CÁM ƠN HUYNH TRƯỞNG TỪ NAM CALI ĐÃ CHUYỂN BÀI VIẾT HÃY CÒN CHƯA NGUỘI LẠNH./-Mt68
_________________
‘Nguyễn Văn Ngân,
một Mẫu Người Công Chính vừa từ giã chúng ta.
Trần Phong Vũ
Buổi trưa Thứ Năm, ngày 2-11-2023, tôi được tin anh5 Nguyễn Văn Ngân đã vĩnh viễn
ra đi chiều hôm trước, ngày 1-11-23 đúng vào dịp Lễ Các Thánh của người Công giáo.
Trong nỗi bàng hoàng, xúc động, tôi tự hỏi: sự sống và nỗi chết tại sao lại cận kề, gắn
bó, đan xen với nhau chặt chẽ đến thế?
Mới vài ngày trước còn nghe anh Nguyễn Đắc Điều, người bạn thân của anh cho hay,
anh tỏ ý muốn đọc cuốn “Còn Ai Giữa Mênh Mông Đời Mình” của bà Phạm Minh Tâm (Úc
châu) vừa được một số anh em chúng tôi giới thiệu ở Tiểu Sài Gòn hôm Chúa nhật 22-10-2023.
Thế mà thoắt chốc, hôm nay anh đã ra người thiên cổ!
Ký ức trong tôi bừng bừng trỗi dậy. Nó cuốn hút, lôi kéo tôi trở về với quá khứ năm
2006, chẵn 17 năm trước. Đấy là những tháng ngày lái xe từ Laguna Niguel, một thành phố cực
nam quận Cam lên thị trấn Norwark, vùng Biển dài, nơi anh ngày ngày phụ chị điều hành một
tiệm giặt, sau khi từ Texas dọn về miền nắng ấm California mấy năm trước đó.
Đây là thời gian tôi vinh dự được anh Ngân dành cho một cuộc phỏng vấn đặc biệt về
những trải nghiệm của anh trong suốt thời gian đảm nhiệm vai trò Phụ Tá Chính Trị Đặc Biệt
tại Phủ Tông Thống thời Đệ Nhị Cộng Hòa Việt Nam sau biến cố tháng 11 năm 1963.
Trước khi khởi sự, chúng tôi mặc nhiên dành thời gian đầu để biết chút đỉnh về quá khứ
của nhau, dù rằng anh Mặc Giao Phạm Hữu Giáo, người bạn chung của chúng tôi đã cho biết
sơ qua, trước khi MG trở thành trung gian kết nối giữa anh Ngân và tôi.
Trong hơn 4 tháng trời cặm cụi làm việc bên người bạn mới quen, ngày qua ngày tôi
phát hiện nơi anh nhiều đức tính cao quí. Kín đáo, cẩn trọng, trung thực, nhất là thái độ
khiêm cung, hòa nhã khi xử kỷ tiếp vật.
Cụ thể là trong khi thâu âm và ghi chú phần trả lời, đôi lần gặp một lời phát biểu mà tôi
thấy có phần hơi quá đối với một nhân vật nào đó trong chính trường VN trước 75, tôi ngừng
lại nghiêm trang hỏi anh có cần xét lại đoạn vừa phát biểu không, anh đều điềm đạm trả lời.
-Đối với tôi, cho dù khen bất cứ ai tôi cũng phải hết sức thận trọng, nói chi chuyện phê
phán về hành vi sai trái của một nhân vật dù còn sống hay đã quá cố, làm sao tôi có thể nói
khác được. Xin anh cứ ghi nguyên văn như thế.
Nội dung cuộc phỏng vấn đã được độc quyền giới thiệu với độc giả trên trang mạng
ĐCV Online do nhóm anh Lã Mạnh Hùng điều hành và trên nhật báo Người Việt ở Quận Cam
thời cố ký giả Vũ Ánh làm Chủ bút.
Về báo Người Việt tôi không rõ, nhưng trên ĐCV Online, sau bốn kỳ trong 4 tuần liên
tiếp trên mạng, chỉ riêng phần ý kiến người đọc, tôi đã in ra được 200 trang khổ 81/2 x 11’.
Điều này cho thấy những tiết lộ của người Phụ tá đặc biệt của TT Thiệu thời đệ nhị
CHVN được bà con tị nạn quan tâm theo dõi như thế nào.
Sau đó, vì những lý do riêng, cả hai chúng tôi đều quyết định ngưng. Tôi không có
quyền tiết lộ lý do về phía người trả lời phỏng vấn vừa mãn phần. Riêng tôi, chỉ vì những cam
kết của Chủ bút báo NV với tôi đã không được coi trọng. Chuyện nhỏ nhưng với tôi không dễ
chấp nhận. Đó là sự thay đổi đột ngột vị trí đăng bài trên NV như đã thỏa thuận ban đầu.
Dù vậy, sau đó chúng tôi vẫn giữ liên lạc với nhau. Lâu lâu tôi vẫn cố gắng tìm giờ
thuận tiện ghé thị trấn Norward thăm anh.
Cho đến đầu năm 2017 vì lý do căn bệnh mất trí nhớ của mẹ các cháu trở nên ngày một
xấu khiến tôi phải dành toàn thời gian săn sóc nhà tôi. Vì thế chúng tôi ít gặp gỡ trực tiếp,
ngoại trừ những trao đổi hỏi thăm nhau qua email hoặc điện thoại.
Trước khi dẫn vào nội dung chính của bài viết, tưởng cũng cần phải nói thêm rằng,
trong 4 tháng làm việc bên anh Ngân, dù đôi khi anh có chia sẻ với tôi về mình, nhưng những
cái biết của tôi về anh vẫn còn rất giới hạn.
Phải chờ tới khi được nghe bạn bè nói lại, nhất là được đọc những bài do anh thuật lại
về quá khứ của anh hoặc những biến cố sôi động trên chính trường trong hai nền Cộng hòa
miền Nam mà anh vửa là tác nhân vừa là nhân chứng, tôi mới thật sự hiểu biết hơn về hành
trạng, nhân cách và con người thật của anh. Nó trái hẳn với những gì người ta thêu dệt được
giới truyền thông bát nháo ở Sàigòn thời ấy loan tải.
