Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label QGHCNguyenCongKhanh. Show all posts
Showing posts with label QGHCNguyenCongKhanh. Show all posts

Friday, 9 February 2024

 TRONG HÀNG NGŨ QGHC CHO TỚI NAY ĐÃ CÓ MỘT VÀI QGHC CÔNG KHAI NHẮM MẮT CUỒNG TÍN MỞ RỘNG CỬA MÌNH CHÀO ĐÓN TUỆ SỸ NHƯ : "HUỲNH TẤN LÊ, TRẦN VIỆT LONG... NAY TỚI PHIÊN NGUYỄN CÔNG KHANH TỰ XUỐNG ĐÁY ĐỊA NGỤC ÍT AI NGỜ."

*NHỮNG TÊN TUỔI NẦY CỐ TÌNH LÀM NGƠ V/V TUỆ SỸ CÔNG KHAI HÓA GIẤC MƠ TRƯỜNG SƠN CỦA HẮN TA - 

QUÝ BÁC QGHC THỬ SUY NGHĨ XEM - TẠI SAO MỘT NHÀ TU TRONG VÙNG ĐẤT ĐỊA TỰ DO VNCH LẠI CÓ "GIẤC MƠ TRƯỜNG SƠN? TRONG SUỐT 21 NĂM CHỐNG CỘNG CỦA MIỀN NAM "KHÔNG HỀ CÓ MỘT NGƯỜI VNCH CHÂN CHÍNH NÀO MƠ GIẤC MƠ TRƯỜNG SƠN CẢ ĐÚNG KHÔNG?- CHỈ CÓ VIỆT CỘNG MỚI GẮN LIỀN VỚI TRƯỜNG SƠN NHƯ TRƯỜNG SƠN ĐÔNG, TRƯỜNG SƠN TÂY - NHƯ ĐƯỜNG MÒN HỒ CHÍ MINH VỚI TRƯỜNG SƠN, ĐI "B" VƯỢT TRƯỜNG SƠN V.V... 

PHÍA QUỐC GIA MÌNH LUÔN KINH HOÀNG VỚI TRƯỜNG SƠN, MẮC MỚ GÌ MÀ MƠ ƯỚC TRƯỜNG SƠN CHỨ? CHỈ CÓ BỌN DÂY MƠ RỄ MÁ VC MỚI CÓ GIẤC MƠ TRƯƠNG SƠN.

TUỆ SỸ ĐÃ CÔNG KHAI HÓA "GIẤC MƠ TRƯỜNG SƠN" MÀ CÒN ĐI XA HƠN "Trường Sơn ơi bóng tùng quân ngạo nghễ"- BÓNG TÙNG QUÂN NGẠO NGHỄ LÀ CA TỤNG QUÂN VIỆT CỘNG HAY QUÂN VNCH ??????- 

"Máu người pha đỏ sắc cờ" - MÁU NGƯỜI VNCH HAY MÁU NGƯỜI VIỆT CỘNG TÔ ĐỎ SẮC CỜ??? CỜ ĐỎ LÀ CỜ VNCH HAY CỜ VIỆT CỘNG???

TRẦN VIỆT LONG VÀ HUỲNH TẤN LÊ CA TỤNG TUỆ SỸ THÌ KHÔNG CẦN NÓI LÀM GÌ VÌ 2 ÔNG QGHC NẦY ĐANG TẬP BAY VÀO THIÊN ĐÀNG, MƠ ƯỚC SAU NẦY ĐƯỢC NHÚC NHÍCH NHƯ 3 CỌNG LÔNG Ở CHÙA 3 CỤC MÀU VÀNG ! 

NHƯNG BÁC NGUYỄN CÔNG KHANH ƠI, BÁC KHANH LÀ RI CƯ 54, TỪNG CỰU PHÓ QUẬN PHÚ QUỐC NƠI ĐẤT ĐỊA LINH THIÊNG CỦA THẦN NGUYỄN TRUNG TRỰC - BÁC KHÔNG BIẾT THẦN NGUYỄN TRUNG TRỰC RẤT HIỂN LINH CHĂNG??? 

