn tiệc với các tên cộng sản, nên ông nghị nầy tiếp đón Trần Bạch Đằng là có lý do và cơ sở khả tín. Những người khác có tên trong hồi ký Trần Bạch Đằng, có thể là đúng, vì họ có thể là thành phần do đảng đưa sang nằm vùng, nên khi Trần Bạch Đằng hay bất cứ cán bộ nào sang, được giới thiệu để cư ngụ an toàn, trước tiên là bảo mật, khi tên Trần Bạch Đằng đi vào vùng đất của nạn nhân cộng sản.

     Tại sao Trần Bạch Đằng lại viết hồi ký, kể tên những người từng tiếp đón, kính trọng khi sang Úc?.  Một số người đặt nghi vấn sau khi đọc bài về" hồi ký Trần Bạch Đằng". Chả lẽ đảng cộng sản ngu dại, để lộ các cơ sở nằm vùng và người của họ trà trộn tại hải ngoại?.

      Tuy nhiên, nhìn lại bản chất của cộng sản là" vắt chanh bỏ vỏ", sau khi dùng xong là vứt bỏ vào sọt rác, đó là trường hợp của hầu hết những tên trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, bị đẩy ra khỏi quyền lực sau ngày 30-4-1975, lớp bỏ trốn ta nước ngoài như Trương Như Tảng, ở lại bị quan thức, đói khát mà chết như vợ chồng luật sư Trịnh Đình Thảo, ngồi chơi xơi nước như bác sĩ Dương Quỳnh Hoa…. Ni sư Huỳnh Liên bị đảng đưa ra ánh sáng khá sớm trong phim" Biệt Động Nội Thành" và Huỳnh Liên là người trong tổ chức, nên uy tín đối với phật tử không còn nữa, đảng khai từ ni sư Huỳnh Liên rất khéo léo cho chính các phật tử và đệ tử tẩy chay. Đảng cộng sản không bao giờ tin ai, ngay cả đồng chí thân thương, cật ruột…nếu không cùng phe cánh, hay đụng chạm đến quyền lợi, là sẵn sàng thanh toán nhau.

   Những người được đảng gởi sang nước ngoài để làm công tác, đảng không tin thành phần nầy với những lý do như: không kiểm soát tư tưởng, dễ bị ảnh hưởng nếp sống tây phương, dễ thay đổi khi bị mua chuộc…nên thành phần nằm vùng, cơ sở chỉ được đảng sử dụng trong giai đoạn, sau khi xong là bỏ đi. Thế nên những người nằm trong hồi ký Trần Bạch Đằng cũng không phải là điều bất bình thường, nhưng rất hay xảy ra, khi bí mật bị tiết lộ từ bên trong, là có chính sách loại trừ, không phải tự nhiên mà Trần Bạch Đằng dại dột tiết lộ những người mà ông ta từng được tiếp đón, trân quí như là thượng khách ở Úc.

   Đây là bài học cho những ai làm việc, hợp tác, quan hệ với đảng cộng sản, kể cả thành phần nằm vùng ở hải ngoại…đảng có thể tiết lộ tất cả bí mật khi cần, là cách mà đảng triệt hạ những thành phần tay sai, cơ sở không tin cậy và từ đó, những kẻ làm việc cho đảng sẽ bị tẩy chay tại môi trường chung quanh là chống cộng./.

THẠCH SANH.
23.11.2012

Friday, 2 November 2012

HỒI KÝ TRẦN BẠCH ĐẰNG
TỐ CÁO NHỮNG ĐỨA LIẾM CHIM CỦA HẮN Ở ÚC CHÂU./- Mt68
 


Ăn cơm Quốc Gia Thờ ma Cộng Sản
Trích Hồi Ký Trần Bạch Đằng
Chuyển gởi: Trần Đông

Trích Hồi Ký TRẦN BẠCH ĐẰNG Tiết Lộ Về Nằm Vùng NGUYỄN SANG (Melbourne) TRẦN MINH HOÀNG (Di Trú Đỗ Minh-Melbourne) và LƯU VĨNH PHONG (Brisbane)


Sunday, May 25, 2008, (Bài 1)

Tôi (Trần Bạch Đằng) lý do thăm Úc của tôi. Thời chống Mỹ, khi phụ trách Bí Thư Thành Ủy Sài Gòn, tôi được Đảng Ủy Hoa Vận Thành Phố bố trí nơi ăn ở trong nhà đồng bào Hoa. Một trong những ngôi nhà đó - Đường Phan Văn Chí, Quận 6 – nay nhà Truyền Thống Phong Trào người Hoa ở Sài Gòn là, một xưởng làm đồ chơi cho trẻ con, nằm sát bót cảnh sát ngụy quận 6. Tại đây, có lần, qua cửa hé, tôi thấy Nguyễn Ngọc Loan, Tổng giám đốc cảnh sát quốc gia Sài Gòn đến làm việc với cảnh sát quận.

Nhà có hai hầm bí mật (nay vẫn còn) để khi có động, tôi rút vào. Hầm trang bị điện, quạt và…súng ! Vợ chồng chủ nhà, các cháu và bà cụ hết lòng bảo vệ chăm sóc tôi, mặc dù rất nguy hiểm đối với họ nếu chẳng may tông tích của tôi bị bại lộ: Địch dán hình tôi khắp thành phố với tiền thưởng khá lớn cho ai chỉ hoặc giết tôi, nhưng không có bất kỳ chuyện xấu nào xảy ra.

Sau giải phóng, gia đình làm ăn khó khăn. Anh Nguyễn Văn Linh (* Tổng Bí Thư) trao đổi với tôi nên để gia đình ra đi hợp pháp, tìm cách sinh sống, khi tình hình khá sẽ tính sau. Họ ra đi năm 1986.Từ Hồng Kông, gia đình chuyển sang Úc và người chủ biết rằng có thể sống được – thậm chí sống khá - nếu kết hợp được nguồn nguyên liệu của Việt Nam với thị trường Nam Thái Bình Dương tuy nhỏ mà vừa với khẳ năng của gia đình.

Họ chọn nghề ướp cá mặn – món ăn quen thuộc của người Hoa và cũng vừa túi tiền dân các đảo Nam Thái Bình Dương, nói chung còn nghèo. Thế là thị trường Salomon, Papouasie, Tuvalu, Fiji, Karibati, v.v. mở ra. Cá mè Gò Công, chế biến ở quận 6, đóng container xuất sang các nước…Ngoài cá mặn, gia đình còn làm vi cá, cải muối, bào ngư, hải sâm…Công việc mở rộng thêm một bước: mua cá ở Úc và các đảo, sơ chế ở Brisbane, chuyển về tinh chế ở quận 6, thành phố Hồ Chí Minh, đóng container xuất sang Hồng Kông, các đảo Nam Thái Bình Dương với một số trạm phân phối như ở Karibati.

Bây giờ, đó là một công ty gia đình chế biến thêm thịt ngọc trai…Trong mỗi lần về nước, người chủ đều đến thăm tôi. Anh tỏ nguyện vọng: đón tôi sang Úc nghỉ, quan sát. Anh nói thêm: Mẹ anh đã 88 tuổi, luôn nhắc tôi và mong được gặp mặt – bà từng nấu ăn cho tôi thời bí mật. Sức khoẻ của người sắp lên cửu tuần không cho phép bà bay về nước.Có thể gọi những điều trên là “Cơ Duyên” đưa tôi đến Úc lần đầu tiên nầy…

*** SYDNEY
Chúng tôi theo đường Singapore đến Úc, trên chuyến bay của hảng Qantas. Như vậy chuyến bay dài gấp đôi thời gian bình thường, vì chúng tôi không lấy được chỗ bay trực tiếp từ thành phố Hồ Chí Minh tới Sydney - số Việt Kiều ở Úc về quê ăn Tết năm nay (*1996) đông hơn mọi năm và chúng tôi đi trùng dịp bà con quay lại nước Úc sau Tết ở quê hương...Người trong gia đình ông LƯU VĨNH PHONG, chủ công ty chế biến hải sản Nam Thái Bình Dương, đón chúng tôi và đưa về khách sạn Star City, nơi có sòng Casino nổi tiếng...

