Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label TueSiVC. Show all posts
Showing posts with label TueSiVC. Show all posts

Friday, 8 November 2024

GIỜ NẦY MÀ CON ĐIẾM NHÃ CA VẪN CỐ TÌNH NGU NGƠ, MÙ QUÁNG VỀ TUỆ SỸ - HẮN TA "LẤY MÁU TÔ MÀU CỜ"- MÀU CỜ NÀO MÀ TÔ BẰNG MÁU HẢ CON ĐIẾM NHÃ CA?!./-Mt68

__________” Môt Bóng Trăng Gầy”,

Thích Tuệ Sỹ 

Nằm ôm một bóng trăng gầy
Vai nghiêng tủi nhục hờn lay mộng tàn
Rừng sâu mấy nhịp Trường sơn
Biển Ðông mấy độ triều dâng ráng hồng
Khóc tràn cuộc lữ long đong
Người đi còn một tấm lòng đơn sơ?
Máu người pha đỏ sắc cờ
Phương trời xẻ nửa giấc mơ dị thường
Quân hành đạp nát tà dương
Khúc ca du tử bẽ bàng trên môi
Tình chung không trả thù người

*thích tuệ sỹ

________________________

 Trăng Vỡ Trong Tách Trà

hinh
Trưởng lão Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023), Đệ lục Tăng Thống GHPGVNTN. (Ảnh từ Trần Triết)

Đã ly biệt đến rồi sao? Đó là những ngày của tháng 11, giữa mùa thu 2023, qua điện thoại. Tắt. Ngẩn người. Giữa đêm khuya gửi bài thơ ngắn. Trên giường bệnh, những giây phút cuối cùng, thơ gửi qua email, Tuệ Sỹ gõ gửi lại mấy giòng thơ cuối. Là lời giã biệt.

Vậy mà chưa hết, sau bài thơ của hai chị em, vài ngày trước khi viên tịch, điện thoại reo. Người nằm trên giường bệnh. Hỏi. Không trả lời. Lặng lẽ. Nghe "Thầy em" đọc  lời kinh cuối. Nghe được tiếng cười qua sinh tử. Tắt.

 

Một năm qua rồi! Lễ tiểu tường Tuệ Sỹ. Vô cùng thương nhớ.


Nhã Ca

***
 

 

Trăng Vỡ Trong Tách Trà

Muốn ôm một vầng trăng

Đến thăm em trong chiều

Em, áo cà sa xám

Chị, áo một màu nâu

Trà rót hoài không cạn

Bởi chuông chùa tan lâu

 

Chị viết một câu thơ

Em viết kinh trên lá

Rừng không có tiếng nói

Núi không biết kêu la

Hư vô không biết gọi

Kinh đã như lá khô

 

Ôi! Đã nguội tách trà

Giọt lệ ai rơi xuống

Giữa một vầng trăng vỡ

Giữa một thời gian đen!
...

Đêm huyền thoại

Chung trà mộng mị tàn canh

Hương còn thoảng.

Trong hạt mưa khuya

Giọt lệ đẫm ướt

Hai bờ sinh tử.

Tuệ Sỹ - Nhã Ca*


*Bài thơ của nhà thơ Nhã Ca viết gửi hòa thượng Tuệ Sỹ vào giữa tháng 11, 2023, với sáu câu thơ cuối là lời của Tuệ Sỹ gửi lại.

Thursday, 7 March 2024

NHẮC CHUYỆN TRƯỜNG SƠN ĐỪNG QUÊN GIẤC MƠ TRƯỜNG SƠN CỦA TUỆ SỸ NHÉ, HUỲNH TẤN LÊ, ĐÀO VĂN BÌNH, TRẦN QUÝ HÙNG, TRẦN VIỆT LONG - "MÁU NGƯỜI TÔ ĐỎ SẮC CỜ" ./-Mt68

” Môt Bóng Trăng Gầy”,

Thích Tuệ Sỹ 

Nằm ôm một bóng trăng gầy
Vai nghiêng tủi nhục hờn lay mộng tàn
Rừng sâu mấy nhịp Trường sơn
Biển Ðông mấy độ triều dâng ráng hồng
Khóc tràn cuộc lữ long đong
Người đi còn một tấm lòng đơn sơ?
Máu người pha đỏ sắc cờ
Phương trời xẻ nửa giấc mơ dị thường
Quân hành đạp nát tà dương
Khúc ca du tử bẽ bàng trên môi
Tình chung không trả thù người

*thích tuệ sỹ

__________________

gái Trường Sơn (bài cũ))





Cô Gái Trường Sơn

Không biết tên tác gi * 2011

Một cô thanh niên xung phong bị phát hiện đang lén lút làm cái việc “tự sướng” bên con suối nhỏ sâu trong rừng.

