Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label TacGiaTieuTuPARIS. Show all posts
Showing posts with label TacGiaTieuTuPARIS. Show all posts

Saturday, 5 October 2024

 Tiểu Tử, Nhà Văn Gìn Giữ Hồn Quê Tây Ninh

Tiểu Tử

 

Sau Hòa Ước năm Nhâm Tuất (1862) đến Hòa Ước Giáp Thân (1884) hay Hòa Ứớc Patenôtre, chia nước Việt Nam (thuộc Liên Bang Đông Dương) ra làm ba xứ: Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (Annam), Nam Kỳ (Cochinchine). Tuy đất nước thuộc triều đình nhà Nguyễn trên danh nghĩa nhưng Bắc Kỳ và Trung Kỳ là xứ bảo hộ, Nam Kỳ là xứ thuộc địa Pháp. Vì vậy ngoài những lãnh vực khác, nền giáo dục xứ thuộc địa, Pháp đã thành lập một số trường theo kiểu Pháp nhiều hơn xứ bảo hộ đã có trước đó.

 

Năm 1906, Toàn Quyền Đông Dương P. Beau đưa ra kế hoạch cải cách giáo dục với hệ thống trường Pháp - Việt và sau đó tiếp tục thay đổi trường cấp một 5 năm (primier degré), cấp hai 4 năm (second degré) và cấp ba 3 năm (troisième degré). Các trường mở rộng ở Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Hà Tiên, Châu Đốc…

 

Tuy là xứ thuộc địa nhưng người dân Nam Bộ, Nam Kỳ Lục Tỉnh vẫn giữ được bản sắc dân tộc, phong tục tập quán… và cả ngôn ngữ dân gian từ giao tiếp trong đời sống đến văn chương.

 

Các bậc tiền bối tiêu biểu như Trương Vĩnh Ký (1837-1898), Huỳnh Tịnh Của (1830-1908), Hồ Biểu Chánh (1884-1958)… đều học và thông thạo tiếng tiếng Pháp nhưng đã quảng bá nền văn học Việt Nam đặc biệt với ngôn ngữ Nam Kỳ Lục Tỉnh.

 

Nhà văn Hồ Biểu Chánh với tác phẩm đầu tay Ai Làm Được năm 1912 với phong thái phương ngữ bình dân Nam Bộ. Tác phẩm Cay Đắng Mùi Đời (1923) phỏng theo tiểu thuyết Không Gia Đình của Hector Malot. Tác phẩm Ngọn Cỏ Gió Đùa (1926) phóng tác theo Les Misérables của Victor Hugo, nhưng câu chuyện xảy ra đầu thế kỷ 20, ở một làng quê nghèo ở Nam Bộ bị nạn đói hoành hành  nên lâm vảo hoàn cảnh của Những Người Khốn Khổ. Tác phẩm Cay Đắng Mùi Đời xảy ra trong bối cảnh quê hương Gò Công của cụ…

 

Tác giả Nguyễn Văn Sâm, GS Đại Học Văn Khoa Sài Gòn trong quyển Văn Chương Nam Bộ… đã dành 26 trang (từ trang 23 đến trang 38) liệt kê các tác phẩm trên nhiều lãnh vực (loại xuất hiện ở thành và bưng) với sự đóng góp quan trọng vào việc gìn giữ và phát triển văn chương Nam Bộ. Theo tác giả giải thích về hai chữ Nam Bộ: “Dùng danh từ Nam Bộ chúng tôi muốn gắn liền tên gọi với thời đại. Tiếng Nam Bộ được sử dụng chánh thức trong dụ số 108 của Quốc Trưởng Bảo Đại xung chức Khâm Sai Nam Bộ cho Nguyễn Văn Sâm vào tháng 8/1945” (Ghi chú: ông Khâm Sai Nam Bộ Nguyễn Văn Sâm trùng tên với tác giả Nguyễn Văn Sâm (sinh năm 1940). Sáu tỉnh đó là Biên Hòa, Gia Định (có phủ Tây Ninh), Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.

 

Ngoài ra, quyển Văn Chương Nam Kỳ Lục Tỉnh của ông là công trình nghiên cứu về lịch sử, văn hóa, xã hội, đời sống của người dân vùng đất nầy…

 

Những nét đặc trưng của văn hóa Nam Bộ ảnh hưởng sâu đậm, bản chất, lối sống, ngôn ngữ, trang phục, tôn giáo và các truyền thống văn nghệ dân gian với các tầng lớp trong xã hội. Đồng thời các nhân vật lịch sử và văn học của các bậc tiền nhân như Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), Sương Nguyệt Anh (1864-1921, con gái cụ Nguyễn Đình Chiểu), Phan Văn Trị (1830-1910), Bùi Hữu Nghĩa (1807-1872)… đã ảnh hưởng cho hậu thế.

Nhà thơ Du Tử Lê trong loạt bài Vài Nét Đặc Thù Của Dòng Văn Chương Nam Bộ, trong đó qua nhận định của nhà thơ Trần Tuấn Kiệt, khoảng từ 1950 đến 1975, có 4 nhà văn nổi tiếng được mệnh danh là Tứ Đại Văn Hào Nam Bộ: Hồ Hữu Tường, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc và Lê Xuyên.

 

Đọc các tác phẩm tiêu biểu của 4 nhà văn trên, từ lời văn, cấu trúc đến các mẩu đối thoại… “rất Nam Bộ” và sau đó xuất hiện nhiều tác giả, tác phẩm. Vì vậy cần phân biệt văn chương Nam Bộ với văn chương Miền Nam trong hai thập niên giữa 1950’ và 1970 với giới cầm bút di cư vào Nam và miền Trung…

Đề cập khái quát về văn chương Nam Bộ để nói về nhà văn Tiểu Tử, người con của đất Tây Ninh khi xa xứ khi viết văn vẫn giữ được cái gốc thuần túy văn chương Nam Bộ.

 

*

 

Từ khi du học ở Pháp vào đầu thập niên 1950’, trở về Việt Nam làm việc cho hãng Shell rồi sang Pháp làm việc cho đến khi về hưu và định cư cho đến nay… cả cuộc đời nhà văn Tiểu Tử gắn bó với tiếng Pháp nhưng khi cầm bút nơi xứ người với văn phong đặc biệt “miền Nam”, giản dị, ngắn gọn, chân chất, dí dỏm từ giọng văn và các mẩu đối thoại.

 

Về tiểu sử cũng ngắn gọn: Tiểu Tử tên thật là Võ Hoài Nam, sinh năm 1930 tại Gò Dầu Tây Ninh. Ông là con trai duy nhứt của nhà giáo Võ Thành Cứ, giáo sư trường trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn. Tốt nghiệp Kỹ sư, Marseille năm 1955. Dạy lý hoá trung học ở ngôi trường nầy niên khóa 1955-1956. Tháng 10/1956 làm việc cho hãng dầu Shell Việt Nam từ năm tháng 10 1956 đến 30/4/1975.

 

Trong 3 năm (1975-1978) được trưng dụng làm việc cho hãng nầy. Trong thời gian đó, vượt biên 3 lần nhưng thất bại. Vượt biên cuối năm 1978. Định cư ở Pháp từ đầu năm 1979. Làm việc cho hãng đường mía của Côte d’ Ivoire (Phi Châu) 1979-1982. Làm việc cho hãng dầu Shell Côte d’ Ivoire 1982-1991 về hưu ở Pháp.

 

Trước 1975, Tiểu Tử giữ mục biếm văn Trò Đời của nhật báo Tiến. Bắt đầu viết truyện ngắn khi sống ở Côte d’Ivoire, Châu Phi (trước kia thuộc địa của Pháp, sau khi tuyên bố độc lập vẫn ảnh hưởng nhiều của Pháp). Thời gian ông làm việc ở Côte d’ Ivoire, để vơi bớt nỗi buồn ông mới sáng tác. Từ đó cho đến khi trở lại Pháp, qua mấy thập niên, ông tiếp tục sáng tác khoảng một trăm bài, trong đó có hồi ký và truyện ngắn. Ông đã ấn hành 5 tuyển tập: Những Mảnh Vụn (Làng Văn Toronto xuất bản 2004), tuyển tập Bài Ca Vọng Cổ ấn hành năm 2006, tuyển tập Chị Tư Ù ấn hành năm 2013, tuyển tập Chuyện Thuở Giao Thời (2015), Tuyển Tập Tiểu Tử (Người Việt năm 2016), ngoài ra có tuyển tập Tiểu Tử (quyển thượng và hạ)… Tác giả chọn truyện ngắn đầu tiên làm tựa đề tác phâm.

 

Tuyển tập Những Mảnh Vụn, dày 250 trang, gồm 14 truyện ngắn: Những Mảnh Vụn, Câu Chuyện Của Tình Yêu, Người Đàn Ông Sống Ở Vùng Ngoại Ô, Một Chiếc Nhẫn, Những Ký Ức Không Quên, Giấc Mơ, Cánh Đồng Xanh, Thời Gian, Sống Trong Ký Ức, Con Đường Cũ, Mùa Hè Sôi Động, Chia Ly, Đêm Mưa, Người Mẹ Gần Gũi

Mỗi truyện ngắn là “mảnh vỡ” ký ức lồng trong bối cảnh đó với bản thân hay nhân vật khác, phản ảnh sự kiện và cuộc sống của con người bình dị trong đời sống từ trong nước và hải ngoại.

