Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label PhuTaNguyenVanNgan. Show all posts
Showing posts with label PhuTaNguyenVanNgan. Show all posts

Tuesday, 14 November 2023

CÁM ƠN HUYNH TRƯỞNG TỪ NAM CALI ĐÃ CHUYỂN BÀI VIẾT HÃY CÒN CHƯA NGUỘI LẠNH./-Mt68

_________________

 ‘Nguyễn Văn Ngân,

một Mẫu Người Công Chính vừa từ giã chúng ta.

Trần Phong Vũ

Buổi trưa Thứ Năm, ngày 2-11-2023, tôi được tin anh5 Nguyễn Văn Ngân đã vĩnh viễn

ra đi chiều hôm trước, ngày 1-11-23 đúng vào dịp Lễ Các Thánh của người Công giáo.

Trong nỗi bàng hoàng, xúc động, tôi tự hỏi: sự sống và nỗi chết tại sao lại cận kề, gắn

bó, đan xen với nhau chặt chẽ đến thế?

Mới vài ngày trước còn nghe anh Nguyễn Đắc Điều, người bạn thân của anh cho hay,

anh tỏ ý muốn đọc cuốn “Còn Ai Giữa Mênh Mông Đời Mình” của bà Phạm Minh Tâm (Úc

châu) vừa được một số anh em chúng tôi giới thiệu ở Tiểu Sài Gòn hôm Chúa nhật 22-10-2023.

Thế mà thoắt chốc, hôm nay anh đã ra người thiên cổ!

Ký ức trong tôi bừng bừng trỗi dậy. Nó cuốn hút, lôi kéo tôi trở về với quá khứ năm

2006, chẵn 17 năm trước. Đấy là những tháng ngày lái xe từ Laguna Niguel, một thành phố cực

nam quận Cam lên thị trấn Norwark, vùng Biển dài, nơi anh ngày ngày phụ chị điều hành một

tiệm giặt, sau khi từ Texas dọn về miền nắng ấm California mấy năm trước đó.

Đây là thời gian tôi vinh dự được anh Ngân dành cho một cuộc phỏng vấn đặc biệt về

những trải nghiệm của anh trong suốt thời gian đảm nhiệm vai trò Phụ Tá Chính Trị Đặc Biệt

tại Phủ Tông Thống thời Đệ Nhị Cộng Hòa Việt Nam sau biến cố tháng 11 năm 1963.

Trước khi khởi sự, chúng tôi mặc nhiên dành thời gian đầu để biết chút đỉnh về quá khứ

của nhau, dù rằng anh Mặc Giao Phạm Hữu Giáo, người bạn chung của chúng tôi đã cho biết

sơ qua, trước khi MG trở thành trung gian kết nối giữa anh Ngân và tôi.

Trong hơn 4 tháng trời cặm cụi làm việc bên người bạn mới quen, ngày qua ngày tôi

phát hiện nơi anh nhiều đức tính cao quí. Kín đáo, cẩn trọng, trung thực, nhất là thái độ

khiêm cung, hòa nhã khi xử kỷ tiếp vật.

Cụ thể là trong khi thâu âm và ghi chú phần trả lời, đôi lần gặp một lời phát biểu mà tôi

thấy có phần hơi quá đối với một nhân vật nào đó trong chính trường VN trước 75, tôi ngừng

lại nghiêm trang hỏi anh có cần xét lại đoạn vừa phát biểu không, anh đều điềm đạm trả lời.

-Đối với tôi, cho dù khen bất cứ ai tôi cũng phải hết sức thận trọng, nói chi chuyện phê

phán về hành vi sai trái của một nhân vật dù còn sống hay đã quá cố, làm sao tôi có thể nói

khác được. Xin anh cứ ghi nguyên văn như thế.

Nội dung cuộc phỏng vấn đã được độc quyền giới thiệu với độc giả trên trang mạng

ĐCV Online do nhóm anh Lã Mạnh Hùng điều hành và trên nhật báo Người Việt ở Quận Cam

thời cố ký giả Vũ Ánh làm Chủ bút.

Về báo Người Việt tôi không rõ, nhưng trên ĐCV Online, sau bốn kỳ trong 4 tuần liên

tiếp trên mạng, chỉ riêng phần ý kiến người đọc, tôi đã in ra được 200 trang khổ 81/2 x 11’.

Điều này cho thấy những tiết lộ của người Phụ tá đặc biệt của TT Thiệu thời đệ nhị

CHVN được bà con tị nạn quan tâm theo dõi như thế nào.

Sau đó, vì những lý do riêng, cả hai chúng tôi đều quyết định ngưng. Tôi không có

quyền tiết lộ lý do về phía người trả lời phỏng vấn vừa mãn phần. Riêng tôi, chỉ vì những cam

kết của Chủ bút báo NV với tôi đã không được coi trọng. Chuyện nhỏ nhưng với tôi không dễ

chấp nhận. Đó là sự thay đổi đột ngột vị trí đăng bài trên NV như đã thỏa thuận ban đầu.

Dù vậy, sau đó chúng tôi vẫn giữ liên lạc với nhau. Lâu lâu tôi vẫn cố gắng tìm giờ

thuận tiện ghé thị trấn Norward thăm anh.

Cho đến đầu năm 2017 vì lý do căn bệnh mất trí nhớ của mẹ các cháu trở nên ngày một

xấu khiến tôi phải dành toàn thời gian săn sóc nhà tôi. Vì thế chúng tôi ít gặp gỡ trực tiếp,

ngoại trừ những trao đổi hỏi thăm nhau qua email hoặc điện thoại.

Trước khi dẫn vào nội dung chính của bài viết, tưởng cũng cần phải nói thêm rằng,

trong 4 tháng làm việc bên anh Ngân, dù đôi khi anh có chia sẻ với tôi về mình, nhưng những

cái biết của tôi về anh vẫn còn rất giới hạn.

Phải chờ tới khi được nghe bạn bè nói lại, nhất là được đọc những bài do anh thuật lại

về quá khứ của anh hoặc những biến cố sôi động trên chính trường trong hai nền Cộng hòa


miền Nam mà anh vửa là tác nhân vừa là nhân chứng, tôi mới thật sự hiểu biết hơn về hành

trạng, nhân cách và con người thật của anh. Nó trái hẳn với những gì người ta thêu dệt được

giới truyền thông bát nháo ở Sàigòn thời ấy loan tải.

Giây phút này tôi vẫn chưa hết bàng hoàng khi nghe tin anh bất ngờ giã từ cuộc sống để

trở về miền miên viễn, từ giã người thân yêu, bè bạn, cởi bỏ hết mọi khát vọng cũng như ưu

phiền. Trong một giây xúc động, tôi tự hứa sẽ dành thì giờ viết đôi điều về anh:


Chân dung Ô. Ngân, nguyên Phụ Tá Đặc Biệt của TT NVThiệu

* * *

Chất liệu chính gây cảm hứng cho tôi đến từ trang “Những Năm Tháng Cũ” của tác giả

Nguyễn Hoàng Lưu viết về “Bà Ngô Đình Nhu và cuộc chính biến 1-11-1963”.

Thuở sinh thời anh Ngân, có lẽ rất ít người biết đây là một trong những bút danh của

anh. Tôi công khai nói ra với ý nghĩ chủ quan rằng lúc này anh đã vĩnh viễn ra đi. Những gì tốt

lành, cao cả thuộc về anh, cần phải trả lại anh. Nói cách khác, nó cần được “qui hoàn cố chủ”

như “châu về Hiệp Phố” để mọi người cùng biết. Biết để khỏi có những ngộ nhận về sự thật của

một thời vàng son trong lịch sử VN cận đại. Và cũng biết để trả lại danh dự cho dòng họ Ngô

Đình, cách riêng cho Tổng Thống Diệm, ông bà Nhu, qua nhừng chứng từ khả tín của anh.

Trong tinh thần ấy, tôi viết bài này như một nén tâm hương tưởng niệm anh, một

mẫu người Công Chính mà tôi hết lòng quý mến.

Tục ngữ Việt Nam có những câu “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “ăn cây nào, rào cây ấy”.

Từ ý nghĩa đơn giản, dung tục người xưa gửi vào hai câu nói cửa miệng của người bình dân,

sau khi đọc hết bài viết của anh Ngân với bút hiệu Nguyễn Hoàng Lưu, áp dụng vào trường hợp

anh, tôi thấy tuồng như không mấy ứng hợp. Dù vậy, nó lại mang ý nghĩa vô giá.

Nếu xét riêng về danh vọng, địa vị, quyền thế, thì đệ nhị Cộng Hòa –cách riêng TT

Nguyễn Văn Thiệu-, phải là cơ chế và nhân sự để ông ghi nhớ và tri ân. Thế mà trong bài viết

này anh đã làm công việc của một phán quan trung trực, với những lời biện hộ tận tình cho hầu

hết những khuôn mặt lớn trong dòng họ Ngô Đình, từ cố TT Ngô Đình Diệm, ông cố vấn Ngô

Đình Nhu, và cả cá nhân bà Nhu nhũ danh Trần Lệ Xuân, một người mà trong bài tiểu luận của

mình, anh Ngân cũng đã ghi lại những lời lẽ báng bổ của miệng đời:

“Dư luận cho ông Nhu là con người lạnh lùng, thủ đoạn, thâm hiểm, và bà Nhu là

người đàn bà lộng quyền, lăng loàn, trắc nết; báo chí ngoại quốc gọi bà Nhu là “rồng cái”, mụ

phù thủy, Lucrèce Borgia v.v…”

Còn về cố Tổng Thống Diệm, hẳn anh cũng thừa biết, tuy có nhiều người kính trọng,

suy tôn, nhưng cũng không ít người đố kỵ gán cho là quan liêu, độc tài, gia đình trị, thậm chí là

một nhà lãnh đạo bất tài, cổ hủ!


Ấy vậy mà người đọc tìm được trong bài nhận định về bà Ngô Đình Nhu và cuộc chính

biến ngày 1-11-1963 rất nhiều đoạn tác giả đã không ngần ngại đưa ra những lời phản biện đầy

xác tín, dựa trên những chứng từ giá trị, gián tiếp phản biệt nhửng lời kết án hàm hồ ấy.

Đành rằng trong đoạn mở đầu cho biết, anh khởi sự làm việc ở Quốc Hội VNCH (đệ I

Cộng Hòa thời TT Ngô Đình Diệm) như một chuyên gia về luật pháp bên cạnh một số Thẩm

phán, Luật sư danh tiếng thời ấy. Nhưng phải nói hầu hết những chức vụ anh đảm nhiệm dưới

thời đệ nhất CHVN chỉ mang tính chuyên môn trong phạm vi luật pháp. Vì thế, trong các bài

viết của anh cũng như trong khi trao đổi với anh, cá nhân tôi chưa bao giờ đọc hay nghe anh

nói đến những lần gặp mặt trực tiếp ông hay bà Nhu, nói chi tới Tổng Thống Diệm.

Qua bài tiều luận khá dài, anh Ngân đã bỏ biết bao nhiêu công sức để tự tìm hiểu qua

những tiếp xúc trực tiếp với các tướng tá, nhân sĩ một thời được coi là tay chân thân tín của TT

Diệm. Cụ thể như tướng Trần Văn Đôn, ông Cao Xuân Vỹ. Từ đấy, nhờ tính thiện thừa hưởng

từ gia đình, dù không có nợ gì với đệ nhất CHVN, lương tâm đòi buộc anh phải nói lên những

lời công đạo để soi sáng cho các thế hệ sau về một giai đoạn lịch sử tối quan trọng của nước

nhà, nhưng lại chất chứa biết bao chuyện thị phi, oan trái, vàng thau lẫn lộn.

Đấy là lý do vì sao, khi viết về TT Ngô Đình Diệm và ông bà Nhu, tác giả đã cẩn trọng

ghi lại với những lời lẽ có cánh sau đây:

”Về căn bản ông Diệm là một nhân sĩ được ông Bảo Đại mời nắm chính quyền, là một

người đạo đức; cầm quyền vào thời loạn nhưng luôn luôn mang tư tưởng: nếu hoàn cảnh và

thời thế cho phép làm được thì làm bằng không thì đi vào tu viện. Cụ thể năm 1933 ông từ chức

Thượng thư Bộ Lại (thủ tướng) vì những yêu sách không được người Pháp thỏa mãn mặc dầu

ông Bảo Đại năn nỉ ở lại.

Sau 9/3/1945 ông Bảo Đại nhờ người Nhật tìm ông Diệm để giữ chức vụ Thủ tướng

nhưng người Nhật biết khó làm việc với ông Diệm nên đã đưa ông Trần Trọng Kim bấy giờ

đang sống ở Singapore dưới sự bảo vệ của người Nhật.

Năm 1948 khi giải pháp quốc gia thành hình, ông Diệm là người đầu tiên được ông Bảo

Đại mời giữ chức vụ Thủ tướng nhưng đã từ chối. Năm 1954 trước tình trạng đất nước phân

chia, ông Bảo Đại mời ông Diệm giữ chức Thủ tướng toàn quyền về dân sự và quân sự. Trong

hồi ký của ông Bảo Đại không hề có một lời trách cứ nào đối với ông Diệm về cuộc trưng

cầu dân ý 23/10/1955 vì ông Bảo Đại hiểu con người ông Diệm không phải chủ tâm đoạt

quyền mà do hoàn cảnh lịch sử bấy giờ.

Ông Ngô Đình Nhu là một học giả, nặng về suy nghĩ, nghiên cứu hơn là hành động.

Ông Đoàn Thêm, làm việc cạnh ông Nhu từ 1955 đến 1963, tác giả bộ sách ‘Việc từng ngày’ có

nhận xét: ‘Về phương diện trí thức, trình độ của ông Nhu rất cao, học vấn cổ điển và nhân bản

của ông rộng và vững.’ Ông là người đề ra triết lý chính trị làm nền tảng cho chế độ đệ I CH,

định hướng cho chính sách, đường lối quốc gia; thấy rõ các vấn nạn của đất nước do tình

trạng chậm tiến và nhu cầu khẩn thiết phải giải quyết, là động lực cho các kế hoạch ngũ niên,

kỹ nghệ hóa, khu trù mật, ấp chiến lược … trên cơ sở cộng đồng đồng tiến. Ông là nhà chính

trị có tư tưởng, điều mà các chính khách VN khác rất thiếu sót.

 Ông Nhu không có tham vọng chính trị, lãnh đạo. Ông giúp ông Diệm như một tư

nhân, không có văn kiện chính thức bổ nhiệm ông vào chức vụ cố vấn Tổng thống. Ông không

muốn ở trong dinh Độc Lập cũng như dinh Gia Long sau này nhưng vì lý do an ninh và ông

Diệm yêu cầu vì cần ông ở bên cạnh. Ông muốn sau này khi không còn giúp ông Diệm thì về

Đà lạt dạy bọn con nít trung học Pháp về cổ ngữ (tiếng Latin). Những người làm việc cạnh ông

Diệm, ông Nhu nói với tôi: ngoại trừ các vấn đề được ủy quyền , ông Nhu hoàn toàn tự giới

hạn trong vai trò cố vấn, ông Nhu rất tôn trọng  chức vụ tổng thống của ông Diệm ; đối với các

vấn đề thuộc thẩm quyền chuyên độc của Tổng Thống ông Nhu không cho ý kiến ngoại trừ khi

được ông Diệm yêu cầu.

Không có vấn đề ‘lấn quyền’ hay ‘thao túng’ như dư luận đồn đãi, ông Diệm luôn

luôn là người quyết định tối hậu.

Năm 1962 trong dịp nói chuyện với sinh viên sỹ quan Thủ Đức khoá 13 gần 3 tiếng

đồng hồ, có đoạn ông tự thuật về quãng đời của ông, ông nói lúc trẻ ông có ý định theo học

ngành kỹ sư thủy lâm vì muốn gần gủi với thiên nhiên nhưng sau đổi ý vào École nationale des

chartes vì muốn đi vào thế giới sách vở, tư tưởng, còn lãnh vực chính trị là do hoàn cảnh thúc

đẩy sau này. Nói đến đây, ông liên hệ đến chúng tôi (đa số là thành phần động viên): ‘cũng

như các anh, có bao giờ ngờ là giờ đây các anh ngồi ở đây không?’. Đúng vậy, nếu chọn binh


nghiệp thì chúng tôi đã vào lính từ 18, 20 tuổi để còn lên tướng, bây giờ tất cả đều trên dưới 30

tuổi, nhiều người đã vợ con đùm đề trong tình trạng chồn chân gối lỏng, có người vừa du học

từ ngoại quốc về mang theo vợ đầm nay trong tình trạng chới với …

Việc đời thăng trầm vô thường .Cũng như ông Ngô đình Nhu hôm đó có đâu ngờ trong

số cả ngàn sinh viên sỹ quan ngồi bệt trên nền xi măng nghe ông nói chuyện, có một “nhân

vật” chỉ hơn mười tháng sau đã đóng đinh vào quan tài của ông và ông Diệm. Anh ta cùng

đại đội với tôi, thuộc đại đội 8 khoá 13, là chủ và tài xế chiếc xe hơi Austin DBA599 đưa

Thượng tọa Quảng Đức đến ngã tư Phan Đình Phùng – Lê Văn Duyệt tự thiêu. Anh ta không

phải chỉ là tài xế mà là thành phần đạo diễn vụ tự thiêu, ông Quảng Đức chỉ là nạn nhân.”