Suốt ba đêm liền, từ sau bữa ăn tối cho đến gần sáng, cô bị đồng chí của mình, toàn nữ, kiểm điểm gay gắt và không ngớt lời xỉ vả. “Ghê tởm, thật ghê tởm!” “Một biểu hiện suy đồi đạo đức!” "Một hành động bêu xấu hình ảnh người chiến sĩ cách mạng, đi ngược với lý tưởng và lối sống cách mạng tốt đẹp!” “Xử bắn con đĩ tư sản thối nát ấy đi!” v.v....

Sang ngày thứ tư, không chờ đồng đội xử bắn, “con đĩ tư sản thối nát” ấy đã treo cổ tự tử trên cành cây bị bom chặt đứt một nửa.

Chủ trì và cũng lớn tiếng xỉ vả nhất trong ba đêm đấu tố ấy là cô Duyên. Đơn giản vì cô là đội trưởng đội thanh niên xung phong ấy. Duyên là người làng tôi, thậm chí suýt thành chị dâu, nếu anh trai con ông bác tôi không hy sinh ở Quảng Trị năm 68. Tự cô kể tôi nghe chuyện này khi hết chiến tranh trở về nhà.

“Tội nghiệp nó! Người ta bảo thì bọn chị phải làm thế, chứ thương lắm!” cô nói, rơm rớm nước mắt. “Khối đứa như nó. Chị biết”.

“Cả chị?” tôi hỏi.

Ngập ngừng một lúc, chị nói, giọng thách thức:

“Thì sao? Chị không là người chắc? Cả bầy con gái thui thủi một mình trong rừng không một mống đàn ông suốt mấy năm trời! Đơn vị chị thì không, nhưng nghe nói ở Đrao, Tây Nguyên, có mấy chục đứa phát cuồng, lúc ôm nhau cười mãi không thôi, lúc xé hết quần áo kéo chạy tồng ngồng giữa rừng như những con điên.

Cao nguyên Trung Việt ngày nay
Mắt chị lại rưng rưng.

Về làng được bốn năm, do lỡ thì, và cũng do chẳng còn đàn ông nào nữa mà lấy, chị Duyên xuống tóc đi tu, ở ngay Chùa Mít bên sông Bùng. Vợ chồng bác tôi thương lắm, nhưng chẳng can ngăn. Trong thâm tâm hai cụ vẫn coi chị là con dâu. Có người nói chị bị ai đó trên tỉnh lừa tình. Chuyện này thì tôi không rõ, mà cũng chẳng quan trọng. Tôi chỉ thấy ngỡ ngàng, thậm chí đau nhói trong ngực khi hình dung chị dâu hụt của tôi, – một người xinh đẹp, yêu đời, từng nhiều năm làm đội trưởng đội văn nghệ xã, – lại tự nguyện giam mình trong ngôi chùa hiu quạnh, đổ nát, với bộ quần áo màu nâu nhà Phật. Mấy ngày sau, tôi đến tìm chị, định hỏi cho ra chuyện, nhưng tôi đã không vào chùa khi đứng từ xa nhìn thấy chị đang thẫn thờ đưa chổi quét đi quét lại cái sân vốn đã sạch.

Lặng lẽ ra về, tôi cố giải thích mà không giải thích nỗi cái gì đã biến một cô gái tươi vui, hồn nhiên, tràn trề hạnh phúc và xứng đáng được hưởng hạnh phúc thành một người yếm thế, bất hạnh như vậy.

Chiến tranh? Phải chăng đây là cái giá của chiến tranh?

Bẵng đi nhiều năm, tôi lại vào chùa Mít.

Nó vẫn thế. Hai cây nhãn trước chùa vẫn thế, và vẫn thế, chúng không chịu cho quả.

Đang vắng người, tôi vào thẳng phòng riêng sư trụ trì, sư thầy Đàm Duyên. Sư thầy chứ không phải sư cô như ngày nào.