 

Tuyển tập Chị Tư Ù ấn hành năm 2013 dày 200 trang, gồm 16 truyện ngắn: Chị Tư Ù, Người Đàn Bà Mất Chồng, Mùa Xuân Của Mẹ, Thời Gian Đã Qua, Bến Sông Cũ, Cơn Mưa Bất Chợt, Hạnh Phúc Trong Tầm Tay, Lời Hứa, Dòng Ký Ức, Hồn Ma Sông Nước, Tình Yêu Nơi Đất Khách, Ký Ức Quê Hương, Giấc Mơ, Những Mảnh Đời, Chuyện Của Năm Trước, Cuộc Gặp Gỡ Định Mệnh.

 

Tuyển tập Chuyện Thuở Giao Thời, ấn hành năm 2015 dày 200 trang, gồm 12 truyện ngắn: Chuyện Thuở Giao Thời, Nơi Đất Khách, Người Đàn Ông Mất Dạy, Cô Gái Bán Chân Vịt, Chuyến Tàu Về Quê, Chiếc Vòng Cổ, Bài Học Đắt Giá, Mùa Hè Năm 1975, Dòng Sông Bạc, Những Đứa Trẻ Bên Bờ Sông, Mẹ Tôi, Người Về Từ Nước Ngoài

Tuyển Tập Tiểu Tử (Người Việt năm 2016) dày 260 trang, gồm 12 truyện ngắn: Bà Chúa Nước, Ký Ức, Những Đứa Trẻ Bên Bờ Sông, Chiếc Bánh Mì, Chỉ Cần Có Thế, Dòng Ký Ức, Mưa Nắng, Tình Yêu Đầu, Lá Số, Cô Gái Trên Đường, Người Đàn Ông Mất Chồng, Mùa Xuân Đã Về.

 

Qua các truyện của ông, nói về bản thân trong 3 năm (1975-1978) trong cuộc đổi đời với bao nghịch cảnh, nỗi đau cùng với những gì “mắt thấy tai nghe” với người dân cũng lâm vào cùng cảnh ngộ. Những thập niên sống ở hải ngoại từ xứ khỉ ho cò gáy Côte d’ Ivoire ở Châu Phi đến thủ đô Paris vẫn mang tâm trạng và nỗi lòng người vong quốc.

Vào đầu năm 2000, tôi phụ trách vài tờ báo, các truyện ngắn của ông được phổ biến, khi đọc thôi thích lối viết, giọng văn, diễn đạt chân thật, ngắn gọn nhưng gợi lên hình ảnh khó quên…

 

Vì ông ở Paris nên các văn hữu ở đó đã viết nhiều về ông. Trong buổi ra mắt sách Chuyện Thuở Giao Thời ngày 3 tháng 1 năm 2015 tại Eglise Sainte Hippolyte, Paris. Các diễn giả đã giới thiệu về tác giả, tác phẩm như Nguyễn Văn Trần, Từ Thức, Trần Thanh Hiệp…

 

Theo nhà nghiên cứu, dịch giả Nguyễn Văn Trần nhận xét và đánh giá tác phẩm và văn chương của Tiểu Tử. Ai cũng nhìn nhận văn và truyện của Tiểu Tử rất đặc biệt, nó dành cho Tìểu Tử một chỗđứng nhất định trong văn học Việt Nam. Ông viết về đời sống thực tế của Nam Kỳ, nhân vật đặc sệt Nam kỳ, khung cảnh xã hội cũng Nam Kỳ… Nó như mang hơi hướng một Sơn Nam, một Bình Nguyên Lộc, một Lê Xuyên…

 

Nhà báo Từ Thức đánh giá: “Văn của Tiểu Tử bình dị, mộc mạc của người miền Nam, dù độc giả chai đá tới đâu, khi đọc Tiểu Tử cũng không cầm được nước mắt. Người ta khóc, nhưng sau đó thấy ấm lòng, vì thấy trong xã hội đảo lộn, vẫn còn tình người, vẫn còn đầy thương yêu, vẫn còn nghĩa đồng bào và thấy đời còn đáng sống. Văn chương, trước hết là xúc động. Trong truyện ngắn của Tiểu Tử, sự xúc động hầu như thường trực”.

 

LS Trần Thanh Hiệp, chủ trương tạp chí Sáng Tạo ở Sài Gòn, Chủ Tịch sáng lập Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, phát biểu: “… Những diễn giả vừa phát biểu đã lấy hết suy tư của tôi, mỗi người mỗi ý quá phong phú, riêng tôi muốn đề cập một khung cửa Văn học, sử học và hiện tượng sống qua ngôn ngữ, rung cảm trong một tác phẩm văn học quốc ngữ Việt Nam, từ văn viết đến văn nói… Tôi tin rằng ngôn ngữ Việt Nam vẫn còn tồn tại bởi trong ngôn ngữ Việt có sự tiếp nối và gắn sâu liền cuộc sống như sự trưởng thành của cây Bần, cây Đước bám sâu vào đất, trong đó có Tiểu Tử”…

 

Nhà văn Tiểu Tiểu Tử chia sẻ: “Tôi xin kể chuyện đời của tôi vừa trải qua 84 năm. Tôi bị bệnh tim, sau đó thay “van” động mạch chủ, phải giải phẫu mổ lòng ngực, cũng may tôi qua khỏi bệnh, rời giường bệnh về nhà. Nhớ lại thuở ấu thơ, tôi bật tiếng cười... khi mình còn nhỏ cha mẹ dìu dắt từng bước một, tập đi chập chững, mỗi bước đi cả nhà đều vui mừng, vỗ tay khuyến khích. Và sau 84 năm, tôi cũng bắt đầu tập đi từng bước một như thời thơ ấu, lần này vợ con tôi dìu dắt tập tôi đi từng bước một, cho đến nay đi khá vững và ngồi được lâu, trong ngày giới thiệu sách Chuyện Thuở Giao Thời. Như vậy tôi đã có hai lần tập đi trong đời, rất lý thú”.

 

Trong buổi ra mắt sách tuyển tập Những Mảnh Vụn ngày 05 tháng 6 năm 2016 tại Paris. GS Trần Văn Cảnh giới thiệu từng mẩu chuyện trong tác phẩm, trong đó đề cập đến văn phong của Tiểu Tử: “Tất cả 14 truyện ngắn này đều xoay quanh một đề tài chung là “Nước Việt, Người Việt và Tiếng Việt”…

 

Tiểu Tử là nhà văn có biệt tài viết truyện ngắn, với nét văn phong độc đáo. Thứ nhất là dùng từ ngữ bình dân chân thật Miền Nam. Ngôn ngữ bình dân này đã được nhận ra ngay từ các tên đề truyện, cho thấy rõ nét sống động, thực tế, khách quan của hết các truyện ngắn của Tiểu Tử. Thứ hai là sự giản dị, nhưng đầy đủ của các tình tiết trong truyện kể, khiến người đọc có cảm tưởng rằng những sự kiện thực tế hằng ngày đã được một cái óc phân tích hóa học phân tích ra và thâu thập được hết các yếu tố cần thiết. Thứ ba là sự tổng hợp minh bạch của cấu trúc mạch lạc rõ ràng dễ hiểu của truyện viết. Độc giả nhận ra đâu đây có một bộ óc tổng hợp vật lý đã theo dõi các biến chuyển rồi thâu nhận, ghi nhớ, xếp đặt, tổng hợp và trình bày ra trong các truyện ngắn được viết. Thứ tư là cái tâm hồn nhân hậu, nhậy cảm, đầy tình người có giọng văn chân thành, giản dị, gợi cảm làm nhiều độc giả xúc động không cầm được nước mắt…

 

Nhưng những truyện kể của Tiểu Tử là những truyện thật, viết ra từ chính cuộc sống thực mà ông đã nhìn thấy, nghe được, cảm nhận được…”

 

Nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên, giáo sư, hội viên Viện Hàn Lâm Viện Khoa Học hải ngoại của Pháp du học Pháp (cùng thời điểm với nhà văn Tiểu Tử), chưa về Việt Nam, chia sẻ cảm nghĩ lý thú khi đọc những bài viết của Tiểu Tử về quê hương trước và sau năm 1975 về tình đời, tình người trong bối cảnh thay đổi chế độ, xã hội và con người.

 

Với nhà văn Tiểu Tử, trích dẫn đơn cử những nhận xét ghi trên cũng nhận chân được giá trị trong sự nghiệp cầm bút của ông. Mỗi truyện ngắn (tróng có một phần của hồi ký) là một bức tranh mà câu “Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương” trích từ bài Cảm Hoài của danh tướng Đặng Dung (1373-1414), thời nhà Trần. Nguyên câu thơ “Thế sự du du nại lão hà? Vân cẩu chi đồ lão thán đa”. Hình ảnh “bức tranh vân cẩu” gợi lên sự thay đổi, biến hóa con người bị vùi dập cuốn theo dòng đời, không thể chống đỡ, vô thường của cuộc sống và vận mệnh con người, không còn những gì họ trân quý. Sau nầy nhà thơ Ôn như hầu Nguyễn gia Thiều viết: “Lò cừ nung nấu sự đời. Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương”.

 

*

 

Nay trích 3 bài viết của ông, (theo tôi) tiêu biểu cho truyện ngắn, hồi ký, tùy bút. Tuyển tập Bài Ca Vọng Cổ với bài viết đầu tay khi ở nơi khỉ ho cò gáy tận Phi châu lúc tị nạn sang làm việc nơi đây, (trích):

 

“Tôi vượt biên một mình rồi định cư ở Pháp. Năm đó tôi mới 49 tuổi, vậy mà đi tìm việc làm, đến đâu người ta cũng chê là tôi già!...