Chúng tôi đi thăm những địa điểm tiêu biểu nhất của thành phố: đường hầm 12 km xuyên biển, cầu Sydney bằng sắt hao hao cầu Long Biên – Hà Nội xây từ thế kỷ trước, nhà hát thành phố với kiểu dáng nhiều vỏ sò chụp lên nhau, sức chứa 2700 chỗ ngồi, xây trong 15 năm mới xong (1958-1973), tốn đến 650 triệu quan Pháp, vườn bách thú… là những nơi không xa lạ với công chúng Việt Nam. Tổng lãnh sự Việt Nam ở Sydney- một cán bộ ngoại giao 30 năm trong nghề, dịu dàng như mọi phụ nữ Việt Nam, đến cạnh chúng tôi và thông báo một số tình hình địa phương, nhất là tình hình người Việt định cư khá tập trung ở Sydney- trong tổng số 200 ngàn người Úc gốc Việt thì một nửa sống ở đây...Chúng tôi dành một ngày đi Canberra…

(Bài 2) Monday, May 26, 2008
Posted by Nam Tào

Tại Canberra...Ngay chuyện chúng tôi tìm sứ quán cũng không dễ. Khu sứ quán nằm bên ngoài trung tâm, phải cần xe sứ quán ra “tam kỳ lộ” dẫn dắt chúng tôi vào sứ quán. Đoàn chúng tôi được sứ quán đón nhiệt tình, từ đại sứ, tham tán đến cán bộ - vốn không đông lắm. Và sứ quán “thết” chúng tôi một bữa phở Bắc có chất lượng, với món nước mắm và rau thơm truyền thống.Tại đây, chúng tôi gặp đoàn đại biểu thanh niên Việt Nam thăm nước Úc, do anh Vũ Trọng Kim, Bí thư thứ nhất Trung Ương đoàn dẫn đầu, trong đoàn có anh Hà Văn Thạch, Tỉnh đoàn Nghệ An, Nguyễn Hoàng Năng, Thành đoàn Thành Phố Hồ Chí Minh. Đại sứ thông báo với chúng tôi mấy nét chính của tình hình Úc, Việt Kiều - gọn và súc tích.…Người lái xe và hướng đạo cho chúng tôi là anh Minh, từng đi thanh niên xung phong ờ Việt nam, đang sống ở Sydney.

Để hiểu thêm phần nào cuộc sống của người Việt ở Úc, tôi thuật một chuyện: Anh Minh - độ 40 tuổi - mỗi sáng tranh thủ đem phân phối giò heo đông lạnh từ Việt Nam, với 4 đùi heo, trong 2 giờ, anh nhận thù lao 400 đola Úc. Rời Sydney, chúng tôi đi Brisbane…Đây là lãnh địa của ông Lưu Vĩnh Phong. Sáu người con của ông lập nghiệp tại đây, 2 trai 4 gái, xoay quanh công ty chế biến hải sản Nam Thái Bình Dương mà ông đã “lên ngôi” Thái Thượng Hoàng - việc điều hành công ty ông giao cho các con, dâu rể của ông và ông chỉ góp ý. Tất cả 12 con dâu rể và 11 đứa cháu nội ngoại sống quanh thành phố, mỗi gia đình đã an cư trong những ngôi nhà có vườn hoa, không to nhưng ấm cúng bằng tiền dành dụm của họ và sự trợ giúp của gia đình ông. Xưởng không lớn, mượn lúc cao nhất 8 công nhân, bình thường 3, thu mua và chế biến vi cá, thịt ngọc trai, hải sâm, đồng thời là đầu não chỉ đạo các chi nhánh đặt ở vài đảo Nam Thái Bình Dương, Singapore, Hồng Kông và “cơ sở mẹ” ở quận 6 thành phố Hồ Chí Minh – nơi ông và bà vợ hướng dẫn chung về đường hướng sản xuất và kinh doanh.…Tuy ở khách sạn, song chúng tôi luân phiên ăn cơm nhà của các con ông Lưu Vĩnh Phong. Họ thuộc lớp lao động trung lưu - mỗi nhà có từ 2 ô tô, nhưng không ai dám mướn người giúp việc.…

Gia đình ông Lưu tề tựu đông đủ đón tôi. Bà cụ 88 tuổi gặp tôi, vẫn nhớ những ngày tôi ở nhà cụ cạnh bót quận 6, kỷ niệm sống lại sinh động. Cụ rưng rưng nước mắt ôm tôi, thều thào : Điều sở nguyện của cụ đã đạt. Qua cặp kính lão khá dày, cụ ngắm nghía tôi rất lâu, vốn không nói được tiếng Việt, cụ phều phào tiếng Triều Châu, sờ nắn tôi và cười: Còn khoẻ lắm! Một bữa ăn thực sự gia đình đã diễn ra. Mọi người đều chăm sóc Thiên Lý, cháu ngoại của tôi cùng đi với tôi.Trừ bà cụ và người rể của ông Lưu, tất cả đều nói tiếng Việt. Tôi xúc động gặp lại cháu Lưu Tuệ Lan, con đầu lòng của ông Lưu, người xướng ngôn đầu tiên Hoa Ngữ của Đài truyền hình thành phố Hồ Chí Minh sau giải phóng. Cô nay đã hơn 40 tuổi, có 2 con, vẫn tiếp tục tìm sách báo tiếng Việt trong nước đọc, đang làm việc ở ngành Ngân Hàng. Bữa cơm gia đình ấy được tổ chức ở nhà người con út của ông Lưu, thực sự chưa hiểu sâu về Việt Nam bởi lúc ở trong nước cậu còn rất bé. Tôi nhớ, năm 1968 – sau hai đợt Mậu Thân, cậu chỉ lên 2 hay 3 tuổi gì đó. Cậu tên là Nghĩa, bây giờ đã có 2 con bụ bẫm.

Theo chỉ đạo của bà cụ và bà Lưu Vĩnh Phong lo cho tôi ở Chợ Lớn năm xưa.…Có lẽ cần nói thêm đôi điều nữa về gia đình này. Khi cô Tuệ Lan làm việc ở đài truyền hình thành phố Hồ Chí Minh, một số người Hoa ở Chợ Lớn căm ghét cả gia đình, cho là họ đã “phản bội tổ quốc” , thậm chí đánh đập cậu con tên Mẫn, còn bé.Nhưng vừa rồi, năm 1998, tại hội nghị chung kết “tiếng hát truyền hình” toàn quốc ở Hà Nội, một thí sinh được giải rất cao, tên lương chí Cường – anh hát 2 bài, một của Phạm Minh Tuấn, một của Thuận Yến, tất nhiên bằng tiếng Việt, có sức truyền cảm đặc biệt. Lương Chí Cường, lấy theo họ mẹ, họ chính của anh là Lưu. Hiện Lương Chí Cường là quân nhân tại ngũ, công tác ở Quân khu 7.

Anh mang dòng máu hoàn toàn Hoa – cha mẹ đều là người Hoa, nhưng anh sinh ở Chợ Lớn, trong một gia đình lao động, tòng quân và tình nguyện trở thành quân nhân chuyên nghiệp. Khi anh được giải, ông Lưu nhận được vô số cú điện thoại của người Hoa chúc mừng ông với niềm tự hào. Cha của Lương Chí Cường là em ruột của ông Lưu (Vĩnh Phong).…Chúng tôi lại từ Brisbane, sau ba ngày nghỉ ngơi, bay đến Melbourne, thành phố công nghiệp, một hải cảng quốc tế, thủ phủ của Bang Victoria ….