“Chào chị Duyên,” tôi lên tiếng, không hiểu sao còn cố tình nói to.

“Mô phật. Xin xưng hô với kẻ tu hành này theo đúng cách của nhà Phật. Chào chú.”

Đứng chắp tay trước mặt tôi, đầu hơi cúi, là một bà già nhỏ bé, khô đét và không còn tí dấu vết nào của cô Duyên ngày xưa cũng như sư cô Đàm Duyên sau đó tôi gặp. Nét mặt bà không chỉ vô cảm mà bất động như được nặn bằng sáp. Cái đầu trọc bóng loáng cũng có lớp sáp nhờn nhợt ấy.

Bất giác, tôi chợt nghĩ: “Nếu không trọc, không biết tóc chị sẽ bạc đến đâu?”

“Chị khỏe chứ?”

“Mô phật.”

“Người ta nói nay mai chùa Mít bị đập bỏ để xây đường lớn lên Đô Lương và sang Lào?”

“Mô phật,” và chị khẽ cúi đầu.

“Thế chị và mọi người đi đâu?”

Sư thầy Đàm Duyên không đáp. Chất sáp trên mặt và cái đầu trọc của bà càng trở nên rõ nét hơn. Hình như bà đang khóc, dù đôi mắt sâu vô hồn vẫn ráo hoảnh.

Lát sau tôi bỏ về, vô cớ hậm hực với ngôi chùa tội nghiệp sắp bị phá bỏ, với hai cây nhãn xum xuê mà không chịu cho quả. Với cả chính tôi vì mãi vẫn lấn cấn tìm lời giải thích cho số phận chị dâu mình và những người như chị.

Chiến tranh! Ừ, chiến tranh! Tiên sư thằng chiến tranh!

Tôi thấy có cái gì nghèn nghẹn trong cuống họng, muốn văng tục chửi ai đó, đập phá cái gì đó mà không được. Chửi cái thằng gây ra chiến tranh chẳng hạn. Tiên sư thằng gây ra chiến tranh!

Đừng nói với tôi về chiến tranh bảo vệ tổ quốc và chính nghĩa. Tôi đã đủ khôn lớn để hiểu rằng cuộc chiến ấy, nếu quả là bảo vệ tổ quốc và chính nghĩa như người ta nói, cũng chẳng là gì nếu nó là thủ phạm của hàng triệu cái chết dân Việt, hàng chục triệu cuộc chia ly đau đớn, thủ phạm của một sự đảo lộn triệt để các giá trị truyền thống dân tộc. Nó trở thành nhảm nhí khi vì nó các cô gái của chúng ta phải “tự sướng” và tự treo cổ, khi một người trẻ trung, tươi vui và tràn trề nhựa sống như chị Duyên của tôi phải biến thành một hình sáp vô hồn.

“Ừ, mà nếu không cạo đầu, tóc của chị sẽ bạc đến đâu nhỉ?”

===================================================================================

Saigon 1973
===============================

Friday, 9 February 2024

 TRONG HÀNG NGŨ QGHC CHO TỚI NAY ĐÃ CÓ MỘT VÀI QGHC CÔNG KHAI NHẮM MẮT CUỒNG TÍN MỞ RỘNG CỬA MÌNH CHÀO ĐÓN TUỆ SỸ NHƯ : "HUỲNH TẤN LÊ, TRẦN VIỆT LONG... NAY TỚI PHIÊN NGUYỄN CÔNG KHANH TỰ XUỐNG ĐÁY ĐỊA NGỤC ÍT AI NGỜ."

*NHỮNG TÊN TUỔI NẦY CỐ TÌNH LÀM NGƠ V/V TUỆ SỸ CÔNG KHAI HÓA GIẤC MƠ TRƯỜNG SƠN CỦA HẮN TA - 

QUÝ BÁC QGHC THỬ SUY NGHĨ XEM - TẠI SAO MỘT NHÀ TU TRONG VÙNG ĐẤT ĐỊA TỰ DO VNCH LẠI CÓ "GIẤC MƠ TRƯỜNG SƠN? TRONG SUỐT 21 NĂM CHỐNG CỘNG CỦA MIỀN NAM "KHÔNG HỀ CÓ MỘT NGƯỜI VNCH CHÂN CHÍNH NÀO MƠ GIẤC MƠ TRƯỜNG SƠN CẢ ĐÚNG KHÔNG?- CHỈ CÓ VIỆT CỘNG MỚI GẮN LIỀN VỚI TRƯỜNG SƠN NHƯ TRƯỜNG SƠN ĐÔNG, TRƯỜNG SƠN TÂY - NHƯ ĐƯỜNG MÒN HỒ CHÍ MINH VỚI TRƯỜNG SƠN, ĐI "B" VƯỢT TRƯỜNG SƠN V.V... 