Giây phút này tôi vẫn chưa hết bàng hoàng khi nghe tin anh bất ngờ giã từ cuộc sống để
trở về miền miên viễn, từ giã người thân yêu, bè bạn, cởi bỏ hết mọi khát vọng cũng như ưu
phiền. Trong một giây xúc động, tôi tự hứa sẽ dành thì giờ viết đôi điều về anh:
Chân dung Ô. Ngân, nguyên Phụ Tá Đặc Biệt của TT NVThiệu
* * *
Chất liệu chính gây cảm hứng cho tôi đến từ trang “Những Năm Tháng Cũ” của tác giả
Nguyễn Hoàng Lưu viết về “Bà Ngô Đình Nhu và cuộc chính biến 1-11-1963”.
Thuở sinh thời anh Ngân, có lẽ rất ít người biết đây là một trong những bút danh của
anh. Tôi công khai nói ra với ý nghĩ chủ quan rằng lúc này anh đã vĩnh viễn ra đi. Những gì tốt
lành, cao cả thuộc về anh, cần phải trả lại anh. Nói cách khác, nó cần được “qui hoàn cố chủ”
như “châu về Hiệp Phố” để mọi người cùng biết. Biết để khỏi có những ngộ nhận về sự thật của
một thời vàng son trong lịch sử VN cận đại. Và cũng biết để trả lại danh dự cho dòng họ Ngô
Đình, cách riêng cho Tổng Thống Diệm, ông bà Nhu, qua nhừng chứng từ khả tín của anh.
Trong tinh thần ấy, tôi viết bài này như một nén tâm hương tưởng niệm anh, một
mẫu người Công Chính mà tôi hết lòng quý mến.
‘
Tục ngữ Việt Nam có những câu “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “ăn cây nào, rào cây ấy”.
Từ ý nghĩa đơn giản, dung tục người xưa gửi vào hai câu nói cửa miệng của người bình dân,
sau khi đọc hết bài viết của anh Ngân với bút hiệu Nguyễn Hoàng Lưu, áp dụng vào trường hợp
anh, tôi thấy tuồng như không mấy ứng hợp. Dù vậy, nó lại mang ý nghĩa vô giá.
Nếu xét riêng về danh vọng, địa vị, quyền thế, thì đệ nhị Cộng Hòa –cách riêng TT
Nguyễn Văn Thiệu-, phải là cơ chế và nhân sự để ông ghi nhớ và tri ân. Thế mà trong bài viết
này anh đã làm công việc của một phán quan trung trực, với những lời biện hộ tận tình cho hầu
hết những khuôn mặt lớn trong dòng họ Ngô Đình, từ cố TT Ngô Đình Diệm, ông cố vấn Ngô
Đình Nhu, và cả cá nhân bà Nhu nhũ danh Trần Lệ Xuân, một người mà trong bài tiểu luận của
mình, anh Ngân cũng đã ghi lại những lời lẽ báng bổ của miệng đời:
“Dư luận cho ông Nhu là con người lạnh lùng, thủ đoạn, thâm hiểm, và bà Nhu là
người đàn bà lộng quyền, lăng loàn, trắc nết; báo chí ngoại quốc gọi bà Nhu là “rồng cái”, mụ
phù thủy, Lucrèce Borgia v.v…”
Còn về cố Tổng Thống Diệm, hẳn anh cũng thừa biết, tuy có nhiều người kính trọng,
suy tôn, nhưng cũng không ít người đố kỵ gán cho là quan liêu, độc tài, gia đình trị, thậm chí là
một nhà lãnh đạo bất tài, cổ hủ!
Ấy vậy mà người đọc tìm được trong bài nhận định về bà Ngô Đình Nhu và cuộc chính
biến ngày 1-11-1963 rất nhiều đoạn tác giả đã không ngần ngại đưa ra những lời phản biện đầy
xác tín, dựa trên những chứng từ giá trị, gián tiếp phản biệt nhửng lời kết án hàm hồ ấy.
Đành rằng trong đoạn mở đầu cho biết, anh khởi sự làm việc ở Quốc Hội VNCH (đệ I
Cộng Hòa thời TT Ngô Đình Diệm) như một chuyên gia về luật pháp bên cạnh một số Thẩm
phán, Luật sư danh tiếng thời ấy. Nhưng phải nói hầu hết những chức vụ anh đảm nhiệm dưới
thời đệ nhất CHVN chỉ mang tính chuyên môn trong phạm vi luật pháp. Vì thế, trong các bài
viết của anh cũng như trong khi trao đổi với anh, cá nhân tôi chưa bao giờ đọc hay nghe anh
nói đến những lần gặp mặt trực tiếp ông hay bà Nhu, nói chi tới Tổng Thống Diệm.
Qua bài tiều luận khá dài, anh Ngân đã bỏ biết bao nhiêu công sức để tự tìm hiểu qua
những tiếp xúc trực tiếp với các tướng tá, nhân sĩ một thời được coi là tay chân thân tín của TT
Diệm. Cụ thể như tướng Trần Văn Đôn, ông Cao Xuân Vỹ. Từ đấy, nhờ tính thiện thừa hưởng
từ gia đình, dù không có nợ gì với đệ nhất CHVN, lương tâm đòi buộc anh phải nói lên những
lời công đạo để soi sáng cho các thế hệ sau về một giai đoạn lịch sử tối quan trọng của nước
nhà, nhưng lại chất chứa biết bao chuyện thị phi, oan trái, vàng thau lẫn lộn.
Đấy là lý do vì sao, khi viết về TT Ngô Đình Diệm và ông bà Nhu, tác giả đã cẩn trọng
ghi lại với những lời lẽ có cánh sau đây:
”Về căn bản ông Diệm là một nhân sĩ được ông Bảo Đại mời nắm chính quyền, là một
người đạo đức; cầm quyền vào thời loạn nhưng luôn luôn mang tư tưởng: nếu hoàn cảnh và
thời thế cho phép làm được thì làm bằng không thì đi vào tu viện. Cụ thể năm 1933 ông từ chức
Thượng thư Bộ Lại (thủ tướng) vì những yêu sách không được người Pháp thỏa mãn mặc dầu
ông Bảo Đại năn nỉ ở lại.