Trần Bạch Đằng (Bài 3)

Tại Melbourne…Thượng nghị sĩ Sang Nguyễn (Nguyễn Sang,) người Việt mang quốc tịch Úc thu xếp nơi ăn ở và các cuộc tiếp xúc của chúng tôi. Đầu tiên, chúng tôi thuê 1 phòng ở một motel - kiểu ký túc xá, cạnh trường Đại Học Victoria. Phòng quá chật, tuy giá rẻ (cho 4 người 50 đô la Úc 1 ngày.) Thượng nghị sĩ Sang lại thu xếp cho chúng tôi đến nhà ông TRẦN MINH HOÀNG, một Việt kiều, giám đốc công ty in trong khu chế xuất Tân Thuận (Sand print group) – ngôi nhà 2 tầng rộng rãi; chúng tôi ở đây suốt 5 ngày thăm Melbourne. Gia đình ông Hoàng tổ chức một bữa ăn chào chúng tôi, có mặt ông cụ thân sinh ông, các em cháu, đông đủ cả, do bà mẹ ông Hoàng đứng bếp. Gia đình thượng nghị sĩ Sang cũng tổ chức một bữa ăn nấu theo kiểu Việt Nam (canh chua, thịt kho tộ…) do chị Sang nấu.…

Chúng tôi thăm thành phố Brimbank (thuộc Melbourne) do thị trưởng Ciro Lombardi (gốc Ý) cùng các phụ tá tiếp, thăm trụ sở Quốc Hội, thăm Ủy Ban Bầu Cử (đang sát ngày bầu cử địa phương theo định kỳ) do ông Chedomir Flego trong hội đồng bầu cử tiếp, thăm trụ sở đảng Lao Động (đối lập) và đảng Tự Do đang cầm quyền...Nhưng có lẽ cuộc gặp gỡ giữa chúng tôi với Ban giám hiệu trường Đại học Swinburne đáng ghi nhận hơn cả. Phó hiệu trưởng John Pidgeon, cô trợ lý Patrica Di Virgilio, người điều hành các chương trình hợp tác với nước ngoài, trong đó có Việt Nam, ông quản trị trường thông báo với chúng tôi hoạt động của trường, nhất là cuộc họp ở Hà Nội về đề tài “Toàn cầu hóa cùng những hậu quả của nó,” về sự giúp đỡ đào tạo sinh viên Việt Nam.…

Ở Melbourne , hiện nay 60 ngàn Việt Kiều sinh sống. Thật thú vị khi chúng ta dạo phố, hiệu mang tiếng Việt 100% chen với cửa hàng, văn phòng tiếng Anh và của người Hoa. Riêng một số khu vực - những đoạn đường hàng cây số - chúng tôi xúc động khi đọc tên phở Pasteur, hủ tiếu Mỹ Tho, chả cá, giò lụa, tiệm cơm Nam Trung Bắc, văn phòng Luật sư, kiến trúc sư người Việt. Muốn ăn một bát phở ngon, có lẽ quá dễ dàng ở Melbourne, đủ cả rau thơm,giá luộc, chanh, ớt ngâm dấm, nước mắm Phú Quốc… Thái độ chính trị của Việt kiều ở Melbourne: hướng về tổ quốc, rất ít nhóm quá khích, họ gặp chúng tôi với thái độ trân trọng, yêu mến - họ biết tôi qua sách vở trong nước và ở Mỹ, qua truyền hình và báo chí. Lúc đầu tôi cũng hơi ngại, song càng về sau, tôi chẳng thấy có gì không bình thường cả. Tôi đang ngồi trong một quán ăn, một người trẻ đến chào; Chào ông Trần Bạch Đằng, thật vui thấy ông đến đây ! Vài phút sau, anh thay đổi xưng hô: Bác, cháu…

Tôi đến kiểm tra sức khoẻ ở phòng mạch riêng của một bác sĩ người Hoa từ Việt Nam sang, nói thạo tiếng Việt –bác sĩ TRẦN THANH NHƠN, cùng mở phòng mạch với một nữ bác sĩ Việt. Đọc tên tôi, ông đã vồn vã ra đón và không lấy phí, cả thuốc mà ông cấp.Có thể xem như tôi kết thúc chuyến thăm Úc ở Melbourne . Dù sao , thăm Melbourne 5 ngày cũng là quá ngắn...

Một số thế lực chống đối vẫn còn nhưng teo tóp dần. Trước đây , hàng năm đến ngày 30.4, sứ quán Việt Nam ở Canberra, tổng lãnh sự quán ở Sydney bị một số Việt Kiều đến la ó, phản đối, nhưng số lượng cứ mỗi năm mỗi giảm và ngày 30.4.98, tại Canbrra con số chỉ còn vài trăm. Đó là xu thế tất yếu…./.

Chúng tôi trích những gì TRẦN BẠCH ĐẰNG đã kể lại trong thời gian viếng Úc hồi đầu năm 1999. Trong đó một lần nữa chứng minh cụ thể cho thấy NHỮNG TÊN ĐÂM SAU LƯNG NGƯỜI VIỆT TỴ NẠN CHÚNG TA: Như gia đình Lưu Vĩnh Phong ở Brisbane, NGUYỄN SANG, TRẦN MINH HOÀNG ở Melbourne…Những tên này ngoài mặt chúng phô trương màu cờ sắc áo LÀ NGƯỜI TỴ NẠN TỰ DO, nhưng trong lòng chúng lại VỀ VỚI VIỆT CỘNG. Mà trước đây vẫn có người ngây thơ bênh vực cho chúng. Nay chính Trần Bạch Đằng đã công khai xác nhận rõ ràng về bộ mặt gian xảo, điệp đôi của chúng nó.

*** Riêng Trần Minh Hoàng chính là chủ nhân của Văn Phòng dịch vụ DI TRÚ với bảng hiệu ĐỖ MINH



* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * 


VAI TRÒ CỦA TRẦN BẠCH ĐẰNG
TRONG TRẬN TỔNG CÔNG KÍCH - TỔNG KHỞI NGHĨA TẾT MẬU THÂN 1968
Bạch Diện Thư Sinh

        
Trần Bạch Đằng


Trần Bạch Đằng là một Đảng viên Cộng Sản cao cấp, giữ vai trò lãnh đạo mặt trận đô thị thời chiến tranh Việt Nam.
Quyền hạn và trách nhiệm của ông ta bao trùm nhiều lãnh vực:  Tuyên huấn, Mặt trận, Hoa vận, Trí vận, Thanh niên- Sinh viên- Học sinh và Ban Cán sự nội thành.  
Trong đó mặt trận trí vận là một trọng điểm, còn mũi xung kích là phong trào sinh viên học sinh với những cuộc tranh đấu sôi nổi nổ ra thường xuyên ngay tại Thủ đô Sài Gòn vào khoảng từ 1966 tới 1972.  Vị trí của Trần Bạch Đằng quan trọng như thế, và để tiến hành công tác, ông ta đã từng cư ngụ ngay giữa Thủ đô hoặc là di chuyển giữa Sài Gòn và mật khu nhiều lần, thế nhưng rất ít người nghe biết danh tính ông ta.  Chỉ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, không riêng gì dân Sài Gòn mà cả dân chúng miền Nam và miền Bắc mới biết nhiều tới tên tuổi Trần Bạch Đằng.  Nhưng có lẽ quần chúng vẫn không biết nhiều đến vai trò quan trọng trong thời chiến của ông ta cho bằng biết tới ông ta qua những bài báo và bộ phim 8 tập Ván Bài Lật Ngửa mà ông là tác giả chuyện phim, bút hiệu Nguyễn Trương Thiên Lý (1).
Dân chúng ít biết đến Trần Bạch Đằng, nhưng người Mỹ biết rất rõ về ông ta và họ đã từng giao tiếp qua lại với ông ta trước thời gian xẩy ra trận đánh Tết Mậu Thân 1968.
Cũng chính nhân vật Trần Bạch Đằng này là một trong những cấp chỉ huy cao cấp nhất trong trận ‘Tổng Công Kích - Tổng Khởi Nghĩa’ Tết Mậu Thân (1968) đánh vào Thủ đô Sài Gòn.  Ông ta đã cùng với Võ Văn Kiệt phụ trách Bộ tư lệnh tiền phương Nam (Trần Văn Trà và Mai Chí Thọ phụ trách Bộ tư lệnh tiền phương Bắc).  Vào thời điểm đó, Trần Bạch Đằng đang là thường vụ khu ủy Sài Gòn – Gia Định. Vì vị thế đặc biệt này, ông được giao nhiệm vụ soạn thảo phương án tấn công Sài Gòn- Chợ Lớn.
Sau trận Tết Mậu Thân, Trần Bạch Đằng nắm chức vụ bí thư Thành ủy, rồi bí thư đặc khu Sài Gòn – Gia Định (2). Đó là đỉnh cao nhất trong sự nghiệp chính trị của ông ta.
Kể từ 1972, Trần Bạch Đằng bị hất ra khỏi những vị trí quyền lực. Và sau 30 tháng 4 năm 1975, có thể nói ông không còn hiện diện trên chính trường, nhưng lại khá nổi tiếng trong lãnh vực viết lách.
Những người am hiểu đều cho rằng Trần Bạch Đằng là ‘một người Cộng sản đa tài nhưng bất đắc chí cho đến khi nhắm mắt lìa đời’!

