Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label HueThanKinh. Show all posts
Showing posts with label HueThanKinh. Show all posts

Friday, 24 March 2023

 Làm Rể Xứ Huế


Tác giả: Nguyễn Viết Tân





Tham dự Giải thưởng Việt Báo từ năm đầu, ông nhận giải bán kết năm 2001 với bài "Bên Bờ Freeway" ký bút hiệu Tân Ngố. Nhiều truyện ký đặc biệt của ông về đất lề quê thói của miền Nam đã xuất bản thành sách "Chuyện Miền Thôn Dã," rất được bà con hâm mộ. Ông nhận thêm giải Việt Bút 2010, và là thành viên thứ 10 của Ban Tuyển Chọn Chung Kêùt Viết Về Nước Mỹ từ 2011

*

Ngày tôi quen O Điểm thì O mới học xong lớp 10.
Năm đó chị của O có cái quán cà phê Thượng Uyển trong Đà Nẵng nên mùa hè vào giúp chị. Tôi xăng xái xin làm gia sư. Mới được hơn một tháng thì O Điểm "bỏ buà" cho tôi.
Hết hè, O trở lại Huế đi học thì rời trường Nữ Thành Nội mà qua Đồng Khánh, tôi xin biệt phái đi theo Trực thăng tản thương đêm, trong Mang Cá (Tổng Y Viện Nguyễn Tri Phương) và ban ngày đi học nơi trường Luật.
Học cho vui và để lấy le thôi, chứ tôi học dốt lắm.
Những lần rủ O trốn học đi chơi ở đồi Thiên An, hay lên các lăng tẩm là những ngày vui không bao giờ chúng tôi quên được. Hai đứa cũng tránh không lên chùa Thiên Mụ, vì nghe nói cặp nào đưa nhau lên nơi linh thiêng đó thì thếnào cuộc tình cũng tan vỡ..
Chuyện tình Romeo và Juliet (hay Rô bi nê và Toa lét) của O và tôi lắm nỗi thăng trầm, là vì O bên Lương, còn tôi bên Đạo.
Ông Nhạc gia tôi hồi đó không chịu gả là vì tôi khác đạo, con nhà làm ruộng, lại nữa ông có thành kiến với người Bắc, chắc ông nghe người ta nói nhiều về con trai Bắc Kỳ thường đểu.
Tôi biết lý do chính là vì ông không muốn con gái út lấy chồng phương xa, tuốt mãi trong Rạch Giá.
-Có con mà gả chồng gần, có bát canh cần nó cũng bưng cho
Có con mà gả chồng xa, trước là mất họ sau là mất con

Nhưng Cậu ruột của O lại là một Linh Mục đang ở Nha Trang nên hết lòng hỗ trợ cho chúng tôi lấy nhau.
Nhớ hồi sau 1975 chúng tôi nghèo quá, đám cưới chỉ có một con heo 50 ký do anh cả tôi cho; hai cái nhẫn vàng mỏng dính như sợi chỉ; chiếc áo cưới chỉ là áo trắng như hồi còn đi học.
Năm 1981 chúng tôi đến Mỹ, trong tay có 5 đồng bạc. Vất vả cũng lắm mà hạnh phúc cũng nhiều.
Gia đình Mẹ và các anh chị em tôi, nhất là mấy bà chị dâu thường nói:
-Chú lấy được O Điểm là phúc đức ông bà để lại.
Quả thực có thế, O đã sanh cho tôi 3 đứa con trai cao ráo và một đứa con gái út rất đẹp -Chắc đẹp cỡ như tôi. (Just kidding-đùa thôi).
Cách dậy dỗ con cái tôi phú hết cho O, nên đứa nào cũng ngoan ngoãn, nay hai đứa đã ra trường còn hai đứa cũng sắp xong.
Đúng là phúc đức ông bà, chứ tánh tôi cục cằn thô lỗ, dạy con chắc không xong, mà còn bị ếp phê ngược là đằng khác.
Qua xứ người, tôi còn có thời giờ cắp sách đến trường để học thêm chút đỉnh, chứ O rời sở làm là lao đầu vào bếp, lau nhà, giặt quần áo, trồng rau thơm, rau cải sau vườn.

Bây giờ tôi ra kinh doanh ở ngoài, đâu có bảo hiểm sức khỏe gì, may có hãng của O nên cả gia đình không phải lo tới vấn đề chi phí cho khám bịnh, nhà thương gì hết. Thật là quá mừng.
Không nhắc đến tài nấu ăn, nhất là những món Huế của O quả là một điều thiếu sót.
Bạn bè xa gần thường nhắc nhớ đến Bún Bò O Điểm, mà hầu hết tháng nào cũng có nấu một lần trong cái nồi lớn chừng 30 lít. Người trong nhà, con cháu và bạn tới chơi thường ăn hai tô, một tô lúc mới tới và một tô trước khi ra về.
Những món như bánh nậm, bánh bột lọc, bánh ít... tôi không thích mấy, chỉ khoái những món chè của O mà thôi. Chắc nhiều người cũng biết rằng Chợ Dinh ngoài Huế nơi O ở có cả làng bán chè rất nổi tiếng, qua đến Mỹ, món chè của O đã được "thăng hoa" lên hàng thượng thừa vì vật phẩm dùng để nấu có thêm nhiều thứ như rong biển, nấm trắng, táo tàu nhỏ, hoài sơn, ý dĩ v v.. nên chè đã ngon lại càng thêm ngon.
Thành phố chúng tôi đang định cư là Little SG ở Nam Cali, có thể gọi là Thủ Phủ của người VN ở Hải Ngoại, cách bờ biển chừng 10 phút lái xe. Dọc bờ biển có những chiếc cầu bắt nhoài ra biển cả gần nửa cây số cho dân chúng đứng câu, nơi đây có rất nhiều cá nục chuối và cá trích. Những mùa khác thì cá ít hơn nhưng mùa hè đến thì cá nhiều vô số, một dây câu cột mấy lưỡi là dính bằng ấy cá, có khi cả chục con nhưng vì cầu khá cao, mà cá giãy dữ quá nên rơi rớt hết phân nửa.
Người Nam và Bắc khi kho cá, nhứt là cá biển thì thường kho khô và bỏ nhiều tiêu, khi họ thấy dân Huế kho cá nục lõng bõng nước thì sợ nó sẽ tanh, nhưng khi O Điểm kho cá nục tươi rói mới đi câu về với mấy trái ớt xanh bẻ đôi, tỏi đập dập, vắt chút chanh, ăn với bún thì ôi thôi ai nấy nuốt vội nuốt vàng có khi nuốt luôn cả lưỡi.
Tôi thường ăn kèm với món này một ít rau thơm và giá, nhưng O nói ăn như vậy không thưởng thức hết mùi vị của con cá nục.
Đó, nhờ được O "chăm bẵm" như vậy nên tôi không còn ốm nhách cao kều như cây tre miễu nữa, mà nay trông rất "sổ sữa", cắt tóc cạo râu, cho diện đồ mới, chân mang dép mang giầy vô coi cũng ra dáng con người lắm, chứ không giống con đười ươi!
Nếu có ai hỏi tôi yêu O ở điểm nào, thì tôi tình thực trả lời rằng, đó là nụ cười vui với hàm răng trắng bóng như bắp cồn Hến và nhất là ...bàn chân nhỏ nhắn, có cái gót hồng hào, người ta nói là "Vượng phu ích tử" gì gì đó.
Bạn bè tôi thường ganh tị rằng họ đã lỡ lấy vợ miền khác, chứ không may mắn lấy được vợ Huế như tôi.
Họ hỏi bí quyết nào mà có được nhà cửa êm ấm làm vậy, tôi thường trả lời rằng lấy vợ Huế, khi cô ấy cằn nhằn mình nghe không hiểu gì hết, nên có cãi lại vợ bao giờ mà thành lớn chuyện, lục đục trong nhà.
Nếu kiếp sau được làm người, nhất là được làm đàn ông, thì tôi sẽ nhất quyết lấy vợ Huế nữa, cho dù mấy cô kia có là Hoa Hậu, Hoa Khôi đi nữa.... tôi cũng chẳng màng.

