Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label VNCHNguyenXuanPhong. Show all posts
Showing posts with label VNCHNguyenXuanPhong. Show all posts

Tuesday, 2 May 2023

 Hy vọng & Thực tế Tan Hoang – 

Tác giả Nguyễn Xuân Phong 

(Dịch giả Phan Quân)

LGT: Từ năm 1965 đến 1975, ông Nguyễn Xuân Phong đã giữ nhiều chức vụ quan trọng trong chính phủ VNCH và biết nhiều bí mật dẫn đến việc mất Miền Nam. Trong thời gian hòa đàm Ba Lê về Việt Nam, từ địa vị thành viên phái đoàn lúc ban đầu, ông đã trở thành Trưởng Phái Đoàn vào giai đoạn cuối cùng, với chức vụ Quốc Vụ Khanh đặc trách hòa đàm trong chính phủ. Đặc biệt, ông cũng là nhân vật quan trọng trong Hội Nghị Thượng Đỉnh của nguyên thủ 7 quốc gia Châu Á Thái Bình Dương tại Manila vào 2 ngày 24 & 25 tháng 10, 1966, nhằm thẩm định về cuộc chiến ở Nam Việt Nam với sự tham dự của Tổng thống Phi Luật Tân, Ferdinand E. Marcos; Tổng thống Đại Hàn, Park Chung Hee; Tổng thống Hoa Kỳ, Lyndon B. Johnson; Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo VNCH, Nguyễn Văn Thiệu; Thủ tướng Úc Châu, Harold Holt; Thủ tướng Tân Tây Lan, Keith Holyoake; Thủ tướng Thái Lan, Thanom Kittikachorn; và Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương VNCH, Nguyễn Cao Kỳ. Tại Hội Nghị, ông là người Việt Nam duy nhất được trực tiếp nghe trưởng phái đoàn Nam Hàn cho biết: Tổng thống Nam Hàn đã cảnh giác, [qua kinh nghiệm cuộc chiến tranh Cao Ly] nếu như hòa đàm [với VC] có xảy ra, chính phủ Sài Gòn sẽ thấy Mỹ thương thuyết thẳng với phía bên kia [VC], còn Sài Gòn chẳng nói năng gì được trong khi thương thuyết, và cuối cùng sẽ phải chấp nhận và tuân hành những gì Mỹ và VC ký kết. Quả nhiên, 6 năm sau, lời tiên đoán này đã trở thành sự thật tại Hội Nghị Ba Lê, dẫn đến bản Hiệp Định đầy phi lý, khi Mỹ toa rập với VC cho phép quân đội xâm lăng VC được tiếp tục hiện diện trên lãnh thổ VNCH, dẫn đến thảm kịch 30-4-75. Sau đây, Sàigòn Times trân trọng giới thiệu tiếp những sự thật ông tiết lộ trong tác phẩm  "Hope and Vanquished Reality", được ông viết theo yêu cầu của "The Center for A Science of Hope" ở New York.

*

(Tiếp theo số 649...)