(...)


Chân dung TT Ngô Đình Diệm - lấy trên Google

Ông Diệm có cuộc sống độc thân khắc khổ của người tu hành, có lòng thương người, dễ

nóng giận nhưng cũng dễ tha thứ, đêm ngày hoàn toàn lo việc nước, không có một thú vui giải

trí nào ngoài sở thích chơi máy ảnh .

Ông Nhu xuất thân là một quản thủ thư viện, ham mê đọc sách, làm việc nhiều về trí óc

nên gần như không chú trọng về đời sống vật chất . Ông không phải là người quảng giao, trong

giao tế thiếu sự vồn vã nên bị xem là lạnh lùng, khinh người. Ông Nhu từng nói:’mình có học

là bởi cha mẹ ông bà có tiền cho ăn học, chớ mình hơn gì ai!’.

Một trí thức khoa bảng xuất thân từ giai cấp quan lại phong kiến nói một câu như vậy

không phải là hạng người ‘mục hạ vô nhân’ mà là con người phân biệt được những giá trị

‘thực’ và những giá trị ‘giả’. Do đấy một số trí thức và tướng tá có mặc cảm, sợ và ghét vì ông

thấy rõ chân tướng họ, trong thực tế ông Nhu chẳng làm hại ai cả .

Bà Nhu quán xuyến mọi công việc gia đình, săn sóc chồng và con như truyền thống của

các bà vợ và mẹ Việt Nam.  

Trái với dư luận đồn đãi, ông Nhu không hút thuốc phiện nhưng là người nghiện

thuốc lá nặng. Khi làm việc ông đốt thuốc lá liên miên, bốn, năm bao mỗi ngày. Về sau theo lời

dặn của bác sĩ, bà Nhu kiểm soát chặt chẽ bằng cách không để ông Nhu giữ thuốc lá mà giao

cho người phục dịch giữ với số lượng nhất định mỗi ngày.

Hút thuốc lá còn bị bà Nhu kiểm soát như vậy thì làm sao có thể hút thuốc phiện được

và làm sao có thể dấu những người phục dịch và các cọng sự viên vì người hút thuốc phiện có

mùi đặc biệt ( vụ hút thuốc phiện do bộ trưởng Nguyễn đình Thuần phao tin với người Mỹ )’

Ở một đoạn khác, anh viết:

“Ông Nhu rất cưng chiều con cái nhưng bà Nhu là người trực tiếp giáo dục, kiểm soát

việc học hành, đưa vào khuôn khổ. Bà Nhu sinh trưởng trong một gia đình thượng lưu, giàu

sang nên nhiều người tưởng bà là người sống xa hoa nhưng thực ra bà có cuộc sống giản dị,

cần kiệm, ăn uống dễ dãi, không kén chọn, không mang các loại trang sức đắt tiền. Bà rất tốt


với kẻ dưới. Những gia nhân phục dịch cũ nhắc đến bà với sự thương cảm, hàng tháng bà

cho họ quà hay tiền được gói kín và trao tận tay.”

Đề cập chuyện bà Nhu thời làm Dân biểu soan bộ luật Gia Đình mà dư luận khi ấy suy

đoán là bà có dụng ý ngăn chặn ông Bộ trưởng Nguyễn Hữu Châu là anh rể bỏ chị của bà là

Trần Lệ Chi, tác giả viết:

“Khi làm công việc san định chúng tôi có tìm hiểu ý chí của các nhà lập pháp, bà Nhu

đã đề xuất việc cấm ly hôn chỉ vì thiện ý muốn bảo vệ quyền lợi của người đàn bà có chồng

trong một xã hội bấy giờ còn trọng nam khinh nữ mà đa số trường hợp ly hôn đều do người

chồng chủ động và phần lớn những người đàn bà bị ly hôn đều không đủ điều kiện tự lập,

bị rơi vào tình trạng bơ vơ, không nơi nương tựa, xã hội và gia đình coi rẻ.

Trường hợp ông Nguyễn Hữu Châu và bà Trần Lệ Chi chỉ là sự trùng hợp. Cần phải

đọc toàn bộ biên bản thảo luận tại Quốc hội về bộ luật gia đình thì mới thấy được tư tưởng của

bà. Bà Ngô Đình Nhu là người có tham vọng đóng vai trò tiên phong trong công cuộc giải

phóng phụ nữ Việt Nam thoát khỏi những ràng buộc pháp lý và phong tục cổ hủ của xã hội cũ,

phục hồi nhân cách, đưa lên địa vị bình đẳng với nam giới. Đó là lý do sau này dẫn tới việc

thành lập phong trào Phụ nữ Liên đới, Phụ nữ bán quân sự… đồng thời cũng nhằm mục tiêu

đưa quốc gia ra khỏi tình trạng chậm tiến.”


Hình Bà Ngô Đình Nhu và ái nữ Ngô Đình Lệ Quyên

Trung thành với chủ đề viết về bà Ngô Đình Nhu và cuộc chính biến ngày 1-11-1963,

anh Nguyễn Văn Ngân, với bút danh Nguyễn Hoàng Lưu đã cố gắng khách quan tối đa khi nói

về ông Ngô Đình Diệm, người có công khai sáng nền Cộng Hòa Việt Nam, ông Ngô Đình Nhu

được những người hiểu biết trong nước và thế giới nhìn nhận như một kiến trục sư của chế độ.

Do đó, tác giả đã dành khá nhiều thì giờ để tìm hiểu cặn kẽ về thói quen, lối sống cũng như

nhân thân, tư cách của từng người, bao gồm bà Nhu vốn là người đã gánh chịu những búa rìu

đầy ác ý của công luận đầy thiên kiến và thành kiến lúc bấy giờ.

Anh viết:

“Một hôm tôi ghé lại phòng trực sỹ quan dinh Gia Long, có một người đàn ông lớn tuổi

ăn mặc lam lũ bước vào xin lửa hút thuốc, tôi bật quẹt cho ông ta. Thấy ông nói giọng Huế và

hút thuốc lá vấn, tôi hỏi: chắc bác làm việc ở đây từ thời Cụ (cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm)?

-Dạ phải.

-Bác làm gì?

-Dạ nấu ăn cho Cụ.

-Thế bây giờ bác làm công việc gì ở đây?

-Dạ thưa tôi làm vườn.


Tôi ngạc nhiên, đinh ninh ông này là bếp Tây từ thời các công sứ, khâm sứ Pháp không

lẽ lại bị chế độ mới “hạ tầng công tác”, nên hỏi:

- Tại sao người ta không để bác nấu ăn cho Trung Tướng Thiệu mà đưa bác đi làm

vườn?

-Dạ tôi có phải bếp Tây, bếp Tàu chi mô. Tôi theo hầu Cụ từ xưa. Cụ ăn uống đơn sơ,

buổi sáng dùng cháo trắng, dưa chua, trưa dùng cơm, món canh, món mặn…, tối Cụ không

dùng cơm, chỉ dùng rau với trái cây; mỗi ngày đi chợ chưa đầy trăm bạc.

-Thế hàng ngày Cụ không dùng cơm chung với gia đình ông bà cố vấn (ông bà Nhu)?

-Dạ không. Chỉ khi nào có đức Cha ghé lại (Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục). Dạ mà

hôm nào có thức ăn còn lại thì bà (bà Nhu) thường dặn để dành ăn tiếp bữa sau…”

Cuộc đối thoại ngắn ngỉi trên đây cho người đọc nhận ra không chỉ lối sống giản dị,

đạm bạc của TT Diệm mà còn cho thấy hai bộ mặt của một bà Ngô Đình Nhu, khuê danh Trần

Lệ Xuân. Một mệnh phụ giàu lòng nhân ái với kẻ ăn người ở, nhưng lại là một người Vợ, người

Mẹ, người nội trợ căn cơ, cần kiệm khác thường.

Đi sâu vào những chi tiết nói về ông bà Ngô Đình Nhu, Tổng Thống Diệm và những

nhân vật liên hệ, ngoài những chi tiết về quan điểm, trình độ tri thức, lối sống ngay thẳng, đơn

sơ, đạm bạc gợi nhớ tới những bậc đại trượng phu thời cổ, anh Ngân còn hé mở cho người đọc

nhận ra sự lương thiện trí thức của những nhân vật lãnh đạo ngoại thường.

Đó là thái độ dứt khoát không vì cha ông làm lớn mà đi vào vết xe đổ qua câu ca dao

quen thuộc “Con Vua thì lại làm Vua,...”. Nói cách khác, bố mẹ một khi đã làm lớn thì dù

trưởng thành giữa thời chiến, con cái vẫn được ưu tiên hoãn dịch, được chọn những trường

danh tiếng đi học ở Mỹ, ở Âu châu, Úc châu.... coi nghĩa vụ quân sự để cứu nước (và cũng để

lãnh thương tật trọn đời hay để chết) là của con em những thành phần thấp kém trong xã hội!

Anh viết:

“Đa số những người trong gia đình ông bà Nhu đều tốt nghiệp các trường lớn ở Pháp,

chịu ảnh hưởng văn hoá Pháp; kỹ sư Ngô Đình Luyện tốt nghiệp École centrale, ông Nhu tốt

nghiệp đại học Sorbonne và École nationale des chartes, luật sư Trần Văn Chương (cha bà

Nhu), bác sĩ Trần Văn Đỗ (chú bà Nhu) và ngay cả ông nội (Trần Văn Thông, 1875-1955), ông

ngoại (Thân Trọng Huề, 1869-1925) đều du học ở Pháp. Bà Nhu lúc trẻ học Lycée Albert

Sarraut…; nhưng tất cả các con cái ông bà Nhu đều học hành trong nước và ở trong nước.

Ngô Đình Lệ Thủy con gái đầu của ông bà đậu Tú Tài Pháp năm 1962 và theo học đại học 

Văn Khoa Sài Gòn niên khóa 1962-63.

Trong những giờ phút nguy hiểm các con cái họ đều có mặt bên cạnh: cuộc đảo chánh

hụt 11/11/60 lúc lính Dù công hãm dinh Độc Lập, vụ ném bom dinh Độc Lập 27/2/62… Trong

vụ ném bom 27/2/62 bà Nhu bị thương nhẹ, người xẩm giữ con nhỏ của bà Nhu (Ngô đình Lệ

Quyên) bị tử thương.

Trước biến cố 1/11/63 vào lúc người Mỹ công khai ý định loại trừ ông bà Nhu và lật đổ

chế độ, những người thân cận ông Nhu đã khuyên ông gởi các con ra ngoại quốc nhưng

ông nói các con của ông sẽ phải chấp nhận số phận như những trẻ Việt Nam khác và phải

chung hoạn nạn của gia đình một khi cha mẹ chúng đảm nhận các trách vụ chính trị.

Ông từng nói với con trai đầu Ngô Đình Trác mới 15 tuổi: … “rồi đây có lẽ con phải

chịu nhiều đau khổ hơn những đứa trẻ khác. Là con trai lớn phải lãnh đạo gia đình nếu vì một

lý do gì cha mẹ không còn ở gần!”

Tháng 9/63 bà Nhu rời Việt Nam đi Belgrade (Nam Tư) dự hội nghị Liên hiệp Nghị sĩ

Quốc tế. Tại phòng khách danh dự phi trường Tân Sơn Nhất, ý thức được tình hình đã nguy

hiểm, bà tuyên bố: tôi đi chuyến này không phải để chạy trốn, bằng chứng là tôi còn gửi lại

trên đất nưóc này tất cả những người thân yêu nhất: chồng và các con tôi… Ông Nhu dự

định đi Tokyo để đón vợ trên đường trở về đồng thời nghỉ ngơi ít ngày nhưng bà Nhu đã cản:

“Anh không nên đi lúc này, đi lúc này là đào ngũ.”.

Tác giả viết tiếp:

“Ủy Ban Điều tra Tài sản và Tội Ác của Hội Đồng Quân nhân Cách mạng 1/11/63 cho

thấy ông Diệm không có tài sản, ông bà Nhu chỉ có một bất động sản đang xây cất dở dang ở

Đà lạt, họ không hề tham dự bất cứ một công cuộc làm ăn, kinh doanh nào.”

Nói về nhân cách, đạo đức của những nhân vật đầu não trong thời đệ nhất CHVN thì

như thế, nhưng khi trở lại với đệ nhị CH, anh không khỏi đau đớn ghi nhận:


“Những người lãnh đạo sau này không có được tư cách như vậy. Tổng Thống Thiệu

gởi con trai còn nhỏ đi học ở các tư thục đắt tiền nhất Thụy sĩ và Anh; con rễ Tổng Thống

Thiệu và Thủ tướng Khiêm đều thuộc thành phần trốn quân dịch. Kể từ khi mới bắt đầu

cầm quyền các ông Thiệu, Khiêm đã lo tích lũy tài sản, tẩu tán ra ngoại quốc đề phòng lúc

hữu sự, và tất cả đã đào thoát bằng máy bay Mỹ tối 25/4/1975.

(...)

“Sau 1/11/63 không còn sự kiềm chế và kiểm soát, đám tướng lãnh ‘hội đồng cách

mạng’ ăn chơi trác táng thâu đêm suốt sáng, các nữ sinh viên Phật tử hiến thân cho “ các anh

hùng cách mạng”, các bà Phụ Nữ Liên Đới đem thân xác ’chuộc tội ‘… ; ‘Ủy ban Điều tra  Tài

sản và Tội Ác’ tróc nã tiền của lớp Cần Lao dân sự có máu mặt, có người biết đem của che

thân thì thoát nạn (trường hợp tỷ phú N.C.T., ông này đã cúng cho Phật giáo Ấn quang đám

đất xây Đại học Vạn Hạnh đường Trương Minh Giảng Sài Gòn), có người đem thân che của thì

thân đi Côn đảo, của cải mất, vợ bị chiếm đoạt (trường hợp N.V.B.) Gian dâm vợ người, tống

tiền, cưỡng đoạt tài sản không bị xem là tội ác mà được xem là những chiến lợi phẩm của

‘vụ đoạt quyền 1/11/63’ Việc phân chia ‘quả thực’ (tiền bạc, chức vụ v.v..) không đồng đều,

gây ra bất mãn, phe đảng…, là nguyên nhân chính đã đưa đến cuộc chỉnh lý ba tháng sau

30/1/1964.”

Khi đưa ra những chứng tích về sự thiếu nhân cách của người lãnh đạo, từ ông Thiệu

cho tới các tướng lãnh chủ chốt trong cuộc binh biến ngày 1-11-63, hẳn tác giả bài viết không

khỏi đau lòng. Chẳng đặng đừng anh đã phải làm ngược lại lời nhắn nhủ của tiền nhân trong

hai câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây/Ăn cây nào rào cây ấy”. Trong trường hợp tréo cẳng

ngỗng như thế, bằng cách nào, một Kẻ Sĩ Công Chính, có lương tâm trách nhiệm như anh có

thể bẻ cong ngòi viết để làm khác?

Bài “Bà Ngô Đình Nhu và cuộc chính biến 1-11-63” dài khoảng mấy chục trang. Dù

trích dẫn đã nhiều cho một bài 8/9 trang giấy nhưng vẫn còn có những thiếu sót cần ghi lại.

Trước khi kết thúc, người viết xin tóm tắt vài sự kiện quan trọng và giới hạn trích dẫn,

như: a/,-Sự dối trá quanh lá thư tuyệt mệnh của ông Nguyễn Tường Tam; b/.- Bí ẩn trong

chuyện thắng thua của cuộc chính biến ngày 1-11-63. c/,- Sau cùng là chữ “NẾU” trong câu hỏi

về trường hợp bà Ngô Đình Nhu không xuất ngoại và có mặt tại Dinh Gia Long ngày 1-11-63.


Tấm hình ghi lại quang cảnh một tăng sĩ đang đỏ xăng lên đầu TT Thích Quảng Đức trước khi bật quẹt “tự” thiêu

Riêng vụ Thượng Tọa Thích Quảng Đức tự thiêu đã được tác giả cho thấy qua mấy

dòng: “Việc đời thăng trầm vô thường .Cũng như ông Ngô đình Nhu hôm đó có đâu ngờ trong

số cả ngàn sinh viên sỹ quan ngồi bệt trên nền xi măng nghe ông nói chuyện, có một “nhân

vật” chỉ hơn mười tháng sau đã đóng đinh vào quan tài của ông và ông Diệm. Anh ta cùng

đại đội với tôi, thuộc đại đội 8 khoá 13, là chủ và tài xế chiếc xe hơi Austin DBA599 đưa

Thượng tọa Quảng Đức đến ngã tư Phan Đình Phùng – Lê Văn Duyệt tự thiêu. Anh ta không

phải chỉ là tài xế mà là thành phần đạo diễn vụ tự thiêu, ông Quảng Đức chỉ là nạn nhân.”

