Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label GSPhamCaoDuong. Show all posts
Showing posts with label GSPhamCaoDuong. Show all posts

Sunday, 31 July 2022

Ý KIẾN MỘT ĐỘC GIẢ MELBOURNE: HÌNH NHƯ KHÔNG PHẢI GS NGUYỄN KHẮC NGỮ (SỬ ĐỊA) Ở ÚC MÀ LÀ GS TÔN THẤT NGỮ (GS NÔNG LÂM SÚC) - AI BIẾT XIN XÁC NHẬN GIÙM!./- Mt68./-Mt68

 Một bài thơ mất dạy!

GS Phạm Cao Dương


Trong ít ngày qua, khi kiểm điểm và sắp xếp

lại sách vở, thư từ, tài liệu để sửa soạn về

cõi, khỏi làm phiền con cháu, người viết tình

cờ tìm lại được thư của một người bạn thân

viết cho từ một trại tị nạn Đông Nam Á.

Người bạn đó là nhà giáo kiêm nhà báo

Nguyễn Quốc Hùng, bút danh là Thầy Khóa

Tư của tờ Diều Hâu của Quân Đội Việt Nam

Cộng Hòa ở Saigon thời trước năm 1975.

Bạn tôi xuất thân từ một gia đình Nho giáo.

Anh là con một vị huấn đạo, một học quan

trong chế độ xưa nên rất giỏi chữ Hán và

chuyên dạy Quốc Văn cho các trường trung

học ở Miền Nam với nhiệm sở chính là

Trường Trung Học Nguyễn Đình Chiểu Mỹ

Tho. Nhưng khác với các giáo sư Quốc Văn

khác, anh không chỉ chuyên dạy Quốc Văn

mà còn viết văn, viết báo, dịch truyện cổ từ

chữ Hán sang tiếng Việt như Kim Bình Mai,

Hồng Lâu Mộng, chưa kể tới Từ Điển Hán

Việt...


Mặt khác, anh cũng giỏi nhạc và chơi đàn

lục huyền cầm Hạ Uy Di rất điêu luyện.

Chính anh là người đã giúp cho tôi biết ít

nhiều về nhạc mới Việt Nam, đặc biệt là

nhạc tiền chiến mà cho tới khi biết anh, vì

chỉ lo học hành, tôi hoàn toàn mù tịt, cũng

giống như một bạn nhà giáo khác trước học

cùng lớp với tôi, Giáo Sư Sử Địa Nguyễn

Khắc Ngữ, người đã đưa tôi vào con đường

nghiên cứu và xuất bản sách. Chưa hết,

trong các lối văn anh viết, bạn tôi rất giỏi về

các thể văn cổ như thơ Đường, phú, văn tế,

câu đối... mà anh viết một cách trôi chảy, dễ

dàng không khác gì các nhà Nho ngày xưa

với niêm, luật, đối âm, đối ý... rất chỉnh, khó

có ai thời thập niên sáu mươi, bảy mươi của

thế kỷ trước và sau này có thể làm được.

Chính vì vậy hồi trước năm 1975, tôi đã thu

thập một số thơ văn anh để giúp anh phổ

biến nhưng không thành. Như một cơn

hồng thủy, Biến Cố 30 Tháng Tư 1975 đã

xóa đi tất cả.


Trong thư viết cho tôi, Thày Khóa Tư có gửi

kèm cho tôi bài viết nhan đề “Giai Thoại Thi

Ca Thời Đại” và yêu cầu tôi phổ biến. Bài

viết nói về bài thơ nhan đề Đề Miếu Hưng

Đạo Vương truyền tụng là do Hồ Chí Minh

làm khi ông này viếng thăm Đền Kiếp Bạc

hồi đầu kháng chiến chống Pháp.