Sau khi Sài Gòn sụp đổ hồi tháng Tư 1975, Hà Nội và MTGP chẳng phải chờ đợi gì lâu để biểu lộ ý muốn nhất trí của họ qua việc thống nhất hai miền Nam Bắc hồi tháng Bảy 1976 dưới quyền cai trị của chế độ cộng sản Hà Nội, sản sinh ra cái gọi là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Tại hội đàm Ba Lê hồi đầu những năm 1970, Kissinger đã nhanh chóng nhận thấy rằng ông Thiệu và ông chẳng khi nào đồng ý được với nhau.
Kissinger cố gắng hết sức mình để thông báo cho ông Thiệu những diễn tiến của các cuộc mật đàm với Lê Đức Thọ, nhưng ông sẽ không có chút hy vọng nào thành công với Hà Nội nếu như ông cho Sài Gòn biết hết mọi chi tiết éo le. Dĩ nhiên là muốn có cùng ý kiến như nhau thì ông Thiệu phải suy nghĩ như Kissinger chứ không phải Kissinger phải theo ý kiến của Thiệu. Dù sao đi nữa, làm cho ông Thiệu vui lòng là nhiệm vụ của Nixon chứ không phải của Kissinger.
Lần duy nhất Sài Gòn được trực tiếp nhúng tay vào việc soạn thảo Hiệp Định Ba Lê là vào những vòng hội đàm sau rốt hồi giữa tháng Giêng 1973. Vì những lý do mà chỉ có một mình ông hiểu, Kissinger cho ông Lâm và tôi biết một vài điều khoản của cuộc thương thuyết. Đó chỉ là một vài điều khoản tế nhị còn lại cần được soạn thảo, trong số đó có Điều 8c, liên hệ đến việc phóng thích tù chính trị thường dân bị giam giữ ở Nam Việt Nam, và Điều 15, liên hệ đến khu phi quân sự, đến việc có thể thống nhất và những mối liên hệ giữa Nam và Bắc Việt Nam. Vì những vấn đề này liên hệ đến Sài Gòn và rõ ràng là không dính líu gì đến Hoa Thịnh Đốn nên ông Lâm và tôi được mời họp với phái đoàn Hoa Kỳ và được yêu cầu phác thảo những điều khoản liên hệ, sau khi đã được trình bày tóm tắt về những phiên thảo luận gay go liên quan đến các điều khoản này giữa Kissinger và Thọ.
Trên xe trở về văn phòng, ông Lâm giao công việc này cho tôi vì tôi có mặt trong phiên họp, có bàn chuyện đầy đủ về những vấn đề liên hệ và khả năng Anh ngữ của tôi cũng đủ sức để hoàn thành công tác mà không cần đến thông dịch viên. Công việc đó cần phải làm trong vòng bí mật tối đa. Khoảng hai tiếng đồng hồ là tôi thảo xong hai bản Anh văn lẫn Việt văn. Tôi liền trao bản thảo cho ông Lâm vì Kissinger đang nôn nóng chờ, khi mà đương sự có chương trình họp lại với Thọ vào buổi tối. Tôi đề nghị ông Lâm nên báo cho Sài Gòn biết vấn đề nhưng ông trả lời ngay là làm vậy chỉ gây ra phiền phức và mất thì giờ. Ông Lâm dựa vào yếu tố rất ít thời giờ để có cớ không liên lạc với Sài Gòn. Kissinger và Thọ chấp nhận phác thảo của tôi về các Điều 8c và 15, không thay đổi dù là cái dấu hai chấm tôi đã sử dụng. Ít ra Sài Gòn cũng được điều đó. Còn tốt hơn là chẳng có gì.
