Nghệ sĩ Tùng Lâm sinh Tháng Ba 1934 tại Sài Gòn, trên giấy khai sinh lúc đó còn ghi là Liên Bang Đông Dương. Ông gốc người Hoa, tên thật là Lâm Ngươn Phẩm. Tuy là người Hoa truyền đời, nhưng đến đời ông, thì không còn biết đọc, biết nói tiếng Hoa nữa, và yêu thương Sài Gòn như quê hương duy nhất của mình.

Gia đình nghệ sĩ Tùng Lâm là dòng dõi trọng chữ nghĩa. Tất cả 10 anh chị em của ông đều được đi học và khuyến khích làm người trí thức. Ba của ông làm nghề luật sư và nghiêm khắc trong việc giáo dục con cái. Dòng họ Lâm Ngươn tỏa đi khắp nơi sau năm 1975, trong đó có người chú là ông Lâm Ngươn Tánh (1928-2018) là Thiếu tướng Hải quân của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông Tánh cũng là người tham gia cuộc hải chiến Hoàng Sa chống Trung Cộng trên cương vị Phó Tư lệnh Hải quân kiêm Tư lệnh chiến dịch.
Do gia đình nề nếp nên thú ham mê sân khấu từ nhỏ của ông Tùng Lâm bị ba ông cấm tiệt, không cho tập tuồng diễn trò. Chỉ có anh chị là thương, giấu ba, để đứa em út ca hát. Thậm chí người chị thứ chín còn bí mật rèn luyện ông đánh đàn mandolin, mà người cha sau này bất ngờ khi thấy ông cầm đờn biểu diễn.
Năm 1948, thấy có cuộc thi hát của Đài Pháp Á, tuyển lựa giọng ca thiếu niên, ông Tùng Lâm quyết đi thi và được anh chị theo bí mật cổ vũ. Sau khi đoạt giải nhất với bài An Phú Đông, ông dè dặt báo tin cho ba mình biết. Mới đầu người cha giận định đánh đòn vì thấy con cứ đi theo nghề đờn ca hát xướng, nhưng rồi khi biết ông Tùng Lâm đoạt giải nhất thì đành thở dài, cho theo số phận. Bà Thu Trang, người vợ sau này của ông kể rằng, chỉ từ khi đoạt giải thi hát, ông mới chính thức tập hát, tập trình diễn ở nhà, chứ trước đó, toàn trốn ra đồng để tập hát, sợ bị la.
Tới năm 1952, ông lại chiếm giải nhất trong cuộc thi tuyển ca sĩ cho Đài Sài Gòn với bài Tiếng dân chài của tác giả Phạm Đình Chương. Từ đó, ông mới chọn nghệ danh là Tùng Lâm.
Ít ai biết là nghệ sĩ Tùng Lâm từng có ban tam ca, cùng với nghệ sĩ Vân Hùng và nhạc sĩ Lam Phương. Ông Lam Phương lúc đó tập tành sáng tác nhưng chưa ra mắt tác phẩm mà chỉ nhập cuộc sân khấu bằng trình diễn. Cả ba ông hát cũng ăn khách, nhưng ông Tùng Lâm nhìn lại mình, nhận ra rằng với vóc dáng không cao ráo và cũng không đẹp trai như các tài tử lúc bấy giờ nên ông nghĩ mình cần tìm ra một con đường riêng và cuối cùng xin nghỉ.

Từ đó, sự nghiệp của danh hài có chiều cao chưa tới 1m55, nhỏ con, lanh lợi và có lối diễn xuất duyên dáng với cái môi trề bắt đầu cuộc chinh phục khán giả miền Nam. Bằng sáng tạo, với các câu chuyện thú vị hài hước của thể loại Standup Comedy, pha trộn một số tiểu xảo sân khấu, cái tên Tùng Lâm rực sáng ở các sân khấu miền Nam. Đến giữa năm 1958, trong một đại nhạc hội có tên “Minh tinh – Quái kiệt” tổ chức trong khuôn viên Dinh toàn quyền Norodom, nghệ sĩ Tùng Lâm được chính thức quảng cáo với biệt hiệu Tiểu quái kiệt Tùng Lâm.
Tại sao là Tiểu quái kiệt? Theo lời nghệ sĩ Tùng Lâm, quái kiệt thật sự của sân khấu Việt Nam, có thể nói cho đến bây giờ, chỉ có duy nhất là nghệ sĩ Trần Văn Trạch (1924-1994), em của nhạc sĩ Trần Văn Khê (1921-2015). Giai đoạn thuở nhỏ lúc còn lang thang ở các gánh hát, ông có đi theo học nghề nghệ sĩ Trần Văn Trạch. Ông học được từ ông thầy này rất nhiều ngón nghề. Sự nghiệp phát triển mãi đến về sau vẫn có nhiều thứ ông rút tỉa từ những bài diễn của nghệ sĩ Trần Văn Trạch. Đặc biệt trong loạt chương trình Tiếu Vương Hội phát trên truyền hình và ghi âm, những kiểu gây cười bằng cách bắt chước các loại âm thanh, tiếng động cũng từ ông thầy Trần Văn Trạch.

