Làm Rể Xứ Huế
Mt68 History
Friday, 24 March 2023
Wednesday, 9 November 2022
CON ĐƯỜNG CÁI QUAN
Huế xưa
KINH THÀNH HUẾ
Tìm hiểu Cố đô Huế
Hương-Giang Thái Văn Kiểm
Ông Thái văn Kiềm là tác giả của nhiều sách biên khảo công phu trong đó có tập «Cố đô Huế» (lịch sử, cổ tích, thắng cảnh) do Nha Văn Hóa bộ QGGD xuất bản từ năm 1960. «Cố đô Huế» như vậy là một đề tài quen thuộc với Ông và Ông lại nói chuyện về đề tài này tại Trung tâm Đắc lộ Saigon, chiều thứ bảy 6.10.73, nhưng dưới các khía cạnh: «Vị trí lịch sử và địa lý, Những kiến trúc chính yếu, Quan niệm và kỹ thuật kiến trúc của Cố đô» trước khi đề cập đến "Huế huyền bí và trầm lặng". Chúng tôi xin trích đăng bài nói chuyện trên đây riêng về khía cạnh: Quan niệm và kỹ thuật kiến trúc của Cổ đô Huế.
..Kinh thành Huế khởi đắp tháng 4 năm Ất-Sửu, 1805, chiếm địa phận 8 làng: Phú-Xuân, Vạn-Xuân, Diễn-Phái, An-Vân, An-Hòa, An-Mỹ, Thế-Lại, An-Bửu; nhưng làng Phú-Xuân mất đất nhiều hơn cả, nên làng này được vua ban, ngoài số bạc bồi thường nhiều ruộng đất chung quanh Huế,ở Quảng-Trị và Quảng-Bình nữa.
Vua Gia-Long xem xét địa thế từ làng Kim-Long đến Thanh-Hà, thân chế kiểu thành, rồi mới giao cho Giám Thành Nguyễn-Văn-Yến vẽ bản đồ, đóng cọc, v.v.. rồi huy động quân lính ở Kinh và mộ dân các tỉnh về làm. Chúng ta có thể xem viên Giám Thành Nguyễn-Văn-Yến như vị Kiến-trúc-sư đầu tiên của Kinh-thành Huế.
Ban đầu, thành chỉ đắp bằng đất, cho nên chỉ từ tháng 4 đến tháng 8 đã xong. Năm Đinh Mão 18o7, lại tiếp tục công việc cho đến cuối triều Gia-Long. Năm Mậu-Dần, 1818 mới bắt đầu xây gạch 2 mặt Nam và Tây, rồi đến mặt Bắc, công việc giao cho Hoàng-Công-Lý, Trương-Phúc-Đảng và Nguyễn-Đức-Sỹ, đến năm 1819 thì xong. Năm Canh-Thìn, Minh Mạng nguyên niên 182o, mưa lớn, làm đổ mất 300 trượng (phỏng chừng 1200 mét), phải sửa chữa lại. Năm Tân Tỵ, 1821, lại tiếp tục công việc và xây gạch mặt phía Đông, như vậy là cả bốn mặt đều xây bằng gạch. Qua năm Nhâm Ngọ 1822, lại mưa lớn, làm hỏng 2057 trượng (8228 mét), phải giao cho hai Kiến-trúc-sư Trần Văn-Năng và Nguyễn Văn-Vân sửa chữa lại. Sau hết, năm Giáp Thân, 1824, còn tu bổ một lần nữa, công việc mới thật hoàn toàn, tính như vậy, từ năm 18o5 cho tới năm 1824, là cả thảy 20 năm trời mới xây xong Kinh thành Huế. Lúc bấy giờ, những người có dự vào việc xây Kinh-thành đều được ban thưởng; quân lính trước khi giải ngũ về quê được lãnh tất cả 143.000 quan tiền, các quan kiến trúc và chuyên viên được lãnh mỗi người thêm 5 tháng lương.