Nguyễn Viết Tãn

Wednesday, 9 November 2022

 CON ĐƯỜNG CÁI QUAN

Huế xưa

KINH THÀNH HUẾ

C:\Users\tamva\Downloads\facebook_1657662515613_6952740519889099398.jpg

Tìm hiểu Cố đô Huế

Hương-Giang Thái Văn Kiểm


Ông Thái văn Kiềm là tác giả của nhiều sách biên khảo công phu trong đó có tập «Cố đô Huế» (lịch sử, cổ tích, thắng cảnh) do Nha Văn Hóa bộ QGGD xuất bản từ năm 1960. «Cố đô Huế» như vậy là một đề tài quen thuộc với Ông và Ông lại nói chuyện về đề tài này tại Trung tâm Đắc lộ Saigon, chiều thứ bảy 6.10.73, nhưng dưới các khía cạnh: «Vị trí lịch sử và địa lý, Những kiến trúc chính yếu, Quan niệm và kỹ thuật kiến trúc của Cố đô» trước khi đề cập đến "Huế huyền bí và trầm lặng". Chúng tôi xin trích đăng bài nói chuyện trên đây riêng về khía cạnh: Quan niệm và kỹ thuật kiến trúc của Cổ đô Huế.


..Kinh thành Huế khởi đắp tháng 4 năm Ất-Sửu, 1805, chiếm địa phận 8 làng: Phú-Xuân, Vạn-Xuân, Diễn-Phái, An-Vân, An-Hòa, An-Mỹ, Thế-Lại, An-Bửu; nhưng làng Phú-Xuân mất đất nhiều hơn cả, nên làng này được vua ban, ngoài số bạc bồi thường nhiều ruộng đất chung quanh Huế,ở Quảng-Trị và Quảng-Bình nữa.


Vua Gia-Long xem xét địa thế từ làng Kim-Long đến Thanh-Hà, thân chế kiểu thành, rồi mới giao cho Giám Thành Nguyễn-Văn-Yến vẽ bản đồ, đóng cọc, v.v.. rồi huy động quân lính ở Kinh và mộ dân các tỉnh về làm. Chúng ta có thể xem viên Giám Thành Nguyễn-Văn-Yến như vị Kiến-trúc-sư đầu tiên của Kinh-thành Huế.


Ban đầu, thành chỉ đắp bằng đất, cho nên chỉ từ tháng 4 đến tháng 8 đã xong. Năm Đinh Mão 18o7, lại tiếp tục công việc cho đến cuối triều Gia-Long. Năm Mậu-Dần, 1818 mới bắt đầu xây gạch 2 mặt Nam và Tây, rồi đến mặt Bắc, công việc giao cho Hoàng-Công-Lý, Trương-Phúc-Đảng và Nguyễn-Đức-Sỹ, đến năm 1819 thì xong. Năm Canh-Thìn, Minh Mạng nguyên niên 182o, mưa lớn, làm đổ mất 300 trượng (phỏng chừng 1200 mét), phải sửa chữa lại. Năm Tân Tỵ, 1821, lại tiếp tục công việc và xây gạch mặt phía Đông, như vậy là cả bốn mặt đều xây bằng gạch. Qua năm Nhâm Ngọ 1822, lại mưa lớn, làm hỏng 2057 trượng (8228 mét), phải giao cho hai Kiến-trúc-sư Trần Văn-Năng và Nguyễn Văn-Vân sửa chữa lại. Sau hết, năm Giáp Thân, 1824, còn tu bổ một lần nữa, công việc mới thật hoàn toàn, tính như vậy, từ năm 18o5 cho tới năm 1824, là cả thảy 20 năm trời mới xây xong Kinh thành Huế. Lúc bấy giờ, những người có dự vào việc xây Kinh-thành đều được ban thưởng; quân lính trước khi giải ngũ về quê được lãnh tất cả 143.000 quan tiền, các quan kiến trúc và chuyên viên được lãnh mỗi người thêm 5 tháng lương.


Theo Linh-muc Léopold Cadière viết trong tập san của Hội Đô-Thành Hiếu-Cổ, số I-2, năm 1933, thì những người Pháp giúp việc vua Gia Long, không có xen vào công việc xây dựng Kinh-thành Huế, Linh mục Cadière còn nói thêm đại khái rằn:; ngoại trừ thành Gia-Định, đã được kiến thiết năm 1791, do bản đồ của Kỹ sư Lebrun, dưới quyền chỉ huy của Vệ-úy Olivier, tất cả những thành trì trên lãnh thổ Việt-Nam, tuy có tham chước ít nhiều những kiều thành Vauban, đều do những Kiến-trúc sư Việt-Nam phác họa và thực hiện.


Nói như vậy, không phải là chúng ta hoàn toàn phủ nhận ảnh hưởng của Tây-phương trong việc kiến-trúc Kinh-thành Huế. Ảnh hưởng đó có thật, nhưng người ta chỉ trông thấy nơi Thành ngoài mà thôi; còn như những cung điện lâu đài ở bên trong thì tuyệt nhiên không có gì là Tây-phương cả ; trái lại, những cơ cấu này có phần tương tự như Kinh thành Bắc-Kinh thu nhỏ lại.


oOo

Chiêm ngưỡng lát cắt thời gian trên dấu tích Kinh thành Huế - Báo Quảng  Ninh điện tử










 

Nhìn lại Kinh-thành Huế, chúng ta nhận thấy quả thật là một địa điểm sơn thanh thủy tú, trước có sông Hương uốn khúc, núi Ngự làm bình phong, hai bên có cồn Thanh Long bên tả và cồn Bạch-Hồ bên hữu, chung quanh có sông ngòi bao bọc, tạo thành một cảnh trí mỹ miều và một vị trí chiến lược có nhiều ưu điểm.


Một khi địa điểm đã được tuyên định. Bộ Lễ và Khâm Thiên Giám phải chọn ngày lành tháng tốt, để làm lễ thượng lương, với tất cả nghi thức cần thiết, đề thần linh chứng giám và tổ tiên phò trợ, đặc biệt lễ quan phải treo câu đối viết trên giấy hồng đơn:


“Lập trụ hỉ phùng hoàng đạo nhật

Thượng lương hạnh ngộ Tử vi tinh"


(Dựng cột nhà hoan hỉ gặp ngày hoàng đạo,

Cất đòn dông may mắn được sao Tử-vi)


Lễ thượng lương của ta cũng giống như lễ đặt viên đá đầu tiên của Tây-phương vậy. Điều đáng chú ý là nền kiến-trúc cổ truyền của ta chuyên lo về thượng từng cơ sở đầu tiên, còn nền kiến trúc Tây-phương lại chú trọng nơi hạ từng cơ sở trước hết.


Sau khi đã tập trung đầy đủ những dữ kiện tinh thần, người xưa mới nghĩ tới sự vận dụng những yếu tố vật chất, như là kỹ thuật, nhân công, vật liệu, tài chính v.v.. Tôi có ý để vấn đề tài chính sau hết, là vì người Á-Đông thời cổ không mấy khi dự trù ngân sách trước khi thi hành một công tác.


Về nhân lực, chúng ta phải nói tới sự đóng góp của nhiều địa phương trong nước. Theo châu-bản Gia Long thứ 4, 18o5, chúng ta được biết : tỉnh Quảng Trị phải sức đòi 4151 quân dân hạn đến ngày 20 tháng 4 phải có mặt tại Kinh-đô để khởi công, tỉnh Quảng-Bình đòi 2388 quân dân, tỉnh Quảng Nam đòi 2436 quân dân, v.v..., tổng số nhân công lên tới một vạn rưỡi. Ngoài ra, các thợ thuyền chuyên môn như thợ

làm ngói, gạch, thợ mộc, thợ nề, thợ chạm, thợ đúc, thợ rèn, v.v... cũng được các tỉnh chọn lọc, trưng tập và gửi về Kinh.