Là người luôn có nhiều sáng kiến trình diễn, nghệ sĩ Tùng Lâm đứng ra tổ chức các đại hội tiếu lâm hài hước (theo cách nói của ông), quy tụ nhiều cây hài hàng đầu Việt Nam cùng tham gia, tạo ra cơn sốt với khán giả. Đi cùng sự phát triển xã hội dân chủ ở Việt Nam từ thời Đệ nhất sang Đệ nhị Cộng Hòa, các tiết mục biểu diễn của nghệ sĩ Tùng Lâm ngày càng đi vào đời sống với các câu chuyện, ngôn từ châm biếm xã hội, phê phán đời sống. Không chỉ sân khấu, vào lúc truyền hình ở miền Nam phát triển, nghệ sĩ Tùng Lâm được mời tổ chức các tiết mục trình diễn thường xuyên trên đài, ghi âm kịch hài, đóng phim, đi biểu diễn ca nhạc… Gần như lĩnh vực nào ông cũng tham gia và được tán thưởng.
“Thời đó, ổng làm ra tiền ghê lắm. Sau mỗi lần đi diễn, hay đóng phim là ôm bao tiền về đổ vô tủ gạc-măng-rê (garde-manger), không đếm nổi. Rồi đi chơi hay đánh bài, ông cứ xách cái Samsonite, ém tiền vô cho chặt rồi mang đi”. Bà Trang kể, “Thời đó đâu có ai nghĩ sẽ tới ngày 30 Tháng Tư, nên có tiền thì cứ xài thôi”.
Trong thời kỳ miền Nam sản xuất phim màu và màn ảnh đại vĩ tuyến, nghệ sĩ Tùng Lâm tham gia cùng các bạn diễn Khả Năng, Thanh Việt và La Thoại Tân trong bộ phim Tứ quái Sài Gòn. Đây là một trong những bộ phim được báo chí Philippines, Nhật Bản, Hong Kong nhắc tới như một hiện tượng. Theo tâm tình của Châu Tinh Trì, vào lúc thực hiện phim Đội bóng Thiếu Lâm (2001), các “miếng” diễn hài của các danh hài Việt trong phim này được Châu Tinh Trì nghiên cứu rất kỹ, đặc biệt là kiểu diễn của nghệ sĩ Tùng Lâm, để áp dụng trong trường đoạn trên sân bóng.
30 Tháng Tư 1975 là cột mốc khó quên với tất cả nghệ sĩ miền Nam. Với ông Tùng Lâm, đó cũng là lúc ông không thể tự nhiên lên sân khấu được. Dù được miễn quân dịch Việt Nam Cộng Hòa do một lần đi diễn thời thanh niên, ông bị xe quẹt làm gãy tay, nhưng không có nghĩa là ông thoát khỏi danh sách lớp văn nghệ sĩ cần bị kiểm soát. Bạn thân của ông, danh hài Thanh Hoài, làm nhân viên Cục Xây dựng Nông thôn – một cơ quan mà chính quyền mới vô cùng không thích – bị ngừng diễn hoàn toàn, cho đến khi qua đời vào năm 2014 ở Sài Gòn. Lý do là kịch bản hài khi lên sân khấu, khó kiểm soát hơn ca nhạc hay văn chương, và hơn nữa, hài luôn rơi vào tình huống bị xét nét bởi ngụ ngôn và các câu ẩn dụ. Xã hội lúc đó căng thẳng và không biết đùa.

Nhờ người quen giới thiệu, từ năm 1983, ông về miền Tây, Hậu Giang để tham gia vào đoàn trình diễn của tỉnh. Thấy ông giỏi quản lý, quen biết nghệ sĩ và biết tổ chức chương trình, phía đoàn hát giao cho ông chức Phó đoàn, tức làm hết mọi việc, thay cho lãnh đạo. “Hầu hết nghệ sĩ cũ (trước năm 1975) phải chịu thôi. Mình đã nhất định theo nghề thì dù là cực khổ cách mấy cũng phải vượt qua”, ông Tùng Lâm nói. Ông chọn về quê vì ít bị rầy rà, và ngoài đi diễn thì còn được đoàn hát cho ăn cơm ngày hai bữa, đỡ cực hơn rất nhiều người. Cũng nhờ ẩn nhẫn mà nghệ sĩ Tùng Lâm sống được với nghề hơn mười năm, và gặp người vợ thứ hai của mình là diễn viên Thu Trang trong đoàn (người vợ đầu của ông là nghệ sĩ Bạch Lan Thanh, hiện vẫn còn ở Sài Gòn)./-
No comments:
Post a Comment