 

Một người bạn làm việc lâu năm ở Côte d’Ivoire (Phi châu) hay tin tôi đã qua Pháp và vẫn còn thất nghiệp, bèn giới thiệu cho tôi công ty Đường Mía của nhà nước. Không biết anh ta nói thế nào mà họ nhận tôi ngay, còn gửi cho tôi vé máy bay nữa!...

 

Nơi tôi làm việc tên là Borotou, một cái làng nằm cách thủ đô Abidjan gần 800km! Vùng nầy toàn là rừng là rừng. Không phải rừng rậm rì cây cao chớn chở như ở Việt Nam. Rừng ở đây cây thấp lưa thưa, thấp thấp cỡ mười, mười lăm thước… coi khô khốc. Không có núi non, chỉ có một vài đồi trũng nhưng đồi không cao và trũng, không sâu…

Ở đây, thiên hạ gọi tôi là “le chinois” - thằng Tàu. Suốt ngày, suốt tháng tôi chỉ nói có tiếng Pháp. Cho nên, lâu lâu thèm quá, tôi soi gương rồi… nói chuyện với tôi bằng tiếng Việt, trông giống như thằng khùng! Chưa bao giờ tôi thấy tôi cô đơn bằng những lúc tôi đối diện tôi trong gương như vậy…”

 

Một hôm, sau hơn tám tháng “ở rừng”, tôi được gọi về Abidjan để họp…

Không khí nóng bức. Mấy cái quạt trần quay vù vù, cộng thêm mấy cây quạt đứng xoay qua xoay lại, vậy mà cũng không đủ mát. Thiên hạ ngủ gà ngủ gật, tôi cũng ngã người trên lưng ghế, lim dim…

 

Trong lúc tôi thiu thiu ngủ thì loáng thoáng nghe có ai ca vọng cổ. Tôi mở mắt nhìn quanh rồi thở dài, nghĩ: “Tại mình nhớ quê hương xứ sở quá nên trong đầu nghe ca như vậy.” Rồi lại nhắm mắt lim dim… Lại nghe vọng cổ nữa. Mà lần nầy nghe rõ câu ngân nga trước khi “xuống hò”:

 

“Mấy nếp nhà tranh ẩn mình sau hàng tre rũ bóng… đang vươn lên ngọn khói… á… lam… à… chiều….”

 

Và, câu chuyện tiếp theo khi tác giả gặp người da đen trẻ tuổi Jean… cha gốc Phi phục vụ trong lính Pháp ở Việt Nam và mẹ là người Nha Trang.

 

“Rồi tôi bỗng nghe một xúc động dâng tràn lên cổ. Thân đã lưu vong, lại “trôi sông lạc chợ” đến cái xứ “khỉ ho cò gáy” nầy mà gặp được một người biết nói tiếng Việt Nam và biết nhận mình là người Việt Nam, dù là một người đen, sao thấy quý vô cùng. Hình ảnh của quê hương như đang ngời lên trước mặt…

 

Tôi vừa nhả khói thuốc vừa gật đầu. Đó là loại quẹt máy Việt Nam, nho nhỏ, dẹp lép, đầu đít có nét cong cong. Muốn quẹt phải lấy hẳn cái nắp ra chớ nó không dính vào thân ống quẹt bằng một bản lề nhỏ như những quẹt máy ngoại quốc. Hắn cầm ống quẹt, vừa lật qua lật lại vừa nhìn một cách trìu mến:

- Của ông ngoại con cho đó! Ông cho hồi ổng còn sống lận.

Rồi hắn bật cười:

- Hồi đó ông gọi con bằng “Thằng Lọ Nồi”.

Ngừng một chút rồi tiếp:

- Vậy mà ổng thương con lắm à bác!

 

Hắn đốt điếu thuốc, hít một hơi dài rồi nhả khói ra từ từ. Nhìn cách nhả khói của hắn, tôi biết hắn đang sống lại bằng nhiều kỷ niệm…

 

Giọng của hắn như nghẹn lại:

- Má con chết rồi. Chết ở Nha Trang hồi năm 1975.

- Còn ba của cháu?

- Ổng hiện ở Paris. Tụi nầy nhờ có dân Tây nên sau 1975 được hồi hương. Con đi quân dịch cho Pháp xong rồi, về đây ở với bà nội. Con sanh ra và lớn lên ở Sài Gòn, về đây, buồn thúi ruột thúi gan luôn!

 

Tôi nhìn hắn một lúc, cố tìm ra một nét Việt Nam trên con người hắn. Thật tình, hắn không có nét gì lai hết. Hắn lớn con, nước da không đến nỗi đen thùi lùi như phần đông dân chúng ở xứ nầy, nhưng vẫn không có được cái màu cà phê lợt lợt để thấy có chút gì khác. Tóc xoắn sát da đầu, mắt lồi, môi dầy…

 

Trong khoảnh khắc, tôi xúc động đến quên mất màu da đen của hắn, mà chỉ thấy trước mặt một thanh niên Việt Nam, Việt Nam từ cử chỉ tới lời lẽ nói năng…

 

Khi hắn buông tôi ra, tôi thấy hai má của hắn ướt nước mắt. Tôi quay đi, lầm lũi bước nhanh nhanh về nhà ga mà nghĩ thương cho “thằng Jean le Vietnamien”. Hồi nãy nó ôm tôi, có lẽ nó đã tưởng tượng như là nó đang ôm lại được một góc trời quê mẹ.

 

Trên máy bay, tôi miên man nghĩ đến “thằng Jean”, rồi tự hứa sẽ gặp lại nó thường. Để cho nó bớt cô đơn. Và cũng để cho tôi bớt cô đơn nữa!...”

 

Có lẽ tác giả với nhân vật Jean (hư cấu) cho câu chuyện thêm sinh động, và dù khác màu da nhưng cũng là hình ảnh giữa hai người khi “tha hương ngộ cố tri”.

Chuyện Thuở Giao Thời cũng là tựa đề tác phẩm đề cập đến giai đoạn khi tác giả sống trong nước trong năm 1975 (trích):

 

“Tháng 3, rồi tháng 4 năm 1975, thiên hạ chạy di tản rần rần từ miền Trung vào trong Nam, rồi từ đất liền “chạy” ra biển, nhốn nháo hỗn loạn chẳng biết “trời trăng” gì hết,... chỉ có một ý nghĩ rõ rệt ở trong đầu là “Ở lại với tụi nó là chết!”. Vậy rồi giai đoạn di tản đó chấm dứt vào ngày 30 tháng 4...

 

Giữa tháng 4, một thằng bạn gọi điện thoại cho tôi, nói: “Mầy đừng đi di tản. Ở lại đi! Không có sao hết! Tao bảo đảm”. Thằng nầy làm lớn trong “Tổng Nha”, nó nói “chắc như bắp”!

 

Lại một thằng bạn khác – thằng này người Pháp, làm việc ở sứ quán Pháp – nói trong điện thoại, giọng rất bình thản: “Mầy đừng đi đâu hết! Mọi việc đều đã thoả thuận trước rồi! Yên tâm!”

 

Riêng tôi, tôi nghĩ: “Mình làm việc cho hãng dầu ngoại quốc trực thuộc hãng quốc tế SIPC (Shell International Petroleum Company – Anh Quốc) chắc không sao!”. Vậy là tôi quyết định ở lại.

 

Ngày 30 tháng Tư năm 1975! Việt cộng vào “đớp” hết, công tư gì cũng đớp hết, thượng vàng hạ cám gì cũng đớp hết. Họ gọi hành động đó bằng một danh từ nghe cũng… văn chương: “Tiếp Quản”. Không biết hai thằng bạn tôi kể ở trên có… tức hộc máu hay không khi thấy mình bị gạt dễ dàng như con nít? Riêng tôi, tôi thấy như tôi từ trên trời rơi xuống, thấy những gì xưa nay mình học, mình hỏi, mình hiểu biết, mình suy luận v.v… đều sai bét đối với “cái gọi là cách mạng”!

 

Hãng dầu tôi làm việc bị tiếp thu bởi… “ê-kíp” có bí số K7… Đến kho, tôi được “ông” bộ đội xếp kho cho biết ông tướng là “xếp” cục hậu cần… “Phái đoàn” đi viếng gồm có ông tướng, hai người hộ vệ và xếp kho.

 

Vì kho dầu không làm việc nên tôi chỉ đưa họ đi… phớt phớt vòng ngoài các khu nhà máy. Tôi có ý đợi họ đặt câu hỏi, nhưng không nghe cha nào nói một tiếng. Sau nầy, tôi mới biết rằng ngoài Bắc không có những gì chúng tôi có ở trong Nam, cho nên họ không biết… khỉ gì để mà hỏi!...

 

… Tôi “chịu trận” với cái gọi là “cách mạng” hết ba năm. Vượt biên thất bại hết ba lần, qua lần thứ tư đi thoát…”

 

Đây chính là hồi ký ghi lại thời điểm tác giả được “trưng dụng” với công việc, tuy may mắn hơn nhiều người nhưng không chấp nhận với hiện tại nên bỏ nước vượt biên.