Trong phiên họp kế tiếp cùng với phái đoàn chúng tôi, Kissinger vui đùa than phiền rằng tôi đã tiết lộ tin liên quan đến khu phi quân sự cho người bạn cố cựu của tôi là Joseph Kingsbury Smith, phó chủ tịch tập đoàn báo chí Hearst Group. Báo chí biết rõ rằng Kissinger và Thọ đã đến giai đoạn cuối cùng của cuộc thương thuyết và chỉ còn phải giải quyết một vài vấn đề tế nhị nữa mà thôi. Các ký giả biết thỏa hiệp sắp được thành hình nên tất cả đều muốn có tin đặc biệt và sốt dẻo. Họ rất chú tâm đến câu chuyện liên quan đến khu phi quân sự. Liệu một khu như thế có cấm ngặt được những sự di chuyển của lực lượng Bắc Việt không hay lại dễ bị xâm nhập" Chuyện đó Kissinger và Thọ không quan tâm gì mấy, nhưng trên lý thuyết, vấn đề rất quan trọng đối với nền an ninh của chính phủ Sài Gòn. Đáp lại câu hỏi của các phóng viên, kể cả Kingsbury Smith, tôi nói rằng không ai muốn có một khu phi quân sự dễ dàng bị xâm nhập. Dĩ nhiên, cái thứ khu quỷ quái đó đã bị xâm nhập hai mươi năm qua và dù dễ bị xâm nhập hay không thì lực lượng của Hà Nội cũng chỉ cần không đầy một tiếng đồng hồ là có thể triển khai được một vài sư đoàn chính quy Bắc Việt qua ngang giới tuyến như họ đã từng làm nhiều lần từ bao năm nay. Lẽ đương nhiên là, theo quan điểm chính thức của Bắc Việt, họ không khi nào danh chính ngôn thuận xác nhận đưa quân đội của họ vào Nam mà đó chỉ là những người Việt Nam anh em vào Nam để giúp đỡ bạn bè đồng hương. Thông thường thì vấn đề rất phức tạp, không phải như các nhà báo nhận thấy, nhưng lúc bấy giờ họ thích nghe câu chuyện đó.
Hoa Thịnh Đốn và Hà Nội, Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh đã thỏa thuận với nhau là sự hiện diện của quân lính Bắc Việt ở Nam Việt Nam sẽ không được đề cập đến. Họ sẽ ở lại Nam Việt Nam, thế thôi. Phải mất nhiều thời gian, nếu không muốn nói là ngớ ngẩn, mới nhận ra và phân biệt được một người Bắc với một người Nam qua dung nhan người Việt của họ. Tại một trong những phiên mật đàm, ông bộ trưởng Xuân Thủy của Hà Nội đề nghị với Kissinger nên họp riêng với một người Nam Việt Nam đích thực và chính cống là Bà Bình. Bộ trưởng Xuân Thủy, cũng là một thi sĩ Bắc Việt nổi tiếng, quả quyết rằng "ngài tiến sĩ" sẽ thấy người phụ nữ kia rất khả ái. Kissinger từ chối một cách lịch sự, nói rằng ông sợ Bà ta khiếp vía kinh hồn. Khi Xuân Thủy bảo đảm Kissinger là Bà Bình sẽ "rất mềm dịu" với ông thì ông tiến sĩ đáp rằng, theo quan điểm nghề nghiệp thì Bà ta "rất khó nhá". Nếu tôi không lầm thì mưu toan môi giới đó xảy ra vào mùa xuân thơ mộng của Ba Lê năm 1971.