Theo Linh-muc Léopold Cadière viết trong tập san của Hội Đô-Thành Hiếu-Cổ, số I-2, năm 1933, thì những người Pháp giúp việc vua Gia Long, không có xen vào công việc xây dựng Kinh-thành Huế, Linh mục Cadière còn nói thêm đại khái rằn:; ngoại trừ thành Gia-Định, đã được kiến thiết năm 1791, do bản đồ của Kỹ sư Lebrun, dưới quyền chỉ huy của Vệ-úy Olivier, tất cả những thành trì trên lãnh thổ Việt-Nam, tuy có tham chước ít nhiều những kiều thành Vauban, đều do những Kiến-trúc sư Việt-Nam phác họa và thực hiện.
Nói như vậy, không phải là chúng ta hoàn toàn phủ nhận ảnh hưởng của Tây-phương trong việc kiến-trúc Kinh-thành Huế. Ảnh hưởng đó có thật, nhưng người ta chỉ trông thấy nơi Thành ngoài mà thôi; còn như những cung điện lâu đài ở bên trong thì tuyệt nhiên không có gì là Tây-phương cả ; trái lại, những cơ cấu này có phần tương tự như Kinh thành Bắc-Kinh thu nhỏ lại.
oOo
Nhìn lại Kinh-thành Huế, chúng ta nhận thấy quả thật là một địa điểm sơn thanh thủy tú, trước có sông Hương uốn khúc, núi Ngự làm bình phong, hai bên có cồn Thanh Long bên tả và cồn Bạch-Hồ bên hữu, chung quanh có sông ngòi bao bọc, tạo thành một cảnh trí mỹ miều và một vị trí chiến lược có nhiều ưu điểm.
Một khi địa điểm đã được tuyên định. Bộ Lễ và Khâm Thiên Giám phải chọn ngày lành tháng tốt, để làm lễ thượng lương, với tất cả nghi thức cần thiết, đề thần linh chứng giám và tổ tiên phò trợ, đặc biệt lễ quan phải treo câu đối viết trên giấy hồng đơn:
“Lập trụ hỉ phùng hoàng đạo nhật
Thượng lương hạnh ngộ Tử vi tinh"
(Dựng cột nhà hoan hỉ gặp ngày hoàng đạo,
Cất đòn dông may mắn được sao Tử-vi)
Lễ thượng lương của ta cũng giống như lễ đặt viên đá đầu tiên của Tây-phương vậy. Điều đáng chú ý là nền kiến-trúc cổ truyền của ta chuyên lo về thượng từng cơ sở đầu tiên, còn nền kiến trúc Tây-phương lại chú trọng nơi hạ từng cơ sở trước hết.
Sau khi đã tập trung đầy đủ những dữ kiện tinh thần, người xưa mới nghĩ tới sự vận dụng những yếu tố vật chất, như là kỹ thuật, nhân công, vật liệu, tài chính v.v.. Tôi có ý để vấn đề tài chính sau hết, là vì người Á-Đông thời cổ không mấy khi dự trù ngân sách trước khi thi hành một công tác.
Về nhân lực, chúng ta phải nói tới sự đóng góp của nhiều địa phương trong nước. Theo châu-bản Gia Long thứ 4, 18o5, chúng ta được biết : tỉnh Quảng Trị phải sức đòi 4151 quân dân hạn đến ngày 20 tháng 4 phải có mặt tại Kinh-đô để khởi công, tỉnh Quảng-Bình đòi 2388 quân dân, tỉnh Quảng Nam đòi 2436 quân dân, v.v..., tổng số nhân công lên tới một vạn rưỡi. Ngoài ra, các thợ thuyền chuyên môn như thợ
làm ngói, gạch, thợ mộc, thợ nề, thợ chạm, thợ đúc, thợ rèn, v.v... cũng được các tỉnh chọn lọc, trưng tập và gửi về Kinh.