Đọc mấy dòng này hẳn mọi người đã nhận ra người tài xế chở nạn nhân là ông Trần

Quang Thuận, một trong những người đứng sau TT Trí Quang trong biến cố Phật giáo năm 63.


a/,- Sự dối trá quanh lá thư tuyệt mệnh của ông Nguyễn Tường Tam. Nếu độc giả

muốn biết chi tiết cần đọc bài viết của anh Ngân để thấy cách nhìn của anh và nhất là phần trích

dẫn hồi ký “Trong Bóng Tối Lịch Sử” ông Lê Nguyên Phu, nguyên Ủy viên Chính phủ Tòa Án

Quân sự Đặc biệt. Câu chuyện quan trọng và phức tạp này xin rút gọn như sau.

Trong biến cố 1-11-63, nhà văn Nhất Linh NguyễnTường Tam và nhóm đàn em của

ông bị dính.Trên thực tế chỉ có nhóm của ông Hoàng Cơ Thụy biết trước vụ này. Còn những

người khác như Phan Quang Đán, Phan Khắc Sửu, Nguyễn Tường Tam cùng đám em út gồm

có Trương Bảo Sơn, Nguyễn Thành Vinh v.v… đều là những người lúc nghe tiếng súng nổ mới

chạy tới hiện trường, hoan hô đả đảo cho rậm đám. Theo cách nhìn của anh Ngân đây là những

người không được mời ăn cổ, nhưng nghe có đình đám chạy đến để ăn có…Vì hầu hết đàn em

bị bắt trong khi ông Tam được tại ngoại nên có sự chống đối, lời qua tiếng lại gay gắt.

Khi hay tin sẽ phải ra tòa đối chất với đám đàn em đang bị giam giữ, ông NTT đã tìm

tới đầu tiên là đại tá Lê Văn Khoa, và người kế nhiệm sau đó là ông Lê Nguyên Phu để xin

được miễn trừ vì sợ mất mặt trước công luận. Ông LNP tỏ ra thông cảm những khó khăn, tế nhị

của ông NTT, nhưng hoàn cảnh không cho phép ông vượt qua những nguyên tắc về luật pháp,

nên ông từ chối. Sau khi ra về, trong tâm trạng bấn loan ông NTT đã tự tử.

Theo nhận định của tác giả hồi ký “TBTLS”, sau khi nghe ông NTT tâm sự, ông LNP

nhận ra ông ta chỉ còn một lối thoát duy nhất để tránh vụ đối chất là tự tử. Lối thoát này giúp

đương sự bảo tồn danh dự và tư cách lãnh tụ, nâng cao nhân phẩm cá nhân và có thể đưa ông

vào lịch sử… Vì biết tõ căn nguyên đích thực xô đẩy ông NTT tự tìm cái chết chỉ vì tự ái quá

lớn, nên ông Lê Nguyên Phu thẳng thắn viết:

“Nhưng tiếc thay, điểm son rực rỡ đã bị ông xóa nhòa, bôi đen bằng một mảnh giấy nhỏ

được ông để lại khi phút lâm chung. Trên mảnh giấy ông cho biết ông tự tử vì không muốn bị

xét xử trước Tòa án của chính quyền Ngô Đình Diệm và xin để lịch sử xét ông về sau.

Những dòng chữ này không biết có đánh lạc hướng được lý do tự tử của ông hay không,

nhưng chắc chắn đã hạ thấp phẩm giá của ông rất nhiều”.

b/.- Bí ẩn về chuyện thắng thua trong cuộc chính biến ngày 1-11-63.

Vì quen biết cũng như sự nể vì của một số tướng lãnh chủ trương vụ đảo chánh, nhất là

tướng Trần Văn Đôn nên sau này anh Ngân được biết tường tận nội tình bối rối, âu lo của họ

trong suốt ngày đêm 1-11. Theo tiết lộ của tướng Đôn thì nhóm tướng lãnh chủ động cuộc

chính biến có lúc đã tính chuyện lên máy bay tìm đường đào thoát. Cho đến khi nhận được điện

thoại của TT Diệm từ nhà thờ Cha Tam họ mới thở ra nhẹ nhõm và điều động đoàn thiết giáp đi

đón hai anh em TT Diệm. Chuyện xảy ra như thế nào sau đó, ngày nay mọi người đều đã rõ.

Về phía Dinh Gia Long, chỉ vì căn tính dè dặt, thiếu quyết đoán, nhất là ông Diệm

không muốn nổ súng gây thương vong, chết chóc cho quân đội mình nên đã hai lần từ chối đề

nghị động binh tấn công thẳng vào Bộ Tổng Tham mưu, chống lại phe đảo chánh.

Tóm lại khi vận nước đã tới hồi suy mạt thì chuyện gì cũng có thể xảy ra. Dù sao nó

cũng là một bài học lớn đối với những người có trách nhiệm mai ngày

c/.- Về chữ “NẾU” trong trường hợp bà Nhu không xuất ngoại và có mặt tại Dinh

Gia Long hôm 1-11-63.

Trong bài viết “Bà Ngô Đình Nhu và cuộc Chính biến 1-11-1963”, tác giả có nhắc lại

một chi tiết về cuộc binh biến ba năm trước vào ngày 11-11-60 như sau:

Trong cuộc binh biến 11/11/60 các đơn vị dù đã tạo được yếu tố bất ngờ, nổ súng bao

vây dinh Độc lập từ phút đầu, vượt hàng rào chỉ cách dinh 50 thước. Trong khi tướng Nguyễn

Khánh chờ lệnh, Tổng thống Diệm hỏi ông Nhu:

-Chú định thế nào?

Ông Nhu trả lời:

-Anh làm Tổng thống thì anh định đoạt.

Bà Nhu can thiệp:

-Anh nói vậy sao được, phải giúp Tổng Thống.

Và bà đưa giải pháp, cương quyết không chấp nhận thất bại. Nhờ vậy, đã đảo ngược

tình thế từ đang bị bao vây sắp đầu hàng chuyển sang thế thắng và dẹp được đảo chánh.

Từ câu chuyện cụ thể ba năm trước cũng như bằng vào bản chất cứng rắn và trí thông

minh, lanh lợi trời cho của bà Nhu, để trắc nghiệm lại suy đoán của mình đúng đến đâu, tác giả

hỏi ông Đôn:


“-Nếu có mặt bà Ngô đình Nhu tại dinh Gia Long ngày 1/11/63 thì cục diện cuộc đảo

chánh sẽ như thế nào?

Ông Đôn trả lời không suy nghĩ.

-Bà Nhu sẽ áp lực ông Diệm,ông Nhu dùng giải pháp quân sự chứ không chấp nhận rút

lui một cách dễ dàng. Bà ấy là con người quyết liệt. Cuộc đảo chánh có thể bị dập tắt hay sẽ

phải đổ máu nhiều. Nếu hôm ấy (1/11) có bà Nhu và thêm cố vấn quân sự như trường hợp

Nguyễn Khánh trong vụ 11/11/60 thì chắc chắn chúng tôi thất bại.”

Cũng trong tiểu luận này, trong một lần gặp ông Cao Xuân Vỹ, nhắc lại cuộc đảo chánh

ngày 1-11-63, anh Ngân thân mật hỏi, bọn tướng lãnh đảo chánh nói anh luôn có mặt bên Cụ và

ông Nhu hôm ấy, tại sao lại để xảy ra cơ sự như vậy? Ông Vỹ trả lời, vẫn chỉ vì cả TT và ông

Nhu đều tỏ ra thiếu cương quyết, riêng ông Cụ thì lúc nào cũng không muốn xảy ra chuyện

quân đội Quốc Gia tàn sát lẫn nhau. Ngừng lại giây lát, ông buột miệng cất tiếng như một lời

than: “phải chi hôm ấy có mặt bà Nhu?.....Âu cũng là cái số!?”

Vài lời cuối trước khi kết thúc.

Đọc lại những trang trên đây, người viết thấy mình chưa khai phá được hết những điều

anh muốn gửi tới người đọc qua bài viết “Bà Ngô Đình Nhu và cuộc chính biến 1-11-2063”

dưới bút danh Nguyễn Hoàng Lưu. Tuy nhiên vì đã vượt quá số trang dự tính ban đầu nên tôi

đành phải tự chế không thể viết dài hơn nữa.

Trước khi chấm dứt, tôi dành những lời cuối để thưa với anh, cho dù anh đã giã từ cuộc

sống để đi về cõi vô cùng, với niềm tin rằng hồn thiêng của anh vẫn hiện diện đâu đây.

Thưa anh Ngân,

Tôi có nhiều điều để cám ơn anh và cũng có điều phải tạ lỗi cùng anh..

Vượt lên trên mọi chuyện khác, tôi biết ơn anh đã cho tôi cơ hội gặp gỡ trực tiếp với

những buổi trò chuyện thân tình trong khoảng bốn tháng trời 17 năm về trước tại nơi làm việc

khiêm tốn của anh. Dĩ nhiên trước đó, tôi đã được diện kiến anh trong những lần nhóm ACE

Thông Luận từ Pháp qua ở tư gia anh Nguyễn Tiến Ích hoặc nhà hàng Hoàng Sa, Tiểu Sàigòn.

Những lần như thế, chúng ta chỉ mới biết nhau qua cái bắt tay, với những lời giới thiệu khách

sáo. Ngoại trừ một lần khi anh đọc được bài điểm sách của tôi về tác phẩm đầu tay của anh

bạn Vũ Thụy Hoàng -cuốn “Sàigòn Tuyết Trắng”- để có cơ hội nói chuyện với anh lâu hơn.

Khi anh Mặc Giao ngỏ ý muốn tôi thực hiện cuộc phỏng vấn anh, tôi rất vui nhưng

thâm tâm không khỏi băn khoăn, ngần ngại trước một chuyện quan trọng quá đột ngột.

Lần đầu bước tới địa chỉ anh cho, tôi khựng lại trở vội ra xe với tâm trạng hụt hẫng khi

bất ngờ thoáng thấy anh đang cúi đầu trên cuốn sổ cầm tay, vui vẻ tiếp khách hàng là những

người Mỹ/Mễ mang những bọc quần áo tới hoặc đang kiểm lại từng chiếc áo quần mới giặt

trước khi thanh toán tiền bạc ra về.

Đành rằng khi nói về cuộc phỏng vấn, Mặc Giao có cho tôi biết sơ qua là sau vụ ngành

địa ốc ở Houston, Texas sụp đổ, gia đình anh chị dọn qua California. Nhưng tôi không ngờ

cuộc sống của anh chị lúc này lại thay đổi lớn như thế!

Khi người khách cuối cùng rời tiệm, nhìn anh đang di chuyển vào bên trong, chờ một

lúc cho cơn xúc động đi qua, tôi trở lại gõ vào cánh cửa mở ngỏ. Từ phòng trong anh tươi cười

bước ra, nắm tay tôi thật chặt, kéo vào phòng khách, ân cần hỏi:

-Anh tới đã lâu chưa? Tôi vừa tiếp mấy ông bà khách hàng. Anh vào trong này mình nói

chuyện, nhà tôi chắc cũng sắp đến thay tôi.

Mở miệng trả lời anh, nhưng thâm tâm tôi không khỏi bật lên câu hỏi thầm: “Có thật

đây là ông Nguyễn Văn Ngân, Phụ tá Đặc biệt về Chính tri cạnh TT Nguyễn Văn Thiệu thời đệ

nhị CHVN ? Cố nén cơn xúc động bất ngờ, tôi hỏi anh nhà vệ sinh rồi thả tay anh bước vào

khép cửa lại để che giấu tâm cảnh xao động của bản thân khi ấy.

Khoảng mấy phút sau, chị từ bên ngoài vào, tôi đứng lên cúi đầu chào. Anh nói mấy lời

giới thiệu, tôi nghiêng mình chào chị lần nữa. Chưa kịp nói thêm điều gì thì có tiếng bầm

chuông của khách hàng, chị giơ cao tay chào và bước ra nối tiếp công việc của anh.

Trong buổi gặp gỡ hơn một tiếng đồng hồ hôm ấy, anh và tôi chỉ tập trung vào việc tìm

hiểu sơ qua về thân thế và gia đình của nhau. Trước khi chia tay, anh bàn thẳng vào chương

trình làm việc rồi trao cho tôi mấy trang giấy phác thảo nội dung chủ đề các cuộc trao đổi dài

để tôi chuẩn bị cho những buổi làm việc trong những mgày kế tiếp.

Chuyện kết thúc ra sao tôi đã trình bày tạm đủ trong bài viết này.


Sau ngày hay tin mất anh vĩnh viễn, hồi tưởng lại những kỷ niệm cũ, tôi vẫn không khỏi

có điều ân hận, dù trước ngày mẹ các cháu lâm vào căn bệnh quái ác là bệnh mất trí nhớ, tôi

còn giữ liên lạc chặt chẽ với anh. Nhưng thâm tâm tôi vẫn mơ hồ cảm thấy ân hận. Nhớ lại

ngót hai năm trước, chính xác là đầu năm 2022, các con cháu chúng tôi tổ chức mừng tôi 90

tuổi, có sự hiện diện của hai anh chị Nguyễn Đắc Điều, Phạm Tín An Ninh và anh Trần Huy

Bích, những người vốn có những liện hệ mật thiết với chúng ta. Xa xôi như anh chị Mặc Giao

không nói làm chi. Vậy mà tôi quên anh chị, vốn chỉ cách xa nơi chúng tôi cư ngụ trong khoảng

4/50 dậm! Quả là một lỗi lầm khó bỏ qua!

Thứ Bảy, 18-11-2023 này, tôi sẽ nhờ các con tôi lo cho Mẹ chúng để có mặt trong Tang

Lễ anh, nhìn mặt anh lần cuối và để xin anh tha thứ cho những lỗi lầm, thiếu sót.

Bài viết cuối tưởng niệm anh trong niềm tôn kính, nuối tiếc và ân hận khôn nguôi.

Viết tại miền đất tạm dung nam Califirnia, Hoa Kỳ khuya Chúa Nhật 12-11-2023

Bái biệt anh,

Trần Phong Vũ

Thursday, 9 November 2023

Phụ Tá Đặc Biệt Nguyễn Văn Ngân nói gì về nhũng bí ẩn quanh Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu?

 Trần Phong Vũ thực hiện 

 Đôi lòi của ngưòỉ phỏng vấn: 
 Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, vai chính nắm giữ chìa khóa mở vào những bí ẩn của một giai đoạn lịch sử, đã vĩnh viễn ra đi ngày 29-9-2001 không để lại một vết tích nào, ít nữa là vể phía ông. Không hồi ký. Không di chúc chính trị. Ông lặng lẽ trở về lòng đất mang theo một trời tâm sự u uẩn của một nhà lãnh đạo từng được dư luận đặt lên bàn cân với nhiều suy đoán, nhận định, lượng giá khác nhau, đôi khỉ đối nghịch nhau. Một khuôn mặt thòi cơ? Một kẻ tham quyển cô vị? Một lãnh tụ gan lỳ, nham hiểm, nhiều thủ đoạn? Một ngưòi yêu nước cô đơn? Một nhà lãnh đạo quốc gia thông minh, mưu trí, nhưng... sinh bất phùng thời? Do một trùng họp tình cờ, 5 năm sau ngày TT Thiệu từ trần, chúng tôi đã gặp gỡ ông Nguyễn Văn Ngân, nguyên Phụ tá đặc biệt vể chính trị của TT Nguyễn Văn Thiệu dưới thời Đệ Nhị cộng Hòa để thực hiện cuộc phỏng vấn này trong nhiều ngày của tháng 9 năm nay (2006). Là một cộng sự viên lâu năm và là một Phụ tá trẻ tuổi nhất trong sô những Phụ tá đặc biệt của TT Thiệu, ông Ngân thường được giới báo chí ngày đó coi là một khuôn mặt bí ẩn. Đối với các chính khách “vòng trong” thì ông là người đã nắm giữ nhiều quyển lực quan trọng trong hậu trường chính trị miền Nam bấy giờ. Ông Nguyễn Văn Ngân khởi sự làm việc với TT Thiệu năm 1965, thời gian ông Thiệu giữ chức Phó Thủ tương kiêm Tổng trưởng Quốc phòng trong chính phủ Phan Huy Quát. Năm 1967, ông là đai diện của Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ tịch úy ban Lãnh đạo Quốc gia trong liên danh Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ tại HỘỈ đồng Tuyển cử Trung ương, trong cuộc chạy đua vào dinh Độc lập. Năm 1971, TT Thiệu ủy nhiệm ông chỉ đạo toàn bộ cuộc bầu cử tháng 10-71; ông là tác giả đạo luật bầu cử tổng thống với điểu 10 khoản 7 đưa đến tình trạng độc cử. Năm 1974, ông là tác giả tu chính án Hiến pháp tháng 01- 74 gia tăng nhiệm kỳ 3 tổng thống. Ông là ngưòi trách nhiệm điểu họp các cơ chế hiến định: Quốc hội, Tối cao Pháp viện, Giám sát viện... và có ảnh hưởng quan trọng đến sinh hoạt của các cơ chế này; đồng thời là người tổ chức đảng Dân Chủ là đảng cầm quyển của TT Thiệu gồm hệ thống quần chúng, chính quyển và quân đội. Tháng 5-1974 ông bị TT Thiệu giải nhiệm và buộc phải rời khỏi Việt Nam. Cuối tháng 01-75, ông từ Mỹ và Gia nã đại vể nước. Đầu tháng 4 năm ấy ông bị TT Thiệu hạ lệnh cho cơ quan an ninh “cô lập” và chỉ được trả tự do sau khỉ TT Thiệu rời Việt nam đi Đài Loan tối ngày 25-4- 1975. Trong cuộc phỏng vấn, chúng tôi được ông Ngân cho xem một sô chứng liệu liên hệ và chúng tôi đã yêu cầu được làm phóng ảnh văn kiện có thủ bút của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu kèm theo phần kết thúc bài phỏng vấn này. Trần Phong Vũ - Ngày 25 Tháng Chín năm 2006. 

