II) Thân Thế và Sự Nghiệp của Đại Thi Hào Nguyễn Du
1) Lá số Tử Vi
MỆNH đóng
Cung Dậu (Kim) với Thái Tuế, Thái Dương, Thiên Lương, Hóa Quyền – Thái
Âm, Long Phượng hội chiếu. Tam giác (Mệnh, Quan, Tài) được Vòng Thái Tuế (Danh Vọng và Quyền Thế) . THÂN cư Thiên
Di nằm trong Tam Giác (Di, Phúc Đức, Thê) ở Thế Tuế Phá, nhưng được Vòng Lộc Tồn (Lộc Trời cho, dù không giầu cũng hưởng mọi sự may mắn khác, hóa giải mọi bế tắc, rủi ro và tật bệnh). Cung Huynh Đệ nằm trong Tam Giác (Huynh Đệ, Điền Trạch,
Tật Ách) được Vòng Tràng Sinh (hình bóng của 2 Vòng Thái Tuế và Vòng Lộc Tồn kết hợp). Cung Phụ Mẫu với
Sát Phá Tham hội Thiếu Dương, Tứ Đức, Ân Qúy, Văn Tinh + Đào Hồng: Cha
lúc nhỏ thông minh học giỏi, lớn lên tài thao lược Văn Võ song toàn
(từ Võ “Sát Phá Tham+Địa Kiếp đắc địa” ra Văn: ở ngôi Tể Tướng 15 năm) ở
vị trí nào cũng có tài ứng biến, sắp đặt gọn ghẽ mọi việc bề bộn; được
cả Vua lẫn Chúa khen là người Nhân Đức và Tài Trí. Với Văn Tinh + Đào
Hồng: nổi danh về thơ phú, ca hát cả Cha lẫn
Mẹ. Cung Phúc Đức với Cơ Âm Cự Đồng hội Song Lộc, Xương Khúc, Tướng Ấn,
Mã Khốc Khách được Vòng Lộc Tồn: dòng Họ Nội Ngoại nhiều Đời
Danh Vọng, Giàu có (Công Hầu Khanh Tướng) - một Thời Vang Bóng!. Cung
Huynh Đệ đóng tại Thân (Kim hợp Mệnh Thủy) đưọc Vòng
Tràng Sinh với Tử Phủ Vũ Tướng hội Hóa Khoa, Tả Hữu, Khôi Việt,
Thai Toạ (anh em xuất thân từ các Dòng Họ Đại Qúy Tộc, Công Danh “ thành
đạt + nổi danh về Văn Thi Nghiệp” điển hình Anh Cả Nguyễn Khản tuổi
Giáp Dần 1734 hành Thủy và Nguyễn Đề tuổi Tân Tỵ
1761 hành Kim đều hợp với Thủy Mệnh của Nguyễn Du – nên thời trẻ anh em
có nhiều gắn bó liên hệ chặt chẽ với nhau, nhưng với Bộ Hung Sát Tinh:
Không Kiếp, Kình Đà, Hỏa Tinh cũng gây cho Anh Chị Em nhiều sóng gió
trong cuộc Đời - kể cả Đương Số!).
Tuổi
Ất Dậu với Can Ất đứng vào hàng đầu hàng Can với Thái Tuế tại Mệnh là
người thông minh hơn người trong bất cứ Lãnh Vực nào, lúc trẻ cũng vượt
trội bạn đồng trang lứa, mẫu người nhiều tham vọng, nặng
lòng với Quê Hương, Đất nước, có tình nghĩa với Đồng Bào và bà con Dòng
Họ. Nhật Nguyệt + Tứ Linh “Long Phượng Hổ Cái”: sống lý tưởng, có tài
về Văn Chương Nghệ Thuật. Mệnh ứng với thời trẻ trước 30t ở Đại Vận (2-11t) khi
sinh ra Cha đang làm Tể Tướng
nên sống trong giàu sang Phú Qúy, lên 3 tuổi được Tập Ấm (Hòang Tín Đại
Phu, xuất thân Thành Môn Vệ Úy, tước Thu Nhạc Bá). Với hàm ấy Nguyễn Du
đã đứng vào hàng Sĩ Tịch của Triều Đình của Triều Đình Lê - Trịnh, mặc
dù chưa phải là một Vị Quan tại chức!. Tướng
Mạo khôi ngô, thông minh (Nhật Nguyệt+Tứ Linh), lên 6t bắt đầu học chữ
Hán, sách vở chỉ xem qua 1 lần là nhớ. Có lần Quận Việp Hòang Ngũ Phúc
đến nhà chơi thấy Nguyễn Du có tướng mạo phi thường bèn tặng ông 1 thanh Bảo Kiếm. Dù Mệnh được Vòng Thái
Tuế + THÂN cư Thiên Di được Vòng Lộc Tồn nhưng Nhật (tượng Cha), Nguyệt (tượng Mẹ) gặp Hóa Kỵ, Phục Binh, THÂN (ứng với thời gian từ Trung Vân đến Hậu Vận) nằm ở Vòng Tuế Phá (gặp nhiều ngang trái, bất mãn, có tinh thần cách mạng,
nhưng nhờ Lộc Tồn +Mã Khốc Khách “Nghị Lực cao” đã vượt qua nhiều Sóng Gió của Cuộc Đời).