Sau 9/3/1945 ông Bảo Đại nhờ người Nhật tìm ông Diệm để giữ chức vụ Thủ tướng
nhưng người Nhật biết khó làm việc với ông Diệm nên đã đưa ông Trần Trọng Kim bấy giờ
đang sống ở Singapore dưới sự bảo vệ của người Nhật.
Năm 1948 khi giải pháp quốc gia thành hình, ông Diệm là người đầu tiên được ông Bảo
Đại mời giữ chức vụ Thủ tướng nhưng đã từ chối. Năm 1954 trước tình trạng đất nước phân
chia, ông Bảo Đại mời ông Diệm giữ chức Thủ tướng toàn quyền về dân sự và quân sự. Trong
hồi ký của ông Bảo Đại không hề có một lời trách cứ nào đối với ông Diệm về cuộc trưng
cầu dân ý 23/10/1955 vì ông Bảo Đại hiểu con người ông Diệm không phải chủ tâm đoạt
quyền mà do hoàn cảnh lịch sử bấy giờ.
Ông Ngô Đình Nhu là một học giả, nặng về suy nghĩ, nghiên cứu hơn là hành động.
Ông Đoàn Thêm, làm việc cạnh ông Nhu từ 1955 đến 1963, tác giả bộ sách ‘Việc từng ngày’ có
nhận xét: ‘Về phương diện trí thức, trình độ của ông Nhu rất cao, học vấn cổ điển và nhân bản
của ông rộng và vững.’ Ông là người đề ra triết lý chính trị làm nền tảng cho chế độ đệ I CH,
định hướng cho chính sách, đường lối quốc gia; thấy rõ các vấn nạn của đất nước do tình
trạng chậm tiến và nhu cầu khẩn thiết phải giải quyết, là động lực cho các kế hoạch ngũ niên,
kỹ nghệ hóa, khu trù mật, ấp chiến lược … trên cơ sở cộng đồng đồng tiến. Ông là nhà chính
trị có tư tưởng, điều mà các chính khách VN khác rất thiếu sót.
Ông Nhu không có tham vọng chính trị, lãnh đạo. Ông giúp ông Diệm như một tư
nhân, không có văn kiện chính thức bổ nhiệm ông vào chức vụ cố vấn Tổng thống. Ông không
muốn ở trong dinh Độc Lập cũng như dinh Gia Long sau này nhưng vì lý do an ninh và ông
Diệm yêu cầu vì cần ông ở bên cạnh. Ông muốn sau này khi không còn giúp ông Diệm thì về
Đà lạt dạy bọn con nít trung học Pháp về cổ ngữ (tiếng Latin). Những người làm việc cạnh ông
Diệm, ông Nhu nói với tôi: ngoại trừ các vấn đề được ủy quyền , ông Nhu hoàn toàn tự giới
hạn trong vai trò cố vấn, ông Nhu rất tôn trọng chức vụ tổng thống của ông Diệm ; đối với các
vấn đề thuộc thẩm quyền chuyên độc của Tổng Thống ông Nhu không cho ý kiến ngoại trừ khi
được ông Diệm yêu cầu.
Không có vấn đề ‘lấn quyền’ hay ‘thao túng’ như dư luận đồn đãi, ông Diệm luôn
luôn là người quyết định tối hậu.
Năm 1962 trong dịp nói chuyện với sinh viên sỹ quan Thủ Đức khoá 13 gần 3 tiếng
đồng hồ, có đoạn ông tự thuật về quãng đời của ông, ông nói lúc trẻ ông có ý định theo học
ngành kỹ sư thủy lâm vì muốn gần gủi với thiên nhiên nhưng sau đổi ý vào École nationale des
chartes vì muốn đi vào thế giới sách vở, tư tưởng, còn lãnh vực chính trị là do hoàn cảnh thúc
đẩy sau này. Nói đến đây, ông liên hệ đến chúng tôi (đa số là thành phần động viên): ‘cũng
như các anh, có bao giờ ngờ là giờ đây các anh ngồi ở đây không?’. Đúng vậy, nếu chọn binh
nghiệp thì chúng tôi đã vào lính từ 18, 20 tuổi để còn lên tướng, bây giờ tất cả đều trên dưới 30
tuổi, nhiều người đã vợ con đùm đề trong tình trạng chồn chân gối lỏng, có người vừa du học
từ ngoại quốc về mang theo vợ đầm nay trong tình trạng chới với …
Việc đời thăng trầm vô thường .Cũng như ông Ngô đình Nhu hôm đó có đâu ngờ trong
số cả ngàn sinh viên sỹ quan ngồi bệt trên nền xi măng nghe ông nói chuyện, có một “nhân
vật” chỉ hơn mười tháng sau đã đóng đinh vào quan tài của ông và ông Diệm. Anh ta cùng
đại đội với tôi, thuộc đại đội 8 khoá 13, là chủ và tài xế chiếc xe hơi Austin DBA599 đưa
Thượng tọa Quảng Đức đến ngã tư Phan Đình Phùng – Lê Văn Duyệt tự thiêu. Anh ta không
phải chỉ là tài xế mà là thành phần đạo diễn vụ tự thiêu, ông Quảng Đức chỉ là nạn nhân.”
(...)
Chân dung TT Ngô Đình Diệm - lấy trên Google
Ông Diệm có cuộc sống độc thân khắc khổ của người tu hành, có lòng thương người, dễ
nóng giận nhưng cũng dễ tha thứ, đêm ngày hoàn toàn lo việc nước, không có một thú vui giải
trí nào ngoài sở thích chơi máy ảnh .
Ông Nhu xuất thân là một quản thủ thư viện, ham mê đọc sách, làm việc nhiều về trí óc
nên gần như không chú trọng về đời sống vật chất . Ông không phải là người quảng giao, trong
giao tế thiếu sự vồn vã nên bị xem là lạnh lùng, khinh người. Ông Nhu từng nói:’mình có học
là bởi cha mẹ ông bà có tiền cho ăn học, chớ mình hơn gì ai!’.