 Kỳ I — Những bí ẩn lịch sử được khai quật 
 • Vì sao, cho đên khi chêt, ông Thiệu vẫn không viêt hổi ký? 
 • Ngoài cộng sản, ông Thiệu mang môi thù xương tủy người Mỹ đến tận cuôỉ đời • Vụ mât Quảng Trị năm 72 là một “ sabotage politic >> ? • Vào lúc nào ông Thiệu nuôi ý định tự sát như một cách chống trả cuối cùng? 

 Hỏi: Sau khỉ tổng thống Thiệu mất tháng 9 năm 2001 nhiều tài liệu được tiếp tục giải mật và nhiều hồi ký chánh trị được xuất bản liên quan đến nội tình và cuộc chiến Việt Nam vào giai đoạn ông cầm quyển. Ông là một công sự viên thân cận và là phụ tá chánh trị của tổng thống Thiệu, có thể giúp chúng tôi soi sáng một sô vấn để liên hệ? 

 Đáp: Tôi chỉ có thể trả lòi cho ông những sự thực mà tôi được biết trực tiếp hay gián tiếp bởi những công việc và trách nhiệm được giao phó trong giai đoạn đó. Điểu đáng tiếc là tổng thống Thiệu lúc còn sống đã hoàn toàn ỉm lặng. 

 Hỏi: Theo ông biết thì vì lý do nào tổng thống Thiệu không để lại hồi ký? Đáp: Tôi có biết một sô sự việc. Đầu năm 1983 tôi gặp ông Thiệu ở London. Ông kể cho tôi việc bà Anna Chennault qua Đài Loan thăm ông sau 30/4/75. Năm 1968, bà Anna Chennault là thành viên trong nhóm vận động tranh cử của tổng thống Nixon đã gặp ông Thiệu nhiều lần tại Sài Gòn và quyết định của ông Thiệu không gởi phái đoàn dự hòa đàm Paris đã giúp Nỉxon tháng cử Humphrey với một tỉ lệ xít xao vào cuối năm đó. Cũng cần nói rõ ở đây là quyết định của ông Thiệu không gỏi phái đoàn dự hòa đàm không phải vì Nỉxon như nhiều nhân vật chính trị đã suy diễn bởi hệ quả của nó mà vì những bất đồng giữa Việt Nam cộng Hoà (VNCH) và chính quyển lohnson chưa được giải quyết trong đó có vai trò của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) tại hòa đàm. Ông Thiệu thuộc loại người ăn chác mặc bển, rất cẩn trọng và tỉnh thần trách nhiệm không cho phép ông đem sinh mạng đất nước vào canh xì phé đổi chác những hứa hẹn thiếu cụ thể. về việc bà Chennault qua thăm ông Thiệu tại Đài Loan, ông nói: “Người Mỹ đâu có xuât tiền mua vế máy bay đi thăm tôi, họ muôn thăm dò phản ứng của tôi vì năm 76 là năm bầu cử tổng thông Mỹ; bà Chennault nói với tôi : "nêu tổng thông viêt hổi ký thì tôi đã có sẵn publisher. . . Ông Thiệu nói và đồng thời khuyên tôi: “Nêu mình còn muôn làm việc cho quôc gia thì không nên vỉêt hồi ký, họ bỉêt tư tưởng của mình thì còn làm việc sao được”. Năm 1992, sau khỉ Đông Âu tan rã và Liên bang Xô-Viết sụp đổ, tôi nói với ông Thiệu: Bây giờ tổng thống có thể xúc tiến viết hồi ký. Ông đồng ý và yêu cầu tôi đóng góp ý kỉen. Thời gian sau đó tôi không còn liên lạc với ông nhưng qua vài người thân cận với ông tôi biết ông đã bỏ ý định viết hồi ký. Tháng 7/2001 tôi nói chuyện điện thoại với ông vào lúc ông vừa ở bệnh viện ra và đang thời kỳ vật lý trị liệu. Ông cho tôi biết rõ về căn bệnh tỉm, giọng ông đã yếu rất nhiều so với trước. Ngay sau đó tôi có để nghị với một người bạn thân của gia đình ông là nên gợi ý với ông Thiệu để lại di chúc chánh trị vì với căn bệnh tỉm như ông nói thì có thể ra đi bất cứ lúc nào. sở dĩ tôi không để cập thẳng vấn để với ông Thiệu vì đã lâu tôi không có liên lạc với ông, đây là vấn để tế nhị có thể tạo nên xúc động ở một ngưòi lớn tuổi và đang đau yếu. Hỏi: : Khỉ ông nghĩ vể một di chúc chánh trị của ông Thiệu chắc hẳn phải có lý do? Đáp: Trong cuộc gặp gở ỞLondon đầu năm 1983, ông Thiệu nói với tôi: “Tôi đã sông Ở đây (London) 8 năm trong cay đắng... nhưng tôi đã học hỏi được rât nhiều, nhiều hon là trong mười năm Ở chức vụ lãnh đạo quôc gia, thật ra ngày đó mình đã không được “préparer” trong chức vụ đó”. Muốn hay không, ông đã là một nhân chứng quan trọng vì đồng thời là một tác nhân. Giai đoạn ông lãnh đạo đất nước có tính cách chuyên hoạnh cá nhân, có nghĩa là nhiều bí mật quốc gia đã không được chia sẻ, nhiều quyết định liên quan đến vận mệnh đất nước mà động cơ thực sự chưa bao giờ được tiết lộ. Giai đoạn của ông tuy ngắn nhưng là giai đoạn bi thảm nhất trong lịch sử dân tộc, với sự yểm trợ của cộng sản quốc tế và sự tham chiến của ngưòi Mỹ, chưa bao giờ những người Việt Nam lại chém giết nhau một cách tận tình như vậy. Cuộc chiến tranh lạnh tuy đã chấm dứt nhưng vị trí địa lý chánh trị Việt Nam không thay đổi, vẫn là nơi tranh chấp giữa các siêu cường dưói hình thức này hay hình thức khác và những bài học lịch sử trong giai đoạn ông có một tầm mức quan trọng cho những thế hệ mai sau. Hỏi: Dưói thời Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng như Tổng thống Thiệu, sự lãnh đạo đểu có tính cách chuyên hoạnh cá nhân. Điểu này có phải vĩ đầu óc độc tôn, tham quyển cô vị của lãnh tụ như hiện tượng phổ quát trong hầu hết các quốc gia chậm tiến? Đáp: Tại miền Nam Việt Nam dưới thòi Tổng thống Diệm và Tổng thống Thiệu có nhiều nguyên nhân đưa đến tình trạng lãnh đạo có tính cách chuyên hoạnh cá nhân: nền dân chủ phôi thai, sinh hoạt chính đảng yếu kém, xã hội phân hóa, chiến tranh v.v. . . nhung một trong những nguyên nhân chính có tính cách quyết định là chính sách can thiệp của người Mỹ. Người Mỹ đã thay thế nguời Pháp với chánh sách thực dân mới. Vào thế kỷ 19 người Pháp nhân danh khai hóa để khai thác tài nguyên thuộc địa, nay người Mỹ nhân danh dân chủ để khai thác xương máu người Việt Nam trong việc thiết lập một tiền đồn chống cộng tại Đông Nam Á của chủ thuyết Domỉno. Người Mỹ đến Việt Nam không vì quyển lợi người Việt Nam mà vĩ quyển lợi người Mỹ. Nền dân chủ mà người Mỹ xỉển dương khỉ can thiệp vào Việt Nam là nền dân chủ được định nghĩa trong quyển 10 của Mỹ, một thứ phó sản được dùng làm bình phong để thực hiện chính sách chia để trị, thiết lập đạo quân thứ năm, khuyến khích tình trạng vô chính phủ, nội loạn. . . để dễ bể khuynh loát và khỉ cần thiết để thực hiện các cuộc đảo chánh và ám sát lãnh tụ quốc gia bằng bàn tay của các tay sai bản xứ. Chánh sách viện trợ hoàn toàn có tính cách tiêu thụ đã được xử dụng như lưỡi gươm Damoclès. Trong khỉ viện trợ của Nga-Tàu cho Bắc Việt nặng tính cách sản xuất thì viện trợ của Mỹ cho miền Nam Việt Nam hoàn toàn có tính cách tiêu thụ. Trong thời chiến Bắc Việt có khu kỹ nghệ nặng gang thép Thái Nguyên và cục quân giới của tướng Trần đại Nghĩa có khả năng cải tiến Sam 2 bằng cách ngăn chận hệ thống nhiễu sóng radar và đạt tầm cao hạ máy bay B52 của Mỹ bấy giờ đươc xem là loại máy bay bất khả xâm phạm có sức oanh tạc phá hoại ghê góm - thì kỹ nghệ quốc phòng của miền Nam Việt Nam là con sô không. Những dự án xây dựng cơ sở đúc súng đạn, nhà máy lọc dầu, phân bón. . . từ thời tổng thống Ngô Đình Diệm đểu bị người Mỹ ngăn chận. Đối với một dân tộc, dù viện trợ có tính cách sản xuất, muốn xử dụng hữu hiệu cũng đòi hỏi phải có tinh thần tự lực, tự cường; huống hồ dân tộc đó vừa thoát khỏi ách đô hộ trăm năm của thực dân Pháp, chính sách viện trợ hoàn toàn có tính cách tiêu thụ chỉ nhằm mục đích làm tê liệt ý chí để kháng và nô lệ hóa. Cùng với chính sách viện trợ có tính cách tiêu thụ và nhân danh dân chủ để can thiệp vào nội bộ quốc gia được viện trợ, chính quyển của quốc gia được viện trợ bị xem là công cụ của ngoại bang, đã đẩy một sô quần chúng đi về phía cộng sản và dưói mát thế giới Việt Nam cộng Hòa đã bị cô lập, cuộc chiến đấu bảo vệ dân chủ và tự do của nhân dân miền Nam Việt Nam bị mất chánh nghĩa. Những khó khăn thực sự của ông Diệm và ông Thiệu phát xuất từ chính sách can thiệp của ngưòỉ Mỹ, có thể nói nếu giải quyết được những khó khăn nầy thì sẽ giải quyết được 90% những khó khăn trong việc xây dựng đất nước và chống cộng. Đổ đối phó với chánh sách hai mặt của ngưòi Mỹ, ông Diệm và ông Thiệu bị dồn vào thế lãnh đạo có tính cách chuyên hoạnh cá nhân, và như một vòng luẩn quẩn không lối thoát, sự lảnh đạo có tính cách chuyên hoạnh cá nhân đã làm mất hậu thuẫn rộng rãi trong quần chúng. Chính sách thực dân mới của người Mỹ là yếu tô có tính cách quyết định đã làm sụp đổ miền Nam Việt Nam. Sau thế chiến thứ I, Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thê Truyền đã đưa ra một bản cáo trạng lên án thực dân Pháp, thiết tưởng chế độ thực dân mới của Mỹ còn tàn bạo gấp nhiều lần so với thực dân cũ vì sau 30/4/75 Việt Nam cộng Hòa đã hoàn toàn bị xóa sổ trên bản đồ thế giói. Hỏi: Ông có đồng ý rằng chê độ đệ I và đệ II cộng hòa cũng như ông Diệm và ông Thiệu đã được Hoa Kỳ yểm trợ nếu không muốn nói là đã góp phần quyết định? Đáp: Không ai phủ nhận điểu đó. Cũng như chê độ miền Bắc với Hồ Chí Minh. Đó là hậu quả đương nhiên của một thế gỉới lưỡng cực sau thế chiến thứ hai mà Việt Nam là một điểm nóng trong cuộc tranh chấp giữa tư bản và cộng sản. Người ta có thể nói Hồ Chí Minh là công cụ của cộng sản quốc tế nhưng ông Diệm và ông Thiệu trong thực tế không phải là tay sai của Mỹ. Hồ Chí Minh đã áp đặt chế độ cộng sản trên đất nước, thay thế xiểng xích nô lệ thực dân, phong kiến bằng xiểng xích cộng sản; sự dã man và tàn bạọ như thế nào thì tất cả mọi ngưòi đểu biết. Và hậu quả di lụy của tỉnh thần nô lệ đã khiến cho một dân tộc vốn giàu lòng hy sinh, siêng năng, nhẫn nại, đã chiến thắng trong chiến tranh nhưng đã thất bại trong hòa bình - đất nước tụt hậu trong đà tiến của nhân loại. Kỳ II: Những phát giác trong hậu trưòng chính trị Việt Nam cộng Hòa - Dân chúng nghĩ gì về đường lôi lãnh đạo của ông Thiệu? - Khi nào ông Thiệu mât tin tưởng vào những cam kêt của Nixon? - Mât Quảng Trị: một “sabotage politique” của Mỹ? - Ông Thiệu có môi lo sợ người Mỹ sẽ hãm hại ông? 

 Hỏi: Dù sao ông Thiệu đã cầm quyển 10 năm từ 1965- 1975, -hòa đàm Paris kéo dài từ 1968 đến 1973- thời gian đủ để tiên liệu và thực hiện những biện pháp cần thiết hầu ứng phó với vấn để giải kết của Hoa Kỳ nhưng ông Thiệu đã hoàn toàn thụ động. Theo ông, phải chăng tình trạng này đã đóng góp vào sự sụp đô của miền Nam ngày 30/4/75? 