***
Chúng tôi không đi vào chi tiết trận ‘Tổng công kích Tổng khởi nghĩa’ Tết Mậu Thân (1968), chỉ nhắc tới một số việc trong trận đánh này có liên quan tới nhân vật Trần Bạch Đằng là chủ đề của bài viết.  Và hạn chế trận đánh tại Sài Gòn - Chợ Lớn vì là vùng trách nhiệm của Trần Bạch Đằng.
Cấp chỉ huy
Xin nói ngay là trong trận đánh quan trọng này, Trần Bạch Đằng chịu trách nhiệm rất lớn bởi vì bí thư Trung ương Cục Phạm Hùng (6 Hồng) giao cho ông ta soạn thảo phương án đánh vào nội thành: ‘…tôi được anh Phạm Hùng giao nhiệm vụ chuẩn bị phương án đánh vào nội thành’(3).
Bước vào trận tổng tấn công, cấp lãnh đạo tối cao ở trung ương là Bộ chính trị mang bí số là Bác Hương.  Tại mặt trận, bí thư Trung ương Cục miền Nam là Phạm Hùng mang bí số A7.  Bí thư Trung Ương Cục và quân ủy Miền cho thành lập một Đảng ủy khu trung tâm (Đông Nam bộ, Sài Gòn, khu 8 giữa sông Tiền và 2 sông Vàm Cỏ) do Nguyễn Văn Linh (10 Cúc) làm bí thư.  
Chiến dịch phân công như sau: ‘…anh Trần Văn Trà là Tư lệnh đồng thời chịu trách nhiệm các cánh quân phía Bắc (nên được gọi là Tiền phương Bắc hoặc Tiền phương 1) còn anh Võ Văn Kiệt và tôi chịu trách nhiệm cánh phía Nam (nên được gọi là Tiền phương Nam hay Tiền phương 2).  Nắm các đội biệt động, đặc công, các cánh vũ trang của an ninh, binh vận, lực lượng quân sự và bán quân sự của các đoàn thể quần chúng và các đơn vị ở phía sau từ hướng Long An và một phần Khu 8.  Trung ưong Cục và Bộ Tư lệnh miền nghe hai Bộ Tư lệnh Tiền phương báo cáo và nghe phương án chiến đấu trong nội thành do tôi trình bày.  Sau khi điều chỉnh, bổ sung một số điểm, anh Phạm Hùng thay mặt cho lãnh đạo chung thông qua các kế hoặch.  Anh chỉ thị thêm:  Bộ Tư lệnh Tiền phương Nam nên chia làm hai, bộ phận phía sau phụ trách các tiểu đoàn mũi nhọn, lực lượng của Long An, của phân khu 2 (Đức Hòa, Bình Chánh) do anh Võ Văn Kiệt nắm còn bộ phận phía trước phụ trách nội thành và vùng ven, kể cả vùng ven Thủ Đức, Dĩ An do tôi nắm’(4). 
Bộ Tư lệnh Tiền phương Bắc (tiền phương 1) của Trần Văn Trà, còn có Mai Chí Thọ đi kèm, phụ trách vùng Đông Nam bộ. Bộ Tư lệnh Tiền phương Nam (tiền phương 2) do Võ Văn Kiệt và Trần Bạch Đằng , mang bí số A 404, phụ trách vùng Tây Nam và Nội Thành.  Ban chỉ huy biệt động đặt tại quán phở Bình, đường Yên Đổ, gần cầu Kiệu.
Diễn tiến
Bộ Tư lệnh Tiền phương đóng tại Trụ Sở Đỏ, xóm Việt kiều trên đất Ba Thu sát tỉnh Kiến Tường bất thần được lệnh hành quân hỏa tốc vào trưa ngày 29 Tết (28.01.1968).  Lệnh ban ra như sau:  
‘A 7 gởi A 404.
Ngày N: mồng một rạng mồng hai Tết.
Giờ G: 12 giờ đêm. 
Đây là nghị quyết của Bác Hương’ (5).
Mật lệnh tấn công là bài thơ chúc Tết của Hồ Chí Minh phát thanh từ Hà Nội:
      Mừng xuân 1968
Xuân nay hơn hẳn mấy xuân qua,
Thắng trận tin vui khắp nước nhà.
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ,
Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta.
Ngày 30 Tết, hàng ngàn cán binh hành quân vội vã tiến về Sài Gòn cho kịp giờ G. Giữa đêm giao Thừa, bất ngờ nổ ra cuộc tấn công ngoài Huế.  Sớm hơn giờ G một ngày, vì Nha Thủy văn miền Bắc đổi lịch đi trước một ngày.
11giờ 45 Sở chỉ huy tới đóng tại ngôi đình Quán Cơm cách quận 7 chỉ một con rạch. Nổ súng 0 giờ ngày thứ Tư mồng hai Tết, 31 tháng Giêng dương lịch. Cộng quân đồng loạt tấn công 41 tỉnh thành của VNCH.
Tại Thủ đô Sài Gòn, súng nổ lúc 2 giờ sáng.  Các toán đặc công tiên phong đột kích vào các yếu điểm : Dinh Độc lập, Bộ Tổng Tham Mưu, phi trường Tân Sơn Nhất, Bộ Tư lệnh Hải quân, Trung tâm huấn luyện Quang trung, trường Sinh ngữ quân đội (hồi đó còn nằm cạnh Bộ Tổng Tham Mưu), tòa đại sứ Hoa Kỳ, căn cứ 80 Quận cụ, căn cứ Truyền tin.  Đặc công chỉ tới được phía bên ngoài các trọng điểm này chứ không vào được bên trong hàng rào, ngoại trừ họ lọt vào được sân tòa đại sứ Hoa Kỳ, nhưng đã bị tiêu diệt hoàn toàn.  Về cơ sở vật chất, tất cả những trọng điểm này đều bị tổn thất không đáng kể.  Vì không được tiếp cứu cho nên kể như các toán đặc công hầu như bị tiêu diệt gọn.  Duy có Đài phát thanh bị Cộng quân lọt vào nhưng không thể phát tiếng trước khi quân Dù VNCH tới thanh toán.  Do hầu hết binh sĩ đi phép Tết cho nên trại Phù Đổng (Bộ chỉ huy Thiết giáp) và trại Cổ Loa (Bộ chỉ huy Pháo binh) ở Gò Vấp bị Cộng quân tràn ngập, song thiết giáp ở trại Phù Đổng đã di chuyển đi nơi khác; Cộng quân cũng không xử dụng được 12 khẩu 105 li ở trại Cổ Loa vì các chiến sĩ VNCH đã tháo gỡ bộ phận khai hoả.  Sau đó Cộng quân xuất hiện tại Bà Quẹo, Ngã Năm Bình Hòa, Hàng Xanh, vùng Trường đua Phú Thọ, Bà Hạt, Thủ Đức, Hốc Môn.  Toán Cộng quân đánh chiếm khám Chí Hòa bị lạc đường nên đã bắn lầm vào nhau, gây tổn thất lớn.
Sáu giờ sáng mồng 2 Tết, Bộ chỉ huy rời sang Quận 7.  Võ Văn Kiệt ở lại Quận 7 nắm Bộ chỉ huy cơ bản.  Trần Bạch Đằng phụ trách Bộ chỉ huy tiền phương cùng với Trần Hải Phụng đóng tại chùa Tịnh Độ Cư sĩ cạnh cầu Cây Gõ.  Họ đi kiểm tra qua đường Minh Phụng, Hùng Vương, tới góc trường đua Phú Thọ. Cánh quân này chiếm  vùng bệnh viện Chợ Rẫy, Ngã Sáu, đường Vĩnh Viễn, Hòa Hảo, khu chùa Ấn Quang, khu Vườn Lài, quanh hãng thuốc lá MIC. Toán Hoa vận xuất hiện ở vùng Lò Siêu, Lò Gốm, chợ Bình Tây, cầu Palikao, bến Hàm Tử, vùng trường đua Phú Thọ. Cũng có những toán nhỏ đột nhập được vào vùng đường Cô Giang, Cô Bắc, cầu Chữ Y, nhà đèn Chợ Quán, khu Nancy, khu ngã tư Bảy Hiền, cổng xe lửa số 9 Phú Nhuận, Thạnh Mỹ Tây…
Từ sáng mồng 3 Tết, Quân lực VNCH phản công mạnh.  Không thấy có bất cứ một cuộc nổi dậy cướp chính quyền nào của dân chúng hay đoàn thể.  Các toán biệt động của Cộng quân không được chủ lực tiếp ứng, bị tiêu diệt hoàn toàn.  Các mũi xâm nhập khác bị bao vây, không rành phố xá, một là cũng bị tiêu diệt, hai là phải mau chóng tìm đường ‘chém vè’. 
Cánh quân phía Bắc bị chặn lại ở đài phát tuyến Quán Tre.  Cánh Đông cũng không qua nổi Biên Hòa.
Mồng 4 Tết (02.02.1968), Bộ chỉ huy của Trần Bạch Đằng rút lui ra ven lộ Phú Định.
Mồng Năm Tết (03.02.1968), thiếu đạn dược, không được bổ sung quân số, tản thương khó khăn.  Buộc lòng phải xin lệnh Trung ương Cục có tiếp tục tác chiến nội thành hay rút lui.
Giữa đêm mồng Năm rạng mồng Sáu Tết, Sở chỉ huy rút sang bên kia lộ Mù U, cặp theo sông An Lạc.  Bị quân VNCH truy nã.  Lợi dụng trời tối, sở chỉ huy rút khỏi An Lạc, chạy sang xã Tân Tạo.
Mồng 7 Tết, Cộng quân được lệnh rút hết khỏi nội thành.  
Bọn Trịnh Đình Thảo và vợ, Nguyễn Văn Kiết, Lê Hiếu Đằng… chạy ra theo.  Chạy tiếp.  Chạy khốn chạy khổ.  Trần Bạch Đằng chạy đến nỗi chỉ còn cái quần xà lỏn, hết sức mất mặt của một nhà lãnh đạo, trước các vị ‘khách qúy’ mới từ Sài Gòn chạy ra theo.  Trần Bạch Đằng thành thật kể lại: 