 

Bài viết Tôi Nằm Gác Tay Lên Trán của tác giả coi như tâm bút vì tâm trạng của ông cũng như nhiều người làm thân tị nan nơi xứ người (trích):

 

“Nằm một mình trong phòng, tôi gác tay lên trán hồi nào tôi không hay! Một cử chỉ rất tầm thường, ở quê tôi - Việt Nam - thiên hạ hay làm như vậy khi suy nghĩ chuyện gì hay khi gặp khó khăn gì. Và thường thì cử chỉ “gác tay lên trán” đó lâu lâu có kèm theo tiếng thở dài… làm như để trút ra một cái gì đang đè trong lồng ngực…

 

Tôi bỏ xứ đi chui từ cuối 1978. Bao nhiêu năm “trôi sông lạc chợ” ở nhiều nơi, tôi không thấy ai nằm gác tay lên trán hết! Và tôi cũng quên mất cái cử chỉ tầm thường đó, cho đến hồi nãy đây tôi bắt gặp lại “nó” trong lúc nằm một mình trong phòng. Thì ra “nó” đã theo tôi đi lưu vong, ẩn mình một cách khiêm nhường trong tiềm thức, để bây giờ “nó” cầm cánh tay tôi gác lên trán, tự nhiên như ngày xưa – ba mươi năm trước – khi tôi chưa rời khỏi quê hương…

 

Kể ra, từ ngày tôi vượt biên rồi định cư ở Pháp, chắc nhờ Ông Bà độ nên cuộc đời lưu vong của tôi đã không bị “ba chìm bảy nổi”. Có… lang bang ba tháng đầu đi tìm việc làm, nhờ tiền trợ cấp của nhà nước nên không đến nỗi te tua, mấy đứa con cũng có chỗ ăn chỗ học. Rồi duyên may đưa tôi qua Phi Châu làm việc hết mười mấy năm, khi về hưu ở Pháp thì con cái đã lập gia đình và “ra riêng” hết. Vợ chồng tôi thâu gọn lại, liệu cơm mà gắp mắm, nên cuộc sống cũng an bày. Lâu lâu chạy lại nhà con giữ cháu nội cháu ngoại, và lâu lâu đi “đổi gió” xa xa gần gần… Tóm lại, cuộc sống về già mà được như vậy là… “có phước rồi còn muốn gì nữa?” Vậy mà hồi nãy tôi đã nằm gác tay lên trán và lâu lâu lại thở dài…

 

Ờ… mùi quê hương! Có mùi bông lài, bông bưởi, bông cau… Có mùi lúa chín, mùi rơm mùi rạ… Rồi mùi đống un, mùi chuồng trâu chuồng bò… Rồi mùi bùn non khi nước ròng bỏ bãi, v.v…

 

Ở xứ người, mình vào ra dễ dàng - dĩ nhiên là đừng… mang dao hay mang bom mang súng, cũng đừng mang bạch phiến cần sa! - còn mình về xứ mình, mặc dầu trong thông hành có “Giấy Miễn Thị Thực – Certificate Of Visa Exemption” do Đại Sứ Quán VN tại Pháp cấp, mình vẫn gặp khó khăn trắc trở bất ngờ mà mình không bao giờ được biết lý do!...

 

Tôi trở mình nhìn lên trần nhà, miên man nghĩ về quê hương, hay nói cho rõ hơn, tôi nhớ về cái làng quê của tôi nằm bên sông Vàm Cỏ. Không biết cái “Chợ Nhỏ” bây giờ còn đó hay đã bị “di dời” đi nơi khác, theo… truyền thống đổi đời của cách mạng? (Trong làng chỉ có một cái chợ, vậy mà thiên hạ gọi là Chợ Nhỏ, làm như còn một cái chợ nào khác lớn hơn vậy!) Còn “Ngã Ba Cây Trôm” nằm trên con lộ cái, chỗ có bãi đất trống để xe đò tấp vô rước khách, chỗ có cây trôm mà dân trong làng hay đem dao đến chém vào thân cây để lấy mủ đem về pha nước đường uống giải khát giải nhiệt… không biết có nằm trong một “quy hoạch cải cách đô thị có trình độ khoa học cao” của nhà nước?

 

Còn cái đình làng, bây giờ đã thành một cơ quan gì chưa? Cái bến cát nằm dài theo ven sông, chỗ mà ngày xưa - thuở nhỏ - tụi tôi kéo nhau một lũ cởi truồng tắm giỡn đùng đùng… bây giờ vẫn còn là bến cát hay đã bị chiếm dụng để mấy “ông lớn” xây dinh thự với tường rào kiên cố và nhà thủy tạ có cầu tàu nằm trườn ra sông ngạo nghễ?

 

Cái lò đường trong Xóm Mới, vào mùa mía chạy che ép mía ngày đêm nghe trèo trẹo, nấu đường làm mùi thơm ngọt lịm bay trùm cả xóm… bây giờ còn là “Lò Đường Ông Út K” hay đã… biến thành “Nhà Máy Đường của nhà nước”? Trường tiểu học mà thời tôi còn đi học, ông đốc H cho gắn trên trụ cổng tấm bảng “Cấm Trâu Bò Vào Trường” vì mấy ông chủ bò hay thả bò vào ăn cỏ dọc hàng rào bông bụp… bây giờ đã thành… cái gì rồi? Và nghĩa địa của làng, thường gọi là “gò đồng mả”, nằm một bên con đường đất đỏ dẫn vào Xóm Trong, cái gò đó - cả trăm năm - là nơi an nghỉ cuối cùng của dân trong làng, không phân biệt lớn nhỏ giàu nghèo… vẫn còn đó hay đã nhường chỗ cho những “Công Trình Văn Hóa Phục Vụ Nhân Dân”?...

 

… Nhớ đến đó, tự nhiên tôi thở dài… Rồi tự nhiên tôi gác tay lên trán… Tôi vẫn nhìn lên trần nhà: trần nhà trắng phau, ở đó không hiện lên được một nét nào của quê hương tôi hết. Rồi tôi nghĩ: nếu tôi có trở lại VN, có “được phép” đặt chân lên vùng đất mẹ, chắc chắn tôi sẽ không tìm lại được những hình ảnh cũ. Bởi vì quê hương tôi đã bị “họ” bôi xóa trắng như trần nhà tôi đang nhìn, để thay vào đó một cái gì không ra một cái gì hết, mang nhãn hiệu “Dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh”, nghe mà… điếc con ráy !

 

Bây giờ, tôi hiểu tại sao tôi đã nằm gác tay lên trán mà thở dài…”

 

Với hình ảnh thân mẫu, ông viết: “Tôi biết: Má tôi là cây cau già - quá già, quá cỗi - nhưng vẫn cố bám lấy đất, chỉ vì trên thân cây còn mấy dây trầu… Hình ảnh đó bỗng làm tôi ứa nước mắt. Thương má tôi và nhớ cả quê hương.

 

Cái quê hương tuyệt đẹp của tôi, mà Việt Cộng đã cướp mất. Cái quê hương mà trên đó tôi không còn quyền sống như ý mình muốn, phát biểu những gì mình nghĩ, ca tụng những gì mình thích. Ở đó, ở quê hương tôi, tôi còn bà mẹ già, bà mẹ tám mươi đã cắt ruột đuổi con đi, bỏ quê hương mà đi, để bà còn chút gì hy vọng sống thêm vài ba năm nữa! Bây giờ, vợ con tôi cũng đã đi hết. Má tôi còn lại một mình. Thân cây cau giờ đã nhẵn dây trầu, thêm tuổi đời một nắng hai mưa. Tôi biết! Má ơi! Con biết: Cây cau già bây giờ đang nhớ thắt thẻo mấy dây trầu non…”

 

Theo nhà báo Từ Thức: “Ngay cả tên những nhân vật cũng đặc miền Nam, không có Lan, Cúc, Hồ Điệp, Giáng Hương như trong tiểu thuyết miền Bắc, không có Nga My, Diễm My, Công Tằng Tôn Nữ như Huế, chỉ có những con Huê, con Nhàn, con Lúa, thằng Rớt, thầy Năm Chén, thằng Lượm, bà Năm Chiên, bà Năm Cháo lòng. Các địa danh cũng đặc Nam Kỳ, không có Cổ Ngư, Vỹ Dạ, Thăng Long, chỉ có những Nhơn Hòa, Cồn Cỏ, Bò Keo, Bình Quới, những tên, những địa danh rất ‘miệt vườn’, chỉ đọc cũng đã thấy dễ thương, lạ tai, ngồ ngộ. Âm thanh như một câu vọng cổ ai ca bên bờ rạch…

 

Truyện ngắn Tiểu Tử, với lối hành văn bình dị, linh động là một cuốn tự điển sống của ngôn ngữ miền Nam thời chưa loạn. Đó là kho tàng quý; trong khi ở hải ngoại, chữ Việt càng ngày càng lai Tây, lai Mỹ; trong nước càng ngày càng lai Tầu, với những chữ, những lối nói ngớ ngẩn, đôi khi kỳ quái, khiến tiếng Việt không còn là tiếng Việt, báo hiệu một ngày người Việt không còn là người Việt. Và, từ đó, nước Việt không còn là nước Việt”.

 

Ông Vương Văn Ký, người cùng sanh trưởng tại quận Gò Dầu với Tiểu Tử, đã viết tặng ông câu đối, như sau:

 

“Cố quốc đậm đà tình Tiểu Tử,

Trời tây thắm thía điệu Hoài Na.”