Đền Kiếp Bạc ở Chí Linh, Hải Dương, nơi thờ

Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn


Thư bạn tôi viết đã lâu, ngót bốn thập niên

trước, chữ rất mờ nhưng giá trị vẫn còn, nay

tìm lại được, thể theo lời bạn, tôi xin sao lục

gửi tới các quý vị thân hữu quen biết anh,

đồng thời cũng xin gửi tới quý vị yêu lối thơ

xướng họa của cổ nhân, có dịp nhớ lại sinh

hoạt một thời, nay chỉ còn là vang bóng. Bài

viết nguyên văn như sau:


Giai Thoại Thi Ca Thời Đại


Thầy Khóa Tư


Khóa tôi lúc mới ở trại tập trung cải tạo ra,

được một anh bạn nhà văn đọc cho

nghe một bài thơ của Hồ Chí Minh. Khóa tôi

nghe xong bài thơ mà tay chân bủn rủn cổ

họng tắc nghẹn, vì nó thuộc loại cực mất dạy,

tối mất dạy, có lẽ do tên “phản động” nào

làm rồi gán cho “Hồ Chủ Tịch Vĩ Đại” để

tuyên truyền bậy chăng. Anh bạn tôi tức quá,

tìm cho bằng được số tạp chí Văn Học Nghệ

Thuật có đăng bài thơ đó dí vào mũi tôi.


Thì ra, hồi Việt Minh đánh Pháp, họ Hồ đi

ngang đền thờ Đức Trần Hưng Đạo, ghé lại

đề thơ như sau:


Suy ra tôi bác cũng anh hùng,

Sau trước cùng chung giữ núi sông.

Bác đuổi quân Nguyên thanh kiếm bạc,

Tôi xua giặc Pháp, ngọn cờ hồng.

Bác đưa dân tộc qua nô lệ,

Tôi dẫn năm châu đến đại đồng.

Bác có khôn thiêng cười một tiếng,


Giùm tôi kháng chiến sớm thành công.


Thật là giấy trắng mực đen, Khóa tôi hết ý

kiến. Anh bạn nhà văn phạt Khóa tôi bằng

cách bắt làm bài họa. Kể ra, đây là bài thơ

niêm luật chỉnh tề, vần đối chững chạc. Hay

nhất là hai câu thực, từ ngữ sống động, hình

ảnh hào hùng. Nhưng không phải vì thế mà

khó làm bài họa. Lấy thơ để họa thơ là

chuyện thường tình, khó là ở chỗ lấy ý mà

chọi ý. Về vụ này, với bài thơ của họ Hồ thì

Khóa tôi xin chịu thua trước. Họ Hồ coi Đức

Thái Sư Thượng Phụ Thượng Quốc Công

Bình Bắc Đại Nguyên Soái Hưng Đạo Đại

Vương Trần Quốc Tuấn là chỗ bạn bè quen

biết, xưng hô “tôi tôi bác bác” thì Khóa tôi

phải gọi họ Hồ bằng đại danh từ gì cho

tương xứng? Họ Hồ lại còn tự khoe là trên cơ

Đức Hưng Đạo, vì họ Hồ ở tầm vóc quốc tế,

còn Đức Hưng Đạo có tầm vóc quốc nội, thì

Khóa tôi phải so sánh cách gì cho xứng?


Thôi thì, thật thà là cha quỷ quái, Khóa tôi cứ

chuyện mình mà nói, cứ đem mình ra so

sánh với họ Hồ. Khóa tôi với họ Hồ có chỗ

giống nhau là trước sau cùng vượt biên, chỉ

khác nguyên nhân và mục đích là khác (về

kết quả thì họ Hồ đã vượt biên thành công,

nhờ làm cu ly bồi tầu cho Pháp, còn Khóa tôi

thì chưa thành công mà thôi).


Bài họa của Khóa tôi như sau:


Đề Lăng Hồ


Cu ly bồi bếp cũng xưng hùng,

Tao thẹn cùng mày một núi sông.

Tao trốn nguy cơ bầy quỷ đỏ,

Mày xua dân tộc đống than hồng.

Tao mua hạnh phúc chừng năm lượng,

Mày bán giang san được mấy đồng?

Hòm kiếng mày nằm sung sướng nhỉ?

Coi chừng chỉ một phát thần công.