Về vật lực, hồi đó người ta lấy đá (granit) ở núi Mai Vực, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh-Hóa, cẩm thạch (marbre) ở Ngũ hoành sơn (Quảng Nam), sa thạch (grès) ở gần chùa Thiên Mụ, gỗ tốt như li, kiền kiền, gõ, ít, thì lấy ở các tỉnh Quảng-trị, Quảng-bình, Nghệ-an, Gia định, v.v... Căn cứ trên bản phúc trình của Đại úy Công-binh, Lecompte, có đăng trong tạp chí của Đô-Thành Hiếu Cổ thượng dẫn và có ghi ngày 2o mars 1875, thì dưới đời vua Tự-Đức (và có lẽ các tiền triều) đã có một lò gạch của nhà vua chuyên đúc gạch cỡ lớn, mà người Tây-phương gọi là brique mandarine lò gạch này ở ngã ba sông Hương tiếp giáp với sông Con chảy về suối nước nóng Thanh-Tân, gần trại Ba Trúc của Giáo đoàn Quốc-ngoại (Mission étrangère) do Giám-mục Sohier kiến

lập năm 1868.


Cũng theo Đại úy Lecompte, thì nhà vua có một lò ngói ở Phường Đúc, gần Hổ Quyền (Arènes); lò ngói này cũng có sản xuất gạch lát, mà bây giờ ta gọi là Ca-rô. Tất cả những ngói và ca-rô đều có phết một lớp men, vàng hay xanh tùy theo công dụng, trước khi cho vào lò. Những lò này được xây xiên theo lưng đôi để cho hơi nóng từ phía dưới lần theo lên tới phía trên, sau khi đã đi qua các lớp ngói.


Chúng ta cũng không quên những vật liệu khác như vôi và cát. Người ta lấy cát dễ dàng ở chung quanh những cồn, như cồn Giả Viên tức Bạch Hổ, cồn Hến là nơi sản xuất những con sò, con hến và bắp cồn ngon ngọt đặc biệt. Riêng về chất vôi, người ta khai thác ở chung quanh đồi Long Thọ tức Long Thọ

Cương, hay là Thọ Khương, là nơi mà sau này người Pháp đã thiết lập một nhà máy với lấy tên là Société des Chaux Hydrauliques de Long Thọ, gọi nôm na là vôi Bò Ghè, do tên của Bogaert, người đã sáng lập và trông coi lâu năm nhà máy với Long Thọ.


Sở dĩ thành quách được bền bỉ lâu dài là do nơi kỹ thuật trộn vôi với các vật liệu khác thành ra hồ (mortier) dùng để kết hợp những đá gạch liền với nhau. Vôi hồ của ta ngày xưa đại khái gồm có cát, vôi, cứ hai phần cát thì một phần vôi, rồi trộn với nước và đường tảng hoặc mật mía (mélasse de canne à sucre). Công dụng của mật mía là thêm vào hồ một chất nhớt (colle) và sẵn có chất vôi, nó sẽ tạo nên một chất kép mới gọi là sucrate de calcium, có đặc tính làm cho cứng rắn gấp bội.


Nếu cần có một thứ vôi mật thật tốt, mà người Tây-phương gọi là stuc, thì người ta trộn thêm vôi hồ một ít giấy bản, làm với vỏ cây gió (aquilaria crassana P.) một loại danh mộc, vỏ có sợi (filamenteux), thân có trầm (aloexyllum agallochum). Thứ vôi này có đặc tính bám chặt (adhésif) thường dùng để phết tường cho trơn, uốn nắn những mô hình tế nhị, như long lân qui phượng, hoặc để gắn những miếng sành vào đó cho được mỹ thuật và lâu dài.


Chúng ta thuộc về khu vực văn minh thảo-mộc (civilisation du végétal), cho nên chúng ta dùng rất nhiều gỗ mà ít dùng đá. Vì những cột kèo, đòn dông, đòn tay, rui, mè, xuyên,trến, đều bằng gỗ ráp lại với nhau theo những phương pháp cổ điển (tuyệt nhiên không có đóng đinh), cho nên những cung điện của Kinh-thành Huế có thể tháo gỡ dễ dàng, và di chuyể đi nơi khác được ; đó là trường hợp của nhiều cung điện trong Thành Nội, như cung Bảo Định ngày xưa ở phường Tây Lộc, về sau dưới đời Duy Tân thứ 2 (19o8) đã được tháo gỡ, lấy vật liệu đem về dựng lại trong sân Quốc Tử Giám lấy tên mới là Di Luân Đường, từng dưới làm giảng đường, từng trên thiết bàn thờ Đức Khổng Tử ; một phần khác của cung Bảo Định, là điện Long-An, cũng đã được tháo gỡ đem về phía sau Di Luân Đường, để làm Tàng-Thư-Viện, đến năm 1923 lại dùng làm cơ sở cho Viện Tàng-Cổ Khải Định.


Đến đây, chúng ta cần mở một dấu ngoặc, để ghi nhớ rằng trong cuộc Nam Tiến, chúng ta đã được truyền lại nhiều kỹ thuật kiến trúc tân kỳ của người Chiêm-Thành và người Chân-Lạp. Trong những kỹ thuật đó, chúng ta chú ý trước hết tới những cái vòm (are, voute, cintre) của những tháp Chàm. Những vòm này không phải là «vòm cuốn rẻ quạt (voute en éventail), mà là vòm lớp (vofteétagée), mà trong đó những lớp gạch (assises de claveaux) được sắp ngang và lần lần gần lại với nhau ; người Tây-phương gọi là «voute à encorbel lements successlfs». Những vòm cuốn chịu ảnh hưởng kiến trúc Trung-hoa; còn những vòm lớp chịu ảnh hưởng kiến trúc Ấn-Độ. Ưu điềm của những vòm lớp là không đè nặng trên các trụ chống (pilier), khuyết điểm của những vòm lớp là không thể mở rộng như những vòm cuốn rẻ quạt, và cũng không thể chịu đựng những sức nặng lớn lao ; cho nên vòm lớp chỉ có thể dùng trong kiến-trúc xây dựng cửa ngõ tháp chòi, mà không thể dùng trong việc xây dựng cầu cống, trên đó có ngựa xe qua lại.


Ngoài ra, chúng ta cũng nên chú ý tới một kỹ thuật kỳ lạ của người Chiêm-Thành, là họ có thể làm cho những viên gạch đã nung rồi dính liền với nhau mà không trông thấy chất vôi ở giữa. Là vì người Chiêm-Thành từ ngày xưa đã biết dùng một chất hồ thảo mộc (Hant végétal). Chất hồ đó chúng tôi đã khám phá được là dầu (résine) của cây dầu rái (dipterocarpus alatus.)


Tuy nhiên, nếu chúng ta nhận thấy những chân tháp Hời ở miền Nam Trung-Việt đều bị ăn lõm vào, là vì tính chất hút nước của gạch (porosité) làm cho phần dưới luôn luôn bị ẩm ướt, khi trời mưa thì nước tụ xuống dưới đã đành, tới khi trời nắng thì nước dưới đất vẫn tiếp tục bị gạch hút lên, để biến thành hơi ; lại thêm gió biển thổi mạnh vào, đem theo cát bụi và nhiều chất muối làm cho vôi hồ, gạch đá chóng hư hao mai một.


Cũng trên đường Nam tiến, chúng ta đã tiếp xúc với người Chân-lạp và họ đã truyền lại cho ta một bí quyết kiến-trúc, một chất nhựa dẻo dai của một loài thảo mộc, mệnh danh là cây ô đước, tức quế quan mà người Tây phương gọi là Cannelier de Ceylan, laurier-myrrhe, hay là Cinnamomum zeylanicum, một giống cây cao chừng 20m, mọc rất nhiều ở các rừng Nam-Việt, nhất là ở các rừng Tây-ninh, Bà rịa. Người

ta tìm róc vỏ cây ô đước, đem về giã dập rồi ngâm nước trong 24 tiếng đồng hồ, để lấy một chất nước nhớt (matière colloidale), đem lọc kỹ, rồi trộn với cát, và mật mía, làm thành một thứ vôi hồ hảo hạng. Nếu ngâm quá 24 tiếng đồng hồ, thì chất nhớt sẽ vữa thành chất nước (état liquescent).