Một trí thức khoa bảng xuất thân từ giai cấp quan lại phong kiến nói một câu như vậy
không phải là hạng người ‘mục hạ vô nhân’ mà là con người phân biệt được những giá trị
‘thực’ và những giá trị ‘giả’. Do đấy một số trí thức và tướng tá có mặc cảm, sợ và ghét vì ông
thấy rõ chân tướng họ, trong thực tế ông Nhu chẳng làm hại ai cả .
Bà Nhu quán xuyến mọi công việc gia đình, săn sóc chồng và con như truyền thống của
các bà vợ và mẹ Việt Nam.
Trái với dư luận đồn đãi, ông Nhu không hút thuốc phiện nhưng là người nghiện
thuốc lá nặng. Khi làm việc ông đốt thuốc lá liên miên, bốn, năm bao mỗi ngày. Về sau theo lời
dặn của bác sĩ, bà Nhu kiểm soát chặt chẽ bằng cách không để ông Nhu giữ thuốc lá mà giao
cho người phục dịch giữ với số lượng nhất định mỗi ngày.
Hút thuốc lá còn bị bà Nhu kiểm soát như vậy thì làm sao có thể hút thuốc phiện được
và làm sao có thể dấu những người phục dịch và các cọng sự viên vì người hút thuốc phiện có
mùi đặc biệt ( vụ hút thuốc phiện do bộ trưởng Nguyễn đình Thuần phao tin với người Mỹ )’
Ở một đoạn khác, anh viết:
“Ông Nhu rất cưng chiều con cái nhưng bà Nhu là người trực tiếp giáo dục, kiểm soát
việc học hành, đưa vào khuôn khổ. Bà Nhu sinh trưởng trong một gia đình thượng lưu, giàu
sang nên nhiều người tưởng bà là người sống xa hoa nhưng thực ra bà có cuộc sống giản dị,
cần kiệm, ăn uống dễ dãi, không kén chọn, không mang các loại trang sức đắt tiền. Bà rất tốt
với kẻ dưới. Những gia nhân phục dịch cũ nhắc đến bà với sự thương cảm, hàng tháng bà
cho họ quà hay tiền được gói kín và trao tận tay.”
Đề cập chuyện bà Nhu thời làm Dân biểu soan bộ luật Gia Đình mà dư luận khi ấy suy
đoán là bà có dụng ý ngăn chặn ông Bộ trưởng Nguyễn Hữu Châu là anh rể bỏ chị của bà là
Trần Lệ Chi, tác giả viết:
“Khi làm công việc san định chúng tôi có tìm hiểu ý chí của các nhà lập pháp, bà Nhu
đã đề xuất việc cấm ly hôn chỉ vì thiện ý muốn bảo vệ quyền lợi của người đàn bà có chồng
trong một xã hội bấy giờ còn trọng nam khinh nữ mà đa số trường hợp ly hôn đều do người
chồng chủ động và phần lớn những người đàn bà bị ly hôn đều không đủ điều kiện tự lập,
bị rơi vào tình trạng bơ vơ, không nơi nương tựa, xã hội và gia đình coi rẻ.
Trường hợp ông Nguyễn Hữu Châu và bà Trần Lệ Chi chỉ là sự trùng hợp. Cần phải
đọc toàn bộ biên bản thảo luận tại Quốc hội về bộ luật gia đình thì mới thấy được tư tưởng của
bà. Bà Ngô Đình Nhu là người có tham vọng đóng vai trò tiên phong trong công cuộc giải
phóng phụ nữ Việt Nam thoát khỏi những ràng buộc pháp lý và phong tục cổ hủ của xã hội cũ,
phục hồi nhân cách, đưa lên địa vị bình đẳng với nam giới. Đó là lý do sau này dẫn tới việc
thành lập phong trào Phụ nữ Liên đới, Phụ nữ bán quân sự… đồng thời cũng nhằm mục tiêu
đưa quốc gia ra khỏi tình trạng chậm tiến.”
Hình Bà Ngô Đình Nhu và ái nữ Ngô Đình Lệ Quyên
Trung thành với chủ đề viết về bà Ngô Đình Nhu và cuộc chính biến ngày 1-11-1963,
anh Nguyễn Văn Ngân, với bút danh Nguyễn Hoàng Lưu đã cố gắng khách quan tối đa khi nói
về ông Ngô Đình Diệm, người có công khai sáng nền Cộng Hòa Việt Nam, ông Ngô Đình Nhu
được những người hiểu biết trong nước và thế giới nhìn nhận như một kiến trục sư của chế độ.
Do đó, tác giả đã dành khá nhiều thì giờ để tìm hiểu cặn kẽ về thói quen, lối sống cũng như
nhân thân, tư cách của từng người, bao gồm bà Nhu vốn là người đã gánh chịu những búa rìu
đầy ác ý của công luận đầy thiên kiến và thành kiến lúc bấy giờ.
Anh viết:
“Một hôm tôi ghé lại phòng trực sỹ quan dinh Gia Long, có một người đàn ông lớn tuổi
ăn mặc lam lũ bước vào xin lửa hút thuốc, tôi bật quẹt cho ông ta. Thấy ông nói giọng Huế và
hút thuốc lá vấn, tôi hỏi: chắc bác làm việc ở đây từ thời Cụ (cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm)?
-Dạ phải.
-Bác làm gì?
-Dạ nấu ăn cho Cụ.
-Thế bây giờ bác làm công việc gì ở đây?
-Dạ thưa tôi làm vườn.
Tôi ngạc nhiên, đinh ninh ông này là bếp Tây từ thời các công sứ, khâm sứ Pháp không
lẽ lại bị chế độ mới “hạ tầng công tác”, nên hỏi:
- Tại sao người ta không để bác nấu ăn cho Trung Tướng Thiệu mà đưa bác đi làm
vườn?
-Dạ tôi có phải bếp Tây, bếp Tàu chi mô. Tôi theo hầu Cụ từ xưa. Cụ ăn uống đơn sơ,
buổi sáng dùng cháo trắng, dưa chua, trưa dùng cơm, món canh, món mặn…, tối Cụ không
dùng cơm, chỉ dùng rau với trái cây; mỗi ngày đi chợ chưa đầy trăm bạc.