 Đáp: Ông Thiệu thực sự cầm quyển qua cuộc bầu cử tháng 9/1967. Trong khỉ quân đội Mỹ còn đô quân vào Việt Nam thì ông Thiệu đã đưa vấn để giải quyết chiến tranh như một trong ba vấn để căn bản của chương trình tranh cử: Xây dựng dân chủ - Giải quyết chiến tranh - cải tạo xã hội. Sau vụ Tết Mậu thân 1968, ông Thiệu là người chủ động đưa ra để nghị Hoa Kỳ có thể thực hiện việc rút quân từng giai đoạn trong mục tiêu tranh thủ thời gian đổi lấy viện trợ kỉnh tế và quân sự vì ông hiểu Việt Nam cộng Hòa sẽ không có tư thế tại hội nghị hòa đàm nếu không chủ động trên chiến trường v.v... Nêu cai trị là tiên liệu thì ông Thiệu là ngưòi có khả năng tiên liệu nhưng ông không có khả năng để thay đổi được chính sách của Hoa Kỳ trong chiến lược toàn cầu mà vị thế địa lý chánh trị của miền Nam Việt Nam không còn nằm trong quyển lọi ưu tiên của Mỹ, mặt khác, chúng ta không còn ở vào thời đại có thể dùng “tầm vông vọt nhọn” để chống trả với quân thù. Năm 1967 cùng với việc tiếp tục đổ quân vào Việt Nam đại sứ Bunker đã được tổng thống lohnson gởi sang Việt Nam với sứ mạng thực hiện việc giải kết để rút quân. Khỉ Nỉxon thắng cử 1968, đại sứ Bunker đã được yêu cầu lưu nhiệm cho đến tháng 5/1973 sau khỉ Mỹ đã thực hiện xong việc rút quân và lấy lại tù bỉnh. Chính sách của đảng Dân Chủ và cộng Hòa Mỹ trong vấn để giải kết chiến tranh Việt Nam hoàn toàn có tính cách nhất quán. Nêu sau Hiệp Định Genève 1954, người Mỹ ủng hộ ông Ngô Đình Diẹm iật đổ Bảo Đại để thiết lập nền đề I cộng Hòa (1956 - 1963) như căn bản chánh trị để biện minh cho nhân dân Hoa Kỳ và thế giới vể chính nghĩa của sự can thiệp vào Việt Nam nhằm ngăn chận sự bành trướng của cộng sản tại Đông Nam Á, thì năm 1967, người Mỹ đã áp lực chánh quyển quân nhân phải khai sinh nền đệ II cộng Hòa, thực hiện chánh quyển dân chủ họp hiến, họp pháp để đưa Việt Nam cộng Hòa vào bàn hội nghị và tạo bàn đạp cho Hoa Kỳ hòa đàm với cộng sản để rút quân, lấy lại tù bỉnh, chấm dứt sự can thiệp và để miền Nam cho các phe phái chính trị tự giải quyết trên căn bản “dân tộc tự quyết”, điểu mà hai thập niên trước đó Hoa Kỳ không bao giờ chấp nhận. Hỏi: Ông nghĩ sao vể nỗi căm phẫn của đại đa sô quần chúng đối vói ông Thiệu sau 30/4/75? Đáp: Quần chúng đánh giá lãnh đạo qua sự thành bại, họ có quyển căm phẫn vĩ họ là lóp người bị hy sinh nhiều nhất cho đất nước cũng như phải gánh chịu những hậu quả bỉ đát nhất sau 30/4/75 - nỗi căm phẫn của họ là chính đáng; hon nữa người lãnh đạo cũng như thuyền trưởng một con tàu, dù tàu chìm bởi bất cứ lý do gì thì thuyền trưởng phải là ngưòi rời tàu sau cùng hoặc phải chết theo tàu; mặt khác họ không ở cương vị để có thể nhìn vào mặt trái của cuộc chiến - vừa có tính cách nội chiến vừa có tính cách ủy-nhỉệm mà những yếu tô quyết định hoàn toàn nằm ngoài tầm tay của ngưòi quốc gia. Tôi nhớ vào khoảng 1990 ông Thiệu có buổi nói chuyện với một sô đồng bào tại Westmỉnster, Calỉíornia, một người đàn bà được một tổ chức chống đối sáp đặt đã cầm mỉcro chửi bới ông Thiệu nặng nể. Ông Thiệu chỉ trả lời: tôi rất thông cảm với nỗi căm phẫn của bà. Tôi hiểu sự ỉm lặng của ông, nỗi cô đơn và cay đáng ông đã mang theo đến cuối đời. Ông Thiệu đã chết chác hẳn không cần tôi biện hộ. Tôi cũng không làm công việc biện hộ mà chỉ nói lên sự thực mà tôi biết - tôi không có bổn phận tranh luận với bất cứ aỉ và cũng không nhằm thuyết phục bất cứ người nào. Đối với tôi, nói những điểu tốt mà người ta không có cũng tệ hại như nói những điểu xấu mà người ta không phạm phải vì tất cả đểu là dối trá - nhất là đối với những người có đời sống công liên hệ đến vận mạng quần chúng thì còn là vấn để trách nhiệm. Ông Thiệu có những lỗi lầm trầm trọng trong vấn để lãnh đạo quốc gia cũng như có những sai phạm cá nhân ảnh hưởng đến uy tín lãnh đạo. Ông là một nhà chính trị thực tiễn mà hoàn cảnh và môi trường trưởng thành không thể tạo ông thành một kẻ tử đạo. Tuy nhiên đến nay tôi vẫn nghĩ rằng nếu sự hy sinh có thể cứu vãn tình thế thì ông sẽ không từ nan. Lần tôi gặp lại ông ở Londres, ông nói như tâm sự: làm một ngưòi lính ra trận và hy sinh là một hành động dũng cảm, nhưng làm sao có thể sống sót để tiếp tục cuộc chiến đấu thì thật là khó. Xét định một con người cần nhìn vào tổng thể và đặc biệt là những giờ phút nghiêm trọng sinh mạng bị thử thách. Không thể chỉ dùng những sự việc tiêu cực để tổng quát hóa mà phải xét đến các mặt tích cực của cá nhân đó. Tuy nhiên việc định công luận tội là công việc của lịch sử sau này. Hỏi: Nhiều hổi ký chánh trị nói rằng ông Thiệu luôn luôn bị ám ảnh bởi việc người Mỹ thảm sát các ông Diệm, Nhu nên thường thay đổi chỗ ngủ hàng đêm v.v... Điểu này có thực không, và nếu thực thì đã ảnh hưởng như thế nào đến vấn để lãnh đạo? Đáp: Hàng năm đến 1/11, ông Thiệu có xin thánh lễ cầu hổn cho cô tổng thống Diệm và ông cô vấn Nhu tại dinh Độc-Lập. Ông Thiệu có kể cho tôi nhiều lần về sáng 2/11/63 sau khỉ thanh toán mục tiêu dinh Gỉa-long, ông vể trình diện BỘ Tổng -Tham- Mưu và sau đó có ra lệnh cho lính mở bửng thiết vận xa để chào thỉ hài ô.ô. Diệm, Nhu trước khỉ vể nhà. Tôi thường qua chỗ ở của ông Thiệu để làm việc những khỉ ông không qua văn phòng và có khỉ làm việc trong phòng ngủ khỉ ông bị đau, tôi không thấy dấu hiệu thay đổi chỗ ngủ hàng đêm như đồn đại sau này. Có những biện pháp an ninh lúc ông đi ra ngoài, chẳng hạn mặc áo chán đạn, hoặc cái podỉum ông đứng nói chuyện ngoài bằng gỗ nhưng trong có tấm thép chán đạn, những biện pháp an ninh đặc biệt trong các cuộc diễn bỉnh v.v... Tôi không để ý những chuyện này, đây là công việc của bộ phận an ninh. Chỉ có điểu là những để phòng này nhằm về phía Mỹ hơn là cộng sản. Thực ra ông Thiệu đã sống trong sự đe dọa thường trực của người Mỹ về đảo chánh và ám sát suốt thời gian từ lúc cầm quyển 1967 đến lúc ròi Việt Nam đi Đài Loan 1975. Đồng minh Mỹ là một đồng minh bất trắc, khó tiên liệu, và ông Thiệu luôn ở trong tĩnh trạng của người làm xiếc đi dây nguy hiểm. Có lần tôi lưu ý ông Thiệu vể trường họp Tổng Thống Magsaysay, Lý Thừa Vãn, Ngô Đình Diệm..., ông Thiệu nói với tôi là ông không có an ninh... Trong giai đoạn giải kết, quyển 10 của Hoa Kỳ và của Việt Nam cộng Hòa tách rời đi đến đối nghịch, trong khi đó quyển lọi của Hoa Kỳ và của cộng sản xích lại gần nhau để đi đến thỏa hiệp chung. Nêu cộng sản áp dụng chính sách vừa đánh vừa đàm vói Việt Nam cộng Hòa và phối họp cuộc đấu tranh trên các mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao... thì chính sách của “đồng minh” Hoa Ky đối vồi “đồng minh” Việt Nam cộng Hòa cũng tương tự: cà rốt và cây gậy đã được áp dụng triệt để với ông Thiệu trên mọi bình diện để buộc Việt Nam cộng Hòa phải chấp nhận đường lối thương thuyết nhượng bộ cộng sản của Mỹ. Người Mỹ đã tiếp tay vól cộng sản trong việc cổ võ, ủng hộ các phong trào phản chiến, đòi hòa bình, hòa họp hòa giải dân tộc, lực lượng thứ ba... mà thực chất là những tổ chức trá hình của cộng sản nhằm phá vỡ thế họp hiến, họp pháp của chê độ VNCH, và đã không ngần ngại đâm sau lưng những người lính VNCH đang chiến đấu trong cái gọi là chương trĩnh “Việt Nam hóa chiến tranh” để người Mỹ rút quân. Ông Thiệu nói với tôi vụ sư đoàn 3 rút bỏ Quảng- trị 1972 là một “sabotage polỉtỉque”. Nixon đã viết thư cho ông Thiệu nhác đến ý đồ thanh toán ông Thiệu của chính quyển lohnson vào năm 1968 và vụ đảo chánh 1/11/63 như một đe dọa trực tiếp nếu ông Thiệu không tuân thủ những đòi hỏi của Mỹ. Vào những tháng cuối trước khỉ ký HĐ Parỉs, ông Thiệu nuôi ý định tự sát như một phương cách chống trả cuối cùng. Vào lúc căng thẳng này chúng tôi đã triệu tập đại hội nghị viên toàn quốc vể Sài Gòn, tuần hành vào dinh Độc Lập cùng các dân biểu, nghị sĩ ủng hộ lập trường “bốn không” của ông. Tài liệu của đại sứ Bunker đã ghi nhận ý định tự sát này của ông Thiệu qua một báo cáo của ông Trần Thiện Khiêm ghi âm cuộc đối thoại giữa ô.ô. Thiệu, Khiêm. Chính ý định tự sát này đã khiến ông Thiệu “lì lợm” trước những đe dọa của Nỉxon và đã đưa đến những nhượng bộ của Nỉxon bằng những cam kết mật. Mỗi lần nhớ đến ông Thiệu, thực sự tôi không nghĩ đến những vinh quang bể ngoài của một Tổng Thống mà là những chuỗi ngày khó khăn của đất nước, những áp lực có tính cách quyết định ngày đó của Hoa Kỳ đã đè nặng lên ông, ông đã chiến đấu như một ngưòi lính đơn độc không vũ khí, bằng lòng dũng cảm và sinh mạng của chính mình. Tôi không có đức tin tôn giáo nhung tôi vẫn cầu mong cho ông, một tín đồ kỉ-tô-gỉáo, được bình an và thanh thản nơi vĩnh hằng. Hỏi: Có phải tổng thống Thiệu nói với ông là việc sư đoàn 3 tháo chạy đã để lại “đại lộ kỉnh hoàng” và Quảng-trị thất thủ vào tháng 5/72 là một “sabotage polỉtỉque” của ngưòi Mỹ? Đáp: Đúng như vậy. Hậu quả đã để lại hon 20 ngàn thương vong trên “đại lộ kinh-hoàng.” Hỏi: Ông Thiệu đã nói với ông trong bối cảnh nào? Đáp: Ngày hôm Quảng-trị thất thủ. Hôm đó vào lúc xế chiểu tôi đang họp trung ương đảng bộ Dân-Chủ tại lầu nhà tráng trong khuôn viên dinh ĐỘc-Lập thì được điện thoại của nhân viên văn phòng cho biết đại tá Đỗ Đức Tâm, thuyết trình viên quân sự của Tổng-Thống đang có mặt tại Văn Phòng của tôi để thuyết trình về tình hình quân sự sau khi vừa thuyết trình cho Tổng-Thống xong. Vì bận họp nên tôi yêu cầu đại tá Tâm gặp tôi tại lầu nhà tráng đê thuyết trình cho tất cả cùng nghe. Sau phần thuyết trình, tôi nhớ rõ câu hỏi sau cùng của nghị sĩ Trần Trung- Dung, nguyên Phụ Tá BỘ Trưởng Quốc Phòng của tổng thống Diệm: “...liệu chúng ta có giữ được Quảng-trị không?” Đại tá Tâm: “...chắc chắn chúng ta giữ được.” Chùng nửa giờ sau, điện thoại trên bàn họp reo, tôi nhác máy, đầu dây là đại tá Tâm cho biết trung tướng Hoàng Xuân Lãm, tư lệnh quân đoàn I vừa điện trĩnh Tổng Thống là Quảng trị đã thất thủ trưa hôm nay. Sự việc cho thấy là trung-tương Lãm không biết sư đoàn 3 rút bỏ Quảng-trị và như vậy là đã có một “sự cô bất thường” xẩy ra nên tôi bỏ phòng họp đi gặp tổng thống Thiệu ngay lúc đó. Tôi thấy ông rất bình tĩnh. Ông nhìn tôi nói: tôi điện thoại gần như mỗi ngày cho ông Lãm vể tình hình quân sự Quảng-trị, tối qua tôi còn nhác ông Lãm phải coi chùng “thằng cộng sản” ngày 1/5, ông Lãm bảo đảm vói tôi là không việc gì, thế mà như vậy. Ông dằn mạnh: đây là một “sabotage polỉtỉque”. Lúc bấy giờ chỉ có tôi và ông. Những chuyện như vậy thuộc loại “cấm kỵ” không phải có thể nói với bất cứ aỉ và không bao giờ ông nói khi có sự hiện diện của người thứ ba. Đó là nguyên tác ngăn cách ông vẫn thường áp dụng và cũng là cách để bảo đảm sự an toàn cho chính ông. Trong trường họp này, ông Thiệu là người duy nhất có đủ yếu tô chính trị để thẩm định, vì ông là ngưòi trực tiếp chịu các áp lực của Mỹ. Bấy giờ là tháng 5/1972, trong mật đàm Paris Mỹ và cộng sản đã đạt được các thỏa thuận căn bản, chỉ còn trở ngại vể phía ông Thiệu. Gần đây tôi có đọc một chứng liệu của đại-sứ Bunker thuật lại phiên họp tại dinh ĐỘc-Lập một ngày sau khỉ Quảng-trị thất thủ giữa đại-sứ Bunker, tương Abrams và tổng thống Thiệu. Ông Thiệu đã không hể quy trách cho các giới chức quân sự Việt Nam, ông ỉm lặng một cách khó hiểu và mãi đến phút cuối cùng “bật nói”: “...không có lý do gì Quảng trị lại bị thất thủ, tương Giai phải chịu trách nhiệm về việc này.” Tướng Vũ văn Giai, Tư lệnh sư đoàn 3 giới tuyến, được di tản bằng trực thăng của Mỹ, bỏ lại bỉnh sĩ và dân chúng với “đại lộ kỉnh hoàng” - đã bị đưa ra Tòa án quân sự, bị tước đoạt bỉnh quyển và ở tù. Tổng thống Thiệu đã ra lệnh tái chiếm Quảng trị ngay sau đó mặc dầu biết rằng Quảng trị sẽ thành một đống gạch vụn, sẽ phải hy sinh những người lính thiện chiến của những đơn vị thiện chiến nhất mà tổn thất khó có thể bù đáp được trong thực tế bấy giờ - nhưng ông đã phải quyết định như vậy, một quyết định chính trị để chứng tỏ quyết tâm của quân dân miền Nam với thế giói, với nhân dân Hoa-Kỳ, nhằm chống trả các thỏa hiệp mật giữa cộng sản và Mỹ mà sau này được cụ thể trong Hiệp Định Parỉs 1973. Cũng tương tự như vậy, việc Trung cộng chiếm Hoàng Sa vào đầu năm 1974 đã được sự thỏa thuận ngầm của Mỹ để đặt cộng sản Hà NỘỈ sau này trước một “fait accompli “.Ông Thiệu biết Hải Quân Việt Nam không đủ sức đương đầu với hải quân Trung cộng và hạm đội 7 Hoa Kỳ sẽ không can thiệp nhưng ông vẫn ra lệnh tái chiếm như một chứng liệu về chủ quyển lãnh thổ sau này. Bỏi chính sách hai mặt của Hoa Kỳ, nhiều áp lực nặng nể riêng cá nhân ông phải chịu đựng không được chia sẻ và trong nhiều trường họp ông phải đưa ra những quyết định chuyên độc mà không thể giải thích với đổng bào cùng chiến hữu của ông. Hỏi: Nhận định của ông Thiệu về vụ sư đoàn 3 tháo chạy có mâu thuẫn với các quyết định của người Mỹ mở rộng chiến tranh qua các cuộc tấn công của QLVNCH vào hậu cần của cộng sản tại Miên năm 1970 và hành quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào 1971 hay không? Đáp: Không. Các cuộc tấn công vào hậu cần cộng sản tại Miên 1970 và Hạ Lào 1971 chỉ có tính cách nhất thời nhằm mục đích chính là dùng xương máu của quân đội VNCH để mở rộng hành lang an toàn cho việc triệt thoái quân đội Mỹ. ' Ông Thiệu miễn cưỡng phải chấp nhận mở cuộc hành quân Lam Sơn 1971 vì Hạ Lào tiếp giáp với hậu phương lớn Bắc Việt. Khỉ có dấu hiệu sa lầy ông đã ra lệnh cho trung tướng Hoàng Xuân Lãm đưa ngay một đon vị vào Tchepone “đái một bãi” (nguyên văn) và rút ra ngay lập tức. Cần lun ý là chương trình rút quân của Mỹ không phụ thuộc vào khả năng thay thế của quân lực VNCH, và chương trĩnh Việt Nam hóa thực chất chỉ nhằm yểm trợ cho việc rút quân của Mỹ chứ không phải để VNCH có đủ sức để kháng và tồn tại. Hỏi: Sau này, nhiều người trong đó có những viên chức chính phủ của ông Thiệu cho rằng ông Thiệu đã dựa vào những cam kết mật của tổng thống Nỉxon nên đã chấp nhận ký kết Hiệp Định Parỉs vì không hiểu rõ tổ chức công quyển của Hoa Kỳ - thẩm quyển của hành pháp và lập pháp. Như tiến sĩ Kỉssinger đã nhận định: đó chỉ là những ý định của tổng thống Nỉxon, không có tính cách cam kết quốc gia vì không có phê- chuẩn của quốc-hộỉ. Đáp: Sự phán đoán như trên có tính cách phiến diện, hoàn toàn lý thuyết, xa hẳn thực tại. Hiệp định Parỉs không phải là văn kiện pháp lý phức tạp và chuyên biệt đòi hỏi phải có những hiểu biết chuyên môn và kiến thức đặc biệt -tựu trung chỉ có một vấn để mấu chốt sinh tử là: Mỹ chấm dứt mọi sự can thiệp và quân đội Bắc Việt ở lại miền Nam tại chỗ. Trong cuộc chiến chống xâm lăng cộng sản Bắc Việt, xương máu quân dân miền Nam là nỗ lực chính nhung mọi phương tiện chiến đấu hoàn toàn phụ thuộc vào Mỹ nên VNCH trong hòa đàm chỉ có vai trò hình thức. Vào lúc bấy giờ ông Thiệu cũng hiểu như giải thích của Kỉssỉnger sau này, nhung ông cũng hiểu rõ vị thế yếu kém của VNCH và giói hạn cuối cùng mà ông có thể đòi hỏi ở Nixon. Ông Thiệu có chủ định rõ ràng là mua thời gian còn lại của nhiệm kỳ Nỉxon trong hoàn cảnh “còn nước còn tát Chúng ta cần nhớ rằng không hể có một hiệp ước Việt Mỹ nào về việc Mỹ đổ quân và tham chiến ở Việt Nam cũng như không có một văn kiện pháp lý nào về quy chê trấn đóng của quân đội đồng minh trên lãnh thổ Việt Nam bấy giờ. Những tiểu đoàn TQLC Mỹ đầu tiên đổ bộ vào Đà Nang đầu năm 1965 dưói thời chính phủ Phan Huy Quát, ông Thiệu là Tổng trưởng Quốc Phòng kiêm Phó Thủ tướng; ông nói với tôi: tình hình bấy giờ hơn hai phần ba lãnh thổ bị cộng sản ung thối, nếu quân đội Mỹ không can thiệp kịp thì miền Nam mất. Thời đệ I cộng Hòa, tổng thống Diệm muốn có một hiệp ước hỗ-tương như ở Đại Hàn nhưng người Mỹ từ chối. Các cô vấn quân sự Mỹ đến và đi không qua sự kiểm soát của nhà chức trách Việt Nam. Miền Nam Việt Nam trong cuộc chiến chống cộng sản hoàn toàn bị phụ thuộc Hoa Kỳ, chúng ta không ở vào vị thế có thể đặt điểu kiện với họ. Quân đội Mỹ muốn đến là đến, muốn đi là đi, hậu quả là vấn để đon phương rút quân, Việt Nam hóa, Hiệp Định Parỉs... Tương quan Việt Mỹ là một tương quan thực tế mà người Mỹ cô tình không để bị ràng buộc vào những văn kiện pháp lý “giấy tráng mực đen” như ở Triều tiên, Nhật bản, Âu châu là những ncù Hoa Kỳ có mục tiêu dài hạn. Hỏi: Đến bao giờ thì ông Thiệu mất tin tưởng vào các cam kết mật của Nỉxon? Vụ ông Thiệu quyết định không tái chiếm Phước Long vào đầu năm 1975 có phải là một trác nghiệm về những cam kết mật hay không? Đáp: Ngay sau cuộc gặp gỡ Thiệu - Nỉxon tại San Clemente tháng 4/73. vể phương diện biểu kiến cuộc gặp gỡ mang nhiều ý nghĩa tích cực như là một sự xác nhận các cam kết mật, sự tiếp tục ủng hộ của Hoa Kỳ vơi VNCH và đặc biệt với ông Thiệu, nhưng thực tế hoàn toàn trái ngược. Cuộc gặp gỡ mặt đối mặt đã khẳng định cho ông Thiệu thấy không còn hy vọng vào các cam kết mật cũng như các viện trợ quân sự và kinh tế đã được hứa hẹn trước đây. Đây là lý do và thòi điểm quyết định việc tu chính hiến pháp: gia tăng nhiệm kỳ 3 tổng thống. Cuộc độc cử 1971 đã làm sút giảm uy tín chính trị của ông Thiệu; Hiệp Định Paris thừa nhận cho quân đội Bắc Việt ở lại miền Nam, ngưng bán tại chỗ, chỉnh phủ liên hiệp ba thành phần đã hoàn toàn xóa bỏ lập trường bốn không của ông; người Mỹ đã hoàn tất việc rút quân và lấy lại tù bỉnh; và nay là hiểm họa Hoa Kỳ bỏ roi... khiến ông Thiệu bị lột truồng như câu chuyện ông vua không quần áo (the emperor wỉthout any chothes) và hoàn toàn tráng tay. Tư thế lãnh đạo của ông Thiệu bị đặt trong hoàn cảnh thử thách nghiêm trọng và đây là lý do thực sự của vụ tu chính hiến pháp đã không bao giờ được tiết lộ. NỘỈ dung tu chính bấy giờ được giữ mật vì phải chờ sau cuộc bầu cử bán phần Thượng nghị viện tháng 10/73 mới đủ túc sô thực hiện. Việc tu chính không nhằm vào nhiệm kỳ 3 Tổng Thống mà mục đích thực sự là bày tỏ sự tín nhiệm của dân chúng qua Quốc Hội “để tái trang bị” tư thế lãnh đạo của ông Thiệu hầu đối phó với tình thế mới. Dù muốn hay không sinh mạng chính trị của ông Thiệu đã gán liền với sự còn mất của chế độ và sau ông sẽ là trận hồng thủy. Trong cuộc gặp các dân biểu, nghị sĩ ủng hộ tu chính Hiến Pháp tại hội trường khách sạn Majestỉc vào đêm trước hôm biểu quyết, tôi có nói rõ: “đây không phải là hành động ủng hộ cá nhân tổng thống Thiệu mà là hành động của mỗi chúng ta để tự cứu”. Có thể họ hiểu là tình hĩnh nghiêm trọng nhưng không biết là đang bị Hoa Kỳ bỏ rơi và đất nước đã ở trên bờ vực thẳm. Nêu Kissỉnger đã tiên liệu thời gian có thể coi được (decent ỉnterval) từ HĐ Paris 1/73 đến lúc miền Nam sụp đổ là một năm rưỡi thì ông Thiệu đã tiên liệu một thời gian ngắn hơn. Đầu năm 1974 cũng là lúc Quốc HỘỈ biểu quyết tu chính Hiến Pháp, ông Thiệu nói tại Hội đồng Tổng trưởng: “...các quan sát viên quốc tế rất ngạc nhiên khi thấy chúng ta còn ngồi ở đây hôm nay, tất cả đểu nghĩ rằng miền Nam Việt Nam chỉ có thể tồn tại không quá sáu tháng sau HĐ Paris...” Như một người chết đuối vớ bất cứ bèo bọt nào, ông ra lệnh mật cho BỘ Tổng Tham Mưu kiểm thính điện đài các dàn khoan để tìm hiểu trữ lượng dầu hỏa với hy vọng Mỹ sẽ không bỏ rơi Việt Nam, ông nói: tôi sẽ làm bộ trưởng dầu hỏa chứ không làm tổng thống. Ông chỉ thị cho chính phủ tạo điểu kiện dễ dàng cho ngoại quốc đầu tư, ông nói vơi tôi: bây giờ cho không để bọn nó vào (đầu tư) cũng phải “cho không“. Đối với cộng sản, cuộc tấn công chiếm Phước Long đầu năm 1975 là một trác nghiệm về ý đồ tái can thiệp của Mỹ được mệnh danh là đòn “trinh sát chiến lược”, sau đó BỘ Chính trị đã quyết định mở chiến dịch Tây Nguyên và tiếp theo là chiến dịch Hồ Chí Minh. Đối với ông Thiệu quyết định không tái chiếm Phước Long vì sẽ tổn thất rất nặng không thể bù đáp, có chiếm lại cũng không giữ được, lực lượng trừ bị không còn và phải bảo toàn lực lượng cho các cuộc tấn công sắp tới của cộng sản. Hỏi: Ngoài việc tu chính gia tăng ba nhiệm kỳ Tổng Thống, còn có việc gia tăng thời hạn mỗi nhiệm kỳ từ 4 năm lên 5 năm. Lý do? Đáp: Lý do được viện dẫn của tu chính là chương trình kỉnh tế ngũ niên nhưng sự thực là chúng tôi muốn có khoảng cách xa giữa cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ và Tổng Thống Việt Nam vì nhiệm kỳ Tổng Thống Mỹ cũng 4 năm, và cứ 4 năm thì nước Mỹ lại bị một cơn sốt chính trị ảnh hưởng nặng nể đến cuộc bầu cử Tổng Thống Việt Nam. Đây không phải là mục tiêu chính của tu chính Hiến Pháp nhưng nhân việc tu chính Hiến Pháp thì chúng tôi bỏ vào luôn. Hỏi: Ông Thiệu có tham khảo ý kiến của người Mỹ về việc tu chính Hiến Pháp hay không? Đáp: Không. Như tôi đã nói ở trên, nội dung tu chính Hiến Pháp đã được quyết định ngay sau khỉ tổng thống Thiệu ở San Clemente về nhưng được giữ mật cho đến sau cuộc bầu cử bán phần TNV tháng 10/73. Đại sứ Martin chỉ được tổng thống Thiệu thông báo sau khỉ dự luật tu chính được đệ nạp tại Quốc hội tức là vào khởi đầu giai đoạn công khai. Ông Thiệu nói với tôi: Ngày hôm qua tôi có mời ông Martin vào đây (dinh Độc Lập) để thông báo về việc chúng ta tu chính Hiến Pháp - tôi nói với ông Martin là tôi nhận thấy có bổn phận phải thông báo cho ông đại sứ vì Hoa Kỳ là đổng minh chính yếu đã giúp đỡ chúng tôi trong cuộc chiến... Cụ Hương được ông Thiệu thông báo vào lúc dự luật tu chính được đưa cho các dân biểu, nghị sĩ đứng tên tác giả v.v... NỘỈ vụ hoàn toàn được giữ mật cho đến giờ cuối. Hỏi: Trong cuộc bầu cử tổng thống 1967 theo hồi ký của cựu Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ thì ông không hể bị áp lực Hoa Kỳ mà vì sự đoàn kết của quân đội nên đã tự ý nhường cho ông Thiệu làm ứng cử viên tổng thống trong liên danh Thiệu Kỳ? Đáp: Mọi người đểu biết quyển lực chính trị không phải là vật được hiến tặng. Việc sáp nhập liên danh Thiệu Kỳ là do quyết định của HỘỈ đồng quân lực được triệu tập do “gợi ý” của Tòa Đại sứ Mỹ với nhận định nếu hai ông Thiệu Kỳ tranh cử riêng rẽ thì có nguy cơ bị thất bại trước liên danh Dương Văn Minh. Lúc bấy giờ người Mỹ còn tăng quân tại Việt Nam nên muốn có một chính quyển chống cộng. Mặt khác nếu liên danh Dương Văn Minh đác cử sẽ là mối đe dọa trực tiếp đối vóỉ quyển lọi của đa sô tướng lãnh trong HỘỈ đồng quân lực bấy giờ nguyên là các sĩ quan trung cấp thời đảo chánh 1963 được nâng cấp rất nhanh do việc kéo bè kết đảng dưói thời Nguyễn Khánh và đã ngoi lên nắm quyển lực sau chỉnh lý 30/1/64, trong đó nhóm tướng Dương Văn Minh bị hất ra khỏi chính trường. HỘỈ đổng tướng lãnh đã họp nhiều phiên liên tiếp, ban đầu ở dinh Bạch Đằng, về sau chuyển về BỘ Tổng Tham Mưu, cuối cùng đã đi đến quyết định Thiệu Kỳ đứng chung một liên danh: Trung tướng Thiệu là ứng cử viên tổng thống của liên danh vì ông có cấp bậc ? cao nhất trong quân đội và đang giữ chức vụ Chủ tịch Uy Ban Lãnh đạo Quốc gia tức Quốc trưởng. Tôi được điện thoại của trung tướng Thiệu từ BỘ Tổng Tham Mưu để điểu chỉnh hồ sơ tranh cử Thiệu - Kỳ, lúc đó chỉ còn 12 giờ là hết han ghi danh theo luật định tính đến nửa đêm cùng ngày. Uy ban Lãnh đạo Quốc gia đã gởi Quốc hội một văn thư yêu cầu không chấp đơn ứng cử của liên danh Dương Văn Minh vì lý do an ninh quốc gia. Liên danh này về sau đã bị Quốc HỘỈ bác đơn vì ứng cử viên Phó Tổng Thống Trần Ngọc Liễng mang song tịch (Việt và Pháp). Liên danh Thiệu - Kỳ đã đác cử với một tỷ lệ thấp 34.8% tổng sô cử tri đi bầu và Quốc Hội đã họp thức hóa với 58 phiếu thuận/ 43 phiếu chống. Cụ Phan Khác sủu đã từ chức chủ tịch Quốc Hội để phản đối việc họp thức hóa. Cần phải nói đây là cuộc bầu cử ngay thẳng hay ít nữa sự gian lận nếu có đã không ảnh hưởng đến kết quả chung cuộc. Như lòi thú nhận của ông Kỳ sau này là ông không có lọi ích gì để gian lận cho ông Thiệu, sở dĩ sô phiếu họp thức hóa sự đắc cử của liên danh Thiệu - Kỳ thấp vì một sô đông dân biểu bị thất cử trong cuộc bầu Thượng nghị viện, một sô thuộc phe nhóm ông Kỳ, một sô có liên danh tranh cử Tổng Thống V.V.. đã bỏ phiếu chống lại việc họp thức hóa với ý đồ “xóa bài làm lạỉ“.