SAO BÁC NGUYỄN CÔNG KHANH ĐÀNH NÚP BÓNG PHƯỜNG GIAN MANH THỜ CỘNG VẬY HÈ?, BỚ BÁC RI CƯ 54 QGHC NGUYỄN CÔNG KHANH!!!!./-Mt68

____________

Đọc thơ nhớ người

 
1 trang_Tuệ Sĩ
“Sương mai lịm khói trà; Gió lạnh vuốt tờ hoa; Nhè nhẹ tay nâng bút; Nghe lòng rộn âm ba.” Buổi Sáng tập viết chữ Thảo – Tuệ Sỹ
 
Những Năm Anh Đi – Thích Tuệ Sỹ (1943-2023)
 
Ngọn gió đưa anh đi mười năm phiêu lãng
Nhìn quê hương qua chứng tích điêu tàn
Triều Đông hải vẫn thì thầm cát trắng
Truyện tình người và nhịp thở Trường sơn
Mười năm nữa anh vẫn lầm lì phố thị
Yêu rừng sâu nên khóe mắt rưng rưng
Tay anh với trời cao chim chiều rủ rỉ
Đời lênh đênh thu cánh nhỏ bên đường
Mười năm sau anh băng rừng vượt suối
Tìm quê hương trên vết máu đồng hoang
Chiều khói nhạt như hồn ai còn hận tủi
Từng con sông từng huyết lệ lan tràn.
Mười năm đó anh quên mình sậy yếu
Đôi vai gầy từ thuở dựng quê hương
Anh cúi xuống nghe núi rừng hợp tấu
Bản tình ca vô tận của Đông phương
Và ngày ấy anh trở về phố cũ
Giữa con đường còn rợp khói tang thương
Trong mắt biếc mang nỗi hờn thiên cổ
Vẫn chân tình như mưa lũ biên cương.
 
Bài thơ trên Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ làm sau khi bị nhà cầm quyền Cộng Sản cầm tù trong dẫy Trường Sơn. Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ  là một vị  học giả uyên bác về Phật giáo, nguyên giáo sư của Đại học Vạn Hạnh tại Sài Gònnhà vănnhà thơdịch giả và là một người bất đồng chính kiến với nhà cầm quyền và đã bị cầm tù trong nhiều năm. Năm 1998, Hòa Thượng được tổ chức Human Rights Watch tặng giải thưởng về nhân quyền Hellmann-Hamett Awards. Hòa Thượng là Xử lý Thường Vụ Viện Tăng Thống của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất. Hòa Thượng thông thạo tiếng Trung Quốctiếng Anhtiếng Pháptiếng Palitiếng Phạn và tiếng Nhật, đọc hiểu tiếng Đức. Hòa Thượng được giới học giả Việt Nam đánh giá cao vì đã công bố nhiều tiểu luận, chuyên khảo, thơ và nhiều công trình dịch thuật Phật giáo từ tiếng Phạn, tiếng Trung Hoa và tiếng Nhật, được coi là  nhà sư uyên bác nhất của Phật giáo Việt Nam, đã soạn thảo quyển Bách Khoa Phật Học Đại Tự Điển.
   
Nhờ nhiều công trình nghiên cứu và khảo luận triết học nổi tiếng, Hòa Thượng là Chủ bút của tạp chí Tư tưởng do Viện Đại học Vạn Hạnh phát hành.
   
Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ viên tịch ngày 24 tháng 11 năm 2023 tại chùa Phật Ân, tỉnh Đồng Nai. Hưởng thọ 80 tuổi. Nhiều bài báo ở khắp nơi trong một thời gian dài đã viết để ca ngợi cuộc đời đức hạnh cũng như những đóng góp uyên thâm cho Phật Pháp của Hòa Thượng.
 
*
 
Thơ Đặng Đức Siêu (1751-1810) – Đông Hồ (1909-1969)
 
Đêm Trừ Tịch

Tháng lụn năm cùng sự chẳng cùng,
Nửa đêm xuân lại nửa đêm đông.
Chi lan tiệc cũ hương man mác,
Đào lý vườn xưa tuyết lạnh lùng.
Đất có bâng khuâng chờ hội ngộ,
Trời như thao thức đợi tao phùng
Gà kêu pháo nổ năm canh chót,
Mừng cội mai già gặp chúa đông.
 
Bài thơ “Đêm Trừ Tịch” của Đặng Đức Siêu làm theo thể Đường Thi, thất ngôn bát cú với những từ trang trọng và hình ảnh đối ngữ được truyền tụng đến nay. Câu 5 và 6 bị thất lạc, sau này được thi sĩ Đông Hồ điền thế thành một bài thơ tuyệt tác. Đặng Đức Siêu sinh năm Tân Mùi (1751) tại làng Phụng Cang, huyện Bồng Sơn; nay là khu phố Vĩnh Phụng, phường Hoài Xuân, thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Năm 16 tuổi, ông đỗ Hương Tiến (Cử nhân), được Định Vương Nguyễn Phúc Thuần bổ làm việc ở Viện Hàn Lâm tại Phú Xuân. Khi chúa Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long, kể từ đó, phần lớn nghi lễ, chiếu biểu của nhà vua đều do ông soạn thảo. Về sau, ông được cử làm Phụ đạo (dạy các Hoàng tử), dần trải đến chức Thượng thư bộ Lễ (tháng 11 âm lịch năm Kỷ Tỵ1809). Gia Long thứ 8 (Canh Ngọ1810), ông Đặng Đức Siêu mất, thọ 59 tuổi, được truy tặng chức Tham chính. Năm Ất Dậu (1825), vua Minh Mạng truy tặng ông là Thiếu sư, Hiệp biện đại học sĩ và lập đàn tế ông. Dưới triều Tự ĐứcNhâm Tý (1852), ông được liệt thờ vào miếu Trung hưng công thần.
   