Một lần nữa, ông Lâm và tôi lại có dịp vui đùa bàn ra tán vào về tình tiết câu chuyện. Vì Kissinger nổi tiếng là con người quyến rủ nên câu chuyện vui thú của chúng tôi càng thêm phần hấp dẫn. Nhưng nói cho đúng ra thì ông cựu giáo sư trường Harvard đã từng sống qua bao nhiêu ngày tươi đẹp trong cuộc đời lý thú thì Bà Bình đâu có thể là niềm hứng thú của ông, về chính trị hay vì lý do nào khác. Không khi nào ông tỏ vẻ gì ve vãn Bà Bình về chính trị.

Một thành phố tan hàng

Rời nhiệm sở Trưởng Đoàn Hòa Đàm Ba Lê của Việt Nam Cộng Hòa, tôi trở về Sài Gòn năm ngày trước khi chiến xa Bắc Việt đụng sập cánh cổng dinh tổng thống Nam Việt Nam, ngày 30 tháng 4 năm 1975. Biến cố trọng đại đó đã làm cho hàng chục triệu người Việt Nam - miền Nam cũng như miền Bắc và ở những nơi khác trên thế giới - thất vọng. Mấy tháng trước đó, tôi ngấm ngầm băn khoăn và lo sợ thì nay tôi thật sự khổ tâm và tuyệt vọng khi thấy bộ đội VC bắt đầu đi đây đi đó trên những con đường của thành phố quê tôi, từ nay được gọi là thành phố Hồ Chí Minh. Quả thật trời đất đã đảo lộn!
Sau khi rời phi cơ ở sân bay Tân Sơn Nhứt, tôi chán nản vô cùng khi nhìn thấy cảnh tượng đau lòng của hàng ngàn người tụ tập trong phi cảng và hàng loạt người nối đuôi trên đường để tìm cách bay ra khỏi xứ. Đoàn xe đưa tôi đến dinh tổng thống phải luồn lách qua những đoàn người đó. Những người cận vệ quen thuộc đón chào tôi chẳng mấy gì vui vẻ và chúng tôi hoàn toàn im lặng trong mười lăm phút trên đường vào thành phố. Đường phố Sài Gòn im ắng một cách khác thường, như tiềm tàng một dấu hiệu dự báo kinh hoàng và một bầu không khí ngột ngạt.
Vào khoảng sáu giờ chiều, khi tới dinh tổng thống, người đầu tiên mà tôi gặp là ông Đại Sứ Hoa Kỳ Graham Martin. Ông vừa họp xong với Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Trần Văn Hương, người vừa nhận chức được một tuần lễ, và cũng là người mà tôi sẽ diện kiến. Tôi đã gặp sơ qua ông Đại Sứ khi ông ghé qua Ba Lê, trên đường trở lại Sài Gòn vài ba tuần trước đó, sau khi đã xin Quốc Hội Hoa Kỳ chi viện cho chính phủ Nam Việt Nam một lần nữa mà không thành công. Sau những lời chào hỏi xã giao ngắn gọn, chúng tôi đồng ý ngay là tình hình quân sự đã hoàn toàn nguy ngập. Tôi hỏi: "Thưa ông Đại Sứ, có cách nào để tránh được một 'trận chiến Sài Gòn' không""
Bất cứ người nào khác hay là cá nhân tôi cũng không cần phải chịu đựng hậu quả của một trận đánh như vậy. Cả hai chúng tôi đều thấy rất rõ hậu quả sẽ như thế nào, tàn phá sẽ ra sao và máu sẽ đổ biết bao nhiêu nếu như có đánh nhau trên đường phố Sài Gòn. Ông Đại Sứ cũng hiểu rằng mối quan tâm cấp thiết nhứt của tôi là sự an toàn của những người thường dân vô tội.
Tôi thấy ông Đại Sứ lúng túng không biết phải trả lời ra sao, dợm mở miệng nói mấy lần nhưng không phát ra tiếng. Bằng một cử chỉ đầy tuyệt vọng, ông vẫy tay về hướng có tiếng nổ của súng cối và hỏa tiễn bên ngoài thành phố. Thế rồi ông trấn tỉnh lại, vừa bắt tay từ giả, vừa nói một cách chẫm rải và trịnh trọng: "Tổng Thống Hương phải hành động thật nhanh chóng."
Sau câu nói bí ẩn đó, chúng tôi chia tay nhau. Cung cách của ông Đại Sứ để lựa lời nói và cái vẫy tay của ông đã cho tôi cảm thấy sự bất lực - của ông cũng như của chính phủ Hoa Kỳ - còn hùng hồn hơn bất cứ lời nói nào. Tuy nhiên, việc ông bỏ lửng câu chuyện để bước đi cũng cho tôi hiểu câu nói “phải hành động thật nhanh chóng” của ông hàm ý ra sao rồi.