‘Khi khách được hướng dẫn ra hầm xong xuôi, đến lượt tôi (Trần Bạch Đằng), tôi cũng phải ra hầm.  Thế là cởi bộ quân phục, ở trần, mặc quần đùi, cặp nách bộ quân phục, lom khom bước theo bảo vệ - đạn AR15 đã bắt đầu bắn quanh chúng tôi.  Khốn khổ!  Bảo vệ dẫn tôi theo một líp và tôi qua trước mặt vợ chồng luật sư Trịnh Đình Thảo, giáo sư Nguyễn Văn Kiết, anh Lê Hiếu Đằng…Qua trước mắt họ trong tư thế không mấy gì oai phong - trái ngược với buổi tôi tiếp họ…Tôi hơi bực, cự các đồng chí bảo vệ:  Sao dẫn ngả này? - Đâu còn ngả nào khác!  Họ trả lời’ (6).
Trần Bạch Đằng là kẻ hoạch định kế hoạch tấn công vào nội thành trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân (1968), rốt cuộc phải vắt giò lên cổ chạy xức bức xang bang thê thảm như thế!
Ôn lại khúc phim chiến sử hào hùng này, người Việt quốc gia chắc sẽ cảm thông sâu sắc mối thống hận ngút ngàn thiên thu của quân dân VNCH, vì sao đã bị đồng minh bức tử, trong khi chúng ta đã từng chứng tỏ là có thể đánh cho Cộng quân chạy té khói, chạy không còn manh giáp (chạy trụt quần!)?
Tới Nam Bến Lức, đám Lm. Nguyễn Ngọc Lan (sau 30.4.1975, xuất tu để lấy vợ), Gs. Châu Tâm Luân, Cao Hoài Hà, nhà văn Thiếu Sơn, Gs. Nguyễn Văn Chì, Lê Văn Chí, Nguyễn Văn Hanh…. hớt hải chạy theo kịp, vào ra mắt Trần Bạch Đằng!
Coi như cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân đợt 1 (1968) kết thúc vào ngày mồng 7. Trần Bạch Đằng phải về báo cáo cho Trung Ương Cục và bàn tính kế hoặch đánh đợt II.
Đợt II nổ ra ngày 05 tháng 5 năm 1968 (5.5.1968 - 12.5.1968) cũng thất bại thê thảm, cho nên Trần Bạch Đằng đã phải thú nhận: ‘Sau đợt 2, tôi phát biểu quan điểm là không thể tiếp tục chiến dịch được nữa bởi yếu tố bất ngờ không còn và nhất là những tổn thất tương đối nặng của ta’ (7).
Nhận xét
Có những tác giả giải thích các biến cố xẩy ra trên thế giới dính líu tới người Mỹ, trong đó có cuộc chiến Việt Nam, với tầm nhìn rất xa (8).  Ở đây chỉ xin có vài nhận xét bình thường, dân giả.   
                                                     