PHÍA QUỐC GIA MÌNH LUÔN KINH HOÀNG VỚI TRƯỜNG SƠN, MẮC MỚ GÌ MÀ MƠ ƯỚC TRƯỜNG SƠN CHỨ? CHỈ CÓ BỌN DÂY MƠ RỄ MÁ VC MỚI CÓ GIẤC MƠ TRƯƠNG SƠN.

TUỆ SỸ ĐÃ CÔNG KHAI HÓA "GIẤC MƠ TRƯỜNG SƠN" MÀ CÒN ĐI XA HƠN "Trường Sơn ơi bóng tùng quân ngạo nghễ"- BÓNG TÙNG QUÂN NGẠO NGHỄ LÀ CA TỤNG QUÂN VIỆT CỘNG HAY QUÂN VNCH ??????- 

"Máu người pha đỏ sắc cờ" - MÁU NGƯỜI VNCH HAY MÁU NGƯỜI VIỆT CỘNG TÔ ĐỎ SẮC CỜ??? CỜ ĐỎ LÀ CỜ VNCH HAY CỜ VIỆT CỘNG???

TRẦN VIỆT LONG VÀ HUỲNH TẤN LÊ CA TỤNG TUỆ SỸ THÌ KHÔNG CẦN NÓI LÀM GÌ VÌ 2 ÔNG QGHC NẦY ĐANG TẬP BAY VÀO THIÊN ĐÀNG, MƠ ƯỚC SAU NẦY ĐƯỢC NHÚC NHÍCH NHƯ 3 CỌNG LÔNG Ở CHÙA 3 CỤC MÀU VÀNG ! 

NHƯNG BÁC NGUYỄN CÔNG KHANH ƠI, BÁC KHANH LÀ RI CƯ 54, TỪNG CỰU PHÓ QUẬN PHÚ QUỐC NƠI ĐẤT ĐỊA LINH THIÊNG CỦA THẦN NGUYỄN TRUNG TRỰC - BÁC KHÔNG BIẾT THẦN NGUYỄN TRUNG TRỰC RẤT HIỂN LINH CHĂNG??? 

SAO BÁC NGUYỄN CÔNG KHANH ĐÀNH NÚP BÓNG PHƯỜNG GIAN MANH THỜ CỘNG VẬY HÈ?, BỚ BÁC RI CƯ 54 QGHC NGUYỄN CÔNG KHANH!!!!./-Mt68

____________

Đọc thơ nhớ người

 
1 trang_Tuệ Sĩ
“Sương mai lịm khói trà; Gió lạnh vuốt tờ hoa; Nhè nhẹ tay nâng bút; Nghe lòng rộn âm ba.” Buổi Sáng tập viết chữ Thảo – Tuệ Sỹ
 
Những Năm Anh Đi – Thích Tuệ Sỹ (1943-2023)
 
Ngọn gió đưa anh đi mười năm phiêu lãng
Nhìn quê hương qua chứng tích điêu tàn
Triều Đông hải vẫn thì thầm cát trắng
Truyện tình người và nhịp thở Trường sơn
Mười năm nữa anh vẫn lầm lì phố thị
Yêu rừng sâu nên khóe mắt rưng rưng
Tay anh với trời cao chim chiều rủ rỉ
Đời lênh đênh thu cánh nhỏ bên đường
Mười năm sau anh băng rừng vượt suối
Tìm quê hương trên vết máu đồng hoang
Chiều khói nhạt như hồn ai còn hận tủi
Từng con sông từng huyết lệ lan tràn.
Mười năm đó anh quên mình sậy yếu
Đôi vai gầy từ thuở dựng quê hương
Anh cúi xuống nghe núi rừng hợp tấu
Bản tình ca vô tận của Đông phương
Và ngày ấy anh trở về phố cũ
Giữa con đường còn rợp khói tang thương
Trong mắt biếc mang nỗi hờn thiên cổ
Vẫn chân tình như mưa lũ biên cương.
 