Đỉểu này phản ảnh bản chất vô trách nhiệm của đối lập trong sinh hoạt chính trị miền Nam “không ăn được thì đạp đổ“, bất kể đến sự an nguy của chế độ và quyển lọi của quảng đại quần chúng. Hỏi: Khỉ ra tranh cử Tổng thống đối đầu với ông Kỳ, ông Thiệu có hy vọng đác cử không? Đáp: Ông Thiệu hoàn toàn không có khả năng đác cử. Lúc ông Thiệu yêu cầu tôi làm đại diện cho liên danh Nguyễn Văn Thiệu - Trình Quốc Khánh, tôi nói: tôi có thể làm việc này nhưng liên danh không có khả năng tháng cử, Trung tương nên chọn ngưòi có tên tuổi để làm bàn đạp chính trị sau này... Tôi đưa tên một sô thành viên trong Hội đồng Dân Quân và Quốc hội Lập hiến. Ông nói: Anh thử đi mời xem. Kết quả, tất cả đểu từ chối, có người còn chỉ trích nặng nể cá nhân ông Thiệu... Tôi phản ảnh cho ông Thiệu, ông chỉ nói: “tôi đã nói anh giúp tôi, đi mời làm gì mất thì giờ. Tôi nói thật với anh dù không ai ủng hộ tôi hết, tôi một phiếu, vợ tôi một phiếu, con tôi một phiếu, tôi vẫn ra...” Còn cái ông đã chỉ trích gần như mạt sát ông Thiệu thì sau này ông ta và đảng của ông ta đã lãnh tiền nhiều nhất của ông Thiệu cùng các đặc quyển khác. Chánh văn phòng đặc biệt của ông Thiệu là thiếu tá Võ Văn Cầm (cấp bậc sau cùng là đại tá) nhờ tôi tìm giùm một sĩ quan bị động viên có văn bằng kiến trúc sư. Tôi hỏi: giờ này đem kiến trúc sư về làm gì? Anh ta cười, giọng khôi hài: ... thì trong quỹ còn một triệu để xây cho “Ổng” (ông Thiệu) cái nhà mát ở Vũng Tàu đi câu cá, thua rồi thì đi câu chứ còn làm gì nữa? Tôi giói thiệu kiến trúc sư Lê Tấn Chuyên bấy giờ đang biệt phái ở BỘ Xây dựng Nông thôn của tướng Tháng. Anh ta là người đã vẽ dấu hiệu tranh cử của ông Thiệu (bản đổ Việt Nam trên lá quốc kỳ) và quốc huy của Tổng Thống với hai con rồng chầu nhau nhưng hai cái râu rồng vểnh lên vểnh xuống là của ông Thiệu sửa lại. Ông Thiệu là người rất tỉ mỉ và chỉ tiết ngay cả trong cung cách giải trí. Có hôm làm việc trễ tôi ở lại ăn com trưa với ông, thấy một mẩu giấy nhỏ của sở nội dịch để ở chỗ ông ngồi trình về “lý lịch” khúc cá hồng nấu canh bữa đó: lấy từ freezer một con cá câu được tại Côn-sơn, ngày... tháng... cân nặng v.v... Điểu đặc biệt là mặc dầu rất chỉ tiết trong công việc nhưng không bao giờ ông bị lạc ra khỏi tổng thể. Kiến trúc sư Lê Tấn Chuyên phàn nàn với tôi họa đồ căn nhà mát bị ông sửa đi sửa lại hoài, tiền ít mà đòi cái gì cũng tốt. Lê Tấn Chuyên là một trong hai kiến trúc sư thiết kế bệnh viện Vĩ Dân của bà Thiệu, nay là bệnh viện Thống nhất, lúc còn ở trung học hoạt động học sinh kháng chiến bị Pháp bát giam, sau 1955 vì còn liên hệ với tổ chức cũ nên bị quốc gia bát, sau 30/4/75 cùng gia đình vượt biên và chết trên biển. Năm 1967, mục tiêu của ông Thiệu ra tranh cử đối đầu vơi ông Kỳ không phải để tháng cử mà buộc ông Kỳ hoặc phải tương nhượng (đứng chung) hoặc sẽ bị loại trừ (thất cử). Có một sự kiện đến nay chưa được tiết lộ là lúc bấy giờ ông Thiệu đã liên kết với cụ Trần Văn Hương. Ông Thiệu không có khả năng đác cử nhưng ông Thiệu có khả năng loại trừ ông Kỳ có nghĩa là làm cho ông Kỳ bị thất cử nếu không có sự sáp nhập chung, và liên danh có nhiều triển vọng thắng cử sẽ là liên danh Trần Văn Hương - Mai Thọ Truyền. Công việc của BỘ Tham mưu tranh cử của ông Thiệu bấy giờ không phải là vận động phiếu cho ông Thiệu mà là liên kết các lực lượng chống đối ông Kỳ và cô lập ông Kỳ bằng một mặt trận chống gian lận bầu cử, và ông Thiệu với tư thế của một quốc trưởng và ngưòi cao cấp nhất quân đội bấy giờ sẽ kêu gọi quân đội và các liên danh dân sự dồn phiếu cho liên danh Trần Văn Hương tiến đến một chính quyển đoàn kết quốc gia trong đó ông Thiệu sẽ giữ một vai trò then chốt. Chính bắt nguồn từ nền tảng liên kết này mà cụ Hương đã họp tác với ông Thiệu suốt thời gian đệ II cộng Hòa trong chức vụ Thủ Tướng và Phó Tổng Thống cho đến lúc chung cuộc. Kỳ III Bí ẩn trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1971 và sự ra đòi của đảng dân chủ - Tại sao Big Minh rút ỉui trong cuộc chạy đua vào dinh Độc Lập năm 1971 ? - Huỳnh Văn Trọng, Phạm Ngọc Tháo, Phạm Xuân An là ai? - cô TT Diệm và ông Nhu biêt rõ vai trò của Phạm Ngọc Thảo? -Ai chịu trách nhiệm về cái chêt của Phạm Ngọc Thảo? Hỏi: Trong vụ Việt cộng tấn công Chợ Lơn Mậu Thân 1968, trực thăng Mỹ trong một phi vụ yểm trợ đã bán hỏa tiễn làm thiệt mạng một sô sĩ quan của BỘ Chỉ Huy Hành Quân Việt Nam. Có dư luận cho rằng đây là một toa rập giữa ông Thiệu và Hoa Kỳ nhằm thanh toán phe nhóm ông Kỳ. Ông nghĩ sao về nguồn dư luận này? Đáp: Đây chỉ là một vụ xạ kích lầm vì mặt trận Chợ Lớn bấy giờ chuyển động hàng giờ, ta và địch “trộn trấu“.Các sĩ quan tử thương là những sĩ quan trung cấp, trong đó có một sô sĩ quan thuộc bộ phận kỉnh tài của ông Kỳ nếu được xem là quan trọng. Tòa Đại sứ Mỹ đã có thư xỉn lỗi. Trong thực tế người Mỹ và ông Thiệu không cần phải hành động như vậy, vì phe nhóm ông Kỳ chỉ là phe nhóm quyển lợi, một khỉ ông Kỳ không còn quyển lực thì họ sẽ tự động rã hàng. Tôi biết ông Thiệu là người có tự trọng và tự ái quốc gia, không hèn hạ đến mức độ nhờ bàn tay người Mỹ thanh toán người quốc gia. Tôi có thể nêu ra trường họp cho thấy con người của ông Thiệu trong tương quan với Mỹ: Năm 1967, trong việc Quốc HỘỈ họp thức hóa sự đác cử của liên danh Thiệu - Kỳ, các dân biểu đối lập và phe nhóm ông Kỳ muốn xóa bài làm lại. Ban đầu ông Thiệu “ lì “ mặc cho Tòa Đại sứ Mỹ phải lo liệu vì ông biết ngưòi Mỹ cần cuộc bầu cử nầy như khởi đầu tiến trình đi đến thương thuyết với cộng sản; nhưng sau thì Đại sứ Bunker yêu cầu ông Thiệu tiếp tay, đặc biệt với phe nhóm ông Kỳ vĩ họ nại cớ sợ ông Thiệu trả thù, thực ra thì họ muốn được đền bù bằng tiền bạc, chức vụ và các quyển 10 khác. Ông Thiệu chỉ thị cho tôi mở các cuộc tiếp xúc. Bấy giơ, ợ ông Thiệu không có tiền, ông có thể hỏi đại sứ Bunker nhưng ông đã không làm điểu đó. Một nhân viên trong văn phòng ông Thiệu đã phải cho mượn bằng cách đem vàng của ông ta đi cầm. Ông này nguyên là quận trưởng Gò Vấp dưới thời Đệ Nhất cộng Hòa, không hiểu sao ông ta có lại vàng khối (lỉngot) và trong các chứng liệu để lại của đại sứ Bunker, ông cho biết chưa bao giờ ông Thiệu yêu cầu được giúp đỡ riêng tư ngoại trừ một lần ông yêu cầu giúp Phó Tổng Thống Trần Văn Hương qua Mỹ để trị liệu tại bệnh viện Walter Reed. Cũng trong suốt thời gian tôi làm việc với ông Thiệu không hể có vấn để thủ tiêu các đối lập chính trị. Hỏi: Trong hồi ký của Tương Kỳ cho rằng ông Thiệu đã ra lệnh thủ tiêu Phạm Ngọc Thảo. Ông có biết gì vể chuyện này hay không? Ông có ý kiến gì về nhân vật Phạm Ngọc Thảo? Đáp: Cái chết của Phạm Ngọc Thảo xảy ra năm 1965 dưói thời ông Thiệu làm chủ tịch UBLĐQG và ông Kỳ làm chủ tịch UBHPTƯ! Phạm Ngọc Thảo đã bị bán trọng thương trước khỉ cảnh sát Biên Hòa giải giao cho nha an ninh quân đội nhưng vết thương không nguy hiểm đến tính mạng và đương sự đã chết tại nha an ninh quân đội vào khuya hôm đó. Lúc bấy giờ Trung Tá Nguyễn Ngọc Loan, cánh tay mặt của tương Kỳ làm giám đốc nha an ninh quân đội. Theo luật sô 1/UBLĐQG thì quyển hành của úy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia được chuyển sang cho UBHPTir, ông Kỳ là một thủ tương toàn quyển và ông Thiệu chỉ giữ vai trò quốc trưởng có tính cách tượng trưng. Giả sử có sự yêu cầu của tương Thiệu như ông Kỳ nói thì trung tá Loan chỉ có thể thỉ hành khi có sự đồng ý của ông Kỳ. Năm 1969 khỉ hành pháp chuyển hồ sơ vụ dân biểu Trần Ngọc Châu liên hệ cộng sản sang quốc hội để truất quyển và truy tố, tôi có lấy hồ sơ Phạm Ngọc Thảo để nghiên cứu vì cả hai có nhiều điểm tương đồng: thành phần tiểu tư sản, con cái quan lại, địa chủ, gia nhập vệ quốc đoàn lúc khởi đầu kháng chiến, trở về thành tỉnh trưởng Kiến Hòa v.v... Hồ sơ Phạm Ngọc Thảo chỉ ghi lại các hoạt động thời kháng Pháp trước hiệp định Genève 1954 và không có kết luận. Tôi có hỏi ông Thiệu thì ông nói: anh cũng biêt Kiên Hòa là hang Ổ cộng sản có bao giờ yên đâu, thê mà dưới thòi hai đứa (Châu, Thảo) làm tỉnh trưởng tình hình “ êm ru, bà rù “.Thử hỏi bọn nó là thân thánh hay sao? Năm 1995, nhà nước cộng sản truy tặng Phạm Ngọc Thảo danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân với quân hàm đại tá, trong bản tuyên dương công trạng ghi rõ một sô thành tích đặc biệt: thòi gian làm tỉnh trưởng Kiên Hòa đã tạo điều kiện cho các lực lượng chính trị, võ trang phát trỉên, tạo đà cho phong trào đồng khởi dành thắng lợi to lớn; và sau 1/11/63 đã chủ động, đề xướng, thúc đẩy nhiều cuộc đảo chính, tạo mâu thuẫn, nghi kỵ, triệt hạ lẫn nhau trong nội bộ ngụy, làm cho tổ chức của địch suy yêu, lực lượng địch bị tiêu hao... Hỏi: Có dư luận nói rằng Phạm Ngọc Thảo thực tâm vể với quốc gia, đã có mặt lúc quân đội sáp tấn công dinh Gia Long sáng ngày 2 Tháng Mười Một, 1963, với mục đích cứu ông Diệm theo lệnh của tưóng Trần Thiện Khiêm? Đáp: Việc Phạm Ngọc Thảo có mặt lúc quân đội tấn công dinh Gia Long sáng ngày 2 Tháng Mười Một, 1963, với ý đồ cứu Tổng Thống Diệm đã được xác nhận sau này bởi một sô sĩ quan chỉ huy tại chỗ lúc đó. Nhưng nói là do yêu cầu của tướng Trần Thiện Khiêm thì hoàn toàn không đúng vĩ ông Khiêm đã biết Tổng Thống Diệm và ông CÔ Vấn Nhu không còn trong dinh. Hoặc giả ông Khiêm cô tình “mập mờ đánh lận con đen” trong trường họp đảo chánh không thành thì lại là chuyện khác. Một tài liệu sau này của Võ Văn Kiệt nhấn mạnh vai trò của Phạm Ngọc Thảo không phải là điệp viên mà là cán bộ chính trị có nhiệm vụ chiến lược được Lê Duẩn gài lại miền Nam -một trong các nhiệm vụ này là ngăn cản quân đội Mỹ trực chiến, được xem là nhiệm vụ hàng dầu. Theo tôi, Tổng Thống Diệm và ông cô vấn Nhu rất rõ vai trò của Phạm Ngọc Thảo, đã che chở và nuôi dưỡng đường dây này, vĩ để tránh cuộc chiến mở rộng sẽ đến một lúc hai miền Nam Bắc cần phải nói chuyện với nhau. Miền Bắc đã có kỉnh nghiệm vể cuộc chiến Cao Ly 1950-53 rất sợ quân đội Trung cộng đổ bộ vào Việt Nam nếu xảy ra việc quân đội Mỹ trực chiến. Đây là một cơ hội bỏ lỡ mà lịch sử sau này cần làm sáng tỏ. Riêng về tương quan giữa Phạm Ngọc Thảo và Trần Thiện Khiêm là một tương quan chặt chẽ khỏi đầu từ cuối 1947 lúc ông Khiêm vừa mãn khóa sĩ quan với cấp bậc chuẩn úy vì bất mãn đã trốn theo Việt Minh, và Phạm Ngọc Thảo bấy giờ là trưởng phòng mật vụ Nam BỘ do Lê Duẩn bí thư xứ ủy bổ nhiệm. Mặc dầu có khoảng cách về cấp bậc trong quân đội, nhưng ông Khiêm luôn xem ông Thảo là một “đàn anh” về mọi phương diện. Dưói thời ông Diệm, Phạm Ngọc Thảo không bao giờ được nắm bỉnh quyển và bị giám sát chặt chẽ. Sau ngày 1 Tháng Mười Một, 1963, sở dĩ Phạm Ngọc Thảo có thể điểu động các đơn vị quân đội làm đảo chính là do ủy nhiệm của ông Khiêm và nhân danh ông Khiêm. Hỏi: Trong trường họp nào Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng, các điệp viên của cộng sản đã trở thành cô vấn và phụ tá của Tổng Thống Thiệu? Đáp: Người đưa Huỳnh Văn Trọng vào phủ tổng thống là ông Tổng Thư Ký Phủ Tổng Thống Nguyễn Văn Hướng, còn gọi là Mười Hương hay Mười Lễ nguyên là cán bộ cao cấp Đại Việt, xứ trưởng sứ bộ Nam Việt. Trước đấy ông Hướng là thành phần trong bộ tham mưu tranh cử năm 1967 của liên danh Nguyễn Văn Thiệu - Trình Quốc Khánh, đã liên hệ với nhóm chính trị của linh mục Hoàng Quỳnh qua Huỳnh Văn Trọng, Vũ Ngọc Nhạ là những đại diện. Khỉ ông Thiệu đác cử tổng thống đã bổ nhiệm ông Hướng vào chức vụ tổng thư ký phủ tổng thống. Huỳnh Văn Trọng là phụ tá của tổng thư ký phủ tổng thống tức phụ tá của ông Hướng chứ không phải là phụ tá của Tổng Thống Thiệu. Tổ chức phủ tổng thống lúc bấy giờ có hai hệ thống phụ tá: - Phụ tá của tổng thống có danh xung “Phụ tá đặc biệt tổng thống VNCH“ làm việc trực tiếp với tổng thống. - Phụ tá của tổng thư ký phủ tổng thống, có danh xung là “Phụ tá đặc trách”, trực thuộc văn phòng tổng thư ký, gồm các ông Huỳnh Văn Trọng, Uông Ngọc Thạch, Nguyễn Cao Thăng và Dương Đức Thụy. Ke từ nội các Trần Thiện Khiêm (1969) văn phòng tổng thư ký phủ tổng thống bị giải tán, hệ thống phụ tá đặc trách không còn nữa, các ông Nguyễn Cao Thăng, Dương Đức Thụy được bổ nhiệm làm phụ tá đặc biệt tổng thống VNCH.' Vũ Ngọc Nhạ chưa bao giờ là cô vấn của Tổng Thống Thiệu. Không có văn kiện nào bổ nhiệm đương sự và trong tổ chức Phủ Tổng Thống lúc bấy giờ không có chức vụ này. Hỏi: Ông nhận định thế nào về tầm mức quan trọng của cán bộ tình báo chiến lược cộng sản nằm vùng trong hàng ngũ quốc gia trước 1975? Đáp: Các cán bộ tình báo chiến lược dù chui sâu vào chính quyển miền Nam cũng rất khó tìm hiểu các bí mật quốc gia có tầm mức chiến lược vĩ đây là lãnh vực chuyên độc của người lãnh đạo quốc gia mà sô giới chức tiếp cận rất hạn chế. Dưói thời Tổng Thống Diệm cũng như Tổng Thống Thiệu, ngay hội đồng tổng trưởng là cơ quan cao nhất của chính phủ cũng rất ít khỉ thảo luận các vấn để chính trị có tính cách chiến lược vĩ đây là lãnh vực cấm kỵ, liên quan đến mặt trái của chính sách Mỹ. Phần lớn các cán bộ tình báo chiến lược của cộng sản nằm vùng trong hàng ngũ quốc gia đểu là cộng sự viên của các cơ quan tình báo ngoại quốc, như Huỳnh Văn Trọng nguyên là nhân viên phòng nhì Pháp và sau nầy là nhân viên tòa đại sứ Mỹ, Phạm Ngọc Thảo làm việc cho cơ quan tình báo Anh và CIA Mỹ, Phạm Xuân An liên hệ vơi CIA từ thời Lansdale v.v... qua các môi trường tình báo ngoại quốc, họ khai thác được các tin tức có tầm mức chiến lược. Cơ quan tình báo Mỹ biết họ là điệp viên cộng sản nhưng đã cô tình sử dụng vì nhu cầu các mục tiêu dài hạn. Sau 30 Tháng Tư năm 1975, những cán bộ tình báo này đã được cộng sản thăng cấp, mang nhiều huy chương, danh hiệu anh hùng... nhưng không bao giờ còn được tin dùng nữa. Hỏi: Trong cuộc bầu cử tổng thống 1971, khỉ áp dụng điểu 10 khoản 7 hạn chế các liên danh tranh cử, ông có tiên liệu sẽ xảy ra độc cử cùng những hậu quả chính trị tai hại của nó hay không? Cụ thể là uy tín chính trị của Tổng Thống Thiệu bị giảm sút trong quần chúng, sự bất mãn của dân chúng Hoa Kỳ đẩy mạnh phong trào phản chiến và Quốc HỘỈ Hoa Kỳ cát giảm viện trợ v.v... Đáp: Đây là một trường họp bất khả kháng, không còn một sự lựa chọn nào khác. Cuộc bầu cử Tổng Thống 1971 đã vượt ra khỏi khuôn khổ hiến pháp 1967, được tô chức dưói áp lực hòa đàm Parỉs. Trong các cuộc mật đàm trước đó cộng sản luôn đòi hỏi Mỹ phải loại trừ ông Thiệu như một diều kiện tiên quyết và Dương Văn Minh là một lá bài của Mỹ và cộng sản để thực hiện giải pháp liên hiệp thay thế ông Thiệu. Đây không còn là vấn để cá nhân giữa các ông Thiệu, Kỳ, Minh, với sự nhập cuộc của ông Minh, chúng tôi bát buộc phải biến cuộc bầu cử Tổng Thống 1971 thành một cuộc trưng cầu dân ý giữa hai lập trường (giải pháp) chính trị đối nghịch: một bên là ông Thiệu đại diện cho những người quốc gia chống cộng và bên kia là ông Dương Văn Minh đại diện cho những ngưòi chấp nhận liên hiệp với cộng sản. Cần lưu ý là trong các cuộc bầu cử, quốc gia và cộng sản ở trong tình trạng “trộn trấu“ tại những vùng mất an ninh. Điểu 10 khoản 7 chỉ có mục tiêu ngăn chận sự chia phiếu về phía những người quốc gia chống cộng. Nêu ông Minh đác cử, Hiến pháp 1967 và chế độ hiện hữu đương nhiên bị xóa bỏ và miền Nam được “tự nguyện” trao cho cộng sản Bắc Việt qua giải pháp liên hiệp. Ông Thiệu không hể có chủ trương độc cử. Ông chủ trương thực hiện một cuộc bầu cử công bằng và ngay thẳng với sự nhập cuộc của ông Dương Văn Minh mà sự tháng cử sẽ giúp ông có một tư thế mạnh tại hòa đàm Parỉs cũng như trong vấn để lãnh đạo đất nước. Điểu mà cả cộng sản và Mỹ đều không muốn và đó là nguyên nhân chính yếu đã đưa đến tĩnh trạng độc cử. Hỏi: Khỉ rơi vào tình trạng độc cử, phản ứng ông Thiệu như thê nào? Đáp: Sau cuộc bầu cử bán phần Thượng nghị viện cuối năm 1970 với sự nhập cuộc của khối Phật Giáo Ân Quang (liên danh Hoa Sen), chúng tôi đã có đủ yếu tô chính trị để xét định khuynh hương cử tri trong cuộc bầu cử Tổng Thống dự liệu vào tháng 10/1971. Trung tâm điện toán BỘ Tổng Tham Mưu đã được sử dụng để thực hiện các công việc phân tích, cho thấy trong cuộc đối đầu nầy, ông Minh sẽ chiếm từ 40 đến 45% tổng sô cử tri đi bầu và ông Thiệu sẽ đác cử với tỷ lệ từ 55 đến 60%. Chúng tôi đã trình bày đầy đủ các yếu tô cùng giải pháp điểu 10 khoản 7 và các hậu quả của việc áp dụng để ông Thiệu quyết định; hai trường họp dự liệu sẽ xẩy ra; - Trường họp lý tưởng: cuộc tranh cử gồm liên danh ông Thiệu và liên danh ông Minh; - Trường họp tệ hại có khả năng xảy ra là ông Minh sẽ rút lui để đưa đến độc cử, tạo khủng hoảng chính trị. Ông Thiệu không có một sự lựa chọn nào khác. Ông Thiệu nói với tôi: nếu không phải là một quân nhân và không có tỉnh thần trách nhiệm của một quân nhân thì tôi sẽ không ra tranh cử. Trong một phiên họp gồm một sô phụ tá và có sự hiện diện của ông Khiêm với những khó khăn đã được tiên liệu, ông Thiệu tuyên bô mà không giải thích lý do: có thể tôi chỉ ra tranh cử nếu có sự yêu cầu của quân đội. Bấy giờ là đầu Tháng Giêng năm 1971, kế hoạch tranh cử và điểu 10 khoản 7 hoàn toàn được giữ mật nên mọi ngưòi hiện diện đều cho rằng ông Thiệu tung “hỏa mù” vì họ đểu nghĩ cuộc bầu cử sẽ diễn tiến như thường lệ có nghĩa là liên danh chính quyển đương nhiên đác cử và vì họ nghĩ rằng Hoa Kỳ không thể nào bỏ rơi Việt Nam. Tháng 4/1971 dự luật bầu cử với điểu 10 khoản 7 được một sô dân biểu đứng tên tác giả đệ nạp tại Quốc HỘỈ như một sáng kiến từ phía lập pháp. Sau khỉ luật bầu cử được ban hành, vói sự đồng ý của ông Thiệu tôi đã tiếp xúc vói một lãnh tụ chính đảng có cơ sở quần chúng tại miền Trung đứng ra lập “liên danh đệm” với mục đích: nếu ông Minh nhập cuộc thì liên danh nầy sẽ rút lui, nếu ông Minh rút lui thì liên danh nầy sẽ tranh cử với liên danh của ông Thiệu - mục đích để tránh độc cử. Nhưng câu chuyện không thành. Khỉ các ông Minh và Kỳ đểu rút lui, ông Thiệu đã triệu tập hội đồng tương lãnh để hỏi ý kiến, gồm tổng trưởng quốc phòng, tổng tham mưu trưởng, tư lệnh quân đoàn và tất cả đểu bày tỏ sự ủng hộ ngoại trừ Tương Cao Văn Viên không cho ý kiến. Điểu nầy không có nghĩa là Tương Viên chống lại vụ độc cử; ông là một quân nhân có kỷ luật và lập trường của ông là quân đội không làm chính trị. Là một trong những nhân vật của cuộc đảo chánh ngày 1/ Tháng Mười Một năm 1963, ông Thiệu hiểu hơn aỉ hết là người Mỹ có thể dùng vụ “độc cử” như một lý cớ để bấm nút đảo chánh khi cần thiết và những tương lãnh đã bày tỏ sự ủng hộ ông trong vụ này không hẳn là những người trung thành với ông. Ông đã nhắn nhủ với họ: “đảo chánh quân sự là chuyện dễ, chỉ cân một tiêu đoàn đê đánh vào Dinh Độc Lập nhưng xương máu chiên sĩ phải dành cho công cuộc chông cộng, bảo vệ đât nước, có gì không bằng lòng thì vào đây nói chuyện với tôi, tôi sẵn sàng từ chức. ” Một mặt ông Thiệu mở rộng cánh cửa đảo chánh để những kẻ có âm mưu thấy rằng họ sẽ đánh vào “khoảng trống” nhưng mặt khác ông có hệ thống theo dõi và ngăn chận chặt chẽ. Bị rơi vào tình trạng độc cử, một lần nữa Tổng Thống Thiệu lại bị lệ thuộc vào sự ủng hộ của quân đội hay đúng hơn là một sô tướng lãnh nám bỉnh quyển và lệ thuộc vào Hoa Kỳ, như trước đây trong cuộc bầu cử năm 1967 trong việc sáp nhập hai liên danh Thiệu - Kỳ; những trói buộc nầy đã kiểm chế và giói hạn khả năng lãnh đạo của ông trong khi đất nước đòi hỏi những biện pháp cách mạng và triệt để. Riêng cá nhân tôi, sau cuộc bầu cử tổng thống 1971, đã xỉn ông Thiệu cho từ chức để ông tiện việc sáp xếp nhân sự cho giai đoạn mới, nhưng ông yêu cầu tôi ở lại giúp ông, và cũng ngay hôm đó ông ủy nhiệm tôi thành lập đảng Dân Chủ là đảng cầm quyển. Hỏi: Xỉn ông cho biết lý do thực sự của việc thành lập đảng Dân Chủ? 