Vài phút sau, khi gặp Bộ Trưởng Quốc Phòng, Tướng Trần Văn Đôn, và Tham Mưu Trưởng Liên Quân, Tướng Cao Văn Viên, đang đứng ở hành lang, tôi cũng hỏi như vậy. Sau mười năm làm việc chung với nhau trong chính phủ Sài Gòn, chúng tôi là bạn bè thân thiết nên có thể nói chuyện với nhau thẳng thắng và thật tình. Hầu hết những người ở Sài Gòn, Hoa Thạnh Đốn và Ba Lê đều cho rằng hai tướng Đôn và Viên là hai người đặc biệt trong guồng máy quân sự Sài Gòn. Không những chỉ riêng biệt về tư cách sĩ quan mà còn trên bình diện của những người đáng kính, về mặt tính tình ôn hòa, liêm chính, lương thiện và về phẩm chất cá nhân trong môi trường đầy dẫy tham nhũng của địa phương.
Với hai ông này, vì không cần phải giữ ý giữ tứ như với Đại Sứ Martin nên tôi hỏi dồn dập: "Chuyện gì đã xảy ra ở bên này vậy hai anh" Tại sao mấy anh để tình hình tồi tệ nhanh chóng như thế" Tại sao mấy anh lại có thể để cho Tổng Thống Thiệu làm như vậy được" Quân Mỹ ở chiến trường chẳng lẽ tồi tệ đến thế sao" Còn Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thì sao""... Chỉ có Tướng Viên trả lời: "Quân sĩ đã cố gắng tối đa." Còn Tướng Đôn thì chỉ nhìn ra bóng đêm đang ập tới, bao phủ Sài Gòn, khi mặt trời đã lặn, như chừng chờ mong một phép lạ nào hiện ra ở vườn hoa trong dinh Độc Lập, trong khi tôi dồn dập đưa ra những câu hỏi khó trả lời.
Thế thì, chẳng còn hy vọng gì được bao nhiêu trên bất cứ phương diện nào, ở ông Đại Sứ Hoa Kỳ hay ở các tướng lãnh của chúng tôi. Trước đó, có lẽ cả ba người này đã hy vọng ở một cái gì đó nên họ đã đến gặp và thúc hối vị Tổng Thống Hương già nua, đáng thương, gấp rút trao quyền hành tổng thống cho ông tướng 59 tuổi đời Dương Văn Minh, người mà thể xác to lớn nên mang biệt danh là “Minh Lớn”.
Thế nhưng, vào thời điểm nguy kịch đó, phải chăng tôi đang hy vọng một điều gì cho chính mình nên mới hỏi như vậy" Phải chăng tôi thật sự nghĩ rằng ông đại sứ Hoa Kỳ hay các tướng lãnh của chúng tôi có thể làm cho bất cứ những ai ở Sài Gòn đều may ra còn hy vọng được một chút gì đó vào giờ phút cuối cùng này" Cho đến hôm nay cũng khó mà nói ra một cách chính xác. Tối hôm đó, ở dinh tổng thống Nam Việt Nam, tôi lo âu nhứt không phải cho sự tồn tại của chính thể Sài Gòn mà cho dân chúng Sài Gòn, trong đó có cha mẹ già và bà con của tôi, làm thế nào khỏi bị chết chóc và giết hại qua một “trận chiến Sài Gòn” ghê gớm nhứt.
[...] Trái với cuộc đối thoại đượm màu sắc vô phương cứu chữa và tuyệt vọng giữa ông đại sứ Hoa Kỳ với tôi, tại hành lang dinh tổng thống vào buổi chiều tai hại đó, thì tôi lại có một cuộc hội kiến vô cùng cảm động và thấm thía với vị Tổng Thống Trần Văn Hương của chúng tôi, một ông tổng thống già nua, bệnh hoạn và gần như khuyết thị. Rõ ràng là ông đang cố gắng cứu vãn vài ba giây phút cuối cùng cho nghi thức và phẩm giá của một chức vụ mà ông không mưu cầu cũng chẳng mong muốn, dù ông chỉ đảm trách có một tuần lễ ngắn ngủi.
Từ chức vụ phó tổng thống của Việt Nam Cộng Hòa, ông được đưa lên ghế tổng thống khi ông Thiệu từ chức một cách giản dị đơn sơ, chín ngày trước khi Sài Gòn sụp đổ. Nhiều người lấy làm ngạc nhiên khi thấy ông Thiệu từ chức, để cho ông phó già nua, yếu đuối của mình phải gánh lấy một tình hình hỗn loạn. Nếu như không có nguy cơ phải bỏ ngỏ Nam Việt Nam cho lực lượng vũ trang Bắc Việt, đang lăm le tiến vào Sài Gòn, thì ông Trần Văn Hương may ra sẽ là con người xứng hợp ở thời điểm và vị trí đó trong lịch sử của nhân dân Việt Nam.
Thật là khó hiểu cho một con người như ông lại phải đóng một vai trò nhục nhã dường ấy.  (Còn tiếp...)