Bài thơ trên Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ làm sau khi bị nhà cầm quyền Cộng Sản cầm tù trong dẫy Trường Sơn. Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ  là một vị  học giả uyên bác về Phật giáo, nguyên giáo sư của Đại học Vạn Hạnh tại Sài Gònnhà vănnhà thơdịch giả và là một người bất đồng chính kiến với nhà cầm quyền và đã bị cầm tù trong nhiều năm. Năm 1998, Hòa Thượng được tổ chức Human Rights Watch tặng giải thưởng về nhân quyền Hellmann-Hamett Awards. Hòa Thượng là Xử lý Thường Vụ Viện Tăng Thống của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất. Hòa Thượng thông thạo tiếng Trung Quốctiếng Anhtiếng Pháptiếng Palitiếng Phạn và tiếng Nhật, đọc hiểu tiếng Đức. Hòa Thượng được giới học giả Việt Nam đánh giá cao vì đã công bố nhiều tiểu luận, chuyên khảo, thơ và nhiều công trình dịch thuật Phật giáo từ tiếng Phạn, tiếng Trung Hoa và tiếng Nhật, được coi là  nhà sư uyên bác nhất của Phật giáo Việt Nam, đã soạn thảo quyển Bách Khoa Phật Học Đại Tự Điển.
   
Nhờ nhiều công trình nghiên cứu và khảo luận triết học nổi tiếng, Hòa Thượng là Chủ bút của tạp chí Tư tưởng do Viện Đại học Vạn Hạnh phát hành.
   
Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ viên tịch ngày 24 tháng 11 năm 2023 tại chùa Phật Ân, tỉnh Đồng Nai. Hưởng thọ 80 tuổi. Nhiều bài báo ở khắp nơi trong một thời gian dài đã viết để ca ngợi cuộc đời đức hạnh cũng như những đóng góp uyên thâm cho Phật Pháp của Hòa Thượng.
 
*
 
Thơ Đặng Đức Siêu (1751-1810) – Đông Hồ (1909-1969)
 
Đêm Trừ Tịch

Tháng lụn năm cùng sự chẳng cùng,
Nửa đêm xuân lại nửa đêm đông.
Chi lan tiệc cũ hương man mác,
Đào lý vườn xưa tuyết lạnh lùng.
Đất có bâng khuâng chờ hội ngộ,
Trời như thao thức đợi tao phùng
Gà kêu pháo nổ năm canh chót,
Mừng cội mai già gặp chúa đông.
 
Bài thơ “Đêm Trừ Tịch” của Đặng Đức Siêu làm theo thể Đường Thi, thất ngôn bát cú với những từ trang trọng và hình ảnh đối ngữ được truyền tụng đến nay. Câu 5 và 6 bị thất lạc, sau này được thi sĩ Đông Hồ điền thế thành một bài thơ tuyệt tác. Đặng Đức Siêu sinh năm Tân Mùi (1751) tại làng Phụng Cang, huyện Bồng Sơn; nay là khu phố Vĩnh Phụng, phường Hoài Xuân, thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Năm 16 tuổi, ông đỗ Hương Tiến (Cử nhân), được Định Vương Nguyễn Phúc Thuần bổ làm việc ở Viện Hàn Lâm tại Phú Xuân. Khi chúa Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long, kể từ đó, phần lớn nghi lễ, chiếu biểu của nhà vua đều do ông soạn thảo. Về sau, ông được cử làm Phụ đạo (dạy các Hoàng tử), dần trải đến chức Thượng thư bộ Lễ (tháng 11 âm lịch năm Kỷ Tỵ1809). Gia Long thứ 8 (Canh Ngọ1810), ông Đặng Đức Siêu mất, thọ 59 tuổi, được truy tặng chức Tham chính. Năm Ất Dậu (1825), vua Minh Mạng truy tặng ông là Thiếu sư, Hiệp biện đại học sĩ và lập đàn tế ông. Dưới triều Tự ĐứcNhâm Tý (1852), ông được liệt thờ vào miếu Trung hưng công thần.
   