 Đáp: Sau cuộc bầu cử bán phần Thượng nghị viện cuối 1970 và việc kết họp 6 chính đảng hoàn toàn thất bại, ông Thiệu quyết định thành lập đảng cầm quyển nhưng chỉ sau cuộc bầu cử Tổng Thống 1971 mới chính thức công khai và phát triển trong quần chúng. Đảng Dân chủ không nhằm tranh ghế dân biểu, nghị sĩ hay tổng thống mà để đối phó với việc giải kết của ngưòỉ Mỹ; có một sô mục tiêu cụ thể nhung không công bố: - Hữu hiệu hóa guồng máy chính quyển. - Đoàn ngũ hóa nhân dân. Vì áp lực của Mỹ, đảng Dân Chủ đã ngừng hoạt động một thời gian ngắn sau Hiệp Định Parỉs 1973. Các mục tiêu không đạt được. Riêng quân ủy đảng Dân Chủ trong giai đoạn đầu có mục tiêu giới hạn nhằm ngăn chận đảo chánh và phản đảo chánh. Đe tránh trường họp “gậy ông đập lưng ông” như đảng cần Lao, nguyên tắc ngăn cách đã được triệt để áp dụng giữa cá nhân, đon vị; các tướng lãnh và một sô gỉới chức đặc biệt được tuyên thệ riêng biệt từng người với Tổng Thống Thiệu... Hỏi: Sau khỉ Tối Cao Pháp Viện niêm yết lần thứ nhất danh sách các liên danh tranh cử gồm Nguyễn Văn Thiệu và Dương Văn Minh thì ông Minh đã tuyên bô rút lui vì nhận thấy cuộc bầu cử thiếu công bằng, có dấu hiệu gian lận và ông đã công bô một tài liệu của Phủ Tổng Thống phân phối cho các tỉnh trưởng vể việc nầy như một bằng cớ buộc ông phải rút lui. Ông nghĩ sao vể sự kiện này? Đáp: Sự thực không phải như vậy. Tài liệu ông Dương Văn Minh để cập là một tài liệu mật của Văn Phòng chúng tôi. Trong tài liệu giải mật sau nầy của đại sứ Bunker cho biết tài liệu này đã được gởi vể BỘ Ngoại Giao Mỹ để phân tích và phúc trình tòa bạch ốc với kết luận: ”không có dấu hiệu nào cho thấy ông Thiệu đưa ra những chỉ thị để gian lận.” Thực sự ông Dương Văn Minh đã bị buộc phải rút lui dưói áp lực bộ tham mưu của ông ta do các dân biểu, nghị sĩ thân cộng chi phối. Những dân biểu, nghị sĩ này sinh hoạt chặt chẽ với thành ủy cộng sản Sài Gòn và đã nhận chỉ thị từ phái đoàn cộng sản tại Parỉs, như đã được xác nhận sau này, theo đó cộng sản muốn ông Minh hoặc thay Thiệu - Kỳ đứng đầu một chính phủ liên hiệp (liên hiệp được hiểu với MTGPMN chứ không phải với những người quốc gia chống cộng), hoặc đứng đầu cái gọi là lực lượng thứ ba do cộng sản dàn dựng. Ông Minh không có sự chọn lựa nào khác là phải rút lui, nếu không thì các dân biểu, nghị sĩ An Quang và cộng sản đã ký giấy gỉới thiệu cho ông ra ứng cử cùng các lực lượng chính trị liên hệ sẽ rút lại sự ủng hộ. vể phía người Mỹ cũng không muốn ông Minh sẽ làm bàn đạp để ông Thiệu thắng cử vì như thế sẽ gây bế tác tại hòa đàm Parỉs. Mười năm sau gặp lại ông Thiệu, nhác lại chuyện cũ cùng những nhận định tình hình ngày đó, ông tái xác nhận: “Như anh đã bỉêt trước đó bọn cộng sản luôn luôn đặt vân đề với Mỹ ỉà phải thay tôi kê cả biện pháp ám sát, SỞ dĩ Mỹ không làm điều đó vì họ đang cần tôi đê có sự an toàn cho họ rút quân trong các năm 1969, 70, 71. Cuối 1971 và cũng là sát với nhu cầu bầu cử tổng thông Mỹ 1972, họ muôn thay tôi bằng ông Minh qua cuộc bầu cử tháng 10 vì nêu ông Minh thắng cử thì ông ta sẽ yêu câu Mỹ châm dứt mọi sự can thiệp và như thê Mỹ sẽ bỏ rơi miền Nam một cách suông sẻ và chính đáng mà không sợ bị lên án phản bội. ” Như một quan sát viên ngoại quốc nhận định, bản chất ông Dương Văn Minh là một ngưòi không quyết đoán ngoại trừ một lần duy nhất là việc giết hai ông Diệm, Nhu; quyết định tàn bạo nầy đã đẩy ông vào thế cô lập đối với những người quốc gia chống cộng. Ông Thiệu đã có thời gian làm tham mưu trưởng BỘ Tư Lệnh Hành Quân dưói quyển ông Minh, nhác lại thời gian này ông nói chưa bao giờ ông có một ngưòi chỉ huy tệ hại như vậy: lười biếng, nhác nhón trong suy nghĩ và hoàn toàn không khả năng. Ông Ngô Đình Nhu nhận xét về ông Minh: “Có xác của một con voi và bộ óc của con ruồi”. Không biết có phải vì lý do nầy mà ông Nhu đã bị cận vệ của ông Minh là đại úy Nhung bán nhiều phát đạn và đâm hon chục nhát dao găm. Tựu trung ông ta chỉ là con rối của Mỹ và cộng sản. Hỏi: Lãnh tụ chánh đảng miền Trung mà ông để cập trong việc thiết lập “liên danh đệm” trong cuộc bầu cử Tổng Thống 1971 có phải là ông Hà Thúc Ký thuộc Đại Viẹt Cách Mạng? Đáp: Đúng. Tôi đã nói chuyện trực tiếp với ông ta. Tôi đã đưa ra các điểu kiện vể phía chúng tôi sẽ thực hiện: về hồ sơ tranh cử, chúng tôi sẽ cung cấp đầy đủ 100 chữ ký nghị viên và đóng tiền ký quỹ theo luật định; sau cuộc bầu cử, Đại Việt Cách Mạng sẽ tham dự chính phủ trung ương; sẽ tham dự chính quyển địa phương tại các nơi có cơ sở đảng; và chúng tôi sẽ giúp phát triển đảng trên toàn quốc v.v... 