Đông Hồ, 
 sinh năm 1909, tại làng Mỹ Đức, tỉnh Hà Tiên, nay thuộc tỉnh Kiên Giang, tên thật Lâm Tấn Phác, tự Trác Chi, hiệu Đông Hồ và Hòa Bích; các bút hiệu khác: Thủy Cổ Nguyệt, Đại Ẩn Am, Nhị Liễu Tiên Sinh. Ông được đánh giá là một nhà giáonhà thơ, chuyên gia nghiên cứu tiếng Việt và là một người nhiệt tình với văn hóa dân tộc Việt Nam. Ngoài thơ, Đông Hồ còn viết văn, ký, khảo cứu, văn học sử. Về văn, ông viết từ văn xuôi biền ngẫu đến văn xuôi hiện đại. Ông có tiếng khi viết cho báo Nam Phong do Phạm Quỳnh chủ trương và nổi tiếng nhất với bài ký Linh Phượng, tức Trác Chi Lệ Ký tập và bài Phú Đông Hồ. Ông có nhiều tác phẩm đã in thành sách. Ông là thành viên của nhóm "Hà Tiên tứ tuyệt" gồm: Đông Hồ, Mộng Tuyết (cũng là vợ của ông), Lư Khê và Trúc Hà.
 
*
 
Bùi Giáng (1925-1998)
 
Chào Nguyên Xuân
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
Tóc xanh dù có phai màu
Thì cây xanh vẫn cùng nhau hẹn rằng

Xin chào nhau giữa lúc này
Có ngàn năm đứng ngó cây cối và
Có trời mây xuống lân la
Bên bờ nước có bóng ta bên người

Xin chào nhau giữa bàn tay
Có năm ngón nhỏ phơi bày ngón con
Thưa rằng những ngón thon thon
Chào nhau một bận sẽ còn nhớ nhau

Xin chào nhau giữa làn môi
Có hồng tàn lệ khóc đời chửa cam
Thưa rằng bạc mệnh xin kham
Giờ vui bất tuyệt xin làm cỏ cây

Xin chào nhau giữa bụi đầy
Nhìn xa có bóng áng mây nghiêng đầu

Hỏi rằng: người ở quê đâu
Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà
Hỏi rằng: từ bước chân ra
Vì sao thấy gió dàn xa dặm dài
Thưa rằng: nói nữa là sai
Mùa xuân đương đợi bước ai đi vào
Hỏi rằng: đất trích chiêm bao
Xá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau
Thưa rằng: ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân
 
Bùi Giáng là nhà thơ, dịch giả và là nhà nghiên cứu văn học của Việt Nam. Các bút danh khác của ông là: Trung niên thi sĩ, Bùi Bàn Dúi, Bùi Văn Bốn, Vân Mồng... Nhiều tập thơ của ông đã được ấn hành và được nổi tiếng từ năm 1962 với tập thơ Mưa Nguồn. Ông có đời sống khác thường, nên có những câu thơ xuất thần cũng khác thường.
 
*
 
Bùi Khánh Đản (1916-2001)
 
Âm Hưởng
Có nghe bút trúc nhủ hoa tiên
Nghe ánh thời gian đọng mắt huyền
Nghe ngả đường trăng mai trước viện
Nghe dồn nhịp nắng liễu bên hiên
Nghe hồn du tử say mây nước
Nghe ý ly nhân hận ước nguyền
Nghe cả mùa Xuân lên khúc dạo
Muôn ngàn âm hưởng đã giao duyên
*Bài thơ “Âm Hưởng” của cụ Bùi, với lời thơ trác tuyệt, hào hoa, cho người đọc cảm được những gì không gây thành tiếng, mà thành một bản hp tấu của mùa  Xuân diễm tuyệt.