Người Chân Lạp xưa kia, cũng như người Việt ở một thời kỳ gần đây, còn dùng rất nhiều hồ ô đước để xây nền, xây tường và nhất là những ngôi mộ. Chất hồ này có thể so sánh với chất "colle forte", khi khô nó rút cứng lại, làm cho chúng ta liên tưởng những sợi thép căng thẳng của chất bê-tông précontraint do kỹ-sư Freyssinet sáng tạo. Ngày nay, trong châu thành Saigon, chúng ta còn trông thấy bên vệ đường nhiều cổ mộ, gọi là mả đá hay mả ô-đước mà hầu hết những xà beng và búa tạ của Sở Tràng tiền đều có thể chứng minh tính chất cứng rắn phi thường của các cổ mộ này.


Cũng có một vài nơi khác, không tìm thấy cây ô đước, người ta thay thế bằng một thứ thảo mộc có nhựa, gọi là giây tơ hồng (Cassytha filiformis Lin). Tất cả những bộ phận của cây tơ hồng đều có một chất nhớt, có thể ép nó ra, rồi trộn với vôi bột, để làm thành một chất mát-tít (mastic) dùng đề trét láng những phên tường những ghe thuyền, để nước khỏi thấm vào.


Tất cả những giống cây trên kia, dù là cây gió, cây dầu, cây ô đước hay là giây tơ hồng đều có những tính chất chung, là chứa đựng một chất nhớt (mucilage visqueux), và một chất nhựa thơm (résine odorante), cả hai chất này hợp lại làm tăng thêm sức dẻo dai cứng rắn của vôi hồ và đồng thời làm cho sâu bọ phải kiêng nể...


THÁI VĂN KIỂM

Nguồn: Tạp Chí Bách Khoa

Sunday, 25 September 2022

 Chuyện Huế ít người biết.

Người Huế mà không được nói tiếng Huế Đó là lệnh cấm đối với các thiếu nữ được tuyển vào làm cung phi trong Nội, dưới triều Nguyễn. Họ không được nói rặt giọng Huế mà phải nói y như giọng dân Phường Đúc.

Phường Đúc là khu quần cư, tập trung các người thợ đúc đồng tài giỏi do triều đình tuyển từ Bắc vào hoặc trong Nam ra. Họ là tác giả của chuông chùa Linh Mụ, Cửu Vị Thần Công Và Cửu Đỉnh ở Huế. Những sản phẩm của họ dãi nắng, dầm mưa, trải bao tuế nguyệt đến nay vẫn chẳng chút nứt rạn hay có tì vết gì. Họ mang theo gia đình ra làm ăn sinh sống lâu ngày ở Huế nên hòa đồng ngôn ngữ với dân địa phương.

Dân Phường Đúc không nói rặt một giọng nào mà pha trộn nửa nọ, nửa kia. Các cung phi trong Nội phải bắt chước giọng Phường Đúc, nghĩa là vừa nói nửa Trung, nửa Nam ai không tuân thì bị tội. Tại sao lại có hiện tượng này? Kể cũng khó hiểu. Và lệnh này có từ đời nào?

Có người đưa ra giả thuyết: có lẽ chuyện này xuất phát từ thời bà Từ Dũ vốn là một phụ nữ Nam Kỳ, con gái của Đại Thần Phạm Đăng Hưng, người Gia Định. Ba được phong Nghi Thiên Chương Hoàng Hậu, lấy Vua Thiệu Trị, đứng đầu bộ phận "hậu cần" của Hoàng Đế, có nhiều quyền uy đối với các cung phi khắp ba cung, sáu viện. Có lẽ bà muốn những người dưới tay mình phải dùng giọng nói pha âm sắc Nam Kỳ để trao đổi cho dễ hiểu chăng, bởi vì người Tân Hòa - Gia Định nghe giọng Huế "đặc sệt" có thể không hiểu mô tê chi cả.

Cũng có thể lệ này xuất hiện sớm hơn, từ thời Minh Mạng vì ông này nổi tiếng là ông Vua có nhiều vợ và phần lớn là người miền Nam.

Về giọng nói Phường Đúc thì cho đến nay, thời gian qua quá lâu, trải nhiều thế hệ, giọng nửa Nam nửa Trung đã trở thành Huế rặt.

Ngoài ra còn có một hiện tượng buồn cười khác là các người làm việc trong nội dù là cung phi, lão tỳ, thị tỳ, nô nhân hay nê nhân, lúc mới vào đều phải tự nguyện "câm" đi trong thời gian sáu tháng. Suốt thời gian này, họ không nói gì cả hoặc nói rất ít. Không nói vì sợ phạm húy, lỡ mồm lỡ miệng thì mang họa vào thân. Chờ khi nào thuộc lòng những chữ "nên tránh" gồm trọng húy và khinh húy, hoặc những chữ cấm nói như: chết chóc, đui què, máu me, phong hủi... vì những từ này mang điềm gỡ hoặc thô tục, lúc đó họ mới được phép... hết câm.

Sao gọi "ngựa Thượng Tứ"?

Ở Huế, khi nói về một người đàn bà hung dữ, có lời ăn tiếng nói thô lỗ, cử chi vùng vằng, người ta thường ví kẻ đó như Con Ngựa Thượng Tứ. Thượng là thuộc về Vua. Tứ là xe bốn bánh do ngựa kéo.

Gần cửa Đông Nam, một trong tám cửa của kinh thành Huế, xưa có khu vườn nuôi ngựa để kéo xe cho Vua. Những con ngựa này thường là dữ dằn phải do đội phi kỵ vệ và khinh kỵ vệ nuôi dạy, huấn luyện cho ngựa trở nên thuần. Người đàn bà dữ dằn lúc nào cũng lồng lên như ngựa chứng thì có gọi là "Ngựa Thượng Tứ" cũng đúng thôi. Cửa Đông Nam vì ở gần khu Thượng Tứ nên cũng được dân Huế gọi luôn là cửa Thượng Tứ không ai còn để ý đến hai chữ Đông Nam ghi trên vọng lâu nữa.

Chợ Đông Ba hay Đông Hoa?

Chợ Đông Ba, ngôi chợ lớn nhất trong các chợ ở Huế, vốn có tên thật là chợ Đông Hoa - cửa Đông Ba xưa cũng gọi là cửa Đông Hoa. Đây là một cái tên do ta bắt chước Trung Quốc. Thời Tần Thủy Hoàng bên Tàu cũng có một cái cửa gọi là cửa Đông Hoa. Chỉ vì tránh phạm húy mà người Huế phải gọi trệch ra là Đông Ba vì tên của bà Hồ Thị Hoa, vợ Vua Minh Mạng, được phong Tá Thiên Nhân Hoàng Hậu, gốc người Biên Hòa (Nam Kỳ).

Nếu ta nghe người Huế xưa gọi "ánh sáng" là "yến sáng" thì cũng đừng ngạc nhiên vì sợ phạm húy bởi "Ánh" là tên Vua Gia Long nên phải đổi ra thành "yến" .

Lão thi ông Ưng Bình Thúc Giạ Thị làm thơ cũng đổi chữ "cành phồn hoa" ra "cành phiền ba", bởi hơn ai hết, ông phải kỵ húy vì ông là người trong Hoàng Tộc.

Bắt trẻ con là cá, trấu làm tép?

Nhân vùng biển Thuận An sắp trở thành thị xã, xin kể vài tục lạ của ngư dân vùng biển này có từ thời xa xưa. Dân chài lưới ở Thuận An rất sùng bái nữ thần Thái Dương vì vị thần này đã nhiều phen giúp họ làm ăn phát đạt. Họ lập miếu thờ và mỗi năm, cứ đến ngày 23 tháng chạp âm lịch lại tổ chức lễ hội.

Họ thường nhắc câu: "20 làm tốt, 21 xâu tai, 22 đeo hoa, 23 tế Nhân". Xâu tai, đeo hoa là làm đẹp cho tượng thần và Nhân là tên của nữ thần Thái Dương.

Ngư dân ở đây đã lấy lưới vây trên bến cạn, bắt một số trẻ em trần truồng cho vào trong lưới giả làm cá vừa lưới được, xong nhiều người đem rổ cá đến mua. Cũng diễn ra cảnh chọn cá và kỳ kèo, trả giá, xong thì đem bọn trẻ sang bờ bên kia thả cho chúng chạy.

