https://www.youtube.com/watch?
Nhớ Viễn Châu, người nghệ sĩ có ba trái tim.
Soạn giả kiêm nhạc sĩ
Viễn Châu mất ngày 01 tháng 02
năm 2016, tính đến tháng 02 năm 2018, là đã tròn hai năm. Nhớ
Viễn Châu, tôi
pha bình trà thơm, rót ra hai tách, mời anh uống trà thay
rượu, tâm tình nhắc lại
chuyện xưa.
Trong ngày này, các
nghệ sĩ đàn em, đàn cháu, đệ tử
của anh, thế nào cũng có lễ tưởng niệm anh. Nghệ sĩ Út Bạch
Lan đã về cõi vĩnh
hằng, chớ nếu chưa thì Út Bạch Lan sẽ ca
bài Hoa Lan Trắng,
bài ca anh sáng tác
kể về cuộc đời cơ khổ của cô gái có tên Bạch Lan.. Anh Út Trà
Ôn thì sẽ ca bài Tình
anh Bán Chiếu hay Ông
lão chèo đò… Cô Diệu Hiền với bài Tần Quỳnh khóc bạn,
nữ nghệ sĩ Hồng Nga
ca Tình Lan và Điệp,
Phương Hồng Thủy
ca bài Lá Trầu Xanh,
Nếu Thanh Hương
còn thì cháu sẽ ca bài Đêm
Khuya Trông Chồng,
bài ca lảm rạng danh cô Tư Sạng, mẹ của Thanh Hương, Tấn Tài sẽ ca bài Bông Ô Môi, nghệ
sĩ Tuấn Anh
sẽ ca bài Võ Đông Sơ -
Bạch Thu Hà,
Vua vọng cổ hài Văn Hường thế nào cũng nhắc lại bài Tư Ếch Đi Saigòn, các nghệ sĩ trẻ khác sẽ ca Hàn Mạc Tử, hoặc Cao Tiệm Ly
tiễn Kinh Kha, hay Gánh Nước Đêm Trăng… Còn nhiều nghệ
sĩ, các em các cháu
nợ anh một bài ca, nhớ anh một tuồng hát mà nhờ đó họ được
rạng danh, tạo nên tên
tuổi sáng rực dưới vòm trời vọng cổ.
Kể về Viễn Châu có ba
trái tim thì một trái tim dành
cho Sáng tác, một
trái tim dành cho Thơ,
một trái tim dành cho Nhạc.
Với trái tim
dành cho Sáng tác, trước năm 1975 Viễn Châu đã sáng tác
hơn 2000 bài vọng cổ
cho các nam nữ nghệ sĩ danh ca
thu thanh trong các hãng dĩa Asia, Việt
Nam, Kim Long, Việt Hải, Sống Mới, Nhạc Ngày xanh, Hồn Nước
và hãng của Ngọc
Chánh sản xuất băng từ. Viễn Châu viết hơn 200 bài vọng cổ Hài Hước cho
Ca sĩ Văn Hường ca, tạo
cho Văn Hường biệt danh Vua ca vọng cổ hài.
Viễn Châu cũng đã
sáng tác hơn 50 tuồng
cải lương cho các đoàn hát mà anh cộng
tác : đoàn Việt kịch
Năm Châu, đoàn
Kim Thanh – Út Trà Ôn,
đoàn Thanh Tao,
đoàn Thanh Nga, đoàn Dạ Lý Hương,
đoàn Tân Hoa Lan.