Bùi Khánh Đản là một nhà thơ, dịch giả tại miền Nam Việt Nam. Sau năm 1975, ông định cư tại thành phố Portland, Oregon, Hoa Kỳ. Ông có nhiều thơ đăng trên tạp chí Bách Khoa và đã cùng nhà biên khảo Đỗ Bằng Đoàn xuất bản tập “Đường Thi Trích Dịch”, phát hành nguyên tác in ronéo năm 1959 ở Sài Gòn, gồm 503 bài thơ của 133 tác giả Đường thi Trung Hoa. Cuốn này được nhà xuất bản Văn Học trong nước in lại năm 2006, dầy 1271 trang. Đây là một bộ sách toàn hảo, công phu nhất về Đường Thi bằng tiếng Việt. Đầy đủ tiểu sử các tác giả trong các thời kỳ Đường Thi từ Sơ Đường (618-712), Thịnh Đường (713-765), Trung Đường (766-835) và Vãn Đường (836-907). Từng bài thơ lại được viết như một bài luận bình thơ mẫu mực gồm các phần: phần nguyên bản bằng Hán Tự, phần dịch âm theo Việt ngữ, phần dịch sang thơ Việt ngữ, phần dịch nghĩa sang Việt ngữ, và phần xuất xứ chú thích.
Đường Thi là một trong những nền thơ ca lớn nhất của nhân loại. Mặc dù hàng ngàn năm đã trôi qua, thơ Đường vẫn giữ vẻ đẹp tươi thắm, sức quyến rũ và chiều sâu của triết học. Bộ sách “Đường Thi Trích Dịch” này từng là cuốn sách gối đầu giường của sinh viên Văn Khoa và những ai yêu thích và nghiên cứu Đường Thi. Ngoài ra cụ đã sáng tác hàng trăm bài Đường thi nhưng chưa được xuất bản.
   
Khi cụ mất, nhà thơ Trần Mộng Tú cùng nhóm thân hữu từ Seattle xuống Portland tiễn biệt và đã đọc bài thơ tứ tuyệt bên linh cữu cụ. Bài thơ này đã được khắc lên bia mộ cụ Bùi:
 
Ta nằm bình thản như pho sách  
Đợi đất dịu dàng đến nằm bên  
Cỏ mọc mầm xanh trên mỗi chữ  
Ta trang thơ mới giữa thảo nguyên.   
(Trần Mộng Tú)
 
*
 
Thôi Hộ, đời Đường Trung Hoa (796)
 
Bài thơ hoa đào
Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong.

Năm ngoái, ngày này, dưới cánh song, 
Hoa đào ánh má, mặt ai hồng. 
Mặt ai nay biết tìm đâu thấy, 
Chỉ thấy hoa cười trước gió đông. 
(Bùi Khánh Đản dịch)
 
Trước sau nào thấy bóng người, 
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
(Tiên Điền Nguyễn Du)
 
Bài thơ Hoa Đào được nhiều người dịch, tuy nhiên ít người hoàn hảo được câu cuối vào thể thơ thất ngôn tiếng Việt. Trong truyện Kiều, Nguyễn Du đã dùng lục bát tả cảnh khi Kim Trọng trở lại Vương Gia Trang tìm Thúy Kiều thì không thấy nàng đâu. Câu thơ lục bát đó vừa diễn tả được đầy đủ hình ảnh và ý thơ, vừa thấy được cả cái tình thơ man mác và huyền ảo.
   
Thôi Hộ 崔護 tự Ân Công 殷功, người Bác Lăng đời Đường (nay là An Bình, Hà Bắc). Ông là một thi nhân đời Trung Đường, đỗ tiến sĩ năm Trinh Nguyên thứ 12 (796), làm quan đến Lĩnh Nam tiết độ sứ. Thôi Hộ là một thi nhân giàu ý tình, đồng thời là một người phong lưu tuấn nhã. Tuy nhiên có lẽ vì tình cảm chỉ giữ ở trong lòng, cho nên tính cách ông khá khép kín, không thích việc giao du.
   
Bài thơ Hoa Đào” với bốn câu thơ theo thể thất ngôn tứ tuyệt tuy ngắn gọn súc tích nhưng hàm chứa ý nghĩa sâu xa, nổi tiếng và được lưu truyền cho đến nay. Bài thơ kể về một mối tình tơ duyên ngắn ngủi nhưng làm người ta nhớ mãi khôn nguôi. Chuyện kể rằng vào tiết Thanh Minh năm ấy, có một chàng trai dạo chơi ở phía nam Đô thành. Trông thấy một trang viên hoa đào nở rộ, sắc hoa tươi thắm, chàng bèn lấy cớ vào xin nước uống để được ngắm kỹ hơn.
   
Chàng trai gõ cửa, gặp một thiếu nữ diễm lệ. Cô mang nước cho chàng trai uống, cử chỉ vừa dịu dàng vừa kín đáo làm người khác phải nao lòng. Uống nước xong, chàng trai cảm tạ rồi cáo biệt. Khi về nhà, chàng trai vẫn nhớ mãi hình dáng hôm ấy của cô thiếu nữ có đôi má hây hồng tựa như cánh hoa nào. 
   
Tròn một năm trôi qua, chàng trai trở lại chốn xưa, hy vọng gặp lại cố nhân. Nhưng cổng đóng then cài, gọi mãi mà chẳng thấy ai. Xuất cảnh sinh tình, chàng trai đề một bài thơ trên cánh cổng. 
   