Đông Hồ, 
 sinh năm 1909, tại làng Mỹ Đức, tỉnh Hà Tiên, nay thuộc tỉnh Kiên Giang, tên thật Lâm Tấn Phác, tự Trác Chi, hiệu Đông Hồ và Hòa Bích; các bút hiệu khác: Thủy Cổ Nguyệt, Đại Ẩn Am, Nhị Liễu Tiên Sinh. Ông được đánh giá là một nhà giáonhà thơ, chuyên gia nghiên cứu tiếng Việt và là một người nhiệt tình với văn hóa dân tộc Việt Nam. Ngoài thơ, Đông Hồ còn viết văn, ký, khảo cứu, văn học sử. Về văn, ông viết từ văn xuôi biền ngẫu đến văn xuôi hiện đại. Ông có tiếng khi viết cho báo Nam Phong do Phạm Quỳnh chủ trương và nổi tiếng nhất với bài ký Linh Phượng, tức Trác Chi Lệ Ký tập và bài Phú Đông Hồ. Ông có nhiều tác phẩm đã in thành sách. Ông là thành viên của nhóm "Hà Tiên tứ tuyệt" gồm: Đông Hồ, Mộng Tuyết (cũng là vợ của ông), Lư Khê và Trúc Hà.
 
*
 
Bùi Giáng (1925-1998)
 
Chào Nguyên Xuân
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
Tóc xanh dù có phai màu
Thì cây xanh vẫn cùng nhau hẹn rằng

Xin chào nhau giữa lúc này
Có ngàn năm đứng ngó cây cối và
Có trời mây xuống lân la
Bên bờ nước có bóng ta bên người

Xin chào nhau giữa bàn tay
Có năm ngón nhỏ phơi bày ngón con
Thưa rằng những ngón thon thon
Chào nhau một bận sẽ còn nhớ nhau

Xin chào nhau giữa làn môi
Có hồng tàn lệ khóc đời chửa cam
Thưa rằng bạc mệnh xin kham
Giờ vui bất tuyệt xin làm cỏ cây

Xin chào nhau giữa bụi đầy
Nhìn xa có bóng áng mây nghiêng đầu

Hỏi rằng: người ở quê đâu
Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà
Hỏi rằng: từ bước chân ra
Vì sao thấy gió dàn xa dặm dài
Thưa rằng: nói nữa là sai
Mùa xuân đương đợi bước ai đi vào
Hỏi rằng: đất trích chiêm bao
Xá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau
Thưa rằng: ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân
 
Bùi Giáng là nhà thơ, dịch giả và là nhà nghiên cứu văn học của Việt Nam. Các bút danh khác của ông là: Trung niên thi sĩ, Bùi Bàn Dúi, Bùi Văn Bốn, Vân Mồng... Nhiều tập thơ của ông đã được ấn hành và được nổi tiếng từ năm 1962 với tập thơ Mưa Nguồn. Ông có đời sống khác thường, nên có những câu thơ xuất thần cũng khác thường.
 
*
 
Bùi Khánh Đản (1916-2001)
 
Âm Hưởng
Có nghe bút trúc nhủ hoa tiên
Nghe ánh thời gian đọng mắt huyền
Nghe ngả đường trăng mai trước viện
Nghe dồn nhịp nắng liễu bên hiên
Nghe hồn du tử say mây nước
Nghe ý ly nhân hận ước nguyền
Nghe cả mùa Xuân lên khúc dạo
Muôn ngàn âm hưởng đã giao duyên
*Bài thơ “Âm Hưởng” của cụ Bùi, với lời thơ trác tuyệt, hào hoa, cho người đọc cảm được những gì không gây thành tiếng, mà thành một bản hp tấu của mùa  Xuân diễm tuyệt.