Họ cũng dùng trấu giả làm tép biển và lấy vợt xúc lên, giả như đang thu hoạch. Tiếp sau đó, có những trò vui như đua trải, nhậu nhẹt và hát bội cho dân làng xem"

Tô Kiều Ngân

(Trích Hương Giang)

Nguồn hoài niệm miền nam một thời

PHIẾM : HUẾ CỦA TUI!

Sau hơn 40 năm sống chung nhà với O bây giờ tôi đã thành dân Huế lai! Gọi là “lai” vì trong các món ăn Huế do cái lưởi của dân Nam kỳ tôi dần dần hoà hợp hoà giải để cái chất Huế để có chút chút chất Nam bộ.

Chẳng hạn như ăn món bún bò lần đầu cay xé lưỡi vừa ăn vừa hít hà, trời mùa đông ăn xong tô bún toát mồ hôi nóng như mùa hè. O nêm có hơi nhiều ruốc nên người mới ăn món Huế như tôi hơi dị ứng cái lỗ mũi.

Vậy là lần sau tôi chủ động làm công tác nêm nếm. Ruốc quậy riêng trong tô nước nóng cho bay bớt mùi, thêm tí đường cát vàng cho nước lèo dịu lại. Ớt phi dầu bớt lại vừa đủ cho có một lớp váng mỏng bên trên, không chú ý đến chất cay mà nhấn ở nét mỹ thuật của tô bún. Vậy là có một tô bún bò Huế lai!

Câu chuyện tình O Huế bắt đầu vào mùa hè 1977 khi tôi đi công tác ra Huế. Cái cảm tưởng đầu tiên khi tản bộ trên con đường bên kia bờ sông Hương nơi có trường Đồng Khánh và Quốc Học thật là tuyệt vời. Nầy nhé, hoa Phượng rực rỡ nở dọc theo đường, tiếng ve sầu nghe như bản tình ca xứ Huế rồi đàn bướm trắng tan trường (Đồng Khánh). Một bức tranh tuyệt đẹp chưa kể dòng sông Hương đang lững lờ trôi…..

...sau chuyến đi Huế mới khám phá ra là cái văn phòng nơi đã gởi tôi đi công tác ngoài Huế có…mấy O lấp ló ở cổng sân nhà. Thiên thời, địa lợi, nhân hoà…vậy là quân ta hai mủi giáp công….

Chiến thắng đem về cho tôi một O Huế cũng có cái tên của loài hoa mà tôi đã chiêm ngưỡng trong lần đi tản bộ ngày nào dọc bờ sông Hương. Bây giờ tôi mới tin ở cái chữ Duyên!

Tiến trình chinh phục O Huế.

Ai cũng biết con đường dẫn đến trái tim là đi qua bao tử. Áp dụng chiến thuật nầy bắt đầu với những lần đi ăn ở Ngự Bình một quán ăn thuần Huế cuối đường Hiền Vương gần Casino Đa kao. Tôi cũng ít có dịp thưởng thức món Huế nên một công đôi chuyện thám hiểm vùng đất ẩm thực Huế. Nơi đây có mấy món ngon của Huế như bánh bèo chén, bánh ướt thịt nướng và đương nhiên cơm Hến. Cái món tương đậu phộng ăn với bánh ướt phải nói là tuyệt cú mèo! Cứ từng bước như vậy quân ta tiến dần tới mục tiêu : trái tim!

Nói dzậy chớ cũng phải qua rất nhiều công đoạn như : những bức thư tình chưa gởi, ca ngợi Huế đa tình, rồi hồn vương xứ Huế…

Nhận được thơ O, coi như quân ta đã đến mục tiêu. Rồi tin chiến thắng đưa về bằng cái đám hỏi giữa hai gia đình.

Bây giờ ta đã là chủ nhân của…

CỒN HẾN.

Đó là một hòn đảo nhỏ trên sông Hương, dân địa phương khi đến mùa hến hay ra đây xúc.

Một đặc sản của Huế với món cơm hến.

Nếu ai có hỏi tôi thích Huế ở chỗ nào xin được trả lời đó là : CỒN HẾN!

Còn cồn Hến... ở đâu? đố ai biết được!

Bây giờ mà trả lời thì không chừng có dĩa bay, chén bay trong nhà!

Nếu có phải viết về cồn hến thì ngàn trang cũng không đủ! Nên chỉ tóm gọn ở mấy câu sau :

Mơ màng Cồn Hến giữa sông Hương.

Ta yêu O Huế mấy ngàn thương?

Hương giang Cồn Hến nơi mô nhỉ?

Yêu O yêu luôn cả cái…Cồn.

Friday, 23 September 2022

 Chuyện Huế ít người biết.

Người Huế mà không được nói tiếng Huế Đó là lệnh cấm đối với các thiếu nữ được tuyển vào làm cung phi trong Nội, dưới triều Nguyễn. Họ không được nói rặt giọng Huế mà phải nói y như giọng dân Phường Đúc.

Phường Đúc là khu quần cư, tập trung các người thợ đúc đồng tài giỏi do triều đình tuyển từ Bắc vào hoặc trong Nam ra. Họ là tác giả của chuông chùa Linh Mụ, Cửu Vị Thần Công Và Cửu Đỉnh ở Huế. Những sản phẩm của họ dãi nắng, dầm mưa, trải bao tuế nguyệt đến nay vẫn chẳng chút nứt rạn hay có tì vết gì. Họ mang theo gia đình ra làm ăn sinh sống lâu ngày ở Huế nên hòa đồng ngôn ngữ với dân địa phương.

Dân Phường Đúc không nói rặt một giọng nào mà pha trộn nửa nọ, nửa kia. Các cung phi trong Nội phải bắt chước giọng Phường Đúc, nghĩa là vừa nói nửa Trung, nửa Nam ai không tuân thì bị tội. Tại sao lại có hiện tượng này? Kể cũng khó hiểu. Và lệnh này có từ đời nào?

Có người đưa ra giả thuyết: có lẽ chuyện này xuất phát từ thời bà Từ Dũ vốn là một phụ nữ Nam Kỳ, con gái của Đại Thần Phạm Đăng Hưng, người Gia Định. Ba được phong Nghi Thiên Chương Hoàng Hậu, lấy Vua Thiệu Trị, đứng đầu bộ phận "hậu cần" của Hoàng Đế, có nhiều quyền uy đối với các cung phi khắp ba cung, sáu viện. Có lẽ bà muốn những người dưới tay mình phải dùng giọng nói pha âm sắc Nam Kỳ để trao đổi cho dễ hiểu chăng, bởi vì người Tân Hòa - Gia Định nghe giọng Huế "đặc sệt" có thể không hiểu mô tê chi cả.

Cũng có thể lệ này xuất hiện sớm hơn, từ thời Minh Mạng vì ông này nổi tiếng là ông Vua có nhiều vợ và phần lớn là người miền Nam.

Về giọng nói Phường Đúc thì cho đến nay, thời gian qua quá lâu, trải nhiều thế hệ, giọng nửa Nam nửa Trung đã trở thành Huế rặt.

Ngoài ra còn có một hiện tượng buồn cười khác là các người làm việc trong nội dù là cung phi, lão tỳ, thị tỳ, nô nhân hay nê nhân, lúc mới vào đều phải tự nguyện "câm" đi trong thời gian sáu tháng. Suốt thời gian này, họ không nói gì cả hoặc nói rất ít. Không nói vì sợ phạm húy, lỡ mồm lỡ miệng thì mang họa vào thân. Chờ khi nào thuộc lòng những chữ "nên tránh" gồm trọng húy và khinh húy, hoặc những chữ cấm nói như: chết chóc, đui què, máu me, phong hủi... vì những từ này mang điềm gỡ hoặc thô tục, lúc đó họ mới được phép... hết câm.

Sao gọi "ngựa Thượng Tứ"?

Ở Huế, khi nói về một người đàn bà hung dữ, có lời ăn tiếng nói thô lỗ, cử chi vùng vằng, người ta thường ví kẻ đó như Con Ngựa Thượng Tứ. Thượng là thuộc về Vua. Tứ là xe bốn bánh do ngựa kéo.