Ít lâu sau chàng trở lại, nghe tiếng khóc vọng ra từ trang viên. Một ông lão bước ra, vẻ mặt tiều tụy hỏi chàng trai kia có phải là người đã đề thơ lên cổng. Thì ra người con gái con của ông lão đọc xong thơ, nhớ thương đến bỏ ăn bỏ ngủ rồi ốm chết. Chàng trai ngồi cạnh người con gái đã tắt thở nhưng vẻ mặt vẫn hồng nhuận như năm nào. Chỉ trách tạo hóa trớ trêu thay cho mối đoạn duyên. 
   
Cũng có lời truyền rằng. Người con gái chưa hồn lìa khỏi xác, nghe tiếng khóc than của người thương thì tỉnh dậy. Từ đó hai người trở thành vợ chồng, cùng sống hạnh phúc ở đào hoa viên. Cũng từ điển tích này mà người ta hay ví gương mặt người con gái đẹp giống như hoa đào.
 
– Nguyễn Công Khanh
 
(*) Bài viết trên đây dựa trên tài liệu của các mạng / vb.
______________________

GIẤC MƠ TRƯỜNG SƠN 

Thơ Tuệ Sỹ An Tiêm in lần thứ hai. 
Sydney, Úc Đại Lợi cuối Thu năm 2003



_____________

BÀI CA CÔ GÁI TRƯỜNG SƠN 

Nàng lớn lên giữa Quê hương đổ nát 
Tay mẹ gầy mà đất sống hoang khô 
Đàn em nhỏ áo chăn không đủ ấm 
Tuổi trăng tròn quanh má đọng sương thu. 
Nửa đêm lạnh tóc nàng hương khói nhạt 
Bóng cha già thăm thẳm tận u linh 
Tuổi hai mƣơi mà đêm dài sương phụ 
Ngọn đèn tàn tang trắng phủ mông mênh. 
Suốt mùa đông nàng ngồi thêu áo cưới 
Đẹp duyên người mình vẫn phận rong rêu 
Màu hoa đỏ tay ai nâng cánh bướm 
Mà chân mình nghe cát bụi đìu hiu 
Vào buổi sáng sao mai mờ khói hận 
Nghe quanh mình lang sói gọi bình minh 
Đàn trẻ nhỏ dắt nhau tìm xó chợ 
Tìm tương lai tìm rác rưới mưu sinh. 
Từ những ngày Thái Bình Dương dậy sóng 
Quê hương mình khô quặn máu thù chung 
Nàng không mơ buổi chiều phơi áo lụa 
Mơ Trường Sơn vời vợi bóng anh hùng. 
Từ buổi ấy nghe tim mình thổn thức 
Nàng yêu người dâng trọn khối tình chung 
Không áo cưới mà âm thầm chinh phụ 
Không chờ mong mà ước nguyện muôn trùng 
Rồi từ đó tóc thề cao ước nguyện 
Nên bàn chân mòn đá sỏi Trường Sơn 
Thân bé bỏng dập dìu theo nước lũ 
Suối rừng xa ánh mắt vọng hoa ngàn 
Trường Sơn ơi bóng tùng quân ngạo nghễ 
Phận sắn bìm lây lất với hoàng hôn 
Quê hương ơi mấy nghìn năm máu lệ 
Đôi vai gầy dâng trọn cả mùa xuân. 

Sài gòn 80
______________________

” Môt Bóng Trăng Gầy”,

Thích Tuệ Sỹ 

Nằm ôm một bóng trăng gầy
Vai nghiêng tủi nhục hờn lay mộng tàn
Rừng sâu mấy nhịp Trường sơn
Biển Ðông mấy độ triều dâng ráng hồng
Khóc tràn cuộc lữ long đong
Người đi còn một tấm lòng đơn sơ?
Máu người pha đỏ sắc cờ
Phương trời xẻ nửa giấc mơ dị thường
Quân hành đạp nát tà dương
Khúc ca du tử bẽ bàng trên môi
Tình chung không trả thù người

*thích tuệ sỹ

Sunday, 24 December 2023

Giáng Sinh Di Cư Đầu Tiên

Nguyễn Công Khanh:



Năm 2024 là năm đánh dấu 70 năm ngày đất nước chia đôi (1954-2024), dòng sông Bến Hải đã làm biên giới giữa hai miền. Miền Bắc thuộc về Cộng Sản, miền Nam là vùng Quốc Gia tự do.

Năm đó, tôi 18 tuổi cùng với gia đình theo gần một triệu người bỏ miền Bắc di cư vào Nam. Chuyện của tôi gần giống như hai bài nhạc mà mọi người thường hát, là bài “Nỗi Lòng Người Đi” của Anh Bằng và bài “Gửi Người Em Gái” của Đoàn Chuẩn và Từ Linh.