-Thế hàng ngày Cụ không dùng cơm chung với gia đình ông bà cố vấn (ông bà Nhu)?
-Dạ không. Chỉ khi nào có đức Cha ghé lại (Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục). Dạ mà
hôm nào có thức ăn còn lại thì bà (bà Nhu) thường dặn để dành ăn tiếp bữa sau…”
Cuộc đối thoại ngắn ngỉi trên đây cho người đọc nhận ra không chỉ lối sống giản dị,
đạm bạc của TT Diệm mà còn cho thấy hai bộ mặt của một bà Ngô Đình Nhu, khuê danh Trần
Lệ Xuân. Một mệnh phụ giàu lòng nhân ái với kẻ ăn người ở, nhưng lại là một người Vợ, người
Mẹ, người nội trợ căn cơ, cần kiệm khác thường.
Đi sâu vào những chi tiết nói về ông bà Ngô Đình Nhu, Tổng Thống Diệm và những
nhân vật liên hệ, ngoài những chi tiết về quan điểm, trình độ tri thức, lối sống ngay thẳng, đơn
sơ, đạm bạc gợi nhớ tới những bậc đại trượng phu thời cổ, anh Ngân còn hé mở cho người đọc
nhận ra sự lương thiện trí thức của những nhân vật lãnh đạo ngoại thường.
Đó là thái độ dứt khoát không vì cha ông làm lớn mà đi vào vết xe đổ qua câu ca dao
quen thuộc “Con Vua thì lại làm Vua,...”. Nói cách khác, bố mẹ một khi đã làm lớn thì dù
trưởng thành giữa thời chiến, con cái vẫn được ưu tiên hoãn dịch, được chọn những trường
danh tiếng đi học ở Mỹ, ở Âu châu, Úc châu.... coi nghĩa vụ quân sự để cứu nước (và cũng để
lãnh thương tật trọn đời hay để chết) là của con em những thành phần thấp kém trong xã hội!
Anh viết:
“Đa số những người trong gia đình ông bà Nhu đều tốt nghiệp các trường lớn ở Pháp,
chịu ảnh hưởng văn hoá Pháp; kỹ sư Ngô Đình Luyện tốt nghiệp École centrale, ông Nhu tốt
nghiệp đại học Sorbonne và École nationale des chartes, luật sư Trần Văn Chương (cha bà
Nhu), bác sĩ Trần Văn Đỗ (chú bà Nhu) và ngay cả ông nội (Trần Văn Thông, 1875-1955), ông
ngoại (Thân Trọng Huề, 1869-1925) đều du học ở Pháp. Bà Nhu lúc trẻ học Lycée Albert
Sarraut…; nhưng tất cả các con cái ông bà Nhu đều học hành trong nước và ở trong nước.
Ngô Đình Lệ Thủy con gái đầu của ông bà đậu Tú Tài Pháp năm 1962 và theo học đại học
Văn Khoa Sài Gòn niên khóa 1962-63.
Trong những giờ phút nguy hiểm các con cái họ đều có mặt bên cạnh: cuộc đảo chánh
hụt 11/11/60 lúc lính Dù công hãm dinh Độc Lập, vụ ném bom dinh Độc Lập 27/2/62… Trong
vụ ném bom 27/2/62 bà Nhu bị thương nhẹ, người xẩm giữ con nhỏ của bà Nhu (Ngô đình Lệ
Quyên) bị tử thương.
Trước biến cố 1/11/63 vào lúc người Mỹ công khai ý định loại trừ ông bà Nhu và lật đổ
chế độ, những người thân cận ông Nhu đã khuyên ông gởi các con ra ngoại quốc nhưng
ông nói các con của ông sẽ phải chấp nhận số phận như những trẻ Việt Nam khác và phải
chung hoạn nạn của gia đình một khi cha mẹ chúng đảm nhận các trách vụ chính trị.
Ông từng nói với con trai đầu Ngô Đình Trác mới 15 tuổi: … “rồi đây có lẽ con phải
chịu nhiều đau khổ hơn những đứa trẻ khác. Là con trai lớn phải lãnh đạo gia đình nếu vì một
lý do gì cha mẹ không còn ở gần!”
Tháng 9/63 bà Nhu rời Việt Nam đi Belgrade (Nam Tư) dự hội nghị Liên hiệp Nghị sĩ
Quốc tế. Tại phòng khách danh dự phi trường Tân Sơn Nhất, ý thức được tình hình đã nguy
hiểm, bà tuyên bố: tôi đi chuyến này không phải để chạy trốn, bằng chứng là tôi còn gửi lại
trên đất nưóc này tất cả những người thân yêu nhất: chồng và các con tôi… Ông Nhu dự
định đi Tokyo để đón vợ trên đường trở về đồng thời nghỉ ngơi ít ngày nhưng bà Nhu đã cản:
“Anh không nên đi lúc này, đi lúc này là đào ngũ.”.
Tác giả viết tiếp:
“Ủy Ban Điều tra Tài sản và Tội Ác của Hội Đồng Quân nhân Cách mạng 1/11/63 cho
thấy ông Diệm không có tài sản, ông bà Nhu chỉ có một bất động sản đang xây cất dở dang ở
Đà lạt, họ không hề tham dự bất cứ một công cuộc làm ăn, kinh doanh nào.”
Nói về nhân cách, đạo đức của những nhân vật đầu não trong thời đệ nhất CHVN thì
như thế, nhưng khi trở lại với đệ nhị CH, anh không khỏi đau đớn ghi nhận:
“Những người lãnh đạo sau này không có được tư cách như vậy. Tổng Thống Thiệu
gởi con trai còn nhỏ đi học ở các tư thục đắt tiền nhất Thụy sĩ và Anh; con rễ Tổng Thống
Thiệu và Thủ tướng Khiêm đều thuộc thành phần trốn quân dịch. Kể từ khi mới bắt đầu
cầm quyền các ông Thiệu, Khiêm đã lo tích lũy tài sản, tẩu tán ra ngoại quốc đề phòng lúc
hữu sự, và tất cả đã đào thoát bằng máy bay Mỹ tối 25/4/1975.