Đến nay khán giả và
nghệ sĩ còn nhớ các tuồng cải lương của Viễn Châu : Nát Cánh Hoa Rừng, Tình Mẫu Tử, Đời cô Nga, Sau bức
màn nhung, Chuyện Tình
Hàn Mạc Tử, Chuyện tình Lan và Điệp, Qua cơn ác mộng, Hoa
Mộc Lan, Con gái Hoa
Mộc Lan, Hai nụ cười xuân, Ai điên ai tỉnh …
Viễn
Châu là nhạc sĩ mà cũng là
thi sĩ nên các bài vọng cổ là thơ và nhạc, có chất văn học,
mỗi câu hát lời ca,
mỗi nhân vật trong câu chuyện của bài vọng cổ đều được anh gởi
gấm chút niềm tâm
sự, một chút tình…thứ tình cảm lãng mạn trong một tâm hồn đa
tình, lãng tử. Tình
cảm đó, có khi là một chút hình ảnh của quê hương có ánh sáng
lập lòe của bầy đom
đóm, có tiếng gà trưa lẫn tiếng chuông chùa công phu văng
vẳng, có khi là hình ảnh
của người nông phu bình dị mà anh bắt gặp bất ngờ trên đường
đời mà nỗi bất hạnh,
nỗi buồn khổ của họ hay chuyện tình nên thơ mà dang dở của họ
đã để lại trong tâm
hồn anh nhiều ray rứt… cũng có khi là một chút cảm khái « dư
nước mắt khóc người
đời xưa ». Nói chung, nhân vật trong tuồng, trong bài vọng cổ
đều chuyên chở dùm
cho Viễn Châu nỗi niềm hoài niệm một thời thơ ấu đa tình, một
chút lãng mạn của
một người yêu đời, yêu thơ văn và âm nhạc.
Với trái tim dành
cho Thơ,
Viễn Châu là thi sĩ ngoại hạng nhưng không mang
danh là thi sĩ.
Viễn Châu sáng tác hơn 2000 bài ca vọng cổ cho ba thế hệ
diễn viên, ca sĩ
ca thu thanh vô dĩa. Mỗi bài ca vọng cổ thu dĩa thường có ít
ra 8 câu
thơ ; 4 câu thơ nói lối hay ngâm trước khi ca câu vọng cổ 1
và 4 câu thơ
trước khi ca câu 5, câu 6 hoặc thơ trong lòng câu vọng cổ.
Ví dụ : Trong bài vọng cổ « Hoa
Đào Năm Ngoái », 4 câu thơ nói lối trước khi vô vọng
cổ câu 1 :
Cánh chim về tổ chở
mây xa
Liễu
biếc sầu ai quạnh nắng
tà
Người đep đâu rồi,
cây nhớ bóng
Lan đình còn đọng dấu
hài hoa.
Và đây 4 câu thơ nói lối gác vô câu vọng cổ số 5 :
Hương
tóc mơ màng, hương cố nhân,
Người xưa lưu lạc bước
phong trần
Hồn thơ rũ
rượi sầu ngăn cách
Lá chết rơi
nhiều quyện gió đông.
Trong bài « Cô hàng cà phê »,
4 câu thơ nói lối trước
khi vô vọng cổ câu 1 :
Gió thổi
tơi bời xác lá bay
Mưa rơi
từng giọt mái hiên ngoài
Em ngồi
lẳng lặng bên khung cửa
Hướng nẻo
chân trời để nhớ ai.
Và đây 4 câu thơ
gác vô câu 5 bài « Cô Hàng Cà Phê »
Chiều
xuống lâu rồi mưa vẫn tuôn
Ngoài kia
phố thị hắt hiu buồn
Tôi nghe
rười rượi hồn du tử
Hướng nẻo
chân trời để nhớ
ai !
Viễn Châu làm thơ
không phải để nổi tiếng với thơ,
nhưng anh biết làm thơ nên viết lời ca vọng cổ với tâm hồn
thi sĩ, tâm hồn lãng
mạn. Tôi thử làm một bài toán cộng để hình dung cái khối
sáng tác Thơ đồ sộ của
Viễn Châu. Anh viết hơn 2000 bài ca vọng cổ, mỗi bài vọng cổ
Viễn Châu thường
viết 8 câu thơ,( 4 câu thơ trước khi ca vọng cổ câu 1, 4 câu
khác gác vô vọng cổ
câu 5, không kể các câu thơ trong lòng câu vọng cổ) Với hai
ngàn bài vọng cổ
thu dĩa trước năm 1975, Viễn châu đã sáng tác
8 câu thơ X
2000 = 16. 000
câu thơ. Mỗi bài vọng cổ được viết như kể một
câu chuyện ngắn, một chuyện tình, mỗi bài vọng cổ có nhân
vật khác nhau, chuyện
tình cảm cũng khác, vậy hai ngàn bài vọng cổ là hai ngàn
chuyện ngắn khác nhau.