Tham vọng của Hà Nội đầy ảo tưởng cho nên đã chuốc lấy thất bại lớn.  Ý đồ của lãnh đạo Cộng Sản Hà Nội là vừa ‘tổng tấn công’ bằng quân sự vừa ‘tổng nổi dậy’ bằng lực lượng quần chúng (9).
Cả hai mục tiêu đều không đạt được !
Tổng tấn công bằng quân sự: 
So sánh lực lượng, Cộng quân thua kém về mọi phương diện; trừ ra họ có ưu thế về vũ khí cá nhân vì được Nga Tàu chi viện cho tiểu liên AK 47 và B40 tối tân, đang khi hầu hết quân đội VNCH lúc đó còn xử dụng súng carbin thời Đệ nhị thế chiến.  Cộng quân không ngờ đã phải đối đầu với lực lượng Quân đội và Cảnh sát VNCH hết sức dũng cảm và thiện chiến. Sở dĩ Cộng quân lọt vào được một số nơi là nhờ yếu tố bất ngờ, do họ lật lọng, vi phạm mật ước hưu chiến (36 giờ) kí kết giữa hai bên để đồng bào được yên tâm ăn Tết cổ truyền. Lực lượng Cộng quân tham gia trậnTổng công kích Tết Mậu Thân 1968 lên tới 84 ngàn, đa số là quân ‘Giải phóng miền Nam’.  Tổng kết có khoảng 80% bị loại khỏi vòng chiến. ‘Theo tài liệu của Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH trong tháng 2 -1968: VC bị giết 41,180 người, tháng 3-68 bị bắn hạ 17,192 người tổng cộng 58,372 người, bị bắt làm tù binh toàn bộ 9,461 người. Trong số 84,000 cán binh được đưa vào trận Tổng công kích chỉ còn 16,168 tên chạy thoát, chưa tới 20%, vũ khí bị ta và Ðồng minh tịch thu là 17,439 khẩu súng đủ các loại’ (10). Riêng phần Trần Bạch Đằng, ông ta là người lãnh đạo về chính trị, không phải là nhà quân sự chuyên nghiệp, vậy mà lại được giao thảo phương án tấn công nội thành Sài Gòn. 
Tổng nổi dậy:
Cộng Sản Hà Nội thất bại vì chủ quan, vì tin là quần chúng nổi dậy cướp chính quyền cho họ.  Thực tế là đồng bào thấy Cộng quân tới đâu thì bồng bế nhau chạy thục mạng về vùng quân VNCH.  Cũng do phát động cuộc tổng nổi dậy cho nên  hầu hết những thành phần nằm vùng đều lộ diện.  Khi cuộc chiến tàn, những thành phần này bị triệt tiêu hoặc là phải chạy vào khu. Sau cuộc Tổng tấn công, đại bộ phận lực lượng Cộng quân bị tiêu diệt. Vùng kiểm soát của Cộng Sản bị thu hẹp tối đa.  Những cơ quan từ cấp huyện lên tới Trung ương Cục phải chạy sang ẩn náu bên kia biên giới Lào và Kampuchia.  Kể từ 1960 tới 1967, chưa bao giờ Cộng quân bị thiệt hại nặng nề như năm 1968.  Họ cần mất hơn 3 năm nữa mới có thể hồi phục.  Nhờ vậy, tình hình miền Nam từ 1969 tới 1971 tương đối yên tĩnh.
Trên báo Quân Đội Nhân Dân, người Cộng Sản đã phải thú nhận những sai lầm dẫn tới thảm bại: ‘Đánh giá sai về tương quan lực lượng giữa hai bên dẫn đến việc đề ra mục tiêu tấn công giành chính quyền một cách chủ quan, không kịp thời chuyển hướng hoạt động quân sự khi tình hình đã thay đổi’(11).
Tướng Việt Cộng Trần Văn Trà là Tư lệnh mặt trận Tiền phương Bắc cũng đã thú nhận: ‘Các mục tiêu quân sự trong dịp Tết vượt qua sức mạnh của chúng ta. Tất cả đều nằm trong ước muốn chủ quan của những người vạch ra kế hoạch. Vì vậy sự tổn thất của chúng ta đã rất lớn lao về vũ khí cũng như nhân sự. Và chúng ta không thể lấy lại được những gì chúng ta đã tạo ra. Vì vậy, chúng ta đã phải vượt qua biết bao nhiêu khó khăn trở ngại trong các năm 1969, 1970’ (12).
Trong cuộc phỏng vấn dành cho phóng viên Nguyễn Hùng của đài BBC ngày 15.1.2008, nhà báo Bùi Tín trả lời một số câu hỏi như sau:
Hỏi: - Tết Mậu Thân, ý định chiến lược của cuộc tiến công là gì?
Trả lời: - Các cuộc tiến công đồng loạt, bất ngờ vào các thành phố, thị trấn, căn cứ, sở chỉ huy Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa nhằm tiêu diệt sinh lực đối phương, với mục đích cuối cùng là sự nổi dậy rộng khắp của dân chúng, là cuộc Tổng khởi nghĩa toàn miền Nam kết thúc cuộc chiến.
Hỏi: - Mục đích ấy có đạt không thưa ông?
Trả lời: - Rõ ràng là không. Hoàn toàn không có nổi dậy, không có khởi nghĩa. Ðó chỉ là ảo tưởng chủ quan (13).
Tổng kết sự thất bại của Cộng Sản về mặt chiến thuật là như thế, song về chiến lược, có lẽ họ đã gặt hái được thắng lợi to lớn, bất ngờ.
Thật vậy, nhiều tác giả có chung nhận xét rằng trận Tổng tấn công Tết Mậu Thân đã làm cho Hoa Kỳ nhụt ý chí.  Dư luận Hoa Kì và Tây phương, vốn không am hiểu tường tận cuộc chiến Việt Nam, tưởng là Cộng quân đã quá mạnh, họ cho rằng chiến thuật ‘tìm và diệt’ (search and destroy) suốt 3 năm qua của tướng William Westmoreland là thất bại và Hoa Kì phải ngồi vào bàn hội nghị tìm cách ‘tháo chạy’ trong ‘danh dự’!...  Tức là Cộng Sản Việt Nam thắng về chiến lược.  Vì thế, sau này, nhiều người đánh giá, trận Mậu Thân 1968 là một quyết định đúng của Cộng Sản Hà Nội!
Trần Bạch Đằng cũng nhận xét như thế: ‘Không phải không có người chỉ trích quyết tâm chiến lược Mậu Thân, căn cứ vào kết quả của chiến dịch và tổn thất của ta.  Hiện thực đã bác bỏ quan điểm chỉ trích này: không có Mậu Thân  thì ý chí xâm lược của Mỹ không bị nhụt, thì không có việc Mỹ ngồi vào bàn hội nghị Paris, rồi cuốn cờ rút quân -  những bước chuẩn bị rất trực tiếp cho đại thắng mùa xuân 1975.  Mậu Thân 1968 là gạch nối Đồng Khởi 1960 và ngày 30.4.1975’ (14).
Đương nhiên có những ý kiến khác với ý kiến của Trần Bạch Đằng ngay trong hàng ngũ đồng chí của ông ta.  Đó là những ý kiến cho rằng ý đồ phát động cuộc Tổng công kích - Tổng tấn công của Hà Nội là một ảo tưởng, là một thất bại; thế nhưng từ cái thất bại ấy, không ngờ lại đem tới cho họ một thắng lợi chiến lược to lớn.  Có nghĩa là Cộng Sản Hà Nội ‘ăn may’ chứ không phải là do sự ‘lãnh đạo sắc sảo’ như Trần Bạch Đằng khoe khoang sau này (15).
Một trong những nhận xét đó là của tướng CS Trần Độ.  Trong trận Mậu Thân 1968, Tướng Trần Ðộ thuộc bộ chỉ huy mặt trận Sài Gòn bên cạnh Trần Văn Trà.  Chính ông tướng này xác nhận:  ‘Thành thật mà nói chúng ta đã không hoàn thành được mục tiêu chính của chúng ta. Việc gây nên một ảnh hưởng lớn đối với Hoa Kỳ thật ra không phải là ý định của chúng ta nhưng điều đó đã trở nên một kết quả do may mắn mà tới’(16).
Ngoài ra, còn một nhận xét khác nữa của một số các nhà kháng chiến Nam bộ cho rằng Cộng Sản Bắc Việt có thâm ý đem ‘nướng’ đại bộ phận lực lượng quân đội ‘Giải phóng miền Nam’vào trận Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân 1968, mục đích là làm suy yếu tư thế ‘độc lập’của các trí thức miền Nam trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, để rồi từ nay Cộng Sản Hà Nội có thể nắm trọn quyền lãnh đạo cuộc chiến tranh nhuộm đỏ miền Nam.

Rốt cuộc, vừa khi chiếm trọn miền Nam, Cộng Sản Hà Nội nhanh chóng tổ chức Hội nghị Hiệp thương bàn chuyện thống nhất vào tháng 11 năm 1975.  Ngày 25.4.1976 bầu cử Quốc hội thống nhất.  Hai tháng sau, ngày 02.7.1976,  ‘Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam’ phải ‘tự ý’ giải tán.  Sang đầu năm 1977, ‘Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam’ cũng âm thầm ‘dẹp tiệm’ bằng cách tuyên bố sát nhập vào Mặt trận Tổ quốc. 
Bạch Diện Thư Sinh