Tôi xa Hà Nội năm tôi mười tám khi vừa biết yêu

Bao nhiêu mộng đẹp yêu đương thành khói tan theo mây chiều…


Tôi xa Hà nội năm em mười sáu trăng tròn đắm say
Đôi tay ngọc ngà dương gian, tình ái em đong thật đầy…”

Tôi cũng có một cô hàng xóm mười sáu tuổi, trước khi đi vào Nam, cô gửi cho tôi một lá thư và kèm theo một tấm hình. Có một điều trái ngược với hai bài hát trên là cả hai chúng tôi không ai ở lại Hà nội cả. Chúng tôi tìm gặp lại được nhau ở Saigon, nhưng mối tình học trò của một thời lãng mạn như bong bóng mùa mưa tan lúc nào không hay. 

*

Nhớ lại thời gian mới vào Nam, cha tôi được chuyển ra làm việc ở Đà Nẵng, cả gia đình phải đi theo trừ tôi ở lại Sài Gòn vì muốn tiếp tục theo học trường Chu văn An. Trong những ngày đầu, chưa có chỗ trọ, tôi đạp xe đến trại học sinh di cư Phú Thọ, nhưng trại đã đóng cửa, nhìn vào ngổn ngang rác rưởi. Tôi tìm đến Nhà hát Lớn thành phố, lúc đó vẫn còn một số người di cư vào muộn nên chưa giải tỏa. Tôi đang đứng lớ ngớ ở đại sảnh, thì gặp một anh bạn lễ mễ khuân hành lý đi xuống. Sau khi biết tôi đang cần nơi trú ngụ, anh bèn dẫn tôi lên đến khúc ngoặt của cầu thang tầng thứ ba, bảo tôi cứ dọn đến chiếm chỗ của anh vì anh đã có một nơi ở bên ngoài rồi. Anh giục tôi về dọn đến ngay. Hành trang của tôi chẳng có bao nhiêu. Tôi may mắn có một cái xe đạp để di chuyển, một vali nhỏ đựng quần áo, một ít vật dụng và một giường xếp kiểu nhà binh.

Mỗi lần đi học về, tôi thường nằm một mình, qua khung kính vỡ nhìn xuống những cảnh sinh hoạt dưới đường. Từ đó tôi thấy được cái công viên, mà sau này được dựng tượng một người lính Thủy Quân Lục Chiến cầm súng xung phong. Tôi nhìn thấy cái bồn phun nước mà xe cộ chạy quanh suốt ngày, nhìn dọc theo phố Bonard, xa xa là bùng binh chợ Bến Thành. Trước mặt Nhà hát Lớn là phố Catinat, một khu phố Tây có nhiều người ngoại quốc áo quần sang trọng qua lại. Những người thợ chụp hình photostop trên công viên thường bất ngờ nhắm chụp những khách qua lại, sau đó dụ họ mua hình.

Tôi thấy một người đàn ông giữ xe hơi, cứ mỗi lần có xe nào đến đậu trước Nhà hát Lớn, là ông ta cầm chổi lông gà lăng xăng chạy đến, mở cửa xe và lấy chổi quơ bụi quanh xe. Sau đó ông ta chờ đóng cửa, rồi cúi rạp người nói với họ những câu tiếng Tây gì tôi không được rõ. Lúc chủ xe trở lại, ông ta lập lại những động tác cũ, và cung kính đứng chờ để nhận tiền. Ngày nào tôi cũng nhìn cái hoạt cảnh kiếm tiền của ông ta, quá dễ dàng, mà chẳng phải trả một đồng thuế nào cho bãi đậu xe của thành phố.

Nhà hàng Givral ở ngay góc đường, mỗi lần tôi đi xuống phố đều nhìn vào thấy quá xa lạ với mình, mà mãi bốn, năm năm sau tôi mới có dịp vào ngồi uống cà phê như họ.

Hồi đó, mỗi buổi sáng vào khoảng tám giờ, một xe lambretta ba bánh của sở Thông Tin đến đậu trước Nhà hát Lớn, mở loa phóng thanh vang suốt khu phố những bản tin và những bài bình luận. Xen kẽ là ba bài nhạc mà tôi nhớ mãi. Bài “Hướng Về Hà Nội” của Hoàng Dương gợi lại bao nhiêu kỷ niệm vể thành phố mà mình vừa rời bỏ, bài “Ngày Trở Về” của Phạm Duy thấm cái nỗi buồn của người thương binh sau mười năm chiến tranh lê bước trở về làng xưa và bài “Về Miền Nam”, tôi nhớ là của Trọng Khương với biết bao hùng khí của cả triệu người theo gót người xưa Nam tiến đi làm lịch sử. 