 

*

Tên gọi văn chương Nam Bộ, văn chương Nam Kỳ Lục Tỉnh ở trong nước bị phôi phai theo thời gian. Nay gọi là văn chương miệt vườn và bị lạm dụng thái quá, trong sinh hoạt, điều gì xảy ra cũng gọi là miệt vườn! Như vậy nơi thành phố, cao nguyên, miền rừng núi… nếu có nơi đó sáng tác, viết văn sẽ gọi là gì, chẳng lẽ gọi văn chương thị thành, văn chương cao nguyên, văn chương rừng núi?. Ngộ quá ta!

 

Nhà văn Tiểu Tử chưa khoác áo lính nhưng ông viết vinh danh người lính VNCH, trong đó với chân dung người lính VNCH sau những năm tháng chiến đấu nhưng bất hạnh khi tàn cuộc chiến, trở về quá bi thương với sự mất mát cả về tinh thần lẫn thể chất… Sau năm 1975 sống lầm than khổ cực bị đọa đày trong các trại tù. Trải qua một thời binh nghiệp phải cam chịu bao đắng cay, bất hạnh… tuy nhiên vẫn kiên cường giữ vững lý tưởng của mình, cố gắng tồn tại trong xã hội đối nghịch với cuộc sống.

 

Truyện ngắn Ngụy với lối viết dí dỏm, ví von: “Sau tháng Tư 1975, tiếng “ngụy” đã theo gót... dép râu, quân nón cối và quân mũ tai bèo vào Nam làm cách mạng...

 

Thành ra nhân dân miền Nam hiểu tiếng “ngụy” một cách rất... tự do, và sử dụng tiếng “ngụy” rất... rộng rãi. Thôi thì cái gì của miền Nam cũng đều biến thành “ngụy” ráo… Thằng ngụy, vợ ngụy, con ngụy, lính ngụy, chánh quyền ngụy, cơ sở ngụy, xí nghiệp ngụy, công nhân ngụy, “hàm-bà-lằng” ngụy... Và người ta nghĩ một cách rất đơn giản, rất thật thà: “Hễ thấy không có đóng con dấu ngôi sao đỏ thì cứ xếp vào đồ ngụy, là ăn chắc!”…

 

Và đoạn kết: “Mấy năm sau, ông H vẫn “còn được cải tạo”, bà H lâu lâu vẫn lặn lội đi thăm nuôi chồng, hai thằng con lớn vượt biên rồi định cư ở Úc, đứa con gái lấy chồng đánh cá ở Minh Hải, thằng con út cặp với con bạn cùng xóm mở quán cà phê vỉa hè cạnh hàng cháo của bà Năm. Còn bà Năm vẫn bán cháo lòng, lâu lâu vẫn chửi thằng con mà giống như bà chửi Nhà Nước!...”

 

Thân phụ nhà văn Tiểu Tử dạy ở trường trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký, ông xuất thân cũng ở trường nầy, du học Pháp nhưng không ảnh hưởng chút nào về văn hóa Pháp và sống ở hải ngoại lâu năm hơn quê nhà, nhất là nơi cố hương thời trẻ nhưng khi viết văn gìn giữ hồn quê Tây Ninh, ngôn ngữ văn chương của thời xa xưa như các tác giả đã đề cập ở trên làm sống lại một thời trong dĩ vãng.

 

Little Saigon, October 2024

Vương Trùng Dương

Tuesday, 12 March 2024

CON RẠCH NHỎ QUÊ MÌNH 
TIỂU TỬ




 

 Mầy còn nhớ không ? Hồi tụi mình còn nhỏ, thời tiểu học, có ngày nào mà tụi mình không đùng xuống con rạch trước nhà để tắm. Mầy còn nhớ con rạch đó không? Nó có cái tên cục mịch và quê mùa : rạch ” Cồn Cỏ “. Người ta gọi như vậy bởi vì ở phía sông cái có một cái cồn khá lớn – gần như là một cái cù lao – làm tách con rạch ra làm hai nhánh. Có lẽ hồi xưa, trên cồn chỉ có cỏ nên họ gọi là ” Cồn Cỏ “, chớ hồi thời tụi mình, trên đó thấy đầy cây cối mà một số là cây ổi ” chim ăn ” và cây xoài hột. Mầy bỏ xứ ra đi lâu quá, không biết còn nhớ ” ổi chim ăn ” và xoài hột không ? ” Ổi chim ăn ” là loại ổi nhỏ bằng trứng chim cút, bên trong toàn hột là hột nên không có ai trồng. Chim hay mổ ăn mấy trái chín, còn tha đi chỗ này chỗ nọ. Hột ổi rớt mọc lên cây, nhà vườn chặt bỏ để lấy đất trồng thứ khác. Còn ” xoài hột ” thì như tên của nó nói : trái nhỏ bằng nắm tay con nít, bên trong chỉ có cái hột lớn với chút xỉu cơm ! Người ta cũng gọi là ” xoài mút ” bởi vì muốn ăn loại xoài đó phải lựa trái chín muồi, lột võ rồi mút cái hột với lớp cơm mỏng dánh dính chung quanh. Người lớn không ai thèm ăn bởi vì ăn không đã miệng mà mút xong một trái là hai bàn tay dơ hầy ! Chỉ có con nít là khoái ! Cho nên vào mùa xoài – cũng là mùa mưa – khi thấy trời nổi gió, trẻ con thường lội qua cồn để lượm xoài, được trái nào là đứng ngay dưới cây xoài mút lia mút lịa. Tao nhớ có lần mầy với tao cởi quần đội lên đầu rồi lội qua cồn cỏ lượm xoài. Mầy nhớ không ? Mình phải đội quần để quần xà lỏn đừng bị ướt bởi vì tụi mình ” lội chó ” đầu lòi ra khỏi nước. Mới nút được có mấy trái thì trời mưa ụp xuống làm hai đứa ướt ngoi. Lần đó về nhà tao bị bắt quì gối gần nửa tiếng. Tao tưởng mày là cháu đích tôn của ông Cả, được cưng nhứt nhà không ai dám rớ. Té ra hôm sau đi học, mầy kể lại mầy cũng bị ông nội mầy bắt quì cũng như tao ! Mầy coi ! Cái xã hội của mình hồi đó nó tốt như vậy. Quan quyền hay dân dã gì cũng dạy con dạy cháu na ná như nhau hết.

1709879469785blob.jpg
Trở lại với con rạch của tụi mình. Con rạch cong cong quanh quanh chạy tuốt vô xóm chợ, chui qua cây cầu đúc của con lộ cái rồi đi mất hút ra ruộng và rừng tràm. Hai bên bờ rạch là hai con đường đất dùng cho người đi bộ và xe đạp. Nhà cửa cất dài theo hai con đường đất. Mỗi nhà nằm trong một khu vườn đầy cây ăn trái và hoa kiểng. Hai bờ, lâu lâu, được nối với nhau bằng một cây cầu khỉ. Mỗi cây cầu khỉ đều có một cái tên : cầu cây gừa ( vì nó nằm cạnh cây gừa ), cầu cây trôm ( cạnh cây trôm ), cầu bà Sáu Lộc ( nằm trước nhà bà Sáu Lộc, chớ không phải bả dựng cây cầu đó !), cầu ván ( làm bằng hai tấm ván thay vì hai cây tre ) v.v…?Tía tao nói về sau, ông nội mày bỏ tiền ra xây một cây cầu đúc, giúp cho dân chúng đi lại dễ dàng. Mầy nhớ cái cầu đúc nằm ở xóm chợ không ? Đó, cái cầu đó, đó ! Người ta gọi là ” cầu ông Cả “. Không biết mầy có biết rằng ông nội mầy hồi đó được dân chúng thương lắm không ? Tía tao nói rằng ổng thôi làm ” Cả ” từ thời Tây lận, nhưng dân trong vùng vẫn gọi ổng là ” ông Cả “. Hồi trào Việt Minh, ông nội của mầy là người chức sắc cũ duy nhứt không bị cho đi ” mò tôm “. Để thấy ổng ăn ở có nhơn biết chừng nào.

Nói đến cầu khỉ, tao nhớ hoài chuyện bà Năm Chiện té rạch. Bả té đâu hồi tụi mình chưa sanh. Lớn lên nghe kể lại mà bắt tức cười. Mầy biết không ? Hồi xưa, rạch Cồn Cỏ chỉ có loại cầu khỉ ” một cây tre “, trơn trợt khó đi ( Về sau, dân chúng cặp thêm một cây tre như tụi mình đã thấy ) Một hôm bà Năm Chiện đi tới giữa cầu, hụt chân té xuống rạch. Người ta nghe tiếng bà Năm la chói lói : ” Bớ làng xóm ! Bớ làng xóm !” Rồi giọng bả bỗng thấp xuống : ” Ủa mà cạn !” Thì ra bả không biết lội, hồi té là la làng kêu cứu, chừng coi lại thấy nước mới tới lưng quần, bả té nhằm nước ròng. Bà con lối xóm nghe la, chạy ra thì thấy bà Năm Chiện lóp ngóp bò lên bờ rạch, miệng cười lỏn lẻn mắc cỡ ! Chuyện này về sau khi tao đi làm việc ở Sàigòn, tao có nghe kể nhiều lần. Họ kể ” có bà đó ” chớ không nói là bà Năm Chiện, và họ kể như là chuyện tiếu lâm đặt ra để cười chơi. Đâu có ai biết là chuyện tiếu lâm đó xuất xứ từ con rạch Cồn Cỏ của quê mình !