Từ năm Ất Mùi 1775 khi đi vào Hạn La Hầu 10t+Triệt, Ông đã chịu nhiều mất mát: anh trai Nguyễn Trụ cùng Mẹ tuổi Đinh Sửu 1757 qua đời vào Hạn La Hầu 19t+Kình Đà, cũng vào cuối năm đó Cha
đau bệnh mất vào Hạn Thái Bạch 67t+Kình Đà. Hai năm sau Mẹ tuổi Canh Thân 1740 mất năm Mậu Tuất 1778 vào lúc Vận Số của Ông đi vào Năm Tuổi 13t+Hạn Thái Bạch+Kình Đà (nên
nhớ Mệnh của ông ở Dậu với Mệnh của Phụ Mẫu ở Tuất: Dậu và Tuất ở Thế
Nhị
Phá và Thế Hỏa khắc Thế Kim + Cha Mệnh Hỏa, con Mệnh Thủy). Mồ côi cả
Cha lẫn Mẹ cuộc sống trở nên khó khăn vào Thời Điểm này nằm trong Đại Vận (12t-21t) tại Cung
Huynh Đệ, ông phải về sống với Anh Cả Nguyễn Khản, người Anh cùng Cha
khác Mẹ hơn Ông
31t rất tài hoa, làm Quan to tại Triều được Chúa ưu đãi. Đời sống của
người Anh Cả đã có ảnh hưởng nhiều đến ông trên đường Sự Nghiệp!.
Năm
Canh Tý 1780 Nguyễn Khản đang làm Trấn Thủ Sơn Tây bị khép vào tội mưu
lọan trong Vụ án năm Canh Tý (phò Thế Tử Trịnh Khải âm mưu phế bỏ Trịnh
Cán) bị bãi chức và bị giam ở nhà Châu Quận Công. Lúc
này Nguyễn Du được người bạn thân của Anh Cả là Đoàn Nguyễn Tuấn (là Anh Vợ sau này)
đón về Sơn Nam Hạ (Nam Định) nuôi ăn học. Năm Nhâm Dần 1782 Trịnh Sâm
mất, Kiêu Binh phế Trịnh Cán tôn Trịnh Khải lên ngôi Chúa. Nghĩ tình
Thầy Trò, Trịnh Khải đón
Nguyễn Khản về Triều với chức Thượng Thư Bộ Lại còn Nguyễn Điều làm
Trấn Thủ Sơn Tây.
Năm
Qúy Mão 1783 Nguyễn Du thi Hương ở trường Sơn Nam đậu Tam Trường (Tú
Tài) vào năm 18t. Cũng trong năm này Nguyễn Đề (anh cùng Mẹ tuổi Tân Tỵ
1761) đỗ Giải Nguyên khoa Thi Hương ở Điện Phụng Thiên và
Anh Cả Nguyễn Khản đầu năm thăng chức Thiếu Bảo cuối năm thăng chức
Tham Tụng (Tể Tướng).