Tất nhiên, như đã thưa trước bài họa còn

thua xa bài xướng, phê bình từng chi tiết là

phần quyền của độc giả. Khóa tôi chỉ cầu xin

Đức Hưng Đạo Đại Vương mỉm một nụ cười

thôi.


Thầy Khóa Tư


Mặc dù quá trễ, nhiều người lẽ ra tôi phải

chuyển bài này tới tận tay ngay khi nhận

được theo ý Thày Khóa, trong đó có nhiều

người không còn nữa, tôi vẫn xin được sao

lại ở đây để gửi chung tới quý vị độc giả,


đặc biệt để quý vị nào còn yêu lối thơ xướng

họa của người xưa có thêm một giai thoại

liên hệ tới lịch sử nước nhà.


Phạm Cao Dương

Tuesday, 15 August 2017

HÌNH NHƯ THU HƯƠNG NẦY BÊN ÚC ?

THƯA THẦY CAO DƯƠNG ! ĐỒNG Ý LÀ XÂY TƯỢNG ĐỂ CON CHÁU GHI NHỚ LỊCH SỬ - NHƯNG TƯỢNG PHẢI CÓ Ý NGHĨA VÀ NƠI ĐẶT TƯỢNG CŨNG PHẢI CÓ Ý NGHĨA NỮA -Không thđặt tại khu chợ búa được !!! *HÌNH NHƯ TƯỢNG ĐỨC THÁNH TRẦN NẦY TAY CHỈ CÁI GÌ DƯỚI THẤP - CHỨ KHÔNG PHẢI GIƠ TAY CAO CHỈ QUÂN THÙ NHƯ CÁC TƯỢNG OAI PHONG CỦA CÁC TƯỚNG LÃNH XÔNG PHA GIỮA TRẬN MẠC./-TCL