Một hôm đang nằm nhìn ra ngoài qua khung kính vỡ, tôi chợt thấy một cậu bé lặng lẽ đến ngồi cạnh tôi và cùng nhìn xuống đường. Sau một hồi trò chuyện, tôi theo em lên thăm gia đình em ngụ trên lầu ba. Họ là những người trong các làng đạo từ vùng Thanh Hóa khi hiệp định đình chiến Genève được ký kết, họ tìm cách ra Hải Phòng để được di chuyển vào Nam. Cộng Sản đã cố ngăn cản bằng đủ mọi cách, mãi sau họ mới thoát được và nhờ chuyến tầu há mồm cuối cùng tới được bến bờ tự do. Bố của em là một ông giáo làng. Có nhiều ngày, tôi đạp xe chở em lang thang đi thăm khắp phố phường. Thỉnh thoảng, bố mẹ em mời tôi cùng ăn những bữa cơm di cư thanh đạm. Ít tháng sau, em cho tôi biết gia đình em và các người cùng làng sắp đi định cư ở một vùng xa. Tôi lên từ giã họ. Thấy con có vẻ quyến luyến tôi, bố em mời tôi cùng đi với họ. Nhân có dịp lễ Giáng Sinh, tôi nhận lời. Tối hôm sau, có xe đến đón và chở chúng tôi đến tập trung tại đình Phú Nhuận để sáng sớm sẽ khởi hành đến chỗ định cư.

Đoàn xe vận tải hơn chục chiếc nối đuôi nhau, xe nào cũng chở đầy dân di cư, thực phẩm và các dụng cụ phá rừng làm rẫy. Khi ra khỏi thành phố, tôi không định hướng được họ sẽ đi về đâu.Tôi cũng không muốn hỏi, tìm chỗ nằm dựa vào đống hành lý, nhìn núi rừng chạy lùi đằng sau. Xe chạy suốt ngày đến gần tối, dừng lại giữa đường lộ, hai bên là rừng, phía trước phía sau cũng chỉ thấy rừng. Mọi người khuân hành lý xuống xe, mệt mỏi đứng ngẩn ngơ, sau đó theo người hướng dẫn lội bộ đến một khu nhà sàn của người Thượng, mở lương khô ra ăn và tối đó ngủ trong căn nhà dài của họ.

Sáng sau, trong làn sương lạnh của núi rừng, tôi thức giấc đã thấy mọi người tụ tập ở bên ngoài. Một số đàn ông nai nịt sẵn sàng và mang theo dao rừng. Tôi bước ra nhập vào với họ và theo chân một vị linh mục dẫn đầu. Đoàn người băng qua đường, dẫm trên cỏ ướt. Những người đi trước vung dao, phạt lối làm quang đường để các người sau tiến lên.  Băng một quãng rừng, cả đoàn dừng lại bên một dòng suối. Tôi còn nhớ rõ hình ảnh lúc đó. Mọi người đứng yên lặng, có một cái gì rưng rưng thật là thiêng liêng của giây phút khởi đầu. Vị linh mục tìm một tảng đá cao bước lên đứng trước mọi người. Bên dưới, nước suối chẩy ào ào trắng xóa sau những tảng đá.

Họ bắt đầu đọc kinh, kinh “Kính Mừng” và kinh “Lạy Cha”. Tôi cũng cùng đọc với họ. Lời kinh của chúng tôi âm vang trong khu rừng nguyên thủy còn đọng sương sớm. Hai bài kinh này tôi đã thuộc lòng trong những năm đầu tản cư 1946 chạy giặc Pháp ở các làng đạo vùng trung du Bắc Việt.  Lúc đó tôi học trường đạo ở nhà thờ, ngủ chung với đám trẻ trong nhà mà gia đình tôi đang tạm trú. Sáng nào cũng bị đánh thức dậy từ sáng sớm cùng các người lớn đọc kinh, giọng còn ngái ngủ. Tối đến, tôi cũng cùng họ đọc kinh trước khi đi ngủ. Thành thử dù không phải là con chiên, tôi đã thuộc nằm lòng hai bài kinh nói trên từ thuở ấu thời. Sau đó là bài giảng của vị linh mục mà tôi còn nhớ một đoạn: “ÔngMoses lúc đi lánh nạn đem theo đoàn giáo dân đã tìm đến một dòng suối trong một khu rừng để định cư. Những ngày qua chúng ta cũng đã đi lánh nạn vượt qua hàng ngàn cây số và hôm nay đến được nơi đây, trong khu rừng này, bên cạnh dòng suối như xưa Moses đã đến. Chúng ta sẽ đốn cây làm nhà, phá rừng phá rẫy để trồng trọt như người xưa. Đây là miền đất hứa của chúng ta và của các con cháu chúng ta sau này…”.