Bùi Khánh Đản là một nhà thơ, dịch giả tại miền Nam Việt Nam. Sau năm 1975, ông định cư tại thành phố Portland, Oregon, Hoa Kỳ. Ông có nhiều thơ đăng trên tạp chí Bách Khoa và đã cùng nhà biên khảo Đỗ Bằng Đoàn xuất bản tập “Đường Thi Trích Dịch”, phát hành nguyên tác in ronéo năm 1959 ở Sài Gòn, gồm 503 bài thơ của 133 tác giả Đường thi Trung Hoa. Cuốn này được nhà xuất bản Văn Học trong nước in lại năm 2006, dầy 1271 trang. Đây là một bộ sách toàn hảo, công phu nhất về Đường Thi bằng tiếng Việt. Đầy đủ tiểu sử các tác giả trong các thời kỳ Đường Thi từ Sơ Đường (618-712), Thịnh Đường (713-765), Trung Đường (766-835) và Vãn Đường (836-907). Từng bài thơ lại được viết như một bài luận bình thơ mẫu mực gồm các phần: phần nguyên bản bằng Hán Tự, phần dịch âm theo Việt ngữ, phần dịch sang thơ Việt ngữ, phần dịch nghĩa sang Việt ngữ, và phần xuất xứ chú thích.
Đường Thi là một trong những nền thơ ca lớn nhất của nhân loại. Mặc dù hàng ngàn năm đã trôi qua, thơ Đường vẫn giữ vẻ đẹp tươi thắm, sức quyến rũ và chiều sâu của triết học. Bộ sách “Đường Thi Trích Dịch” này từng là cuốn sách gối đầu giường của sinh viên Văn Khoa và những ai yêu thích và nghiên cứu Đường Thi. Ngoài ra cụ đã sáng tác hàng trăm bài Đường thi nhưng chưa được xuất bản.
   
Khi cụ mất, nhà thơ Trần Mộng Tú cùng nhóm thân hữu từ Seattle xuống Portland tiễn biệt và đã đọc bài thơ tứ tuyệt bên linh cữu cụ. Bài thơ này đã được khắc lên bia mộ cụ Bùi:
 
Ta nằm bình thản như pho sách  
Đợi đất dịu dàng đến nằm bên  
Cỏ mọc mầm xanh trên mỗi chữ  
Ta trang thơ mới giữa thảo nguyên.   
(Trần Mộng Tú)
 
*
 
Thôi Hộ, đời Đường Trung Hoa (796)
 
Bài thơ hoa đào
Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong.

Năm ngoái, ngày này, dưới cánh song, 
Hoa đào ánh má, mặt ai hồng. 
Mặt ai nay biết tìm đâu thấy, 
Chỉ thấy hoa cười trước gió đông. 
(Bùi Khánh Đản dịch)
 
Trước sau nào thấy bóng người, 
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
(Tiên Điền Nguyễn Du)
 
Bài thơ Hoa Đào được nhiều người dịch, tuy nhiên ít người hoàn hảo được câu cuối vào thể thơ thất ngôn tiếng Việt. Trong truyện Kiều, Nguyễn Du đã dùng lục bát tả cảnh khi Kim Trọng trở lại Vương Gia Trang tìm Thúy Kiều thì không thấy nàng đâu. Câu thơ lục bát đó vừa diễn tả được đầy đủ hình ảnh và ý thơ, vừa thấy được cả cái tình thơ man mác và huyền ảo.
   
Thôi Hộ 崔護 tự Ân Công 殷功, người Bác Lăng đời Đường (nay là An Bình, Hà Bắc). Ông là một thi nhân đời Trung Đường, đỗ tiến sĩ năm Trinh Nguyên thứ 12 (796), làm quan đến Lĩnh Nam tiết độ sứ. Thôi Hộ là một thi nhân giàu ý tình, đồng thời là một người phong lưu tuấn nhã. Tuy nhiên có lẽ vì tình cảm chỉ giữ ở trong lòng, cho nên tính cách ông khá khép kín, không thích việc giao du.
   
Bài thơ Hoa Đào” với bốn câu thơ theo thể thất ngôn tứ tuyệt tuy ngắn gọn súc tích nhưng hàm chứa ý nghĩa sâu xa, nổi tiếng và được lưu truyền cho đến nay. Bài thơ kể về một mối tình tơ duyên ngắn ngủi nhưng làm người ta nhớ mãi khôn nguôi. Chuyện kể rằng vào tiết Thanh Minh năm ấy, có một chàng trai dạo chơi ở phía nam Đô thành. Trông thấy một trang viên hoa đào nở rộ, sắc hoa tươi thắm, chàng bèn lấy cớ vào xin nước uống để được ngắm kỹ hơn.
   
Chàng trai gõ cửa, gặp một thiếu nữ diễm lệ. Cô mang nước cho chàng trai uống, cử chỉ vừa dịu dàng vừa kín đáo làm người khác phải nao lòng. Uống nước xong, chàng trai cảm tạ rồi cáo biệt. Khi về nhà, chàng trai vẫn nhớ mãi hình dáng hôm ấy của cô thiếu nữ có đôi má hây hồng tựa như cánh hoa nào. 
   