 Hỏi: Trong vấn để thiết lập “liên danh đệm” tại sao ông Thiệu không chọn ông Nguyễn Ngọc Huy vẫn được dư luận ngày đó xem là đối lập “cuội”? Đáp: Lúc bấy giờ ông Thiệu đã có quyết định lập đảng cầm quyển nhưng còn giữ kín và qua vấn để thiết lập “liên danh đệm” chúng tôi muốn gấp rút tiến đến chế độ lưỡng đảng. Ông Thiệu không tin tưởng vào lập trường chống cộng của những người lãnh đạo Tân Đại Việt. Cụ thể liên danh ứng cử Tổng Thống Trương Đình Dzu - Trần Văn Chiêu năm 1967 thật sự là liên danh của đảng Tân Đại Việt được thành lập do “gợi ý” của người Mỹ để trắc nghiệm vể một giải pháp chính trị, với dấu hiệu Bổ câu tráng, danh hiệu Hòa Bình, chủ trương thừa nhận MTGPMN, tiến đến chính phủ liên hiệp... Trương Đình Dzu là một phần tử hoạt động tích cực cho Việt Minh thời gian chống Pháp trước 1955 và Trần Văn Chiêu là một cán bộ cao cấp của Tân Đại Việt đồng thời là một điệp viên của cộng sản trước 1975, liên danh đã về nhĩ trong cuộc tranh cử với sự yểm trợ của Mỹ qua cán bộ chiến dịch phượng hoàng và của cộng sản tại những vùng mất an ninh. Các cuộc chính biến gây tình trạng hỗn loạn từ ngày 1 Tháng Mười Một năm 1963 đến 1965 đểu do các sĩ quan Tân Đại Việt chủ xương, họ nôn nóng cưóp chính quyển bằng mọi giá nhưng là những chuyên viên hái trái cây khi còn xanh. Lúc tôi phụ trách quân ủy đảng Dân Chủ, ông Thiệu nói với tôi: bọn sĩ quan Tân Đại Việt có nhiều “thằng” xứng đáng lên tướng. Nhưng những người được xem là xứng đáng đã không được lên tướng. Một trong những người nầy là DHN thủ khoa khóa 5 Đà Lạt là khóa mà ông Thiệu làm huấn luyện viên và đã cho rất nhiều sĩ quan của khóa này lên tướng - một lý do thầm kín là sự hiện diện của đương sự trong đoàn thiết vận xa đón Tổng Thống Diệm và ông Nhu tại nhà thờ Cha Tam sáng ngày 2 Tháng Mười Một năm 1963 đã được tướng Dương Văn Minh ủy thác cùng đại úy Nguyễn Văn Nhung thỉ hành sứ mạng thanh toán hai ông Diệm, Nhu. Đảng Tân Đại Việt là đảng được ông Thiệu cung cấp phương tiện tiền bạc rất nhiều vói hơn 15% đô, tỉnh, thị trưởng toàn quốc trong đó có đô trưởng Sài Gòn . Ông Thiệu nói với tôi: “Anh để thằng Nh. ở đó (đô trưởng Saigon) để nó nuôi bọn Tân Đại Việt không thì mình cũng phải nuôi.” Nhưng ông Thiệu không bao giờ để họ chỉ huy các đơn vị quân đội hoặc giữ các trọng trách tại trung ương. Chính sách chia để trị của người Pháp đã để lại những ảnh hưởng sâu đậm trong sinh hoạt chính trị miền Nam thời hậu thuộc địa và cộng sản đã rất thâm độc khỉ thành lập MTGPMN làm bình phong cho cuộc xâm lăng của chúng. Bằng sự liên kết với cụ Hương và thỏa hiệp với lực lượng Tân Đại Việt, ông Thiệu đã hóa giải thế đứng của tô chức liên trường và phong trào quốc gia cấp tiến.
Nguồn: nvbonphuong. THANKS - DV 2017