Đêm Giáng Sinh, mọi người quây quần quanh ngọn lửa ngoài trời, cạnh đó là hình một cái hang được dựng lên một cách đơn sơ với hình ảnh chúa Hài Đồng nằm trong máng lừa. Trời lạnh, bóng tối mênh mông, giữa cái tĩnh lặng âm u của núi rừng, bụi lửa hồng theo gió cuốn lên cao. Hình như trên có một vị sao đang dổi ngôi, háo hiệu một tin mừng. Qua ngọn lửa đang rực cháy, tôi nhìn thấy những nét phong ba vẫn còn trên khuôn mặt của họ. Họ bắt đầu đọc kinh, vẫn những bài kinh muôn thuở, sau đó họ cất tiếng ca, không phải là bài thánh ca, cũng không phải là bài nhạc Giáng sinh mà là một bài ca tôi đã nghe nhiều lần trong các buổi lễ được tổ chức theo kiểu dã chiến mà một số nhỏ giáo dân tụ họp trong sân vận động đường Phan Đình Phùng, Saigon những ngày đầu chưa có nhà thờ. Tiếng ca cầu xin Đức Mẹ cứu giúp cho cả một dân tộc đang trong nỗi trầm luân: 

“Mẹ ơi đoái thương cho nước Việt nam
Trời u ám, chiến tranh điêu tàn

Mẹ hãy ra tay ban phước bình an

Để Việt Nam qua hết nguy nàn”.

Những năm đó hình như không có hay rất ít các bài thánh ca hay nhạc Giáng Sinh bằng tiếng Việt được hát. Năm Đệ Nhất trường Chu văn An tôi mới học được bài thánh ca đầu tiên do Linh mục Vị, giáo sư Anh ngữ dậy, cha dậy bản “Silent night” nhưng bằng Anh ngữ. Tôi cũng không rõ bài ca này được Nhạc sĩ Hùng Lân chuyển dịch sang tiếng Việt năm nào. Lời dịch phá cách quá tuyệt vời khác xa với nguyên bản và những lời ca tiếng Việt của các nhạc sĩ khác . Ngay từ hai câu đầu, “Silent night”, đêm yên lặng ba âm thành bốn âm “Đêm Thánh vô cùng”, vừa cảm thấu được cái thiêng liêng vừa thấy cả một sự cao rộng vô cùng tận. Ngay cả câu sau cũng thế, “Holy night” thành “Giây phút tưng bừng”.

Nhạc sĩ Hùng Lân là thầy dậy nhạc lớp tôi những năm đầu bậc trung học ở trường Chu văn An, Hà nội. Thầy đã làm những bản nhạc nổi tiếng đi vào lịch sử từ những năm 1945-46. Tôi có được một căn bản âm nhạc nhờ cách dậy và những bộ sách âm nhạc giáo khoa của thầy, nên hồi đó tôi có thể xử dụng được các nhạc cụ giản dị như Banjo, Mandoline và Hạ-uy-di khá nhuyễn.

*

Tôi ở lại với họ thêm ít ngày nữa, theo họ vào rừng phạt cỏ làm lối đi, đốn cây dựng những căn lều tạm cho tới khi có chuyến xe lên tiếp tế, tôi từ biệt họ trở lại Sài Gòn. Cậu bé tiễn tôi ra tận xe. Khi xe chạy xa tôi vẫn thấy em đứng lặng nhìn theo cho đến khi xe lái quặt khuất vào một quãng đường rừng.

Từ đó tôi không được tin của họ, tôi chỉ có thể đoán ra nơi họ định cư là trên quốc lộ đi Đà Lạt, chắc là vùng Blao.

Tôi trở lại chỗ cầu thang lầu ba của Nhà hát Lớn, xung quanh đã vắng lặng, nhiều gia đình đã đi dịnh cư ở các nơi khác. Tôi nằm một mình trên ghế bố mỗi khi đi học về, bâng khuâng nhìn xuống đường. Vẫn mấy người thợ chụp hình photostop kiên nhẫn đứng đưa những tấm hình mời khách, vẫn người giữ xe lăng xăng chạy từ xe nọ tới xe kia, vẫn những khách ngoại quốc ra vào quán cà phê Givral góc phố… Nghĩ đến những ngày vừa qua, nghĩ đến những người mình đã chia sẻ một phần lịch sử với họ, tự nhiên thấy lòng buồn vô hạn, nghĩ rằng chắc mình sẽ không bao giờ còn có dịp được gặp lại họ nữa.

Chẳng bao lâu, Nhà hát Lớn đóng cửa không nhận người tị nạn nữa.

Nguyễn Công Khanh