Một bài thơ mất dạy!
GS Phạm Cao Dương
Trong ít ngày qua, khi kiểm điểm và sắp xếp
lại sách vở, thư từ, tài liệu để sửa soạn về
cõi, khỏi làm phiền con cháu, người viết tình
cờ tìm lại được thư của một người bạn thân
viết cho từ một trại tị nạn Đông Nam Á.
Người bạn đó là nhà giáo kiêm nhà báo
Nguyễn Quốc Hùng, bút danh là Thầy Khóa
Tư của tờ Diều Hâu của Quân Đội Việt Nam
Cộng Hòa ở Saigon thời trước năm 1975.
Bạn tôi xuất thân từ một gia đình Nho giáo.
Anh là con một vị huấn đạo, một học quan
trong chế độ xưa nên rất giỏi chữ Hán và
chuyên dạy Quốc Văn cho các trường trung
học ở Miền Nam với nhiệm sở chính là
Trường Trung Học Nguyễn Đình Chiểu Mỹ
Tho. Nhưng khác với các giáo sư Quốc Văn
khác, anh không chỉ chuyên dạy Quốc Văn
mà còn viết văn, viết báo, dịch truyện cổ từ
chữ Hán sang tiếng Việt như Kim Bình Mai,
Hồng Lâu Mộng, chưa kể tới Từ Điển Hán
Việt...
Mặt khác, anh cũng giỏi nhạc và chơi đàn
lục huyền cầm Hạ Uy Di rất điêu luyện.
Chính anh là người đã giúp cho tôi biết ít
nhiều về nhạc mới Việt Nam, đặc biệt là
nhạc tiền chiến mà cho tới khi biết anh, vì
chỉ lo học hành, tôi hoàn toàn mù tịt, cũng
giống như một bạn nhà giáo khác trước học
cùng lớp với tôi, Giáo Sư Sử Địa Nguyễn
Khắc Ngữ, người đã đưa tôi vào con đường
nghiên cứu và xuất bản sách. Chưa hết,
trong các lối văn anh viết, bạn tôi rất giỏi về
các thể văn cổ như thơ Đường, phú, văn tế,
câu đối... mà anh viết một cách trôi chảy, dễ
dàng không khác gì các nhà Nho ngày xưa
với niêm, luật, đối âm, đối ý... rất chỉnh, khó
có ai thời thập niên sáu mươi, bảy mươi của
thế kỷ trước và sau này có thể làm được.
Chính vì vậy hồi trước năm 1975, tôi đã thu
thập một số thơ văn anh để giúp anh phổ
biến nhưng không thành. Như một cơn
hồng thủy, Biến Cố 30 Tháng Tư 1975 đã
xóa đi tất cả.
Trong thư viết cho tôi, Thày Khóa Tư có gửi
kèm cho tôi bài viết nhan đề “Giai Thoại Thi
Ca Thời Đại” và yêu cầu tôi phổ biến. Bài
viết nói về bài thơ nhan đề Đề Miếu Hưng
Đạo Vương truyền tụng là do Hồ Chí Minh
làm khi ông này viếng thăm Đền Kiếp Bạc
hồi đầu kháng chiến chống Pháp.
Đền Kiếp Bạc ở Chí Linh, Hải Dương, nơi thờ
Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn
Thư bạn tôi viết đã lâu, ngót bốn thập niên
trước, chữ rất mờ nhưng giá trị vẫn còn, nay
tìm lại được, thể theo lời bạn, tôi xin sao lục
gửi tới các quý vị thân hữu quen biết anh,
đồng thời cũng xin gửi tới quý vị yêu lối thơ
xướng họa của cổ nhân, có dịp nhớ lại sinh
hoạt một thời, nay chỉ còn là vang bóng. Bài
viết nguyên văn như sau:
Giai Thoại Thi Ca Thời Đại
Thầy Khóa Tư
Khóa tôi lúc mới ở trại tập trung cải tạo ra,
được một anh bạn nhà văn đọc cho
nghe một bài thơ của Hồ Chí Minh. Khóa tôi
nghe xong bài thơ mà tay chân bủn rủn cổ
họng tắc nghẹn, vì nó thuộc loại cực mất dạy,
tối mất dạy, có lẽ do tên “phản động” nào
làm rồi gán cho “Hồ Chủ Tịch Vĩ Đại” để
tuyên truyền bậy chăng. Anh bạn tôi tức quá,
tìm cho bằng được số tạp chí Văn Học Nghệ
Thuật có đăng bài thơ đó dí vào mũi tôi.