Về 200 bài ca hài của Văn Hường, Hề Sa, Hề Minh ca là 200 chuyện châm biếm thói
hư tật xấu đáng cười chê
trong xã hội, ghi dấu sự va chạm của phong tục tập quán xưa
cũ và cái nếp sống
văn minh mới, đồng thời cũng tìm ra được cái nét rởm đời khi
học theo cái mới một
cách quá trớn, đem lại một sự hủy hoại nếp sống đạo đức Á
Đông. Những bài vọng
cổ hài này được đa số thính giả tán thành nên thời kỳ có
nhiều bài vọng cổ hài,
không có ký giả kịch trường nào phê phán chê bai.
Trái tim
thứ ba dành cho Nhạc, Viễn Châu nổi
danh nhạc sĩ đàn tranh với tên là nhạc sĩ Bảy Bá ( tên
thiệt). Với ngón đàn
tranh tươi mướt,với sự hiều biết sâu sắc về cổ nhạc và tân
nhạc, nhạc sĩ Bảy Bá xứng
đáng được tôn vinh là nhạc sư, một danh
thủ đàn tranh không thua gì danh cầm đàn tranh Sáu Quí của
đoàn Việt Kịch Năm Châu.
Nhạc sĩ Bảy Bá đàn tranh, nhạc sĩ Năm Cơ đàn kìm, nhạc sĩ
Văn Vĩ đàn guitare phím
lõm là ba danh cầm được các hãng dĩa quý trọng, thường mời
ba danh cầm này đàn
cho các ca sĩ ca thu thanh các bộ dĩa vọng cổ và tuồng cho
hãng dĩa. Nhạc sư Bảy
Bá được kể là cha đẻ của kỹ thuật ca vong cổ mới : đó là Tân
Cổ Giao Duyên.
Đầu năm 1960.
nhạc sĩ Bảy Bá tạo ra bài Tân Cổ
Giao Duyên đầu tiên : Cô
Hàng Chè
Tươi . Tân nhạc Nguyễn Hữu Thiết, vọng cổ Viễn Châu.
Anh đã bỏ câu 3 và câu
4 vọng cổ, thay vào là một đoạn tân nhạc thay cho lối ngâm 4
câu thơ gác vọng cổ.
Bài Tân Cổ Giao Duyên thứ 2 : Chàng
Là Ai ?( tân nhạc Nguyễn Hữu Thiết, lời vọng cổ Viễn
Châu) Hãng dĩa
Hồng Hoa thu thanh và phát hành.) Hai bài Tân Cổ Giao Duyên
đầu tiên, khi được
phát hành, một số người theo khuynh hướng bảo thủ, muốn bảo
vệ bài vọng cổ truyền
thống chỉ trích nặng nề. Tuy nhiên Viễn Châu kiên trì sáng
tác thêm nhiều bài
ca Tân Cổ Giao Duyên với những bản tân nhạc có giai điệu êm
ái, nhẹ nhàng, lồng
vào bài vọng cổ( nhạc của Nguyễn Hữu Thiết, Nguyễn Văn Đông,
Phạm Duy, Trần Thiện
Thanh, Hoàng Nguyên, Lam Phương, Song Ngọc…) Kết quả là
thính giả chấp nhận món
ăn tinh thần mới, giai điệu phù hợp vói cảm quan của đại đa
số người thích tân
nhạc và vọng cổ của thập niên 60, 70 và cả về sau này. Các
nghệ sĩ, danh ca
Thanh Nga, Thành Được, Út Bạch Lan, Hữu Phước, Hùng Cường,
Bạch Tuyết, Mỹ Châu,
Ngọc Giàu, Tấn Tài., Minh Cảnh, Minh Phụng, Út Hiền,… đều có
ca thu thanh nhiều
bài Tân Cổ Giao Duyên được giới thưởng ngoạn gọi là những
tác phẩm để đời…
Ngày 30 tháng
4 năm 1975, tất cả
các gánh hát Cải Lương,
Hát Bội, Kịch, Các Ban ca, vũ nhạc đều bị giải tán. Nhà nước
mới tịch thu và quản
lý hết các rạp hát. Nghệ sĩ phải đăng ký hành nghề nơi Ban
Thông Tin Văn Hóa,
trụ sở tạm tại Trường Quốc Gia Âm Nhạc cũ đường Nguyễn Du.