Ở làng Nhơn Hoà Cồn Cỏ, trẻ con chia ra thành bọn để đi chơi với nhau. Bọn mình có ba đứa : thằng Đực Nhỏ, mầy, tao. Mầy còn nhớ thằng Đực Nhỏ không ? Cái thằng học dở ẹc, tánh tình thì ngổ ngáo, học chung với tụi mình nhưng lớn hơn tụi mình tới ba tuổi. Vậy mà chơi với bạn, nó tốt vô cùng. Có cái gì ăn nó cũng chia và nó hay bầy đặt trò chơi này trò chơi nọ. Nó lúc nào cũng ra vẻ đàn anh bảo vệ mầy với tao. Nó nói với bọn trẻ khác :” Thằng Cương, thằng Lân là bạn của tao, đứa nào đụng vô là biết !”. Mầy có biết nó nói với tao làm sao không ? Nó nói : ” Thằng Cương hiền khô nhát hít . Nó là cháu ông Cả chớ tụi xóm Chợ đâu có coi ra gì. Tụi nó không nể nang ai hết, bắt nạt được là tụi nó bắt nạt. Tao phải dằn mặt tụi nó trước như vậy “. Rồi nó nhìn tao :” Còn mầy thì tao khỏi lo “. Nó biết rằng tao cũng không vừa gì !

Không biết mầy còn nhớ vụ bọn mình đi ăn cắp tôm không ? Bọn mình ở xóm Cồn, gần sông cái, nên biết mặt gần hết mấy ông thợ câu. Một bữa nọ thằng Đực Nhỏ hỏi :” Tụi bây muốn ăn tôm nướng không ? “. Tụi mình hỏi lại :” Tôm ở đâu mà nướng ? Mầy câu hả ?”. Nó nói :” Muốn ăn thì đi theo tao “. Nó dẫn tụi mình ra ngoài vàm, chỉ tay ra đó :” Tôm cả đống ở ngoải “. Tụi mình nói nó xí gạt nên vừa ” xì ” một tiếng vừa quay trở vô định về. Nó níu lại : ” Thiệt mà ! Ông Hai Sầm câu tôm ổng rộng tôm ngoài đó đó “. Rồi nó giải nghĩa :” Tao thấy ổng đi câu về là ổng thả cái rọ tôm có treo cục đá xuống sông. Cái rọ có sợi dây dính vô khúc củi nổi trên mặt nước để làm dấu. Tụi bây dòm coi “. Nước đang ròng. Cách bờ độ ba thước có khúc củi nhỏ lắc lư lắc lư như muốn trôi mà bị cái gì rị lại phía dưới. Mầy nói :” Tôm của người ta, ăn cắp chúng bắt chết “. Nó cười :” Mình lặn xuống xin mỗi đứa một con ăn chơi. Ăn nhầm gì ? Chừng nào rinh hết cái rọ của ổng mới là ăn cắp chớ !”. Ba đứa dợm bước xuống sông để lội ra đó thì tao khựng lại :” Không được ! Phải có một thằng đứng canh. Rủi có người thấy tưởng tụi mình ăn cắp cái rọ thì khổ “. Vậy là mầy được chỉ định đứng canh trên bờ. Tao lại nghĩ lại :” Không được ! Nước ròng chảy mạnh, ba con tôm, tay nào cầm tay nào lội ? “. Thằng Đực Nhỏ ” Ờ ” rồi ngồi bẹp xuống như cái bong bóng xì. Bỗng nó đứng phắt lên chỉ vào cái quần dài bằng vải đen nó đang mặc :” Tao cột túm ống quần lại, mình bỏ tôm vô quần rồi lội vô !”. Rồi nó vừa cười ha hả vừa chạy lại mấy cây chuối hoang gần đó tét mấy sợi dây thân chuối cột ống quần. Mầy nói : ” Mẹ ! Coi chừng càng tôm nó kẹp cho thấy bà !”. Đực Nhỏ vừa nói vừa ra dấu :” Mình bẻ càng nó !”. Tao chen vô :” Ờ?mà còn cái răng cưa trên đầu nó nữa “. Nó dứt khoát :” Thì cũng bẻ luôn !”. Vậy là hai đứa tao đùng xuống sông, lội ra khúc củi, mò theo sợi dây lặn xuống. Như đã giao hẹn hồi lội ra, tao lãnh phần bắt tôm, nó lãnh phần bẻ càng bẻ răng cưa rồi ” nhốt ” vô quần. Đang làm tới con tôm thứ hai thì bỗng thằng Đực Nhỏ trồi lên mặt nước la làng chói lói. Tao hết hồn nắm đầu nó vừa lội vừa kéo vô bờ. Nó vùng vẫy như điên, hất tay tao ra rồi chìm xuống nước. Trên bờ, mầy nhớ không, mầy vừa nhảy đông đổng, vừa la :” Chết cha ! Thằng Đực Nhỏ bị ma da rút rồi ! Chết cha !”. Vô tới bờ, tao chưa biết phải làm sao thì thằng Đực Nhỏ trồi đầu lên, mặt mài nhăn nhó, vừa lội vô vừa rên :” Đau thấy mẹ ! Trời ơi ! Rát thấy mẹ !”. Chừng nó đứng lên mới thấy cái quần nó tuột xuống hai ống chân, còn hai bên bắp vế của nó thì máu me tùm lum như bị đâm bị cắt. Nó nói như mếu :” Mẹ bà nó ! Mình quên con tôm còn có cái đót giấu ở dưới đuôi nữa ! Nó búng đuôi chém tao đau thấy ba bốn ông Trời ! Tao phải lặn xuống cởi quần cho nó phóng ra sông !”. Thằng Đực Nhỏ vừa nói vừa khoát nước rửa máu chừng đó mới thấy cái đùm giữa của nó còn nguyên chỉ bị thương ở đùi. Hú vía ! Thằng Đực Nhỏ sau này đi lính đánh giặc rồi chết trận ở Kontum. Nó chưa vợ chưa con, cũng may cho nó. 

1709879529740blob.jpg
Trở về với con rạch của tụi mình. Trẻ con đi học về là nhảy ùm xuống tắm. Người lớn còn đợi nước lớn mới tắm chớ con nít thì nước lớn nước ròng gì cũng tắm được hết, bởi vì tắm lội là một trò chơi. Nhắc đến vụ tắm rạch, tao còn nhớ tới chuyện này. Chắc, tao nghĩ, mầy cũng còn nhớ. Hôm đó, mầy bận cái quần xà lỏn mới tinh của má mầy vừa may cho. Mầy sợ quần ướt nên cởi quần vắt lên cây gừa, ở truồng nhào xuống lội. Hồi thời tuổi nhỏ, tụi mình tắm ở truồng là thường. Tắm giỡn đã rồi leo lên bờ thì đứa nào đã ăn cắp cái quần mới. Mầy mếu máo khóc, tao phải qua nhà tao lấy cái quần cho mầy mượn mà mặc đi về. Hôm sau đi học, mặt mầy buồn xo. Mầy trật đít ra cho tao coi hai lằn roi đỏ ửng ! Vụ đi tắm mất quần đó, chắc mầy còn nhớ mà ! Cho dù đã mấy chục năm, hai lằn roi đó làm sao quên được ?

Vậy mà đã mấy chục năm ! Tụi mình xa lần con rạch Cồn Cỏ từ hồi lên tỉnh học trung học. Rồi xa luôn từ ngày mầy đi Tây, còn với tao thì kể cũng gần như xa luôn từ ngày tao đi lính. Mầy không biết chớ hồi tao đi lính, tao đánh giặc lì lắm. Bạn đồng đội nói tao là :” Thằng Lân ăn pháo, chỗ nào Việt Cộng bắn rát là có nó lăn tới “. Rồi tụi nó đặt cho tao cái hỗn danh ” Lân pháo “, hỗn danh này tao mang tới ngày mất nước. Suốt cuộc đời nhà binh của tao, tao đánh giặc không biết bao nhiêu trận, có vào sanh ra tử, có thắng có thua?nhưng không hiểu sao tao chưa hề bị thương một lần ! Vậy mà hôm tao phải liệng súng đầu hàng vào cuối tháng tư 75, tao nghe đau điếng như vừa lãnh một viên đạn. Lần đó, tao không đánh giặc vậy mà tao lại bị thương, bị thương ở trong lòng. Vết thương đó, bây giờ, gần hai mươi năm sau, vẫn chưa chịu lành. Mầy thấy không ? Kể lại cho mầy nghe mà tao vẫn còn rơm rớm nước mắt.