------------------------

Tôi Hãnh Diện Có Quá Khứ Làm Người Tị Nạn Cộng Sản Việt Nam

2014 sep 2  Tượng Trần Hưng Đạo 300
Kính Thầy
Bai viết của Thầy Phạm Cao Dương cho học trò thầy (là tôi người đang viết mấy giòng này) những bồi hồi, làm mắt tôi rưng rưng và tôi cảm thấy tôi hãnh diện biết bao khi có một quá khứ làm người Tị Nạn Cộng Sản Việt Nam.
Chúng ta sinh sống trên quê hương thứ hai là chúng ta đươc tái sinh để làm người. Quê hương VN trên mỗi bước chân của người Việt tị nạn Cộng Sản và của con cháu những người Việt này . Chúng ta chạy ra Biển Đông tìm tự do chứ không tìm miếng cơm manh áo như các đợt di dân trong lich sử nước Mỹ. Chi có khối người VN chạy giặc Cộng trôi nổi trên Biển Đông sau ngày 30 tháng tư 1975 đã cho thế giới biết thế nào là sự tàn ác ác của Cộng Sản Việt Nam và cho quê hương thứ hai biết thế nào là sức mạnh của chứng ta.
Con cháu chúng ta hiện nay và mãi mãi vẫn là những công dân đóng góp rất nhiều cho quê hương: bất cứ nơi nào chúng ta có tự do và được quyền sống trên thế giới. Cộng đồng vũng mạnh, người Việt có tiếng nói mạnh.
Quốc gia Ái Nhĩ Lan chỉ có 4 triệu 800 ngàn người sống tại quê. 20% dân Mỹ là gốc Ái Nhĩ Lan và 22 Tông Thống trong số 44 Tổng Thống Mỹ có giòng máu Ái Nhĩ Lan.
Chúng ta không phải về VN để chứng tỏ là người yêu nòi giống Việt. Hãy sống và làm được những gì quan trọng để mỗi lá phiếu của khối người VN Hải ngoại là những lá phiếu quan trọng mà bât cứ ai cũng cần lá phiếu của chúng ta.
Cám ơn Thầy với bài viết cho em hãnh diện hơn rằng em vẫn thấy quanh em còn có những người yêu quê hương nòi giống Việt Nam đích thực .
Kính chúc Thầy luôn có sức khỏe cho lòng chúng em những đứa học trò ngây thơ ngày nào biết mình vẫn còn có một quê hương và những bậc thầy yêu mến.
Kính.
Thu Hương
sinh viên Văn Khoa 65/68 và Đại Học Sư Phạm Saigon khóa 1970
2014 SEP 4 CỜ VÀNG 22
2014 sep 2  Tượng Trần Hưng Đạo 300Cô Thu  Hương thân mến,
Tôi rất muốn gọi Cô Thu Hương là “Thu Hương” như gọi các sinh viên cũ của tôi hơn nửa thế kỷ trước và xưng là “thày”.  Nhưng vẫn thấy bất tiện.  Hồi đó Cô chỉ là một thiếu nữ mới lớn, trên dưới hai mươi, mới vào ngường cửa đại đọc và bây giờ mọi chuyện đã đổi khác rồi. Tạm thời gọi Cô bằng “Cô” vậy.
Cảm ơn Cô đã quan tâm tới bài tôi viết.  Bây giờ tôi xin thưa với Cô như thế này:
Ý chính của tôi liên hệ tới chủ đề “Dựng Tượng Đức Thánh Trần ở Little Saigon” là  qua ba tiếng Đức Thánh Trần mà tôi dùng, tôi muốn khơi dậy mạch sống đầy sinh lực, đầy linh khí đã và đang tiềm tàng, ẩn náu trong mỗi một con người Việt Nam chúng ta dù chúng ta ở bất cứ nơi nào trên thế giói mà bây giờ chúng ta rất cần vì sau bao nhiêu đau thương, chếtchóc, nước mắt tràn ngập Biển Đông, chúng ta đã có được một Việt Nam thứ hai, một Việt Nam Trẻ với lãnh thổ trải rộng toàn cầu, chỗ nào cũng có Việt Nam nếu có người Việt.  
Chúng ta đã có được môt Siêu Quốc gia Việt Nam trên đó mặt trời không bao giờ lặn mà người Anh hồi thế kỷ 19, và người Tầu hiện tại không có được vì nó không hình thành bằng xâm lăng, chém giết và đô hộ hay do tha hương cầu thực hay bành trướng kinh tế làm giàu.  Siêu quốc gia của chúng ta hình thành bằng sự đau khổ, tủi nhục, bằng máu và nước mắt của hàng triệu dân tị nạn đã liên tục bỏ nước ra đi từ sau biến cố 1975 với hàng nửa triệu bỏ thây ngoài biển cả hay chết thê thảm nơi rừng rậm hoang vu, vào không có lối ra ở Kampuchea, không ai biết đến.  Chúng ta không bao giờ được quên điều đó.  Quên là vô ơn, là có tội. 