Sau
sự kiện Kiêu Binh đốt cháy Dinh Thự của Anh Cả ở Phường Bích Câu (Thăng
Long). Hòan cảnh khó khăn nên Anh Cả đành xin cho ông làm chức Chánh
Phủ Hiệu tỉnh Thái Nguyên năm Bính Ngọ 1786 – đó là năm
đầu của Đại Vận (22t-31t) tại Cung Thê gặp Tuần+Triệt. Tiểu Vận
năm Bính Ngọ 1786 đi vào Vận Đào Hồng Hỉ, Ông lập gia đình với bà Đoàn
Thị Huệ, con gái Tiến Sĩ Đòan Nguyễn Thục đang làm Ngự Sử tại Triều,
người xã An Hải, huyện Quỳnh Côi, Trấn Sơn Nam
(nay là tỉnh Thái Bình). Năm Đinh Mùi 1787, Tây Sơn tiến quân ra Bắc,
Lê Chiêu Thống chạy sang Tàu, Nguyễn Khản trở về Kinh Đô tập hợp Triều
Thần bàn chuyện chống Tây Sơn, nhưng việc chưa thành thì ông bị bệnh mất
tại Thăng Long. Nguyễn Du theo Vua không kịp,
phải chạy trốn về Quê Vợ ở nhờ nhà anh vợ Đòan Nguyễn Tuấn tại Thái
Bình (Vận Số đi vào Hạn Thái Bạch 22t+Kình Đà +Vận Triệt).
Đại Vận (22t-31t) tại Cung Thê nằm trong Tam Giác (THÂN cư Di, Thê, Phúc) tuy gặp Vòng Lộc Tồn, nhưng ở Thế Tuế Phá,
Ông có tập hợp Hào Mục để tính chuyện Phục Quốc, nhưng chí không
thành!. Mười năm lưu lạc ăn nhờ ở đậu Quê Vợ là những năm tháng cô đơn
cùng cực của Ông, đói không cơm ăn, rét không có áo mặc. Ông gọi quãng
Thời Gian này là Mười năm gió bụi ”Thập tải Phong Trần “. Hàng
ngày Ông làm thơ than thở cho cảnh ngộ của mình,
chưa làm nên danh vọng gì mà đã rơi vào cảnh cùng khổ!. Thời gian này
nhà Vợ, bố vợ và anh vợ đều mất, ông đành trở về Quê Cha đất Tổ ở Tiên
Điền. Trở lại Quê nhà, thấy nhà cửa tan hoang, anh em lưu lạc khắp nơi,
Ông đã phải thốt lên “ Hồng Lĩnh vô Gia, Huynh
Đệ tán”. Tuy vậy ở Tiên Điền vẫn còn bà con thân thuộc – nên Ông được
bà con chia cho mảnh đất ở thôn Thuận Mỹ làm nhà ở. Do được sinh ra và
sống trong nhung lụa của một Gia Đình Đại Qúy Tộc nên về Quê, Ông chẳng
biết làm gì ngoài đống sách vở Thánh Hiền!.
Đêm nằm nghe tiếng gió Bắc thổi qua liếp cửa, tiếng chuột rúc chạy trên
đống sách khiến tâm trạng lại càng thêm buồn tủi. Để khuây khỏa Ông
thường cùng trai làng Tiên Điền lên núi Hồng Lĩnh săn hươu nai hay xuống
sông Lam bắt cá.
Năm
Kỷ Dậu 1789 Vua Quang Trung đại phá quân Thanh, Đòan Nguyễn Tuấn ra hợp
tác với nhà Tây Sơn giữ chức Thị Lang bộ Lại. Lúc này Nguyễn Du về ở
Quê Vợ (Quỳnh Côi, Thái Bình). Tháng 10 năm Tân Hợi (1791),
Nguyễn Quýnh, người anh thứ 4 cùng cha khác mẹ của Ông do chống Tây Sơn
nên bị bắt và bị giết, Dinh Cơ họ Nguyễn ở Tiên Điền, Hà Tĩnh bị phá
hủy!.
Năm
Qúy Sửu 1793 Ông về thăm Quê ở Tiên Điền, cuối năm Ông vào Kinh thăm
anh ruột Nguyễn Đề đang làm Thái Sử ở Viện Cơ Mật và anh rể Đòan Nguyễn
Tuấn.
Mùa Đông năm Bính Thìn (1796), ở năm đầu của Đại Vận (32t-41t) tại Cung
Tử Tức gặp Tuần +Triệt, Nguyễn Du trốn vào Gia Định theo Chúa Nguyễn
Ánh, nhưng bị Quận Công Nguyễn Thận bắt giam 3 tháng
ở Nghệ An, may nhờ anh ruột Nguyễn Đề quen với Thận nên được tha (Hạn Thái Bạch 31t+Kình Đà). Trong thời gian ở Tù, Ông có làm bài Thơ My trung mạn hứng «Cảm hứng trong Tù».