(...)
“Sau 1/11/63 không còn sự kiềm chế và kiểm soát, đám tướng lãnh ‘hội đồng cách
mạng’ ăn chơi trác táng thâu đêm suốt sáng, các nữ sinh viên Phật tử hiến thân cho “ các anh
hùng cách mạng”, các bà Phụ Nữ Liên Đới đem thân xác ’chuộc tội ‘… ; ‘Ủy ban Điều tra Tài
sản và Tội Ác’ tróc nã tiền của lớp Cần Lao dân sự có máu mặt, có người biết đem của che
thân thì thoát nạn (trường hợp tỷ phú N.C.T., ông này đã cúng cho Phật giáo Ấn quang đám
đất xây Đại học Vạn Hạnh đường Trương Minh Giảng Sài Gòn), có người đem thân che của thì
thân đi Côn đảo, của cải mất, vợ bị chiếm đoạt (trường hợp N.V.B.) Gian dâm vợ người, tống
tiền, cưỡng đoạt tài sản không bị xem là tội ác mà được xem là những chiến lợi phẩm của
‘vụ đoạt quyền 1/11/63’ Việc phân chia ‘quả thực’ (tiền bạc, chức vụ v.v..) không đồng đều,
gây ra bất mãn, phe đảng…, là nguyên nhân chính đã đưa đến cuộc chỉnh lý ba tháng sau
30/1/1964.”
Khi đưa ra những chứng tích về sự thiếu nhân cách của người lãnh đạo, từ ông Thiệu
cho tới các tướng lãnh chủ chốt trong cuộc binh biến ngày 1-11-63, hẳn tác giả bài viết không
khỏi đau lòng. Chẳng đặng đừng anh đã phải làm ngược lại lời nhắn nhủ của tiền nhân trong
hai câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây/Ăn cây nào rào cây ấy”. Trong trường hợp tréo cẳng
ngỗng như thế, bằng cách nào, một Kẻ Sĩ Công Chính, có lương tâm trách nhiệm như anh có
thể bẻ cong ngòi viết để làm khác?
Bài “Bà Ngô Đình Nhu và cuộc chính biến 1-11-63” dài khoảng mấy chục trang. Dù
trích dẫn đã nhiều cho một bài 8/9 trang giấy nhưng vẫn còn có những thiếu sót cần ghi lại.
Trước khi kết thúc, người viết xin tóm tắt vài sự kiện quan trọng và giới hạn trích dẫn,
như: a/,-Sự dối trá quanh lá thư tuyệt mệnh của ông Nguyễn Tường Tam; b/.- Bí ẩn trong
chuyện thắng thua của cuộc chính biến ngày 1-11-63. c/,- Sau cùng là chữ “NẾU” trong câu hỏi
về trường hợp bà Ngô Đình Nhu không xuất ngoại và có mặt tại Dinh Gia Long ngày 1-11-63.
Tấm hình ghi lại quang cảnh một tăng sĩ đang đỏ xăng lên đầu TT Thích Quảng Đức trước khi bật quẹt “tự” thiêu
Riêng vụ Thượng Tọa Thích Quảng Đức tự thiêu đã được tác giả cho thấy qua mấy
dòng: “Việc đời thăng trầm vô thường .Cũng như ông Ngô đình Nhu hôm đó có đâu ngờ trong
số cả ngàn sinh viên sỹ quan ngồi bệt trên nền xi măng nghe ông nói chuyện, có một “nhân
vật” chỉ hơn mười tháng sau đã đóng đinh vào quan tài của ông và ông Diệm. Anh ta cùng
đại đội với tôi, thuộc đại đội 8 khoá 13, là chủ và tài xế chiếc xe hơi Austin DBA599 đưa
Thượng tọa Quảng Đức đến ngã tư Phan Đình Phùng – Lê Văn Duyệt tự thiêu. Anh ta không
phải chỉ là tài xế mà là thành phần đạo diễn vụ tự thiêu, ông Quảng Đức chỉ là nạn nhân.”
Đọc mấy dòng này hẳn mọi người đã nhận ra người tài xế chở nạn nhân là ông Trần
Quang Thuận, một trong những người đứng sau TT Trí Quang trong biến cố Phật giáo năm 63.
a/,- Sự dối trá quanh lá thư tuyệt mệnh của ông Nguyễn Tường Tam. Nếu độc giả
muốn biết chi tiết cần đọc bài viết của anh Ngân để thấy cách nhìn của anh và nhất là phần trích
dẫn hồi ký “Trong Bóng Tối Lịch Sử” ông Lê Nguyên Phu, nguyên Ủy viên Chính phủ Tòa Án
Quân sự Đặc biệt. Câu chuyện quan trọng và phức tạp này xin rút gọn như sau.
Trong biến cố 1-11-63, nhà văn Nhất Linh NguyễnTường Tam và nhóm đàn em của
ông bị dính.Trên thực tế chỉ có nhóm của ông Hoàng Cơ Thụy biết trước vụ này. Còn những
người khác như Phan Quang Đán, Phan Khắc Sửu, Nguyễn Tường Tam cùng đám em út gồm
có Trương Bảo Sơn, Nguyễn Thành Vinh v.v… đều là những người lúc nghe tiếng súng nổ mới
chạy tới hiện trường, hoan hô đả đảo cho rậm đám. Theo cách nhìn của anh Ngân đây là những
người không được mời ăn cổ, nhưng nghe có đình đám chạy đến để ăn có…Vì hầu hết đàn em
bị bắt trong khi ông Tam được tại ngoại nên có sự chống đối, lời qua tiếng lại gay gắt.
Khi hay tin sẽ phải ra tòa đối chất với đám đàn em đang bị giam giữ, ông NTT đã tìm
tới đầu tiên là đại tá Lê Văn Khoa, và người kế nhiệm sau đó là ông Lê Nguyên Phu để xin
được miễn trừ vì sợ mất mặt trước công luận. Ông LNP tỏ ra thông cảm những khó khăn, tế nhị
của ông NTT, nhưng hoàn cảnh không cho phép ông vượt qua những nguyên tắc về luật pháp,
nên ông từ chối. Sau khi ra về, trong tâm trạng bấn loan ông NTT đã tự tử.