Gần cửa Đông Nam, một trong tám cửa của kinh thành Huế, xưa có khu vườn nuôi ngựa để kéo xe cho Vua. Những con ngựa này thường là dữ dằn phải do đội phi kỵ vệ và khinh kỵ vệ nuôi dạy, huấn luyện cho ngựa trở nên thuần. Người đàn bà dữ dằn lúc nào cũng lồng lên như ngựa chứng thì có gọi là "Ngựa Thượng Tứ" cũng đúng thôi. Cửa Đông Nam vì ở gần khu Thượng Tứ nên cũng được dân Huế gọi luôn là cửa Thượng Tứ không ai còn để ý đến hai chữ Đông Nam ghi trên vọng lâu nữa.

Chợ Đông Ba hay Đông Hoa?

Chợ Đông Ba, ngôi chợ lớn nhất trong các chợ ở Huế, vốn có tên thật là chợ Đông Hoa - cửa Đông Ba xưa cũng gọi là cửa Đông Hoa. Đây là một cái tên do ta bắt chước Trung Quốc. Thời Tần Thủy Hoàng bên Tàu cũng có một cái cửa gọi là cửa Đông Hoa. Chỉ vì tránh phạm húy mà người Huế phải gọi trệch ra là Đông Ba vì tên của bà Hồ Thị Hoa, vợ Vua Minh Mạng, được phong Tá Thiên Nhân Hoàng Hậu, gốc người Biên Hòa (Nam Kỳ).

Nếu ta nghe người Huế xưa gọi "ánh sáng" là "yến sáng" thì cũng đừng ngạc nhiên vì sợ phạm húy bởi "Ánh" là tên Vua Gia Long nên phải đổi ra thành "yến" .

Lão thi ông Ưng Bình Thúc Giạ Thị làm thơ cũng đổi chữ "cành phồn hoa" ra "cành phiền ba", bởi hơn ai hết, ông phải kỵ húy vì ông là người trong Hoàng Tộc.

Bắt trẻ con là cá, trấu làm tép?

Nhân vùng biển Thuận An sắp trở thành thị xã, xin kể vài tục lạ của ngư dân vùng biển này có từ thời xa xưa. Dân chài lưới ở Thuận An rất sùng bái nữ thần Thái Dương vì vị thần này đã nhiều phen giúp họ làm ăn phát đạt. Họ lập miếu thờ và mỗi năm, cứ đến ngày 23 tháng chạp âm lịch lại tổ chức lễ hội.

Họ thường nhắc câu: "20 làm tốt, 21 xâu tai, 22 đeo hoa, 23 tế Nhân". Xâu tai, đeo hoa là làm đẹp cho tượng thần và Nhân là tên của nữ thần Thái Dương.

Ngư dân ở đây đã lấy lưới vây trên bến cạn, bắt một số trẻ em trần truồng cho vào trong lưới giả làm cá vừa lưới được, xong nhiều người đem rổ cá đến mua. Cũng diễn ra cảnh chọn cá và kỳ kèo, trả giá, xong thì đem bọn trẻ sang bờ bên kia thả cho chúng chạy.

Họ cũng dùng trấu giả làm tép biển và lấy vợt xúc lên, giả như đang thu hoạch. Tiếp sau đó, có những trò vui như đua trải, nhậu nhẹt và hát bội cho dân làng xem"

Tô Kiều Ngân

(Trích Hương Giang)

Nguồn hoài niệm miền nam một thời

Wednesday, 1 June 2022

HUẾ VẪN CHỜ AI ... SẼ CÓ MỘT NGÀY NGƯỜI XA LẠI VỀ./-TCLãnh

KIỂU HUẾ
Trần Đức Anh Sơn 

1. Tôi có quen một phụ nữ Huế, là chủ nhân một ngôi nhà vườn nổi tiếng ở đất thần kinh. Mỗi khi có dịp tiếp chuyện bà, tôi luôn bị cuốn hút bởi sự lịch lãm, nét quý phái tỏa ra từ thần thái của bà. Khi xuất hiện trước người khác, bà luôn chăm chút bản thân từng ly, từng tí, từ trang phục, kiểu tóc đến cử chỉ, ngôn từ. Cứ ngỡ, sự đài các, nét sang trọng kia do bà tạo ra là cốt để xứng hợp với vị thế hiện tại của bà. Nhưng không phải vậy! Nhiều người quen biết bà cho tôi hay: kể cả những lúc khốn khó nhất thì phong thái của bà cũng kiêu sa, đài các như mặc định. Sau ngày 30-4-75, cả Huế đều lam lũ mưu sinh. Gia cảnh của bà cũng sa sút: bà phải ăn cơm độn, mặc áo cũ; phải cuốc xới mảnh vườn trong phủ đệ, vốn chỉ trồng hoa và cây kiểng, để trồng các loại rau quả góp thêm cho bữa ăn hàng ngày. Nhưng mỗi khi bước chân ra khỏi tòa phủ đệ thâm nghiêm ấy, bà đều ngồi xe xích lô, mặc những chiếc áo dài không một nếp nhăn, khoác chiếc phu-la mệnh phụ màu trắng. Người ta nói rằng bà nhất mực gìn giữ một phong cách sống riêng, mà họ gọi là kiểu Huế, cho dẫu vật đổi sao dời.



                         Chân dung người phụ nữ sống theo “kiểu Huế” trong ngôi nhà rường nổi tiếng của bà. Ảnh: Trần Đức Anh Sơn
Tôi cũng có quen một ông thầy người Huế, là giảng viên đại học hồi hưu. Thầy sống nhàn nhã và thong dong trong một ngôi nhà rường xưa ở gần chợ Cống. Thông thạo Hán văn, rành rọt Pháp văn, lưu loát Nhật ngữ và Đức ngữ, am tường “thiên kinh, vạn quyển”, nhưng thầy không “cao đàm khoát luận” bao giờ. Mỗi sáng, thầy tự pha trà trong chiếc độc ẩm màu gan gà hiệu đề Thế Đức; tự thưởng trà trong chiếc chén “mắt trâu – lật đật” vẽ tích Tô Vũ mục dương ký kiểu đời vua Tự Đức. Đoạn, thầy dịch thơ haiku, nghiền ngẫm Osho và tiếp dưỡng cho bản thân bằng hai bữa cơm chay mỗi ngày. Với vốn ngoại ngữ tinh thông và tri thức am tường, lẽ ra, thầy phải là giảng viên thỉnh giảng “đắt sô” cho các trường đại học ở Huế như các vị giáo chức hồi hưu khác vẫn làm. Nhưng thầy lại chọn cho mình một lối sống thanh khiết, bình dị. Nhiều người am hiểu cũng nói với tôi: “Thầy sống theo kiểu Huế”!