KHÓ BIẾT ĐÂY LÀ THẬT HAY GIẢ ... NHƯNG CŨNG HỒI HỘP VÀI PHÚT NHƯ ĐÃ CÓ THẬT ...?./-Mt68

__________________

Chuyện Ít Người Biết! Bí Mật Lịch Sử Tháng 4 Năm 1975: Trung Quốc Định Tung Lính Dù Nhảy Xuống Biên Hòa Chặn Bắc Việt?

*
hiopooiopoi0i0.jpg
 (Hình: Tổng thống Richard Nixon thăm Trung Quốc năm 1972.)
-Việc Trung Quốc tìm cách can thiệp chính trị vào Miền Nam Việt Nam ở giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh Việt Nam là điều không mới, nhưng một kế hoạch can thiệp ở cấp độ “quân sự”, với việc tung vào hai sư đoàn Nhảy dù để đánh chặn Quân đội Bắc Việt tiến vào Sài Gòn, lại là điều ít người biết đến.
Bí mật lịch sử này lần đầu được Tiến sĩ sử học George Jay Veith tiết lộ trong phần “Tay chơi cuối cùng: Trung Quốc” (“The final actor: China”,) thuộc chương 24, “Ta sẽ tuốt gươm” (“I will draw out my sword”,) trong sách “Tuốt kiếm Viễn chinh” (Drawn Swords in a Distant Land) xuất bản năm 2021. Cuốn sách “Tuốt kiếm Viễn chinh” được Tiến sĩ Jay Veith phát triển từ luận án Tiến sĩ sử học ông bảo vệ tại Monash University, Úc Ðại Lợi. Nhân dịp 30/4, RFA phỏng vấn Tiến sĩ Jay Veith về bí mật lịch sử này.
RFA: Trong sách “Tuốt kiếm Viễn chinh” (Drawn Swords in a Distant Land), ông đã trình bày những tư liệu lịch sử chưa từng được ai công bố trước đây, thu thập được từ cuộc phỏng vấn với nhân chứng Nguyễn Xuân Phong. Xin ông cho biết tại sao lời kể của nhân chứng này lại quan trọng? Tại sao trước đây, ông Phong chưa từng công bố điều này?
George Jay Veith: Nhiều nhân chứng và nhà nghiên cứu đã nói về những can thiệp chính trị của của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào Miền Nam Việt Nam ở giai đoạn cuối của cuộc chiến. Nhưng trong các cuộc phỏng vấn của tôi với ông Nguyễn Xuân Phong, bao gồm phỏng vấn trực tiếp và phỏng vấn qua email, ông ấy đã cung cấp cho tôi một kế hoạch can thiệp ở cấp độ quân sự của Trung Quốc vào Nam Việt Nam ở giai đoạn cuối của cuộc chiến.
Có lẽ đây là lần đầu tiên điều này được tiết lộ bởi một nhân chứng lịch sử có thẩm quyền. Ông Nguyễn Xuân Phong là một nhân chứng lịch sử. Ông ấy là Quốc vụ khanh, Phó phái đoàn hòa đàm Việt Nam Cộng Hòa tại Paris từ 1968 đến 1975. Ông ấy xác nhận với tôi việc Trung Quốc liên lạc với ông để xây dựng một kế hoạch can thiệp trực tiếp bằng quân sự để ngăn cản Việt Nam thống nhất.
Ban đầu, ông Phong miễn cưỡng kể cho tôi các câu chuyện lịch sử mà mình là nhân chứng. Nhưng sau khi tôi tiếp tục gửi cho ông những tài liệu vừa được giải mật trong khoảng thời gian đó, cuối cùng ông ấy đã đồng ý kể cho tôi câu chuyện.
Sau 1975, ông ấy bị đi tù. Những người Cộng sản Việt Nam không phải là không biết gì về kế hoạch can thiệp của Trung Quốc. Họ tra vấn ông ấy về quan hệ giữa Việt Nam Cộng Hòa và Trung Quốc. Nhưng ông không trả lời, và sau này cũng không nói gì về điều đó, vì muốn bảo vệ những nguồn tin và nhân chứng liên quan. Ông ấy không bị tra tấn, nhưng họ từng đánh ông trọng thương một lần vì ông chỉ nói ngắn gọn là không biết gì về điều đó.
hioopopooop.jpg
(Ảnh AP: Ông Nguyễn Xuân Phong tại hòa đàm Paris.)
RFA: Ông Nguyễn Xuân Phong kể cho ông nghe về những sự kiện và hoạt động nào vào cuối cuộc chiến? Những hoạt động nào trong số này có liên quan đến sự can thiệp của Trung Quốc vào Miền Nam Việt Nam?
George Jay Veith: Ông Nguyễn Xuân Phong cho biết vào những ngày cuối của cuộc chiến, cả phía Bắc Việt và Trung Quốc đã liên lạc với ông.
Phía Bắc Việt bắn tin cho ông, cho đại diện của Pháp (tướng Paul Vanuxem,) và một số nhân vật khác, rằng nếu ông Dương Văn Minh không được đưa lên nắm quyền trước ngày 26/4/1975, họ sẽ san bằng Sài Gòn bằng hai mươi ngàn viên đạn pháo.