Theo nhận định của tác giả hồi ký “TBTLS”, sau khi nghe ông NTT tâm sự, ông LNP
nhận ra ông ta chỉ còn một lối thoát duy nhất để tránh vụ đối chất là tự tử. Lối thoát này giúp
đương sự bảo tồn danh dự và tư cách lãnh tụ, nâng cao nhân phẩm cá nhân và có thể đưa ông
vào lịch sử… Vì biết tõ căn nguyên đích thực xô đẩy ông NTT tự tìm cái chết chỉ vì tự ái quá
lớn, nên ông Lê Nguyên Phu thẳng thắn viết:
“Nhưng tiếc thay, điểm son rực rỡ đã bị ông xóa nhòa, bôi đen bằng một mảnh giấy nhỏ
được ông để lại khi phút lâm chung. Trên mảnh giấy ông cho biết ông tự tử vì không muốn bị
xét xử trước Tòa án của chính quyền Ngô Đình Diệm và xin để lịch sử xét ông về sau.
Những dòng chữ này không biết có đánh lạc hướng được lý do tự tử của ông hay không,
nhưng chắc chắn đã hạ thấp phẩm giá của ông rất nhiều”.
b/.- Bí ẩn về chuyện thắng thua trong cuộc chính biến ngày 1-11-63.
Vì quen biết cũng như sự nể vì của một số tướng lãnh chủ trương vụ đảo chánh, nhất là
tướng Trần Văn Đôn nên sau này anh Ngân được biết tường tận nội tình bối rối, âu lo của họ
trong suốt ngày đêm 1-11. Theo tiết lộ của tướng Đôn thì nhóm tướng lãnh chủ động cuộc
chính biến có lúc đã tính chuyện lên máy bay tìm đường đào thoát. Cho đến khi nhận được điện
thoại của TT Diệm từ nhà thờ Cha Tam họ mới thở ra nhẹ nhõm và điều động đoàn thiết giáp đi
đón hai anh em TT Diệm. Chuyện xảy ra như thế nào sau đó, ngày nay mọi người đều đã rõ.
Về phía Dinh Gia Long, chỉ vì căn tính dè dặt, thiếu quyết đoán, nhất là ông Diệm
không muốn nổ súng gây thương vong, chết chóc cho quân đội mình nên đã hai lần từ chối đề
nghị động binh tấn công thẳng vào Bộ Tổng Tham mưu, chống lại phe đảo chánh.
Tóm lại khi vận nước đã tới hồi suy mạt thì chuyện gì cũng có thể xảy ra. Dù sao nó
cũng là một bài học lớn đối với những người có trách nhiệm mai ngày
c/.- Về chữ “NẾU” trong trường hợp bà Nhu không xuất ngoại và có mặt tại Dinh
Gia Long hôm 1-11-63.
Trong bài viết “Bà Ngô Đình Nhu và cuộc Chính biến 1-11-1963”, tác giả có nhắc lại
một chi tiết về cuộc binh biến ba năm trước vào ngày 11-11-60 như sau:
Trong cuộc binh biến 11/11/60 các đơn vị dù đã tạo được yếu tố bất ngờ, nổ súng bao
vây dinh Độc lập từ phút đầu, vượt hàng rào chỉ cách dinh 50 thước. Trong khi tướng Nguyễn
Khánh chờ lệnh, Tổng thống Diệm hỏi ông Nhu:
-Chú định thế nào?
Ông Nhu trả lời:
-Anh làm Tổng thống thì anh định đoạt.
Bà Nhu can thiệp:
-Anh nói vậy sao được, phải giúp Tổng Thống.
Và bà đưa giải pháp, cương quyết không chấp nhận thất bại. Nhờ vậy, đã đảo ngược
tình thế từ đang bị bao vây sắp đầu hàng chuyển sang thế thắng và dẹp được đảo chánh.
Từ câu chuyện cụ thể ba năm trước cũng như bằng vào bản chất cứng rắn và trí thông
minh, lanh lợi trời cho của bà Nhu, để trắc nghiệm lại suy đoán của mình đúng đến đâu, tác giả
hỏi ông Đôn:
“-Nếu có mặt bà Ngô đình Nhu tại dinh Gia Long ngày 1/11/63 thì cục diện cuộc đảo
chánh sẽ như thế nào?
Ông Đôn trả lời không suy nghĩ.
-Bà Nhu sẽ áp lực ông Diệm,ông Nhu dùng giải pháp quân sự chứ không chấp nhận rút
lui một cách dễ dàng. Bà ấy là con người quyết liệt. Cuộc đảo chánh có thể bị dập tắt hay sẽ
phải đổ máu nhiều. Nếu hôm ấy (1/11) có bà Nhu và thêm cố vấn quân sự như trường hợp
Nguyễn Khánh trong vụ 11/11/60 thì chắc chắn chúng tôi thất bại.”
Cũng trong tiểu luận này, trong một lần gặp ông Cao Xuân Vỹ, nhắc lại cuộc đảo chánh
ngày 1-11-63, anh Ngân thân mật hỏi, bọn tướng lãnh đảo chánh nói anh luôn có mặt bên Cụ và
ông Nhu hôm ấy, tại sao lại để xảy ra cơ sự như vậy? Ông Vỹ trả lời, vẫn chỉ vì cả TT và ông
Nhu đều tỏ ra thiếu cương quyết, riêng ông Cụ thì lúc nào cũng không muốn xảy ra chuyện
quân đội Quốc Gia tàn sát lẫn nhau. Ngừng lại giây lát, ông buột miệng cất tiếng như một lời
than: “phải chi hôm ấy có mặt bà Nhu?.....Âu cũng là cái số!?”
Vài lời cuối trước khi kết thúc.
Đọc lại những trang trên đây, người viết thấy mình chưa khai phá được hết những điều
anh muốn gửi tới người đọc qua bài viết “Bà Ngô Đình Nhu và cuộc chính biến 1-11-2063”
dưới bút danh Nguyễn Hoàng Lưu. Tuy nhiên vì đã vượt quá số trang dự tính ban đầu nên tôi
đành phải tự chế không thể viết dài hơn nữa.