Tròn một năm trôi qua, chàng trai trở lại chốn xưa, hy vọng gặp lại cố nhân. Nhưng cổng đóng then cài, gọi mãi mà chẳng thấy ai. Xuất cảnh sinh tình, chàng trai đề một bài thơ trên cánh cổng. 
   
Ít lâu sau chàng trở lại, nghe tiếng khóc vọng ra từ trang viên. Một ông lão bước ra, vẻ mặt tiều tụy hỏi chàng trai kia có phải là người đã đề thơ lên cổng. Thì ra người con gái con của ông lão đọc xong thơ, nhớ thương đến bỏ ăn bỏ ngủ rồi ốm chết. Chàng trai ngồi cạnh người con gái đã tắt thở nhưng vẻ mặt vẫn hồng nhuận như năm nào. Chỉ trách tạo hóa trớ trêu thay cho mối đoạn duyên. 
   
Cũng có lời truyền rằng. Người con gái chưa hồn lìa khỏi xác, nghe tiếng khóc than của người thương thì tỉnh dậy. Từ đó hai người trở thành vợ chồng, cùng sống hạnh phúc ở đào hoa viên. Cũng từ điển tích này mà người ta hay ví gương mặt người con gái đẹp giống như hoa đào.
 
– Nguyễn Công Khanh
 
(*) Bài viết trên đây dựa trên tài liệu của các mạng / vb.
______________________

GIẤC MƠ TRƯỜNG SƠN 

Thơ Tuệ Sỹ An Tiêm in lần thứ hai. 
Sydney, Úc Đại Lợi cuối Thu năm 2003



_____________

BÀI CA CÔ GÁI TRƯỜNG SƠN 

Nàng lớn lên giữa Quê hương đổ nát 
Tay mẹ gầy mà đất sống hoang khô 
Đàn em nhỏ áo chăn không đủ ấm 
Tuổi trăng tròn quanh má đọng sương thu. 
Nửa đêm lạnh tóc nàng hương khói nhạt 
Bóng cha già thăm thẳm tận u linh 
Tuổi hai mƣơi mà đêm dài sương phụ 
Ngọn đèn tàn tang trắng phủ mông mênh. 
Suốt mùa đông nàng ngồi thêu áo cưới 
Đẹp duyên người mình vẫn phận rong rêu 
Màu hoa đỏ tay ai nâng cánh bướm 
Mà chân mình nghe cát bụi đìu hiu 
Vào buổi sáng sao mai mờ khói hận 
Nghe quanh mình lang sói gọi bình minh 
Đàn trẻ nhỏ dắt nhau tìm xó chợ 
Tìm tương lai tìm rác rưới mưu sinh. 
Từ những ngày Thái Bình Dương dậy sóng 
Quê hương mình khô quặn máu thù chung 
Nàng không mơ buổi chiều phơi áo lụa 
Mơ Trường Sơn vời vợi bóng anh hùng. 
Từ buổi ấy nghe tim mình thổn thức 
Nàng yêu người dâng trọn khối tình chung 
Không áo cưới mà âm thầm chinh phụ 
Không chờ mong mà ước nguyện muôn trùng 
Rồi từ đó tóc thề cao ước nguyện 
Nên bàn chân mòn đá sỏi Trường Sơn 
Thân bé bỏng dập dìu theo nước lũ 
Suối rừng xa ánh mắt vọng hoa ngàn 
Trường Sơn ơi bóng tùng quân ngạo nghễ 
Phận sắn bìm lây lất với hoàng hôn 
Quê hương ơi mấy nghìn năm máu lệ 
Đôi vai gầy dâng trọn cả mùa xuân. 

Sài gòn 80
______________________

” Môt Bóng Trăng Gầy”,

Thích Tuệ Sỹ 

Nằm ôm một bóng trăng gầy
Vai nghiêng tủi nhục hờn lay mộng tàn
Rừng sâu mấy nhịp Trường sơn
Biển Ðông mấy độ triều dâng ráng hồng
Khóc tràn cuộc lữ long đong
Người đi còn một tấm lòng đơn sơ?
Máu người pha đỏ sắc cờ
Phương trời xẻ nửa giấc mơ dị thường
Quân hành đạp nát tà dương
Khúc ca du tử bẽ bàng trên môi
Tình chung không trả thù người

*thích tuệ sỹ