Bên vợ tao có cơ sở làm ăn ở Marseille. Nhờ vậy, tao mới qua Pháp theo diện đoàn tụ gia đình bên vợ. Mầy thấy không ? Cuối cùng rồi tao cũng được đi Tây như ai ! Trước khi đi, tao có về thăm Cồn Cỏ. Con rạch nhỏ bây giờ nó rộng huỵch, tại vì ghe thuyền bây giờ toàn chạy máy nên sóng đập lở bờ. Cầu khỉ được thay bằng cầu ván. Cầu Ông Cả gãy hết một chân lòi cốt sắt rỉ sét. Người ta nói hồi mới vô, mấy cha Việt Cộng thách đố nhau bắn chơi ! Cái cồn đã được một ông lớn nào đó chiếm ngụ. Ổng xây bờ kè, xây tường rào kiên cố, phía sông có cầu tàu, nhà thủy tạ, bên trong là nhà lầu kiểu cọ theo điệu Tàu. Bây giờ mầy có về mầy nhìn không ra đâu ! Người cũ chết bớt, đi bớt. Người mới, phần đông là dân cách mạng tụi mình không quen, về cất nhà lầu dài theo rạch. Tao có đến thăm con Huê, cái con nhỏ má lúm đồng tiền học chung với tụi mình đến hết lớp nhứt, đó, rồi về sau nó bán vải ở chợ nhà lồng, có năm đó trong dịp Tết nó tặng mầy một cái mu-soa thêu trước khi mầy đi Tây, mầy nhớ hôn ? Con nhỏ đó, đó ! Bây giờ nó vẫn bán vải, vẫn chưa có chồng, coi hơi già hơn tao một chút nhưng vẫn còn có duyên. Nó với tao nhắc không biết bao nhiêu chuyện cũ, để lâu lâu thở dài.?Khi con Huê tiễn tao ra đến cổng, nó đứng ngập ngừng một chút rồi bỗng nói một mạch lè lẹ như tụi mình trả bài thuộc lòng thuở nhỏ :” Anh qua bên Tây, có gặp anh Cương nói em gởi lời thăm ảnh “. Nói rồi nó bỏ chạy vội vào trong, tao thấy nó đưa tay lên quẹt mắt mấy lần. Tao đứng chết trân, nhớ lại lời con Nhàn, em con Huê, nói với tao cách đó khá lâu hồi tao gặp nó bán vải ở chợ An Đông :” Anh Lân biết không ? Chị Huê thương anh Cương từ hồi còn học lớp nhứt lận !”. Nó vừa nói vừa cười, tao tưởng nó nói chơi, té ra nó nói thiệt. Tao kể lại chuyện con Huê cho mày nghe, tao biết mày không làm gì được, nhưng tao vẫn kể. Để cho mầy thấy người con gái ở dưới quê mình nó thật thà trung hậu đến mức độ mà khi đã trót thương ai thì thương cho đến chết. Họ coi đó là sự tự nhiên. Cũng như, hễ đã là con rạch thì tự nhiên phải có nước lớn nước ròng.

Hồi hôm, coi télé chương trình văn nghệ đài TF1, nghe hát bài ” Dòng sông tuổi thơ “, tao bỗng nhớ tới con rạch nhỏ quê mình. Rồi tao nhớ mầy Cương ơi ! Bây giờ mầy ở đâu ?

Truyện này tôi viết theo lời yêu cầu của người kể. Ông đó nói : “Nhờ ông viết lại dùm. Biết đâu chừng thằng Cương sẽ đọc. Để nhắc nó đừng quên con rạch Cồn Cỏ, đừng quên thằng Đực Nhỏ, thằng Lân, con Huê “.

Hôm đó, tôi nhận được một CD gởi từ Bruxelles ( nước Bỉ ) trên CD thấy đề : “À Monsieur Tiêu Tu”. Chữ viết bằng bút feutre rõ nét, nói lên người viết có trình độ. Tuy viết “Tiểu Tử ” không có dấu, người gởi viết tên của mình lại có dấu đầy đủ : “Exp : Nguyễn Thị Sương” ! Vừa ngạc nhiên vừa thích thú, tôi vội vã đặt dĩa vào máy, nghe. Đó là giọng một người con gái miền Nam, trong trẻo, phát âm rõ ràng. Những gì cô ta nói đã làm tôi xúc động, có lúc tôi ứa nước mắt ! Tôi đã nghe nhiều lần và cố gắng ghi chép lại đây. Dĩ nhiên là tôi đã viết để đọc cho suông sẻ chớ cô gái nói còn nhiều chỗ nghe sượng hay dùng từ chưa chính xác …

…Thưa ông,

Con tên Nguyễn Thị Sương, con của Nguyễn Văn Cương, một trong những nhân vật trong truyện ngắn “ Con Rạch Nhỏ Quê Mình “ của ông.

Thưa ông. Con sanh ra và lớn lên ở Pháp, biết nói tiếng Việt nhưng không biết đọc và viết tiếng Việt. Vì vậy, con phải dùng cách nầy để liên lạc với ông. Xin ông thông cảm !

Hôm chúa nhựt rồi, chị Loan bà con bạn dì của con ghé nhà nói : ” Sương ơi ! Người ta nói về ba của Sương ở trong truyện ngắn đăng trên internet cả tuần nay nè ! Chị in ra đem qua đây đọc cho em nghe. “. Rồi chỉ đọc. Đó là truyện ” Con Rạch Nhỏ Quê Mình “.

Thưa ông. Con chưa biết Việt Nam, nhưng những gì ông tả trong truyện làm như con đã thấy qua rồi ! Bởi vì hồi con mới lớn ba con thường hay kể chuyện về cái làng Nhơn Hòa và con rạch Cồn Cỏ của ba con, về những người bạn của ba con hồi thời tuổi nhỏ, kể tỉ mỉ đến nỗi con có cảm tưởng như ba con đang cầm tay con dẫn đi coi chỗ nầy chỗ nọ ( Nói đến đây, giọng cô gái như nghẹn lại vì xúc động . Ngừng mấy giây rồi mới nói tiếp … ) Mà ba cứ kể đi kể lại hoài làm như là những hình ảnh đó nó ám ảnh ba dữ lắm. Sau nầy thì con mới hiểu khi ba con nói : “Hồi đó, ba đi Pháp quá sớm, ở cái tuổi chưa biết gì nhiều. Rồi qua đây, chóa mắt ngất ngây với những văn minh tiến bộ của xứ người làm ba quên đi cái làng nhà quê của ba. Điều ân hận lớn nhứt của ba là đã không viết gởi về một chữ để hỏi thăm bạn bè hồi đó. Ba phải về thăm lại Nhơn Hòa Cồn Cỏ, con à ! “. Nói đến đó, ba ứa nước mắt nắm bàn tay con dặc dặc : ” Mà con cũng phải về với ba nữa ! Về để cho ba lên tinh thần ! Về để thấy ba biết xin lỗi mọi người ! Về để thấy ba biết nhìn lại cái quê hương của ba cho dầu nó có quê mùa xấu xí bao nhiêu đi nữa ! Về để thấy ba chưa đến nỗi là thằng mất gốc ! “. ( Đến đây, không còn nghe gì nữa ! ) Xin lỗi ông ! Con đã ngừng thâu để con khóc ( Rồi giọng cô lạc đi ) Con thương ba con ! ( Ngừng một lúc )

Thưa ông. Ba má con đều là giáo sư toán, dạy ở lycée. Má con mất hồi con mười tuổi. Bây giờ con làm chủ một tiệm sách ở Bruxelles, ba con dạy ở cách nhà không xa lắm. Một hôm, ba nói : ” Ba được một thằng bạn học hồi ở đại học, người Phi Châu, mời qua xứ nó giúp tổ chức lại hệ trung học. Ba đã OK. “. Rồi ba đưa cho con một phong bì loại A4, nói : ” Con ráng tìm cách về Nhơn Hòa Cồn Cỏ, trao cái nầy cho cô Hai Huê nói ba không quên ai hết ! “. Con nhìn thấy trên phong bì ba viết ” Mến trả lại Huê, kỷ vật của thời tuổi nhỏ. Cương “. Vậy rồi ba qua Phi Châu làm việc rồi mất ở bển trong mấy trận nội chiến ( Chắc ngừng thâu ở đây nên không nghe gì nữa )

1709879584380blob.jpg
Thưa ông. Nhờ nghe đọc ” Con Rạch Nhỏ Quê Mình “ mà con biết được mối tình một chiều của cô Hai Huê, biết được cái khăn mu-soa mà cô Hai đã thêu tặng ba con thuở thiếu thời. Cái khăn đó, bây giờ thì con biết nó đang nằm trong phong bì A4 mà con đang giữ để trả lại cô Hai. Và bây giờ thì con thấy thương cô Hai vô cùng và cũng thấy tội nghiệp ba con vô cùng (Chỗ nầy giọng cô gái lệch đi, ngừng một chút mới nói tiếp ) Con nhờ ông giới thiệu con cho bác Sáu Lân, người đã kể chuyện để ông viết về Nhơn Hòa Cồn Cỏ. Con sẽ xin bác Sáu đưa con về đó để con làm theo lời dặn của ba con …

Địa chỉ và số phôn của con như sau :

Mlle Nguyên ……
———————-
Con cám ơn ông.

Con : Sương

* * *

Nhớ lại, cách đây khá lâu, một thằng bạn ở Marseille ( miền Nam nước Pháp ) gọi điện thoại lên Paris cho tôi, nói :

” Dưới nầy trời tốt, mầy xuống chơi, đi câu với tao. Sẵn dịp, tao giới thiệu mầy cho một ông bạn mới từ Việt Nam qua định cư ở đây. Tao có khoe với ổng là mầy viết lách khá lắm. Ổng nói ổng muốn nhờ mầy viết một chuyện nhỏ ở dưới quê của ổng để ổng tìm một người bạn. Tao thấy coi bộ ngộ à ! Xuống, đi ! “.

Vậy rồi tôi đi Marseille. Sau đó, tôi viết ” Con rạch nhỏ quê mình ” với câu gởi gắm của ổng :

” Tôi nhờ ông viết lại giùm. Biết đâu chừng thằng Cương sẽ đọc. Để nhắc nó đừng quên con rạch Cồn Cỏ, đừng quên thằng Đực Nhỏ, thằng Lân, con Huê … “.