Trước khi chấm dứt, tôi dành những lời cuối để thưa với anh, cho dù anh đã giã từ cuộc
sống để đi về cõi vô cùng, với niềm tin rằng hồn thiêng của anh vẫn hiện diện đâu đây.
Thưa anh Ngân,
Tôi có nhiều điều để cám ơn anh và cũng có điều phải tạ lỗi cùng anh..
Vượt lên trên mọi chuyện khác, tôi biết ơn anh đã cho tôi cơ hội gặp gỡ trực tiếp với
những buổi trò chuyện thân tình trong khoảng bốn tháng trời 17 năm về trước tại nơi làm việc
khiêm tốn của anh. Dĩ nhiên trước đó, tôi đã được diện kiến anh trong những lần nhóm ACE
Thông Luận từ Pháp qua ở tư gia anh Nguyễn Tiến Ích hoặc nhà hàng Hoàng Sa, Tiểu Sàigòn.
Những lần như thế, chúng ta chỉ mới biết nhau qua cái bắt tay, với những lời giới thiệu khách
sáo. Ngoại trừ một lần khi anh đọc được bài điểm sách của tôi về tác phẩm đầu tay của anh
bạn Vũ Thụy Hoàng -cuốn “Sàigòn Tuyết Trắng”- để có cơ hội nói chuyện với anh lâu hơn.
Khi anh Mặc Giao ngỏ ý muốn tôi thực hiện cuộc phỏng vấn anh, tôi rất vui nhưng
thâm tâm không khỏi băn khoăn, ngần ngại trước một chuyện quan trọng quá đột ngột.
Lần đầu bước tới địa chỉ anh cho, tôi khựng lại trở vội ra xe với tâm trạng hụt hẫng khi
bất ngờ thoáng thấy anh đang cúi đầu trên cuốn sổ cầm tay, vui vẻ tiếp khách hàng là những
người Mỹ/Mễ mang những bọc quần áo tới hoặc đang kiểm lại từng chiếc áo quần mới giặt
trước khi thanh toán tiền bạc ra về.
Đành rằng khi nói về cuộc phỏng vấn, Mặc Giao có cho tôi biết sơ qua là sau vụ ngành
địa ốc ở Houston, Texas sụp đổ, gia đình anh chị dọn qua California. Nhưng tôi không ngờ
cuộc sống của anh chị lúc này lại thay đổi lớn như thế!
Khi người khách cuối cùng rời tiệm, nhìn anh đang di chuyển vào bên trong, chờ một
lúc cho cơn xúc động đi qua, tôi trở lại gõ vào cánh cửa mở ngỏ. Từ phòng trong anh tươi cười
bước ra, nắm tay tôi thật chặt, kéo vào phòng khách, ân cần hỏi:
-Anh tới đã lâu chưa? Tôi vừa tiếp mấy ông bà khách hàng. Anh vào trong này mình nói
chuyện, nhà tôi chắc cũng sắp đến thay tôi.
Mở miệng trả lời anh, nhưng thâm tâm tôi không khỏi bật lên câu hỏi thầm: “Có thật
đây là ông Nguyễn Văn Ngân, Phụ tá Đặc biệt về Chính tri cạnh TT Nguyễn Văn Thiệu thời đệ
nhị CHVN ? Cố nén cơn xúc động bất ngờ, tôi hỏi anh nhà vệ sinh rồi thả tay anh bước vào
khép cửa lại để che giấu tâm cảnh xao động của bản thân khi ấy.
Khoảng mấy phút sau, chị từ bên ngoài vào, tôi đứng lên cúi đầu chào. Anh nói mấy lời
giới thiệu, tôi nghiêng mình chào chị lần nữa. Chưa kịp nói thêm điều gì thì có tiếng bầm
chuông của khách hàng, chị giơ cao tay chào và bước ra nối tiếp công việc của anh.
Trong buổi gặp gỡ hơn một tiếng đồng hồ hôm ấy, anh và tôi chỉ tập trung vào việc tìm
hiểu sơ qua về thân thế và gia đình của nhau. Trước khi chia tay, anh bàn thẳng vào chương
trình làm việc rồi trao cho tôi mấy trang giấy phác thảo nội dung chủ đề các cuộc trao đổi dài
để tôi chuẩn bị cho những buổi làm việc trong những mgày kế tiếp.
Chuyện kết thúc ra sao tôi đã trình bày tạm đủ trong bài viết này.
Sau ngày hay tin mất anh vĩnh viễn, hồi tưởng lại những kỷ niệm cũ, tôi vẫn không khỏi
có điều ân hận, dù trước ngày mẹ các cháu lâm vào căn bệnh quái ác là bệnh mất trí nhớ, tôi
còn giữ liên lạc chặt chẽ với anh. Nhưng thâm tâm tôi vẫn mơ hồ cảm thấy ân hận. Nhớ lại
ngót hai năm trước, chính xác là đầu năm 2022, các con cháu chúng tôi tổ chức mừng tôi 90
tuổi, có sự hiện diện của hai anh chị Nguyễn Đắc Điều, Phạm Tín An Ninh và anh Trần Huy
Bích, những người vốn có những liện hệ mật thiết với chúng ta. Xa xôi như anh chị Mặc Giao
không nói làm chi. Vậy mà tôi quên anh chị, vốn chỉ cách xa nơi chúng tôi cư ngụ trong khoảng
4/50 dậm! Quả là một lỗi lầm khó bỏ qua!
Thứ Bảy, 18-11-2023 này, tôi sẽ nhờ các con tôi lo cho Mẹ chúng để có mặt trong Tang
Lễ anh, nhìn mặt anh lần cuối và để xin anh tha thứ cho những lỗi lầm, thiếu sót.
Bài viết cuối tưởng niệm anh trong niềm tôn kính, nuối tiếc và ân hận khôn nguôi.
Viết tại miền đất tạm dung nam Califirnia, Hoa Kỳ khuya Chúa Nhật 12-11-2023
Bái biệt anh,
Trần Phong Vũ