Về vật lực, hồi đó người ta lấy đá (granit) ở núi Mai Vực, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh-Hóa, cẩm thạch (marbre) ở Ngũ hoành sơn (Quảng Nam), sa thạch (grès) ở gần chùa Thiên Mụ, gỗ tốt như li, kiền kiền, gõ, ít, thì lấy ở các tỉnh Quảng-trị, Quảng-bình, Nghệ-an, Gia định, v.v... Căn cứ trên bản phúc trình của Đại úy Công-binh, Lecompte, có đăng trong tạp chí của Đô-Thành Hiếu Cổ thượng dẫn và có ghi ngày 2o mars 1875, thì dưới đời vua Tự-Đức (và có lẽ các tiền triều) đã có một lò gạch của nhà vua chuyên đúc gạch cỡ lớn, mà người Tây-phương gọi là brique mandarine lò gạch này ở ngã ba sông Hương tiếp giáp với sông Con chảy về suối nước nóng Thanh-Tân, gần trại Ba Trúc của Giáo đoàn Quốc-ngoại (Mission étrangère) do Giám-mục Sohier kiến
lập năm 1868.
Cũng theo Đại úy Lecompte, thì nhà vua có một lò ngói ở Phường Đúc, gần Hổ Quyền (Arènes); lò ngói này cũng có sản xuất gạch lát, mà bây giờ ta gọi là Ca-rô. Tất cả những ngói và ca-rô đều có phết một lớp men, vàng hay xanh tùy theo công dụng, trước khi cho vào lò. Những lò này được xây xiên theo lưng đôi để cho hơi nóng từ phía dưới lần theo lên tới phía trên, sau khi đã đi qua các lớp ngói.
Chúng ta cũng không quên những vật liệu khác như vôi và cát. Người ta lấy cát dễ dàng ở chung quanh những cồn, như cồn Giả Viên tức Bạch Hổ, cồn Hến là nơi sản xuất những con sò, con hến và bắp cồn ngon ngọt đặc biệt. Riêng về chất vôi, người ta khai thác ở chung quanh đồi Long Thọ tức Long Thọ
Cương, hay là Thọ Khương, là nơi mà sau này người Pháp đã thiết lập một nhà máy với lấy tên là Société des Chaux Hydrauliques de Long Thọ, gọi nôm na là vôi Bò Ghè, do tên của Bogaert, người đã sáng lập và trông coi lâu năm nhà máy với Long Thọ.
Sở dĩ thành quách được bền bỉ lâu dài là do nơi kỹ thuật trộn vôi với các vật liệu khác thành ra hồ (mortier) dùng để kết hợp những đá gạch liền với nhau. Vôi hồ của ta ngày xưa đại khái gồm có cát, vôi, cứ hai phần cát thì một phần vôi, rồi trộn với nước và đường tảng hoặc mật mía (mélasse de canne à sucre). Công dụng của mật mía là thêm vào hồ một chất nhớt (colle) và sẵn có chất vôi, nó sẽ tạo nên một chất kép mới gọi là sucrate de calcium, có đặc tính làm cho cứng rắn gấp bội.
Nếu cần có một thứ vôi mật thật tốt, mà người Tây-phương gọi là stuc, thì người ta trộn thêm vôi hồ một ít giấy bản, làm với vỏ cây gió (aquilaria crassana P.) một loại danh mộc, vỏ có sợi (filamenteux), thân có trầm (aloexyllum agallochum). Thứ vôi này có đặc tính bám chặt (adhésif) thường dùng để phết tường cho trơn, uốn nắn những mô hình tế nhị, như long lân qui phượng, hoặc để gắn những miếng sành vào đó cho được mỹ thuật và lâu dài.