Chú thích:
1-  Ván Bài Lật Ngửa là bộ phim trắng đen, 8 tập, sản xuất từ 1982 tới 1987 do Xí nghiệp phim Tổng hợp Thành phố HCM (nay là hãng phim Giải Phóng). Đạo diễn Khôi Nguyện tức Lê Hoàng Hoa đã ‘sửa đổi khá nhiều chi tiết so với tiểu thuyết và đã đặt tên chính thức cho bộ phim là ‘Ván Bài Lật Ngửa’’ (Wikipedia). Kịch Bản lấy từ tiểu thuyết tình báo Giữa Biển Giáo Rừng Gươm của Nguyễn Trương Thiên Lý, tức Trần Bạch Đằng.  Nội dung kể lại đời hoạt động tình báo của điệp viên Nguyễn Thành Luân, trong đời thật là Đại tá VNCH Phạm Ngọc Thảo, do Tài tử chính Nguyễn Chánh Tín thủ vai.
2- Thời chiến tranh Việt Nam, tổ chức cao nhất của Cộng Sản ở miền Nam là Trung Ương Cục miền Nam (Cục R) do Phạm Hùng làm bí thư.  Dưới Trung ương Cục là các khu:  khu 7, khu 8, khu 9, và đặc khu Sài Gòn – Gia Định do Nguyễn Văn Linh làm bí thư, kế nhiệm là Võ Văn Kiệt.  Dưới đặc khu Sài Gòn – Gia Định là Thành ủy Sài Gòn đặc trách công tác nội thành. Trần Bạch Đằng xác nhận ông ta là Bí thư khu Sài Gòn – Gia Định:  ‘Rồi đợt 2.  Sau đợt 2… Riêng anh Phạm Hùng phát biểu một cách sòng phẳng:  Các quân khu khác sẽ tiến hành công việc theo chỉ đạo của Trung Ương Cục, riêng khu Sài Gòn – Gia Định thì giao cho đồng chí bí thư chịu trách nhiệm, tùy tình hình mà hành động.  Lúc đó tôi là bí thư’.  Trần Bạch Đằng. Tuyển Tập.  Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2007.  Trang 221, 222.
Và trong hồi kí Cuộc Đời Và Ký Ức, trang 197, Trần Bạch Đằng viết: ‘Đầu tháng 11.1969 (âm lịch là năm Kỷ Dậu), tôi được điện của Trung ương Cục  gọi lên Nam Vang.  Điện không nêu lý do.  Bấy giờ Khu ủy Sài Gòn đang thực hiện một phân công mới do Trung ương Cục quyết định: đồng chí Võ Văn Kiệt được chỉ định làm Bí thư Khu 9 và tôi thay đồng chí ở khu Sài Gòn…’
3-  Trần Bạch Đằng. Tuyển Tập, B ài 37. Sđd. Trang 220.
4-  Trần Bạch Đằng. Tuyển Tập, B ài 37. Sđd. Trang 220,221.
5-  Trần Bạch Đằng.  Cuộc Đời và Ký Ức. Trang 158.
6-  Trần Bạch Đằng.  Cuộc Đời và Ký Ức.  Sđd. Trang 186.
7-  Trần Bạch Đằng. Tuyển Tập, Bài 37. Sđd. Trang 221.
8- Chẳng hạn như cựu đại tá Không quân Hoa Ký L. Fletcher Prouty trong cuốn The Secret Team: The CIA and It’s Allies in Control of The United States and The World đã nói tới ‘Những thế lực đứng đằng sau’, hay là The Global Elite, gồm có những tay sản xuất vũ khí và những chủ nhà băng cỡ toàn cầu.  Họ là những kẻ điều hành dấu mặt chính trường Hoa Kì, đồng thời họ có ảnh hướng rất lớn trên toàn thế giới.  Chính thế lực siêu đẳng ấy định hướng chính trường HK, mở ra hay kết thúc một cuộc chiến (bao gồm cả cuộc chiến tranh tại Việt Nam), ngay cả việc thiết lập trật tự thế giới….(www.ratical.org/ratville/JFK/ST.html)
9- Tháng 1 năm 1968, Ðảng CSVN đã đưa ra một nghị quyết gọi là Nghị Quyết 14 Của CS Hà Nội ra hồi tháng 1 năm 1968 vẽ ra trước mắt dân và quân miền Bắc một viễn tượng chiến thắng hết sức lạc quan:
Về chính trị, Nghị quyết 14 viết: ‘Quần chúng nhân dân ở các thành thị và những vùng còn tạm bị địch chiếm ở miền Nam đã nhiều lần nổi dậy khởi nghĩa với những hình thức khác nhau. Hàng triệu quần chúng đang sục sôi cách mạng và sẵn sàng vùng lên, sẵn sàng hy sinh tất cả để giành cho được độc lập, tự do, hòa bình, cơm áo, ruộng đất… địch đang lâm vào tình trạng khủng hoảng toàn diện và nghiêm trọng, chúng tỏ ra không thể thống trị nhân dân miền Nam được nữa và nhân dân miền Nam cũng không chịu sống dưới ách thống trị của chúng nữa’.
Về mặt quân sự, Nghị quyết cho rằng: ‘Về mặt quân sự, địch còn trên một triệu quân và một tiềm lực chiến tranh lớn, nhưng đội quân đó đã liên tiếp thất bại về chiến lược và chiến thuật, quân số tuy đông nhưng tinh thần bạc nhược và bắt đầu suy sụp…’.
Từ những nhận định ấy, Nghị quyết 14 nắm chắc  phần thắng: ‘Trong những điều kiện như vậy, về phương pháp, ta chủ trương không chỉ phát động tổng công kích, mà còn đồng thời phát động tổng khởi nghĩa, tức là dùng lực lượng vũ trang mạnh của ta đánh vào các binh đoàn chủ lực của địch, đánh mạnh vào “đô thành” và các thành phố khác, tạo điều kiện cho hàng triệu quần chúng ở thành thị và các vùng nông thôn còn tạm bị chiếm nổi dậy khởi nghĩa, phối hợp với lực lượng vũ trang của ta để tiêu diệt và làm tan rã quân địch, đánh đổ các cơ quan đầu não của ngụy quyền, làm rối loạn và tê liệt đên tận gốc bộ máy chiến tranh của Mỹ và ngụy …’
(Trong bài  Vụ Tết Mậu Thân (1968), Bóng Tối Lịch Sử Đã Sáng Dần, tác giả Nguyễn Đức Cung đã dẫn tài liệu Nghị quyết 14 này của Cộng Sản Hà Nội từ bài Hà Nội Làm To Chuyện Mậu Thân Để Là Gì? của kí giả Phạm Trần. Web Thông Luận 11.01.2008).
10-  Trọng Đạt. Bài Tết Mậu Thân 1968. 
11-  Wikipedia.  Bài Sự Kiện Tết Mậu Thân.  Google.com/Tết Mậu Thân
12-  Peter Macdonald.  Giap, The Victor in Vietnam, w.w. Norton & Company, New York, London, 1993, trang 268.  Nguyễn Đức Cung trích dẫn trong bài Vụ Tết Mậu Thân (1968) Bóng Tối Đã Sáng Dần. 
13- Thế Kỷ 21 Số 227.  Bài 40 Năm Tết Mậu Thân.  BBC phỏng vấn nhà báo Bùi Tín.  Trang 67.  Nguyễn Đức Cung trích dẫn trong bài Vụ Tết Mậu Thân (1968) Bóng Tối Đã Sáng Dần. 
14-  Trần Bạch Đằng.  Cuộc Đời và Ký Ức. Sđd. Trang 188,189.
15-  Trần Bạch Đằng.  Cuộc Đời và Ký Ức.  Sđd. Trang 189:  ‘Trong Mậu Thân, sự lãnh đạo chọn thời cơ để đánh một cú choáng váng toàn bộ ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ tỏ ra hết sức sắc sảo’.
 16- Peter Macdonald.  Giap, The Victor in Vietnam.  Sđd. Trang 260.  Nguyễn Đức Cung trích dẫn trong bài Vụ Tết Mậu Thân (1968) Bóng Tối Đã Sáng Dần. 



* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *



Thư ngỏ gởi ông Trần Bạch Đằng

Huỳnh Việt Lang


Vừa rồi có đọc một bài viết của ông trên báo Phụ nữ (1), thấy mà tội. Xin nói rõ, chẳng phải tội nghiệp mà là tội lỗi quá. Tôi liền viết ngay thư này, tuy nhiên thú thực cùng ông là trong suốt mấy tuần lễ qua tôi rất bận rộn, tất tả lo chạy ngược xuôi để chuẩn bị kỷ niệm ngày 30/04 năm nay. Chẳng phải công chức nhà nước, lại chưa hề chấp nhận sự lãnh đạo của đảng cộng sản, nên cách mần ăn cũng còn gặp lắm chuyện nhiêu khê. Báo để ông yên tâm, chúng tôi chẳng phải là bọn “phản động, cấp tiến…”, nên không hề có chuyện đánh phá chế độ độc tài toàn trị ở nước ta hiện nay. Là dân đen đến từ các tỉnh ở miền Tây và Ðông Nam bộ, góp sức cùng đồng bào Sài gòn, thông qua cách thức Ðại Diễu hành trên đường phố - những mong giúp đảng và chế độ có dịp hiểu thêm hiện tình đất nước, mà cố gắng đưa ra những chánh sách đứng đắn hơn về dân chủ và nhân quyền cho toàn dân. Bữa nay có rỗi một ít thời gian, tôi liền hoàn tất ngay thư này gởi đến ông.

Nếu bài viết của một ông có trường cháy, cô giáo chết nên mới học hết lớp ba thì cũng đành thôi vậy; song một nhà tư tưởng cộng sản kiệt xuất mà buông ra những kiến văn kiệt sức như ông thì khiến lắm độc giả phát mệt.

Ngay từ đầu bài viết của mình, ông cho rằng Giáo hoàng Jean-Paul II là “Giáo hoàng đầu tiên không phải là người Ý” là chẳng đúng. Ðoạn đầu nói chưa trúng, ngỡ rằng ông sót, ai dè đoạn sau ông lặp lại cũng y chang ý này: “ xu thế dành nhiều quốc tịch ứng cử vào ngôi Giáo hoàng, tuy mới có hai trường hợp ”. Cái này quả là nói trật, ông Trần Bạch Ðằng ạ. Nếu đây chỉ là những thông tin mang tính thống kê, bổ sung cho một bài viết thì chẳng có chi đáng nói cả. Ngay cả một tập thể lớn, nhiều khi tự nhận mình là “đỉnh cao trí tuệ” mà không ít lần đưa ra quan điểm sửa sai, mặc dù sửa riết mà cũng còn sai. Hà huống làm người ở đời, làm sao chẳng có lúc quên sót. Song dựa trên một tiền đề trật, mà ông Trần Bạch Ðằng lại đi triển khai cả một bài viết thì e rằng… ông đã làm một việc quá mạo hiểm. “cái cảnh an bình trên thế gian sẽ thành đặc trưng của quan hệ của các tôn giáo với nhau và giữa các tôn giáo với người lương với nhau (…) ” là một nhận định huề trớt đối với xứ Việt mình, ông Trần Bạch Ðằng ạ. Ðôi khi trong quá khứ lịch sử nước ta cũng có những vụ lấn cấn giữa lương-giáo, Phật-Thiên chúa giáo… song vốn bản chất người Việt là hiếu hòa, lại không cuồng tín nên mọi chuyện rồi cũng qua. Tất nhiên trừ thời này, chỉ có chủ thuyết vô thần Marxist ngoại lai làm rối chuyện dân ta mà thôi. Một đa số lương dân thờ ông bà tổ tiên đâu phải là vô thần Marxist, và cũng chẳng phải tất cả những người vô thần ở Việt Nam đều tin Marxist. Cớ sao lại cứ chực đem cái thúng Marxist đòi úp nguyên con voi dân tộc Việt, còn đâu là đạo lý ở đời, hả ông Trần Bạch Ðằng ? Thiết nghĩ, người đọc nhiều hiểu rộng như ông chắc cũng thấy được cái chuyện không ổn này, nên đoạn tiếp theo ông viết “ (…) nơi “đất lành” là Việt Nam ”. Chữ đất lành để trong ngoặc kép này, xin minh định là của ông Trần Bạch Ðằng, chớ chẳng phải tôi hàm hồ thêm vào, nói rõ vậy kẻo có vị chửi tôi là xuyên tạc. Ðất Việt mình làm sao mà lành nổi, một khi đảng cộng sản vô thần cứ ngồi chơi cha trên đầu nhân dân; miệng bô bô là đầy tớ, thực thân một hai toàn quyền lãnh đạo, ai mà chịu thấu, hả ông Trần Bạch Ðằng.