Còn phía Trung Quốc cũng cho người đến gặp ông để đưa ra một kế hoạch can thiệp quân sự nhằm ngăn chặn Bắc Việt chiếm Miền Nam Việt Nam. Mục đích của Trung Quốc là ngăn chặn một Việt Nam thống nhất.
Kế hoạch của Trung Quốc, theo lời kể của ông Phong, là trước hết xây dựng một liên minh giữa chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam. Sau khi có liên minh này, Tổng thống Dương Văn Minh sẽ đưa ra lời thỉnh cầu quốc tế giúp đỡ. Nhân cơ hội đó, Pháp sẽ hồi đáp bằng cách đưa vào Miền Nam Việt Nam một “lực lượng quốc tế” với danh nghĩa bảo vệ chính phủ mới, nhưng trong cái gọi là “lực lượng quốc tế” này sẽ có “hai Sư đoàn lính Dù của Trung Cộng”. Hai sư đoàn Dù này sẽ được thả xuống Biên Hòa.
Sau khi nhận tin từ phía Bắc Việt, ông Phong đã trở về Sài Gòn gặp Tổng thống Trần Văn Hương, người kế nhiệm sau khi ông Nguyễn Văn Thiệu từ chức ngày 21/4/1975, để cố gắng ngăn chặn một cuộc chiến có khả năng diễn ra ngay tại Sài Gòn.
Sau đó, ông Phong gặp ông Trần Văn Đôn (lúc đó là Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng,) ông Trần Ngọc Liễng (đại diện của ông Dương Văn Minh, và là một tình báo của phía Bắc Việt, sau 1975 là Ủy viên Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam), và một đại diện của Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam để bàn về giải pháp xây dựng một chính phủ liên hiệp giữa Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam.
Ông Phong cho biết trong cuộc gặp này, ông đã nói rằng Pháp và một số nước khác sẽ hỗ trợ chính phủ mới. Nhưng ông không nói ra thông điệp mà Trung Quốc muốn ông chuyển đến Sài Gòn.
Về kế hoạch của Bắc Kinh, ông Phong giải thích trong lần tôi phỏng vấn ông năm 2006 và 2008 rằng Bắc Kinh cho ông biết họ cần bốn ngày để điều quân và đưa quân đến căn cứ Không quân. Theo ông, tính toán của Bắc Kinh là họ không muốn trực tiếp ra mặt, không muốn tạo ra hình ảnh mình là bên ngang nhiên mang quân vào Miền Nam Việt Nam. Trung Quốc muốn tạo ra một vở kịch trong đó người Pháp mới là diễn viên chính can dự vào đó. Pháp sẽ kêu gọi một quốc gia tham gia “lực lượng quốc tế” do mình đứng đầu để “giúp đỡ” chính phủ liên hiệp giữa Việt Nam Cộng Hòa và Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam còn Trung Quốc sẽ tham gia vào. Trung Quốc nói rằng họ cần đưa quân vào để ngăn chặn đà tiến công của quân đội Bắc Việt nhưng cũng không thể đóng quân lại Miền Nam quá lâu, vì họ không muốn bị buộc tội là có âm mưu chiếm đóng.
Ông Nguyễn Xuân Phong cho tôi biết là Trung Quốc, mà cụ thể là phái viên của Chu Ân Lai, lần đầu tiếp xúc với ông vào tháng 12 năm 1970.
Theo tôi, kế hoạch can thiệp quân sự của Trung Quốc mà ông Nguyễn Xuân Phong tiết lộ trước khi qua đời năm 2017 là một trong những bí ẩn. Bí ẩn này sẽ được làm sáng tỏ hơn nữa nếu các nhà nghiên cứu tiếp cận được những tư liệu lịch sử chính thức mà các chính phủ liên quan công bố.
hhiohiiiooo.jpg
(Ảnh:Lực lượng Nhảy dù của PLA trong lễ kỷ niệm 10 năm chiến thắng 1949-1959. Lực lượng này được Đặng Tiểu Bình và Lưu Bách Thành thành lập năm 1947.)
RFA: Làm thế nào để kiểm tra tính chính xác của những câu chuyện ông Nguyễn Xuân Phong kể lại?
George Jay Veith: Hiện tôi chưa có nhiều tư liệu chính thức của các bên để xác minh thêm những gì ông Phong nói với tôi. Nhưng có nhiều người đã kể những câu chuyện liên quan về việc Trung Quốc cố gắng thuyết phục Tướng Dương Văn Minh trong những ngày cuối cùng là hãy yêu cầu sự giúp đỡ của Trung Quốc để cứu Miền Nam Việt Nam. Tôi tin rằng điều đó đã xảy ra. Tuy nhiên, ý định thực sự của Trung Quốc là gì vẫn còn là một bí ẩn. Có vẻ như Hà Nội cũng đã tin rằng Trung Quốc có một kế hoạch như vậy. Họ đã tra khảo ông Phong về điều đó.
RFA: Trong sách “Tuốt kiếm viễn chinh”, ông có nói Trung Quốc còn tiếp xúc với cả ông Nguyễn Cao Kỳ và tìm cách tiếp xúc với ông Nguyễn Văn Thiệu nữa?