2) Thời Kỳ tham chính
Đại Vận (32t-41t) nằm trong Thế Thiếu Dương +Sát Phá Tham+Đào Hồng Hỉ + Tuần Triệt: 10 năm nhiều sóng gió, sau bế tắc, nhờ Triệt tháo gỡ, vào các năm cuối của Đại Vận,
cuộc đời đã đi vào trang Sử mới.
Năm
Nhâm Tuất 1802 Vua Gia Long diệt nhà Tây Sơn; khi ra Bắc Hà có xuống
chiếu mời các Quan Chức cũ của nhà Lê phải ra yết kiến. Nguyễn Du được
truyền lệnh theo xa giá ra Bắc Thành và được làm quan. Tháng
8 cùng năm được bổ làm Tri Huyện Phù Dung (thuộc Khóai Châu, Sơn Nam).
Tháng 11 được thăng Tri Phủ Thường Tín. Mùa Đông năm Qúy Hợi 1803 để
tiếp Sứ Thần nhà Thanh sang phong sắc cho Vua Gia Long, Ông được cử cùng
các Tri Phủ Thượng Hồng là Lý Trần Chuyên;
Tri Phủ Thiên Trường là Ngô Nguyễn Viên; Tri Phủ Tiên Hưng là Trần Lân
ra Cửa Nam Quan nghênh tiếp Sứ Thần.
Mùa Thu năm Giáp Tý 1804 lấy cớ bị bệnh (Hạn Thái Bạch 40t+Tam Tai+Kình Đà) Ông xin từ chức về Quê. Con đường Hoạn Lộ với nhà Nguyễn đang hanh thông, nhưng ông vẫn thấy không mặn mà với Triều Đại
này!. Về Quê chưa được bao lâu thì Vua Gia Long có chỉ triệu vào Kinh Đô. Mùa Xuân năm Ất Sửu 1805, Tiểu Vận vào Quan Lộc (+Hạn Thái Dương 41t+Tướng Ấn, Song Lộc, Mã Khốc Khách) được
thăng Đông Các
Đại Học Sĩ, tước Du Đức Hầu. Đây là ân sủng lớn mà Triều Đình dành
riêng cho Ông; vì Ông chỉ đỗ Tam Trường (Tú Tài) mà thời đó phải đỗ
Hương Cống (Cử Nhân) thì mới được bổ làm quan. Sở dĩ Triều Đình đặc cách
phong cho Ông vì thấy Ông là người có tài; hơn nữa
Ông lại xuất thân trong 1 Đại Gia Đình Khoa Bảng lỗi lạc một thời gian
dài là Giường Cột của Triều Lê. Hơn nữa với mục đích trọng dụng những
người như Ông có thể thu phục được nhâm tâm của Sĩ Phu Bắc Hà khi còn
luyến tiếc Triều Lê!.
Tuy
làm quan to với nhà Nguyễn, nhưng Ông chẳng lấy thế làm vui, mà lại
thêm buồn vì thời thế đã đổi thay, lại thương cho Số Phận của mình.
Những đêm mưa rả rích ở Xứ Huế, một mình nhìn về Phiá Bắc Đèo
Ngang, lòng càng thêm đau sót. Nhà nghèo lại đông con, phải chịu cảnh
đói rách (Thập khẩu đề cơ Hòanh Lĩnh bắc ”Mười miệng đói đang kêu ở Đèo Ngang”).
Năm Đinh Mão (1807), năm đầu của Đại Vận (42t-51t) tại Cung Tài Bạch tuy là Đại Vận Thái Tuế +Tứ Linh, nhưng Nhật Nguyệt gặp Hóa Kị, Phục Binh+THÂN Tuế Phá: 10
năm được vài năm đầu ưng ý, thỏa
mãn với vài ước vọng thủa thiếu thời, nhưng nhìn cảnh Quan Trường còn
đầy rẫy kẻ xu thời trục lợi chỉ thích vơ vét cho đầy túi tham, hơn nữa
lòng còn vọng tưởng Cố Quốc một thời Danh Vọng của Đại Gia Đình. Ông càng cám cảnh cho thân phận cá chậu chim
lồng của mình!.