Nghe nói bộ sậu giúp việc ông có tới non nửa tá, chẳng biết mấy trự đó ăn no rồi làm chi mà bết quá, mấy cái thông tin phổ biến như vậy mà cũng mít đặc. Người không biết thì chưa hẳn là xấu, chỉ có mấy trự dám căn cứ vào cái không biết của mình mà làm khôn thì đúng là dốt tệ. Riêng từ các vùng nói tiếng Ðức, kể cả Giáo hoàng Benedict XVI hiện nay, giáo hội Thiên chúa La Mã có không dưới 02 (hai vị) tiền nhiệm. Còn trường hợp Giáo hoàng không phải là người Ý thì càng nhiều hơn, ta sẽ thấy từng ngồi trên ghế này có các vị là người Hy Lạp, Phi châu, Syria và Pháp. Ở đây cũng lẩm cẩm nói thêm, cứ kêu đám giúp việc lên chửi một trận… rồi cho về làm tiếp, chớ nổi nóng mà đuổi việc, tội nghiệp vợ con họ ở nhà nghen ông. Ba cái trò khốn nạn chực bóp bao tử đàn bà với con nít là chỉ có đám ngân hàng làm với ông Phương Nam bên Phú Nhuận thôi…

Ông người miền Nam, làm sao mà chẳng biết cụ Ðồ Chiểu. Chẳng thể mong ông sánh bước chàng Lục Vân Tiên mà lãnh vai hảo hớn ra tay trượng nghĩa, dẫu sự đời nay đang lắm rối ren. Thôi thì chịu khó tu tĩnh vậy; noi gương Ngư, Tiều… cũng là một cách an sinh. Chẳng nên thốt lên những câu buông tuồng mà thành nói xàm vậy. Ông nghĩ coi, còn mở miệng nói mà nói trật thì quả thiệt là dở, một khi cái dở kia lại nằm ngay ở kiến văn thiếu tu chỉnh của mình. Nhớ ngày trước, với truyện dài Ván bài lật ngửa, đứng bút danh Nguyễn Trương Thiên Lý, ông hàm hồ gom giới tu sĩ thành một phường dốt nát, rặt nòi đĩ bợm. Tưởng hơn mươi năm sau ông khá hơn, song ai dè ông chẳng chịu học thêm, làm người đọc quá thất vọng về cái kiến văn tôn giáo của ông. Ông là một trong những tác giả dày công dàn dựng nên tư tưởng chế độ. Mần sao ra nông nỗi này, hả ông Trần Bạch Ðằng. Mần công tác tư tưởng là một việc khó, đâu được hồ đồ như vậy. Những kiến thức về tôn giáo dứt khoát không thể thoải mái sáng tác, dẫu trí tưởng tượng của người viết phong phú đến đâu chăng nữa. Ðó là một công việc nghiêm túc, đòi hỏi nhiều thời gian tra cứu, chẳng thể mặc tình đem ra giỡn chơi mà ổn được.

Ðọc mà cứ ngờ ngợ ở cái câu cuối cùng của bài viết “đang tìm mọi cơ hội để nâng cao hạnh phúc cho con người Việt Nam ”. Phận dân đen nên chẳng biết nước mình còn bao nhiêu cơ hội, chỉ thấy rằng dịp 30/04 năm nay đảng của ông sao mừng công lớn quá. Ðây cũng là một cơ hội vậy. Cùng là con dân miền Nam, tôi xin trần tình cùng ông dăm câu. Làm chi mà có được “cái cảnh an bình trên thế gian ” “ dù chỉ là hy vọng” một khi chẳng nói dứt khoát với nhau đôi lời phải quấy. Gần 300.000 người đồng loạt bị bỏ tù không có bản án xét xử; cùng 1.000.000 người khác bỏ mạng dưới biển, trong rừng trên đường tìm tự do. Một biến cố cận đại vô tiền khoáng hậu, chưa bao giờ lịch sử Việt Nam suốt nhiều ngàn năm dựng và giữ nước có những trang đẫm máu và nước mắt như vậy. Dân ta làm chi nên tội mà xử nhau oan nghiệt vậy, hả ông ? Tôi không giận anh em miền Bắc, bởi trong tận cùng huyết quản của tôi cùng tất cả những người miền Nam khác đều có một cội nguồn chung từ con cháu các vua Hùng - quê cha đất tổ ở phía Bắc. Tôi chỉ quá buồn vì tập đoàn độc tài đảng trị hôm nay, chỉ biết ra rả về một thắng lợi cực kỳ phản động của một đảng, mà vờ quên béng đi những mất mát tiềm lực khó bù đắp của cả một dân tộc, có vậy thôi. Việt Nam chắc chắn phải thống nhất nhưng dứt khoát không thể bằng con đường bạo lực, khát máu như đã xảy ra hồi năm 1975.

Người có tuổi không hay giỡn hớt, càng ít thèm nói láo. Tiền hưu cán bộ cao cấp đâu thấp, cộng thêm các thứ chế độ bao cấp chẳng nhỏ, cần chi phải viết lấy được hòng giựt dăm miếng cơm chim như mấy đứa bồi bút, ông Trần Bạch Ðằng nghĩ thử coi ?! Tuổi đã cao, đâu thể cứ thấy thiên hạ ăn khoai mài, mình cũng phải xách mai đi chạy quấy là được. Thiển nghĩ, càng không nên chơi cái miếng giả dại hòng báng bổ tôn giáo. Cứ ham tự nắm tóc mình kéo ngược lên, coi chừng có bữa nâng chân hổng đất thiệt là kẹt chớ chẳng chơi đâu. Cái thời tăm tối phải giết và bị giết, dẫu muốn hay không, thì cũng đã rơi tõm vào quá khứ. Phẩm giá của người cầm bút chân chính là dám đối diện thực tại, thái độ ve vuốt sự bất công và nghịch lý chỉ làm người ta trở nên bạc nhược trước sự thực. Ăn nói xử sự cho phải đạo luôn cần cho mọi người ở đời, vượt lên trên những quan điểm chính trị khả biến. Ở đời, ai mà hổng muốn khi tuổi già có rửa chân theo bước ông bà thì được mồ yên mả tốt. Ông Trần Bạch Ðằng ơi, nhắm mắt phò theo lũ gian tà khéo có ngày chuốc họa đó.

Xin có vài dòng đến cùng ông Trần Bạch Ðằng như vậy, gọi là một lời thăm hỏi nhân ngày 30 tháng 4 sắp tới. Ít bữa nữa là đúng ngày 30/04, nếu trời còn thương dân ta nên cho mọi chuyện êm xuôi đến giờ chót, ông Trần Bạch Ðằng nhớ ra đường mà tiếp đoàn Đại Diễu hành của bà con mình nghen.

Sài gòn, ngày 28/04/2005 - cái thời mà phẩm giá con người đang bị đem ra thử thách quá ư khốc liệt.


Huỳnh Việt Lang

(1) Báo Phụ nữ thứ sáu, ngày 22/04/2005. Bài “Lời chúc lành từ Việt Nam…”, tr. 6.