Trong ngôi nhà này có một ông thầy Huế, rất lãng tử và cũng rất Huế. Ảnh: Trần Đức Anh Sơn
2. Cách đây hơn hai chục năm, tôi theo một người bạn về thăm quê của anh ở ven phá Tam Giang. Ngôi làng nhỏ như một ốc đảo lọt thỏm trong cồn cát trắng đến nao lòng, phía đông là biển xanh bao bọc, phía tây là vùng đầm phá mênh mông ôm ấp. Làng ở sát biển nhưng dân làng chủ yếu sống về nghề nông và nghề nấu rượu. Sống trong vùng cát nóng bỏng nên mọi thứ cây trồng: từ các loại hoa màu như: thuốc lá, khoai lang, đậu phụng, thậm chí cả lúa, cho đến các loại cây một như bạch đàn, dương liễu… cũng đều phải được tưới nước hàng ngày. Từ ba giờ sáng, người làng đã ra đồng, mỗi người một đôi thùng trên vai, gánh nước từ các giếng khơi đào trong lòng cát để tưới cây. Đến khi mặt trời lên đến ngọn tre thì mỗi người cũng đã gánh được hơn trăm đôi nước tưới.
Lần đó, bạn mời tôi về nhà ăn kỵ. Nhà bạn nghèo nhưng mâm cỗ cúng hôm đó rất tươm tất, ước chừng 10 món khác nhau. Tất cả được bày biện tinh tươm trong những chiếc tô, dĩa, chén làm bằng sứ trắng vẽ lam, mà người Huế vẫn gọi là đồ kiểu. Tôi hỏi nhỏ anh bạn:“Những thứ này mượn ở mô rứa?”. Bạn nói: “Đồ gia bảo, chỉ khi kỵ giỗ hay tết nhứt mới đem ra dùng”. Tôi lại hỏi: “Nghe nói đồ xưa được giá lắm, sao nhà anh không bán bớt để có tiền lo việc khác? Còn cúng giỗ thì mình dùng chén dĩa đời nay cũng được”. Bạn tôi mắng: “Tầm bậy. Đã là đồ gia bảo thì có chết đói cũng không được bán. Nhà mình vay mượn để lo kỵ bữa ni. Đến mùa thu hoạch sẽ trả nợ, dứt khoát không bán đồ gia bảo”.Trong lễ cúng, tôi thấy cha của bạn dâng rượu cúng đến ba lần, bèn thắc mắc: “Sao phải dâng rượu cúng đến ba lần, thường thì chỉ dâng một lần rượu khi vào lễ và một lần trà khi kết thúc thôi chứ?”. Lễ xong, cha của bạn giải thích: “Trong lễ cúng của người Huế mình, phải dâng đủ ba tuần rượu, gọi là là sơ hiến lễ (dâng rượu lần đầu), á hiến lễ (dâng rượu lần hai) và chung hiến lễ (dâng rượu lần cuối). Sau cùng mới hiến trà (dâng trà)”. Tôi vẫn cố:“Nhưng mà mình cúng ở nhà chứ có cúng đình, cúng họ mô mà phải nhiêu khê như rứa. Cỗ bàn e nguội cả”. Ông mắng tôi: “Không được, cúng mô cũng là cúng, phải đúng bài bản. Xưa bày nay làm, không giản lược được mô”.


Mâm cỗ cúng tất niên của một gia đình người Huế. Ảnh: Internet.
Sau này ra trường, tôi vào làm việc ở quần thể di tích cố đô Huế. Thi thoảng, tôi được mời dự khán các cuộc lễ, kỵ do Nguyễn Phước tộc tổ chức trong Triệu Miếu hay Thế Miếu. Mỗi khi nghe vị chấp lệnh hô: “hành sơ hiến lễ”, “hành á hiến lễ”, “hành chung hiến lễ”, “hiến trà”…, tôi lại chợt nhớ hình ảnh người cha của anh bạn năm xưa, áo dài khăn đóng, thành kính dâng ba tuần rượu và một tuần trà lên bàn thờ tiên tổ. Rồi thầm nghĩ: “Đó cũng là một kiểu Huế”.
3. Trong Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế có hai bộ uống rượu rất đặc sắc. Một bộ làm bằng bạc, chạm trổ tinh xảo, công phu, niên đại vào đời Tự Đức (1848 – 1883). Bộ kia làm bằng ngà voi, kiểu dáng cầu kỳ, chế tác vào đời Đồng Khánh (1885 – 1888). Sử sách triều Nguyễn cho biết: hàng năm, triều đình cấp tiền cho quan binh các tỉnh tìm mua gạo nếp và gạo tám tốt từ các địa phương, giao cho Quang Lộc Tự, tùy chất lượng từng hạng rượu thành phẩm cần tiến, mà cấp phát cho các hộ nấu rượu chuyên nghiệp ở phủ Thừa Thiên nấu rượu tiến cung. Loại rượu ngon nhất được nhập vào Quang Lộc Tự, đến ngày khai niên, được chiết vào những chiếc bình làm bằng bạc, để dâng cúng ở các miếu thờ tiên đế trong Hoàng Thành. Bộ bình và chén rượu bằng bạc niên đại Tự Đức đề cập trên đây là một trong những bộ đồ dâng rượu cúng trong các miếu mà Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế còn giữ được. Ngoài rượu gạo, triều đình còn trưng nạp và sử dụng nhiều loại rượu khác phục vụ sở thích và bồi bổ sức khỏe cho các vị vua quan, trong đó có rượu dâu từ tỉnh Quảng Bình. Rượu dâu được tiến nạp vào cung để phục vụ lễ tế hưởng. Sau lễ, số rượu dâu còn lại được nhập vào kho trong hoàng cung để vua dùng quanh năm và để ban thưởng cho những người có công. Vua Đồng Khánh (1885 – 1889) không chỉ ban thưởng rượu dâu, mà còn sai Sở Nội Tạo chế tác một bộ bình và chén làm bằng ngà voi, trên thân khắc bốn chữ Hán: Đồng Khánh sắc tứ, đặt trong một chiếc giá hình lồng đèn sơn son thếp vàng, để ban thưởng cho một trọng thần. Bộ đồ uống rượu này thật tiện lợi cho những chuyến du ngoạn: mỗi khi đi đâu, chỉ cần rót rượu đầy bình, treo chén vào các lá cửa của chiếc lồng đèn rồi đóng lại, giao cho gia nhân thủ giữ. Lúc cần thưởng rượu, chỉ kéo cần gạt phía dưới lồng đèn, những cánh cửa mở ra, mang chén ngà đến cho tửu khách chiết tửu. Quả là thú vị vô cùng.



Bộ đồ uống rượu kiểu cách của vua Đồng Khánh. Ảnh: Trần Đức Anh Sơn
Huế là xứ sở của các loại bánh, mứt. Vì thế, trong cung luôn sẵn có những quả hộp đựng mứt làm bằng sứ ký kiểu hay bằng pháp lam. Trong điện Long An có bày một bộ khay đựng mứt do Pháp lam tượng cục của triều Nguyễn làm vào đời vua Thiệu Trị (1841 – 1847). Đó là bộ khay gồm 9 ngăn, đặt trong chiếc hộp gỗ sơn son vẽ rồng. Mỗi ngăn dùng đựng một món mứt, và mứt gừng là thứ không bao giờ vắng trong quả mứt Tết của người Huế, dù ở trong cung hay ngoài thôn dã. Ngoài ra, còn có bộ khay pháp lam khác, không phải để đựng mứt mà dùng để ăn món gỏi. Tôi nhớ lần ở Seoul cách nay 10 năm, cô bạn Kang Soyoung mời tôi đi ăn món kuyolp’an, là món gỏi gồm 9 thứ khác nhau (chữ ku tiếng Hàn nghĩa là số 9). Người Hàn bày món này trong bộ khay sứ có 9 ngăn. Chính giữa là ngăn đựng những lát củ cải cắt mỏng. Các ngăn xung quanh gồm: lòng trắng trứng, lòng đỏ trứng gà, nấm hương, thịt bò xào với mè, cà rốt, dưa leo, ớt xanh xào với tôm bóc vỏ và củ cải trắng. Tất cả đều được thái chỉ và dọn riêng mỗi thứ một ngăn. Khi ăn, thực khách gắp mỗi thứ một tí, bỏ vào trong lát củ cải cắt mỏng như tờ giấy, cuốn lại, rồi chấm với xì dầu và dầu mè có trộn sẵn muối tiêu. Ngon tuyệt trần. Kang Soyoung giải thích: “Món này ngày xưa người Triều Tiên chỉ được thưởng thức trong dịp Tết hoặc trong các dịp lễ trọng vì chế biến rất cầu kỳ và tốn kém. Bộ khay dùng để đựng món ăn này làm bằng ch’onghua paekch’a, là loại đồ sứ trắng vẽ men lam Hồi cao cấp, nên cũng rất đắt tiền”. Tôi bảo với Soyoung: “Ở Huế của tôi cũng có món ăn tương tự như món kuyolp’an của người Triều Tiên, gọi là món gỏi thập cẩm. Thức ăn cũng đựng trong những chiếc khay nhiều ngăn làm bằng sứ hay bằng pháp lam, tất cả đặt trong một chiếc hộp sơn mài vẽ rồng phượng rất đẹp. Món ấy, người Huế cũng chỉ dùng trong các dịp trọng đại”. Soyoung cười: “Vậy thì văn hóa ẩm thực của người Triều Tiên và người Huế cũng có nét tương đồng đấy nhỉ?”. Hình như là thế.