Thì ra, hồi Việt Minh đánh Pháp, họ Hồ đi
ngang đền thờ Đức Trần Hưng Đạo, ghé lại
đề thơ như sau:
Suy ra tôi bác cũng anh hùng,
Sau trước cùng chung giữ núi sông.
Bác đuổi quân Nguyên thanh kiếm bạc,
Tôi xua giặc Pháp, ngọn cờ hồng.
Bác đưa dân tộc qua nô lệ,
Tôi dẫn năm châu đến đại đồng.
Bác có khôn thiêng cười một tiếng,
Giùm tôi kháng chiến sớm thành công.
Thật là giấy trắng mực đen, Khóa tôi hết ý
kiến. Anh bạn nhà văn phạt Khóa tôi bằng
cách bắt làm bài họa. Kể ra, đây là bài thơ
niêm luật chỉnh tề, vần đối chững chạc. Hay
nhất là hai câu thực, từ ngữ sống động, hình
ảnh hào hùng. Nhưng không phải vì thế mà
khó làm bài họa. Lấy thơ để họa thơ là
chuyện thường tình, khó là ở chỗ lấy ý mà
chọi ý. Về vụ này, với bài thơ của họ Hồ thì
Khóa tôi xin chịu thua trước. Họ Hồ coi Đức
Thái Sư Thượng Phụ Thượng Quốc Công
Bình Bắc Đại Nguyên Soái Hưng Đạo Đại
Vương Trần Quốc Tuấn là chỗ bạn bè quen
biết, xưng hô “tôi tôi bác bác” thì Khóa tôi
phải gọi họ Hồ bằng đại danh từ gì cho
tương xứng? Họ Hồ lại còn tự khoe là trên cơ
Đức Hưng Đạo, vì họ Hồ ở tầm vóc quốc tế,
còn Đức Hưng Đạo có tầm vóc quốc nội, thì
Khóa tôi phải so sánh cách gì cho xứng?
Thôi thì, thật thà là cha quỷ quái, Khóa tôi cứ
chuyện mình mà nói, cứ đem mình ra so
sánh với họ Hồ. Khóa tôi với họ Hồ có chỗ
giống nhau là trước sau cùng vượt biên, chỉ
khác nguyên nhân và mục đích là khác (về
kết quả thì họ Hồ đã vượt biên thành công,
nhờ làm cu ly bồi tầu cho Pháp, còn Khóa tôi
thì chưa thành công mà thôi).
Bài họa của Khóa tôi như sau:
Đề Lăng Hồ
Cu ly bồi bếp cũng xưng hùng,
Tao thẹn cùng mày một núi sông.
Tao trốn nguy cơ bầy quỷ đỏ,
Mày xua dân tộc đống than hồng.
Tao mua hạnh phúc chừng năm lượng,
Mày bán giang san được mấy đồng?
Hòm kiếng mày nằm sung sướng nhỉ?
Coi chừng chỉ một phát thần công.
Tất nhiên, như đã thưa trước bài họa còn
thua xa bài xướng, phê bình từng chi tiết là
phần quyền của độc giả. Khóa tôi chỉ cầu xin
Đức Hưng Đạo Đại Vương mỉm một nụ cười
thôi.
Thầy Khóa Tư
Mặc dù quá trễ, nhiều người lẽ ra tôi phải
chuyển bài này tới tận tay ngay khi nhận
được theo ý Thày Khóa, trong đó có nhiều
người không còn nữa, tôi vẫn xin được sao
lại ở đây để gửi chung tới quý vị độc giả,
đặc biệt để quý vị nào còn yêu lối thơ xướng
họa của người xưa có thêm một giai thoại
liên hệ tới lịch sử nước nhà.
Phạm Cao Dương