Chúng ta thuộc về khu vực văn minh thảo-mộc (civilisation du végétal), cho nên chúng ta dùng rất nhiều gỗ mà ít dùng đá. Vì những cột kèo, đòn dông, đòn tay, rui, mè, xuyên,trến, đều bằng gỗ ráp lại với nhau theo những phương pháp cổ điển (tuyệt nhiên không có đóng đinh), cho nên những cung điện của Kinh-thành Huế có thể tháo gỡ dễ dàng, và di chuyể đi nơi khác được ; đó là trường hợp của nhiều cung điện trong Thành Nội, như cung Bảo Định ngày xưa ở phường Tây Lộc, về sau dưới đời Duy Tân thứ 2 (19o8) đã được tháo gỡ, lấy vật liệu đem về dựng lại trong sân Quốc Tử Giám lấy tên mới là Di Luân Đường, từng dưới làm giảng đường, từng trên thiết bàn thờ Đức Khổng Tử ; một phần khác của cung Bảo Định, là điện Long-An, cũng đã được tháo gỡ đem về phía sau Di Luân Đường, để làm Tàng-Thư-Viện, đến năm 1923 lại dùng làm cơ sở cho Viện Tàng-Cổ Khải Định.
Đến đây, chúng ta cần mở một dấu ngoặc, để ghi nhớ rằng trong cuộc Nam Tiến, chúng ta đã được truyền lại nhiều kỹ thuật kiến trúc tân kỳ của người Chiêm-Thành và người Chân-Lạp. Trong những kỹ thuật đó, chúng ta chú ý trước hết tới những cái vòm (are, voute, cintre) của những tháp Chàm. Những vòm này không phải là «vòm cuốn rẻ quạt (voute en éventail), mà là vòm lớp (vofteétagée), mà trong đó những lớp gạch (assises de claveaux) được sắp ngang và lần lần gần lại với nhau ; người Tây-phương gọi là «voute à encorbel lements successlfs». Những vòm cuốn chịu ảnh hưởng kiến trúc Trung-hoa; còn những vòm lớp chịu ảnh hưởng kiến trúc Ấn-Độ. Ưu điềm của những vòm lớp là không đè nặng trên các trụ chống (pilier), khuyết điểm của những vòm lớp là không thể mở rộng như những vòm cuốn rẻ quạt, và cũng không thể chịu đựng những sức nặng lớn lao ; cho nên vòm lớp chỉ có thể dùng trong kiến-trúc xây dựng cửa ngõ tháp chòi, mà không thể dùng trong việc xây dựng cầu cống, trên đó có ngựa xe qua lại.
Ngoài ra, chúng ta cũng nên chú ý tới một kỹ thuật kỳ lạ của người Chiêm-Thành, là họ có thể làm cho những viên gạch đã nung rồi dính liền với nhau mà không trông thấy chất vôi ở giữa. Là vì người Chiêm-Thành từ ngày xưa đã biết dùng một chất hồ thảo mộc (Hant végétal). Chất hồ đó chúng tôi đã khám phá được là dầu (résine) của cây dầu rái (dipterocarpus alatus.)
Tuy nhiên, nếu chúng ta nhận thấy những chân tháp Hời ở miền Nam Trung-Việt đều bị ăn lõm vào, là vì tính chất hút nước của gạch (porosité) làm cho phần dưới luôn luôn bị ẩm ướt, khi trời mưa thì nước tụ xuống dưới đã đành, tới khi trời nắng thì nước dưới đất vẫn tiếp tục bị gạch hút lên, để biến thành hơi ; lại thêm gió biển thổi mạnh vào, đem theo cát bụi và nhiều chất muối làm cho vôi hồ, gạch đá chóng hư hao mai một.
Cũng trên đường Nam tiến, chúng ta đã tiếp xúc với người Chân-lạp và họ đã truyền lại cho ta một bí quyết kiến-trúc, một chất nhựa dẻo dai của một loài thảo mộc, mệnh danh là cây ô đước, tức quế quan mà người Tây phương gọi là Cannelier de Ceylan, laurier-myrrhe, hay là Cinnamomum zeylanicum, một giống cây cao chừng 20m, mọc rất nhiều ở các rừng Nam-Việt, nhất là ở các rừng Tây-ninh, Bà rịa. Người
ta tìm róc vỏ cây ô đước, đem về giã dập rồi ngâm nước trong 24 tiếng đồng hồ, để lấy một chất nước nhớt (matière colloidale), đem lọc kỹ, rồi trộn với cát, và mật mía, làm thành một thứ vôi hồ hảo hạng. Nếu ngâm quá 24 tiếng đồng hồ, thì chất nhớt sẽ vữa thành chất nước (état liquescent).