Bộ khay dùng để ăn món gỏi thập cẩm của người Huế. Sưu tập Trần Đình Sơn. Ảnh: Đào Hoa Nữ.
Người Huế sống, ăn, mặc và ứng xử theo một kiểu thức riêng. Ai không hiểu sẽ cho là người Huế cầu kỳ, kiểu cách. Còn ai hiểu người Huế, biết về văn hóa Huế, sẽ nói: 
“Kiểu Huế là rứa. Có chi mà thắc mắc”.
Nguốn gốc: HỒN XƯA-CHỐN CŨ

Friday, 5 March 2021

Cầu Tràng Tiền niềm tự hào trong lòng mỗi người con xứ Huế

Bắc ngang qua dòng sông Hương thơ mộng, cầu Tràng Tiền với niên đại hơn 100 năm, cùng kiến trúc độc đáo, gắn liền với lịch sử phát triển của mảnh đất nơi đây, khiến nó từ lâu đã trở thành biểu tượng, niềm tự hào của người dân xứ Huế. 
Cây cầu thơ mộng của xứ Huế (Ảnh ST)

Cây cầu thơ mộng của xứ Huế (Ảnh ST)

Sông Hương, Núi Ngự từ lâu đã gắn liền với cuộc sống người dân xứ Huế, những cảnh đẹp này còn đi vào thơ ca, nhạc họa của những người yêu mến mảnh đất này. Nhưng bên cạnh đó, thì cầu Tràng Tiền cũng là một biểu tượng mang tính đặc trưng không kém ở Huế. Người dân xứ Huế thường có câu: “Tràng Tiền là chiếc cầu định mệnh của Huế. Tới Huế mà không lên cầu thì chưa coi là tới Huế, đó mới chỉ là tạt qua Huế mà thôi…” Quả thật, đối với người dân nơi đây thì Huế dù có sở hữu rất nhiều công trình kiến trúc độc đáo, hay danh lam thắng cảnh nổi tiếng được xếp hạng thế giới thì cây cầu này vẫn luôn là niềm tự hào, một biểu tượng tiêu biểu.

Cầu Tràng Tiền từ trên cao (Ảnh ST)

Cầu Tràng Tiền từ trên cao (Ảnh ST)

Với vẻ đẹp bình dị, mềm mại, nhẹ nhàng, … đúng như tính cách của những người dân xứ Huế, cầu Tràng Tiền vì thế luôn tạo được dấu ấn sâu sắc trong lòng mỗi người dân hay du khách tìm tới tham quan nơi này. Hình ảnh cầu Tràng Tiền cổ kính trầm mặc soi bóng trên dòng Hương Giang đã khiến không ít người phải mê mẩn khi đứng trước vẻ đẹp đó.

Hình ảnh những cô gái thướt tha trong tà áo dài (Ảnh ST)

Hình ảnh những cô gái thướt tha trong tà áo dài (Ảnh ST)

Ta có thể nhận thấy ngay cầu Tràng Tiền cũng có rất nhiều điểm tương đồng với cây cầu Long Biên tại Hà Nội. Cả hai đều bắc qua những dòng sông lớn, đều được xây dựng sát kinh thành, và đều là những cây cầu mang tính huyết mạch của thành phố. Vào khoảng cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, cầu Tràng Tiền được khởi công xây dựng, ở thời điểm đó thì đây là cây cầu đầu tiên có mặt ở khu vực Đông Dương. Với thiết kế, kỹ thuật cũng như vật liệu đều tới từ phương Tây, cây cầu thép này sở hữu chiều dài là 402,60 mét, với tổng là 6 nhịp dầm thép hình vành, mỗi nhịp dài 67 mét, khổ cầu rộng 6 mét, với kiến trúc Gô tích, bắc ngang qua đôi bờ sông Hương.

Cầu Tràng Tiền - những hình ảnh xưa cũ (Ảnh ST)

Cầu Tràng Tiền – những hình ảnh xưa cũ (Ảnh ST)

Một đầu cầu là phường Phú Hội đầu bên kia là phường Phú Hòa. Hình ảnh cây cầu đã phai màu vì thời gian in bóng xuống dòng sông, những cánh phượng đỏ rực đôi bờ sông Hương, tà áo dài của người con gái xứ Huế thướt tha trong gió, hay khung cảnh lung linh sắc màu của cầu Tràng Tiền về đêm, … sẽ luôn là những hình ảnh đẹp, thơ mộng, đi sâu vào lòng người.

Hình ảnh cây cầu lung linh khi về đêm (Ảnh ST)

Hình ảnh cây cầu lung linh khi về đêm (Ảnh ST)

Với niên đại hơn 100 năm, cây cầu này đã đi qua rất nhiều giai đoạn thăng trầm cùng mảnh đất nơi đây. Ở thời điểm cây cầu mới được hoàn thiện và đưa vào hoạt động, nó như một minh chứng khiến chính quyền thực dân không khỏi hãnh diện tự hào về kỹ thuật xây dựng tân tiến hiện đại của Phương Tây, đến mức Viên toàn quyền Đông Dương lúc đó còn tự tin tuyên bố: “Khi nào cầu sập thì Pháp sẽ trả độc lập cho nước Nam”. Nhưng thật bất ngờ, chỉ sau 5 năm đi vào hoạt động cây cầu này đã bị xô đổ bởi một trận bão lớn năm 1904. Cầu Tràng Tiền có tổng cộng 6 nhịp thì có 4 nhịp bị đổ sập xuống lòng sông. Mãi tới năm 1906 nó mới được sửa chữa, trùng tu. Thay vì làm bằng gỗ, nay mặt cầu đã được đổ bê tông vững chắc.

Toàn cảnh cây cầu (Ảnh ST)

Toàn cảnh cây cầu (Ảnh ST)

Dưới thời vua Bảo Đại, năm 1937, cầu Tràng Tiền Huế tiếp tục được tu sửa và có những thay đổi đáng kể. Lòng cầu được mở rộng với hai bên là lối đi cho xe đạp và người đi bộ. Ở vị trí chính giữa có phần ban công được làm phình ra, mục đích làm nơi tránh nhau, nghỉ chân, hay ngắm cảnh cho mọi người. Đến năm 1946, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp hai đầu cầu đã bị tàn phá nặng nề, sau đó được sửa tạm để để duy trì giao thông của hai đầu sông Hương. Năm 1953 thì cầu chính thức được sửa lại với nguyên trạng như cũ.

Cầu Tràng Tiền ngày nay (Ảnh ST)

Cầu Tràng Tiền ngày nay (Ảnh ST)

Nhưng đến năm 1968, thời điểm điểm diễn ra cuộc tổng tiến công Xuân Mậu Thân, cầu Tràng Tiền Huế lại một lần nữa đổ sập, để không làm ảnh hưởng đến việc đi lại của người dân, một chiếc cầu phao thay thế đã được dựng lên, sau đó mới tiếp tục đi vào tu sửa cầu. Sau giải phóng, năm 1991 cầu Tràng Tiền được sửa chữa, trùng tu một lần nữa. Lần trùng tu này kéo dài trong 5 năm, do Công ty Cầu 1 Thăng Long đảm nhiệm. Và lần này cây cầu có khá nhiều thay đổi quan trọng. Hai phần ban công được loại bỏ, lối thông xe cũng bị thu hẹp do ghép thêm hai ống nẹp ở hai bên lan can. Trước cầu được sơn màu ghi xám nhưng nay chuyển sang sơn màu nhũ bạc.

Hình ảnh cầu Tràng Tiền (Ảnh ST)

Hình ảnh cầu Tràng Tiền (Ảnh ST)

Cũng trong lần trùng tu này cây cầu được chính thức đổi tên thành cầu Tràng Tiền, thay vì cầu Trường Tiền như trước. Năm 2002 diễn ra Festival Huế,  cầu Tràng Tiền được lắp đặt thêm hệ thống chiếu sáng có thể thay đổi màu sắc càng khiến cây cầu này trở nên nổi bật hơn.

Đến nay, cầu Tràng Tiền không chỉ là tuyến giao thông huyết mạch nối liền đôi bờ sông Hương mà nó còn trở thành một trong những biểu tượng, điểm đến hấp dẫn du khách. Vậy nên, bạn đừng bỏ lỡ cơ hội ghé thăm cây cầu nổi tiếng này khi đi du lịch tại Huế./-