Siêu quốc gia của chúng ta là món quà Trời cho ngàn năm một thuở chỉ dân ta mới có cái may có được.  Nó hợp với sinh hoạt của thời đại mới giữa lúc biên giới, giữa các nước mỗi ngày một mờ nhạt dần trước sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, kinh tế và thương mại.  Nó sẽ giúp cho Việt Nam thoát khỏi tình trạng nhược tiểu để có cơ hội vươn lên nếu chúng ta biết nắm bắt.  Nhưng vì nó hình thành bởi con người nên cần phải có sư tin tưởng của chính con người vào tương lai của chính mình, con cháu mình và cả dân tộc mình.  Sau ngót bốn mươi năm tranh đấu để sinh tồn, để phát triển, các cộng đồng của chúng ta đã bắt đầu đứng vững.  Các con cháu chúng ta đã bắt đầu thành công và lập nên sự nghiệp không nhỏ,  với sự đóng góp rất là khiêm nhượng của chúng ta.   
Chúng ta đã quá quan tâm đến quá khứ và đến Việt Nam ở bên kia mà quên đi chính con em của chúng ta ở bên này.  Bây giờ thì chúng ta phải nghĩ lại và sửa đổi.  Việc chỉnh trang lại những nơi mình đang ở là một việc làm vô cùng quan trọng.   Chỉnh trang từ hình thức, vật chất tới tinh thần, từ cách suy tư,  tín ngưỡng cao, thấp để người trẻ có thể tìm thấy một cái gì đó mà trở về với chính mình và với cộng đồng của mình và người già có chỗ để nương dựa trong lúc tuổi xế chiều.  chúng ta có đầy đủ tư do đển làm điều này, nếu chúng ta muốn.  Các nhà cầm quyền đia phuơng không bao giờ ngăn cản chúng ta cả nếu đó là hợp pháp. 
Chúng ta phải trở về để  đến với con cháu chúng ta và chăm sóc cho họ.  Họ ở đâu, quê hương của chúng ta ở đó.  Vợ con, chồng con chúng ta ở đâu, nhà chúng ta ở đó. Sáng đi, chiều về, chúng ta lại về đó , “về nhà”.   Hãy dành một phần thì giờ, công, sức, tiền bạc cho con cháu chúng ta, cho chính quê hương trước mắt của chính chúng ta thay vì cho một nước Việt Nam quá già nua, cũ kỹ, cạn kiệt sinh lực, bạc nhược tinh thần nhưng con người ở đó vẫn một mực tin tuởng vào những gì lãnh đạo của họ chọn lựa và cho rằng mình đã chiến thắng, đã tiến bộ nếu không hơn thì cũng ngang với các nước tiền tiến trên thế giớivới đầy nhà chọc trời, với xa lộ chạy khắp lãnh thổ, với biệt thự nguy nga nhờ chiền thắng Miền Nam của họ.  
Đã đến lúc chúng ta phải  dùng thành ngữ bình dân “Bỏ đi Tám” hay “Tạm quên đi, Tám”, phải xét lại tất cả để khỏi phải hối tiếc là khi con cháu chúng ta còn nhỏ, còn nằm trong tầm tay chúng ta, chúng ta đã mải mê những chuyện khác hơn là chăm sóc họ, chơi với họ lúc chiều về hay bế ẵm họ, thay tã cho họ truyền lại linh khí của tổ tiên lại cho họ dạy họ học bài buổi tối trước khi họ có cuộc sống riêng, vượt khỏi tầm tay của chúng ta.  Bây giở thì tự họ đã ý thức được họ là ai, đã cố gắng, đã thành công và lập được sự nghiệp và đứng vững.  Phải chăng một lần nữa, đó là do Trời định, là do mạch sống chứa đựng đầy linh khí cuả ông cha chúng, tiềm ẩn trong mỗi con người Việt Nam của chúng ta, của các em? là linh khí, là khí hạo nhiên trong mỗi con người chúng ta, trong mỗi con ngưòi các em?  Tôi không có câu trả lời, nhưng tôi vẫn tin ở tương lai lâu dài của dân tộc, ở “Sách Trời.”  Kẻ kia có muốn  chẳng làm gì được chúng ta.   Chúng ta đã đứng vững hơn hai ngàn năm. Không cò lý do gì chúng ta không đứng vững thêm vài ba ngàn năm nữa để dân tộc Việt Nam sẽ mãi mãi trường tồn.
Cuối cùng tôi xin gửi Cô những câu thơ của Nguyễn Văn Giai mà  tôi được học ttrước đây, trích tứ bài Hà Thành Chính Khí Ca nói về Tổng Đốc Hoàng Diệu:
Một vùng chính khí lưu hình 
Rộng trong Trời Đất nhật tinh, sơn hà.
Hạo nhiên ở tại lòng ta. 

Tấc gang son sắt hiện ra khi cùng. 
Hơn thua theo vận truân phong.
Ngàn thu để tiếng anh hùng sử xanh.
 Nhớ lại nhưng câu này, bây giờ tôi vẫn còn bồi hồi, xúc động.  Các cụ Nhà Nho chúng ta ngày xưa là thế đấy ! Chúng ta đứng vững ngàn năm là nhờ thế đấy!
Xin Cô Thu Hương coi đây như một bài học ngắn ngoài chương trình để bài giảng thêm vui của tôi bên cạnh những bài học ngày xưa.  
Mong Cô cho tôi thêm chi tiết để tôi liên lạc.
Thân mến,
Phạm Cao Dương, TS