Tôi gặp Viễn Châu đi
đăng ký. Buồn lắm, chiều đó anh ghé thăm tôi. Chúng tôi ngồi
uống trà, im lặng
bên nhau khá lâu, anh hỏi tôi : «
Anh tính gì chưa? » Tôi nói : «
Chắc tôi đưa vợ con về xã Phú Nổ Sóc Trăng. Về xin lại vài
công ruộng của gia
đình bên vợ tôi theo chánh sách Hồi hương lập nghiệp của
chánh phủ mới tuyên
truyền! »
Viễn Châu cười :
« Bộ anh làm ruộng được sao?... anh ngồi thở
ra, rồi đọc mấy câu thơ :
Ngày ấy
bút cùn như giáo gãy,
Tả tơi
khôi giáp, rách quân kỳ
Tôi như
dũng tướng vừa thua trận
Nằm giữa
sa trường vạn tử thi.
Viễn Châu và tôi
đều biết là Miền Bắc chiếm được
Miền Nam rồi thì việc đầu tiên, họ diệt hết những nhà trí
thức, các văn sĩ, nghệ
sĩ, thi sĩ. Lúc còn chiến tranh, chúng tôi nghe Đài phát
thanh, đọc các báo chí
ở Saigòn và những bài trích đăng về vụ án Nhân Văn Giai Phẩm
ở miền Bắc trong năm
1958, chúng tôi biết các nhạc sĩ, thi sĩ, nhà văn như Văn
Cao, Hoàng Cầm, Phùng
Quán, Trần Dần, Nguyễn Binh đều bị tù đày, bị trù ải, không
cho làm việc gì để
kiếm sống chớ đừng nói tới việc cho sáng tác văn chương, thi
phú hay ca nhạc. Các
soạn giả cải lương ở miền Nam, các nhà văn, nhà báo, thi sĩ,
nhạc sĩ chắc chắn
sẽ bị cấm hành nghề, nhà cầm quyền Cộng sản không cho tự do
tư tưởng, tự do sáng
tác văn chương hay ca nhạc để thực hiện chánh sách toàn trị
của đảng. Biết như
vậy nhưng chúng tôi cũng không dám thố lộ tâm sự với nhau.
Viễn Châu nói :
Tâm sự của tôi có lẻ chỉ gởi vào thơ. Nó mông lung nhưng thơ
không thể là một cái
bằng cớ để người khác kết tội mình…Anh đọc luôn :
Muốn
chôn u uất vào men rượu
Ném bút,
quăng thơ, đập cả đàn
Khổ nỗi
khi nghe mưa rơi tí tách,
Giật
mình cứ ngỡ tiếng song lang.
Viễn Châu bỏ về
Lộc Ninh ở ẩn, anh không tham gia
ban tuyên truyền hay ban văn nghệ của Lộc Ninh. Anh cất một
mái nhà tranh, sống
ẩn dật. Nhắc lại ngày 30 tháng 4, anh có bài thơ tâm sự :
Mưa lạnh run run gió dật dờ
Thành đô bỗng chốc hóa tiêu sơ
Đôi giây khoan nhặt cười ray rứt
Năm ngón cung thương khóc sững sờ
Tháng lụn năm tàn, già héo hắt
Quê người xứ lạ, trẻ bơ vơ
Chiếu nay có kẻ nhiều tâm sự
Nước mắt hòa trong nhạc với thơ.
Bài
thơ này soạn giả Viễn Châu bày tỏ nỗi lòng:
trong câu thơ « Thành
đô bỗng chốc tiêu
sơ » là chỉ thành phố Saigon bỗng chốc tan nát tiêu
sơ ( trong ngày 30 tháng
4/ 1975.) Hai câu thơ: « Đôi giây khoan nhặt
cười ray rứt », « Năm ngón cung thương,
khóc sững sờ »,
Cười ray rứt để diễn tả bề ngoài tưởng như cười khi đàn
nhưng cười ray rứt là đau
đớn trong lòng mà bề ngoài phải giả tươi cười. Năm ngón cung
thương khóc sửng sờ
tức là khóc sửng sờ trước cái mất bất ngờ của thành phố! Câu
thơ : « Quê người
xứ lạ trẻ bơ vơ » chỉ rõ là anh có đứa con đi di tản, bây
giờ không biết bơ vơ
lạc lõng ở xứ nào. ( Sau này mới biết con anh được tàu Đức
quốc vớt ngoài biển,
được định cư ở nước Đức ). Thử hỏi những văn nghệ sĩ đồng
thời với Viễn Châu, có
mấy ai dám tỏ tấm lòng đau thương vì thành phố Saigon bỗng
chốc hóa tiêu sơ ?