Sau khi nghe CD và ghi chép lại, tôi gọi điện thoại xuống Marseille thì thằng bạn tôi cho hay là ông Lân đã dọn về ở ngoại ô Paris, cách đây mấy năm. Nó cho tôi địa chỉ và số điện thoại của ổng. Vậy rồi ổng và tôi gặp nhau. Tôi kể sơ câu chuyện và đưa cho ổng mượn cái CD. Tôi thấy ổng rơm rớm nước mắt khi nghe tôi nói làm tôi cũng xúc động : người đàn ông hiên ngang, xông xáo trong trận mạc, gan lỳ đánh Việt cộng đến nỗi mang hỗn danh ” thằng Lân ăn pháo “… vậy mà bây giờ cũng biết ứa nước mắt khi nhận được tin thằng bạn không bao giờ gặp lại !

Khi chia tay, ổng nói :

” Cám ơn ông ! Nhờ có bài viết của ông mà hôm nay tôi mới có tin của thằng Cương ! Tôi sẽ thay nó, đưa con gái nó về thăm Cồn Cỏ ! Và thắp cho nó ba cây nhang ở đầu vàm để vong hồn nó nương theo đó mà tìm lại con đường vể … “.

* * *

Hơn một tháng sau, ông Lân gọi điện thoại cho tôi nói ổng vừa ở Việt Nam về, muốn gặp tôi để trả cái CD và để ổng kể chuyến đi nầy của ổng. Vậy là chúng tôi đã gặp nhau và tôi đã ghi những lời ổng kể …

… Nhờ cái CD ông cho tôi mượn mà tôi liên lạc được con Sương. Tội nghiệp ! Biết được là tôi gọi, nó khóc ồ ồ ở đầu dây bên kia ! Sau đó, nó kêu tôi bằng ” Bác Sáu “, ngọt như tôi là bác ruột của nó vậy ! Thấy thương quá !

Vậy rồi hai bác cháu tôi bay về Việt Nam. Ở Sài Gòn chúng tôi mướn một chiếc xe hơi có tài xế để về Nhơn Hòa Cồn Cỏ. Trên xe, tôi nói với con Sương :

” Ở Cồn Cỏ, ba của con không còn bà con gì hết, họ đã dọn lên tỉnh ở mấy chục năm nay. Bây giờ, ba con chỉ còn có một người bạn thân … ” .

Con nhỏ nói : “ Cô Hai Huê ! “. Tôi gật đầu “Ờ”. Nó nói tiếp :

“ Cô Hai là người ba nhắc thường nhứt và ba hay thở dài nói ba có lỗi với cô Hai nhiều lắm ! Thấy ba con như vậy, con cũng nghe đau long, bác Sáu à ! “.
Thấy thương quá, tôi cầm bàn tay nó bóp nhẹ. Con Sương nhìn cảnh vật bên ngoài nhưng vẫn để bàn tay nó trong long bàn tay tôi. Ông biết không ? Tôi không có con, bây giờ, trong cái cầm tay nầy, tôi bỗng cảm thấy như thằng Cương vừa đặt vào tay tôi một đứa con. Trời Đất ! Sao tôi muốn nói : ” Sương ơi ! Từ nay, bác Sáu sẽ thay ba con mà lo lắng bảo vệ con như con là con của bác vậy ! “. Nhưng thấy có vẻ cải lương quá nên tôi làm thinh !

Xe ngừng ở chợ Cồn Cỏ. Bác cháu tôi vô chợ nhà lồng đến sạp vải của con Huê thì thấy một cô gái lạ. Cổ nói cổ là cháu kêu con Huê bằng dì và đến đây phụ bán vải từ mấy năm nay. Cổ nói :

” Dì Huê có ở nhà, ông bà vô chơi ! “.

Chúng tôi đi lần theo con đường nằm dọc bờ rạch. Đường nầy bây giờ được tráng xi-măng sạch sẽ. Tôi nói :

“ Nhà cô Hai có cây mù u nằm trước nhà cạnh bờ rạch, dễ nhận ra lắm ! “.

Đến nơi, thấy còn nguyên như cách đây mấy chục năm : cũng hàng rào bông bụp thấp thấp, qua một cái sân nhỏ là ngôi nhà xưa ngói âm dương, kèo cột gỗ, ba gian hai chái với hàng ba rộng, một bên hàng ba có một bộ ván nhỏ … Tôi hơi xúc động vì bắt gặp lại những gì của thời cũ. Chỉ có bao nhiêu đó thôi – nhỏ xíu – vậy mà sao gợi lại được vô vàn kỷ niệm ! Tôi gọi lớn : ” Huê ơi Huê ! “. Trong nhà chạy ra một người đàn bà tóc bạc nhìn tôi rồi la lên : ” Trời Đất ! Anh Lân ! “. Tuy cô ta đang nhăn mặt vì xúc động, tôi vẫn nhận ra là Huê ! Không kềm được nữa, Huê và tôi cùng bước tới nắm tay nhau vừa dặc dặc vừa nói ” Trời Đất ! Trời Đất ! “ mà không cầm được nước mắt !

Một phút sau, Huê buông tay tôi ra quay sang con Sương, hỏi :

” Còn ai đây ? “.

Tôi nói :

” Con Sương ! Con thằng Cương ! “.

Nó hỏi :

” Còn anh Cương đâu ? “.

Con Sương thả rơi ba-lô xuống đất, bước lại phía con Huê, nói :

” Ba con chết rồi, cô Hai ơi ! “.

Con Huê chỉ nói được có một tiếng ” Chết ” rồi xiêu xiêu muốn quị xuống. Con Sương phóng tới đỡ con Huê, nói : ” Cô Hai ơi ! “. Rồi hai cô cháu ôm nhau khóc nức nở. Tôi đứng tần ngần một lúc mới bước lại đặt tay lên vai Huê bóp nhẹ :

” Tại cái số hết, Huê à ! Thằng Cương đang dạy ở bên Bỉ, mắc gì mà qua Phi Châu làm việc để rồi chết mất xác trong chiến tranh ở bên đó. Tại cái số hết ! Phải chịu vậy thôi ! “.

Con Sương dìu Huê lại ngồi ở bực thềm, vói tay mở ba-lô lấy phong bì A4, nói :

” Ba con gởi cái nầy cho cô “.

1709879634287blob.jpg
Huê cầm phong bì, nheo mắt đọc rồi lắc đầu nhè nhẹ : ” Chắc là cái khăn mu-soa ! “. Huê xé phong bì lấy khăn ra cầm hai góc khăn đưa lên nhìn : khăn còn thẳng nếp, chưa có dấu hiệu xử dụng ! Huê nhăn mặt, đưa khăn lau nước mắt của mình rồi sang qua lau nước mắt của con Sương làm nó cảm động nấc lên khóc. Huê nói :

” Khăn nầy cô thêu tặng cho ba của con, nhưng không có duyên nên khăn lại trở về. Bây giờ, cô tặng cho con để kỷ niệm ngày cô cháu mình gặp nhau “.
Con Sương cầm lấy khăn rồi ngả đầu vào vai Huê, nói :

” Con cám ơn cô Hai “.

Huê vừa gật đầu vừa choàng tay ôm con Sương lắc nhè nhẹ như vỗ về đứa con ! Tôi bước ra bờ rạch ngồi cạnh gốc cây mù u đốt thuốc hút. Tôi thấy trên thân cây có đóng một cây đinh dài đã gỉ sét đen thui, vắt lên cây đinh là một cuộn dây dừa cũ mèm như muốn mục. Tôi nghĩ chắc con Huê nó làm như vậy, nó vốn nhiều tình cảm và giàu tưởng tượng. Nó có ý nói con thuyền ngày xưa đã bỏ bờ đi mất, nếu một mai có trôi về được thì cũng có sẵn dây để cột con thuyền vào gốc cây mù u … Tôi đốt thêm một điếu thuốc rồi đặt lên cuộn dây dừa, vái lâm râm : ” Cương ơi ! Mầy có linh thiên thì về đây hút với tao một điếu thuốc ! “. Tự nhiên, tôi ứa nước mắt !
Khi tôi trở vô nhà thì cô cháu tụi nó ngồi cạnh nhau trên bộ ván, nói chuyện coi bộ tương đắc ! Thấy tôi , Huê nói để vô làm cơm cùng ăn. Tôi từ chối vì phải về trả xe. Huê xin cho con Sương ở lại chơi với nó mươi hôm, còn con Sương thì hớn hở :

” Bác Sáu đừng lo! Con về một mình được! “.

Tôi bằng lòng nhưng đề nghị cùng ra đầu vàm thắp ba cây nhang cho thằng Cương. Con Huê vô nhà lấy nhang và một tấm ni-long để ra đó trải cho ba người ngồi. Khi đi ngang cây mù u, con Huê bước lại gốc cây lấy cuộn dây dừa liệng xuống rạch, rồi phủi tay, đi !
Sau khi cúng vái ở đầu vàm, cô cháu nó đưa tôi ra xe. Nhìn tụi nó cập tay nhau mà thấy thương quá, ông ơi!

Bây giờ thì cô Sương đã đem cô Huê qua Bỉ ở với cổ. Nghe ông Lân nói hai cô cháu rất ” tâm đồng ý hợp “. Còn chiếc khăn mu-soa thêu thì ông Lân nói cô Sương đã cho lộng vào một khuôn kiếng rất đẹp treo ở phòng khách , ở một vị trí mà ai bước vào cũng phải thấy !

TIỂU TỬ