Tháng
9 năm Đinh Mão (1807) được bổ làm Giám Khảo trường Thi Hương ở Hải
Dương. Xong việc Ông xin về Quê được Vua chấp thuận. Đến mùa Hạ năm Kỷ
Tỵ (1809) Vua lại có chỉ bổ Ông giữ chức Cai Bạ tỉnh Qủang
Bình. Trong 4 năm giữ chức Cai Bạ mọi việc trong Hạt như: lính tráng,
dân sự, kiện thưa, tiền nong, lương thực và các hạng Thuế, Ông đều bàn
bạc thương thuyết với các quan lưu thư ký mục để thi hành. Chính sự giản
dị không cần tiếng tăm nên được Sĩ Phu và
nhân dân yêu mến.
Tháng
9 năm Nhâm Thân (1812) Ông xin tạm nghỉ 2 tháng về Quê xây mộ cho anh
Nguyễn Đề. Tháng 2 năm Qúy Dậu (1813) có chỉ triệu về Kinh thăng hàm Cần
Chánh Đại Học Sĩ (Vận Thái Tuế), sau đó được
cử đi Sứ Trung Quốc với tư cách Tuế Cống Chánh Sứ cùng 2 Phó Sứ giúp việc là Thiêm Sự Bộ Lại Trần văn Đại và Nguyễn văn Phong.
Trong
dịp đi Sứ sang Tàu, có dịp trở lại Thăng Long; bạn bè mở tiệc tiễn đưa ở
Dinh Tuyên Phủ có gọi mấy chục Nữ Nhạc đến giúp vui. Trong đám Nữ Nhạc,
Ông có nhận ra 1 người mà 20 năm trước, khi Ông từ
Thái Bình lên thăm anh là Nguyễn Đề đã hát cho quân Tây Sơn nghe. Nhìn
dung nhan tiều tụy, chạnh lòng nghĩ đến Thế Sự đổi thay, Ông buồn bã
thốt lên: “Than ôi! Sao người ấy lại đến nỗi này. Tôi bồi hồi không yên, ngẩng lên, cúi xuống ngậm ngùi cho cảnh
xưa nay”. Lòng cảm thương vô hạn, Ông đã gửi vào bài thơ Long Thành cẩm giả ca. Trong
thời gian đi Sứ, ngoài sứ mệnh bang giao, mỗi khi qua đền chùa, các
Danh Lam Thắng Cảnh nổi tiếng của Trung Quốc, Ông thường ghé thăm và làm
thơ.. Ông ca ngợi Hạng
Võ, Văn Thiên Trường, Tỷ Can…qua sông Mịch La nơi Khuất Nguyên trầm
mình, Ông làm bài thơ Phản Chiêu Hồn khuyên Khuất Nguyên đừng trở
về Dương Gian xấu xa, đầy tội ác. Qua tượng vợ chồng Tần Cối, Ông chê
trách Tần Cối nghe vợ giết Trung Thần làm Hán
gian cho ngoại bang. Đến thăm đền thờ Tiểu Thanh ở Hàng Châu, tỉnh
Triết Giang, người con gái tài sắc vẹn toàn, nhưng bạc mệnh, Ông làm thơ
khóc Tiểu Thanh, ngậm ngùi nghĩ đến thân phận Mình “Bất tri tam bách dư niên hậu – Thiên Hạ hà nhân khấp Tố Như ”.
Tháng 4 năm Giáp Tuất (1814) trở về nước, Ông có làm tập thơ Bắc hành tạp lục. Mùa Hạ năm Ất Hợi (1815) Ông được phong chức Hữu Tam Tri bộ Lễ tước Du Đức Hầu. Năm Kỷ Mão 1819 Ông được cử làm Đề
Điệu trường Thi Quảng Nam, Ông dâng biểu xin nghỉ được nhà Vua chuẩn y. Thời Điểm này là năm đầu của Đại Vận (52t-61t) tại Cung
Tật Ách ở Thìn (Thổ khắc Mệnh) có Kình Dương (Kim) rất độc với Can Ất
(Mộc), lại Nhị Hợp với Mệnh (Nhật Nguyệt gặp Hỏa Linh,
Hóa Kỵ: Tinh Thần mệt mỏi luôn luôn lo lắng đến sức khỏe). Năm
Canh Thìn 1820 Vua Gia Long băng hà, Minh Mệnh lên ngôi, có lệnh sai Ông
đi làm Chánh Sứ sang Tàu cầu phong, nhưng chưa kịp đi thì Ông mất vì
bệnh Dịch Tả ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (16/9/1820)
tại Kinh Thành Huế khi Tiểu Vận vào Tật Ách gặp Kình, Vận Số đi vào Hạn La Hầu 55t+Kình Đà, Không Kiếp.