Nhớ
về Viễn Châu, lại nhớ chuyện sáng tác các câu
đối và các bài vọng cổ. Sau năm 1978, sau khi Thanh Nga mất,
Viễn Châu từ Lộc
Ninh về Saigon, được các ông lãnh đạo Sở VHTT mời về đàn cho
đoàn Văn Công GP,
vài tháng sau, một ông có chức ở Sở VHTT yêu cầu Viễn Châu
sáng tác vọng cổ hoặc
các câu đối đề ca ngợi ông Hồ, ông Phạm Văn Đồng, ông Võ
Nguyên Giáp.
Vài
tháng sau, Viễn Châu không viết được chữ nào,
không vọng cổ, không có câu đối ngợi ca lãnh tụ, ông xếp ở
Sở VHTT hỏi: « Trước
75, anh sáng tác hơn hai ngàn bài
vọng cổ, bài nào cũng hay, cũng được danh ca ca và thính
giả ưa thích. Sau
1975, anh không sáng tác nữa dù cấp trên có yêu cầu. Nghệ
sĩ khác không được
quyền sáng tác, trái lại anh được yêu cầu sáng tác, tại
sao anh không nhanh
chóng đáp ứng yêu cầu của cách mạng?»
Viễn
Châu nói: « Tôi không hiểu rành đường lối và thành tích của
cách mạng, sợ viết sơ
xuất. Còn làm câu đối ngợi ca lãnh tụ thì tôi không hiểu
các hoạt động cách
mạng của lãnh tụ, sợ viết có sai phạm thì nguy lắm. Tôi sẽ
nghiên cứu sâu hơn
nữa tài liệu cách mạng và thành tích của lãnh tụ, khi thấm
nhuần tôi sẽ sáng
tác vọng cổ hay câu đối theo đề xuất của ông.»
Gặp
tôi, anh kể chuyện đó và nói: « Tự do sáng tác như
kiểu nhạc sĩ Văn Cao và
thi sĩ Nguyễn Bính thỉ bị đảng nhốt vô tù, bị trù dập. Còn
sáng tác theo định
hướng, theo sự chỉ huy của đảng thì coi như mình đã chết
rồi. Vậy nên tôi tự
làm thơ tự thưởng thức, có lẽ vui hơn. » Anh đọc mấy
câu thơ:
Xuân đã tàn thôi mộng cũng tàn
Nói năng gì nữa với nhân gian?
Cuộc đời còn lại bao nhiêu nhỉ
Vài bản tình ca, mấy nhịp đàn !
Trước
năm 1975, soạn giả Viễn Châu sống dưới
chế độ Việt Nam Cộng Hòa, anh được tự do sáng tác, nhờ đó
anh đã sáng tác hơn
2000 bài ca vọng cổ, 200 bài ca vọng cổ hài và 50 vở tuồng
cải lương…đó là một
kho tàng vọng cổ quý vô giá.
Sau
năm 1975, anh không được tự do sáng tác, từ
năm 1975 đến ngày anh mất 01 tháng 2 năm 2016, bốn mươi mốt
năm soạn giả Viễn
Châu không sáng tác gì hết! 41 năm bị o ép, một thiên tài bị
ép chết một cách
tức tưởi,
Lại nhớ mấy câu thơ như
lời trăn trối của Viễn Châu:
Gió bụi thời gian bạc mái đầu
Mấy dòng tâm sự gởi về đâu?
Đôi ba năm nữa, mươi năm nữa
Thiên hạ còn ai nhớ Viễn Châu ?
Nhân ngày giỗ Viễn Châu, viết với lòng
vô cùng thương nhớ bạn.
Soạn giả Nguyễn Phương 96 tuổi !
Attachments area