George Jay Veith: Không rõ chính xác thời điểm Trung Quốc tiếp cận ông Nguyễn Cao Kỳ vì ông ấy không nói cụ thể lắm. Đại khái vào tháng 9 năm 1975, ông Nguyễn Cao Kỳ trả lời phỏng vấn William Buckley trên tờ Firing Line, kể rằng Trung Quốc đã cử đặc vụ đến tận nhà ông tại Sài Gòn vào khoảng cuối năm 1972. Họ đề nghị ông ấy đảo chính ông Thiệu rồi “tuyên bố Miền Nam Việt Nam trung lập, không thân Mỹ cũng không thân Nga”.
Theo ông Kỳ kể lại, Trung Quốc “không muốn bị hở sườn phía Nam, vì bị Bắc Việt, một vệ tinh của Nga trấn giữ”. Rồi đến tháng 12 năm 1975, ông Kỳ cũng kể lại lần nữa chuyện này trong một bài phát biểu ở Mỹ, được tường thuật trên tờ Baltimore Sun, ngày 6 tháng 12 năm 1975. Nhưng tôi không hiểu tại sao ông Kỳ không nhắc đến vụ này trong sách của ông.
Ngoài tìm cách tiếp xúc với ông Kỳ, Trung Cộng còn tìm cách tiếp xúc với ông Nguyễn Văn Thiệu. Sau khi đánh chiếm Hoàng Sa vào tháng 1 năm 1974, họ trao trả tù binh Việt Nam Cộng Hòa qua ngả Hồng Kông và gửi thông điệp qua Tổng Lãnh sự Việt Nam Cộng Hòa ở Hồng Kông tới Tổng thống Thiệu, yêu cầu thu xếp một cuộc hội đàm bí mật. Năm 2007, tôi phỏng vấn ông Jim Eckes, một bạn thân của ông Nguyễn Xuân Phong và là Giám đốc một hãng hàng không ở Sài Gòn lúc đó. Gia đình ông Jim sống ở Hồng Kông và ông ấy đi lại giữa Hồng Kông và Sài Gòn thường xuyên. Do đó, Tổng Lãnh sự Việt Nam Cộng Hòa ở Hồng Kông nhờ Jim chuyển thông điệp của Trung Quốc về cho ông Thiệu. Ông Jim Eckes kể tôi nghe là ông lại chuyển thông điệp cho Graham Martin, Đại sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam Cộng Hòa, và thông điệp “nằm chết” tại đó.
RFA: Tại sao Trung Quốc hỗ trợ Bắc Việt trong suốt cuộc chiến nhưng không muốn Bắc Việt chiến thắng? Các nhà nghiên cứu trước đây đã nói gì về điều này?
George Jay Veith: Trung Quốc muốn Việt Nam bị chia nhỏ ra. Họ muốn Bắc Việt không quá mạnh, vì lúc đó họ nhìn thấy Việt Nam và Liên Xô có thể sẽ ký một Hiệp ước liên minh.
Kosal Path, Phó Giáo sư sử học tại Trường Đại học Brooklyn (Brooklyn College), nhận định rằng “giới nghiên cứu chia sẻ một nhận định chung là các nhà lãnh đạo Trung Quốc vào năm 1973 đã càng ngày càng lo ngại việc Hà Nội nghiêng về phía Mạc Tư Khoa”.
Lo lắng này của Trung Quốc hình thành trong bối cảnh cuộc cạnh tranh giữa hai cường quốc Trung Quốc và Liên Xô trong khối Cộng sản trở nên khốc liệt từ thập niên 1960s. Hai cường quốc Cộng sản này đã giao tranh dọc biên giới vào tháng 3 năm 1969. Đến tháng 5 năm đó, Ấn Độ và Bắc Hàn đã đồng ý tham gia liên minh với Liên Xô chống Bắc Kinh. Trung Quốc lo ngại họ sẽ nguy hiểm về an ninh nếu có thêm Bắc Việt Nam ở phía Nam của họ tham gia liên minh này. Do đó, việc Bắc Việt Nam lấy thêm được Nam Việt Nam sẽ đi ngược lại lợi ích của họ.
Nhà báo Nayan Chanda trong cuốn sách “Người anh em thù địch” (Brother Enemy: The War After the War,) xuất bản năm 1986 cũng viết rằng Bắc Kinh đã “thực thi một cách nhất quán chính sách duy trì tình trạng chia cắt của Đông Dương bằng mọi giá. Họ cũng ngăn chặn các cường quốc khác hiện diện. Để làm điều này, họ thực thi thủ thuật “ngoại giao thầm lặng”, cố gắng gây ảnh hưởng kinh tế, và tất nhiên, không loại trừ sức mạnh quân sự”.
Khi tiếp xúc với Đặc phái viên của Tổng thống Hoa Kỳ Alexander Haig để tiền trạm cho chuyến thăm tới Trung Quốc của Tổng thống Nixon tháng 2 năm 1972, Chu Ân Lai đã làm cho Haig sửng sốt khi khẳng định rằng: “Các ông đừng thua ở Việt Nam”, và rằng Trung Quốc “xem việc Hoa Kỳ thất bại và rút quân khỏi Đông Nam Á là nguy hiểm đối với Trung Quốc”.
RFA: Xin cảm ơn Tiến sĩ George Jay Veith đã dành cho độc giả của chúng tôi cuộc phỏng vấn này./-