Bệnh Dịch Tả này
là trận Dịch lớn xuất phát từ Xiêm La, Chân Lạp rồi lây sang nước ta,
phát sinh từ các tỉnh Hà Tiên, Định Tường rồi lan ra Bắc, người chết
không biết bao
nhiêu mà kể, cả thành thị lẫn thôn quê đều náo loạn!.
Hiện nay Nhà Thờ của Đại Thi Hào Nguyễn Du ở Tiên Điền có gắn 4 chữ (Địa Linh Nhân Kiệt) và Nhà Lưu Niệm trong đó có Tượng Đài của Ông được xây tại tỉnh Hà Tĩnh.
3) Tác Phẩm
a)
Chữ Hán
- Thanh Hiên Thi tập gồm 78 bài viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan Triều Nguyễn.
- Nam Trung tạp ngâm gồm 40 bài ngâm nga lặt vặt lúc làm quan ở Huế, Quảng Bình và các địa phương phía Nam Hà Tĩnh.
- Bắc Hành tạp lục gồm 131 bài Thơ ghi chép các sự kiện khi đi Sứ sang Tàu.
b) Chữ Nôm
- Đoạn Trường Tân Thanh (truyện
KIỀU) gồm 3254 câu Thơ theo thể Lục Bát viết bằng chữ Nôm có nội dung
dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân (người Tàu) xoay
quanh quãng đời lưu lạc
sau khi bán mình chuộc cha của Thúy Kiều, nhân vật chính- một cô gái có
Tài Sắc nhưng Hồng nhan bạc phận.
- Văn Chiêu Hồn: Văn Tế 10 loại chúng sinh theo thể Thơ Song Thất Lục Bát.
- Thác lời Trai phường Nón: 48 câu Thơ thể Lục Bát với nội dung thay lời anh con Trai Phường Nón làm thơ tỏ tình với Cô Gái phường Vải.
- Độc Tiểu Thanh ký viết
về nàng Tiểu Thanh tài sắc vẹn toàn của Trung Quốc, 16t bị gả làm vợ lẽ
của nhân vật thuộc nhà quyền qúy. Vì Vợ Cả hay ghen nên đuổi nàng ra
sống một mình ở Cô Sơn cạnh
Tây Hồ, không bao lâu bị bệnh chết ở tuổi 18t. Trước khi chết, nàng có
để lại nhiều bài Thơ và Họa, nhưng hầu hết bị người vợ cả đốt!. Bài thơ
viết theo thể Thất ngôn Bát cú Đường Luật.
- Văn Tế sống Trường Lưu nhị Nữ: gồm 98 câu viết theo lối Văn Tế để bày tỏ nỗi uất hận vì mối tình với 2 cô gái Phường Vải.
Sáng
tác của Nguyễn Du không nhiều về số lượng, nhưng có Vị Trí đặc biệt
quan trọng trong Di Sản Văn Hóa Dân Tộc. Từ Kiệt Tác Truyện KIỀU đã nảy
sinh biết bao những hình thức Sáng Tạo Văn Học và Văn Hóa
khác nhau: thơ ca về Kiều, các phóng tác Truyện Kiều bằng văn học, sân
khấu, điện ảnh; rồi vô số dạng thức của Nghệ Thuật Dân Gian: đố Kiều,
giảng Kiều, lẩy Kiều, bói Kiều… Đặc biệt là số lượng rất lớn những bài
Bình Luận, những Công Trình Phê bình (từ xưa
đến nay), kể cả Nghiên Cứu.
Dưới
mắt người ở nước ngoài: Nguyễn Du là Nhà Thơ lớn của Thế Giới lúc bấy
giờ, họ coi Ông là Vị Thánh của nền Thi Ca Việt Nam. Họ qúy trọng Ông vì
đã đóng góp công vào nền Thi Ca Thế giới. Ông là nhân
vật kiệt xuất của thơ ca Việt Nam. Năm 1965 Ông được Hội Đồng Hòa Bình
Thế Giới của UNESCO công nhận là Danh Nhân Văn Hóa Thế Giới và quyết
định Kỷ Niệm trọng thể nhân dịp Kỷ Niệm 200 năm, năm sinh của Ông.
Paris Mùa Xuân năm Mậu Tuất 2018
Phạm Kế Viêm