Người Chân Lạp xưa kia, cũng như người Việt ở một thời kỳ gần đây, còn dùng rất nhiều hồ ô đước để xây nền, xây tường và nhất là những ngôi mộ. Chất hồ này có thể so sánh với chất "colle forte", khi khô nó rút cứng lại, làm cho chúng ta liên tưởng những sợi thép căng thẳng của chất bê-tông précontraint do kỹ-sư Freyssinet sáng tạo. Ngày nay, trong châu thành Saigon, chúng ta còn trông thấy bên vệ đường nhiều cổ mộ, gọi là mả đá hay mả ô-đước mà hầu hết những xà beng và búa tạ của Sở Tràng tiền đều có thể chứng minh tính chất cứng rắn phi thường của các cổ mộ này.
Cũng có một vài nơi khác, không tìm thấy cây ô đước, người ta thay thế bằng một thứ thảo mộc có nhựa, gọi là giây tơ hồng (Cassytha filiformis Lin). Tất cả những bộ phận của cây tơ hồng đều có một chất nhớt, có thể ép nó ra, rồi trộn với vôi bột, để làm thành một chất mát-tít (mastic) dùng đề trét láng những phên tường những ghe thuyền, để nước khỏi thấm vào.
Tất cả những giống cây trên kia, dù là cây gió, cây dầu, cây ô đước hay là giây tơ hồng đều có những tính chất chung, là chứa đựng một chất nhớt (mucilage visqueux), và một chất nhựa thơm (résine odorante), cả hai chất này hợp lại làm tăng thêm sức dẻo dai cứng rắn của vôi hồ và đồng thời làm cho sâu bọ phải kiêng nể...
THÁI VĂN KIỂM
Nguồn: Tạp Chí Bách Khoa
Sunday, 25 September 2022
Chuyện Huế ít người biết.
Người Huế mà không được nói tiếng Huế Đó là lệnh cấm đối với các thiếu nữ được tuyển vào làm cung phi trong Nội, dưới triều Nguyễn. Họ không được nói rặt giọng Huế mà phải nói y như giọng dân Phường Đúc.
Phường Đúc là khu quần cư, tập trung các người thợ đúc đồng tài giỏi do triều đình tuyển từ Bắc vào hoặc trong Nam ra. Họ là tác giả của chuông chùa Linh Mụ, Cửu Vị Thần Công Và Cửu Đỉnh ở Huế. Những sản phẩm của họ dãi nắng, dầm mưa, trải bao tuế nguyệt đến nay vẫn chẳng chút nứt rạn hay có tì vết gì. Họ mang theo gia đình ra làm ăn sinh sống lâu ngày ở Huế nên hòa đồng ngôn ngữ với dân địa phương.
Dân Phường Đúc không nói rặt một giọng nào mà pha trộn nửa nọ, nửa kia. Các cung phi trong Nội phải bắt chước giọng Phường Đúc, nghĩa là vừa nói nửa Trung, nửa Nam ai không tuân thì bị tội. Tại sao lại có hiện tượng này? Kể cũng khó hiểu. Và lệnh này có từ đời nào?
Có người đưa ra giả thuyết: có lẽ chuyện này xuất phát từ thời bà Từ Dũ vốn là một phụ nữ Nam Kỳ, con gái của Đại Thần Phạm Đăng Hưng, người Gia Định. Ba được phong Nghi Thiên Chương Hoàng Hậu, lấy Vua Thiệu Trị, đứng đầu bộ phận "hậu cần" của Hoàng Đế, có nhiều quyền uy đối với các cung phi khắp ba cung, sáu viện. Có lẽ bà muốn những người dưới tay mình phải dùng giọng nói pha âm sắc Nam Kỳ để trao đổi cho dễ hiểu chăng, bởi vì người Tân Hòa - Gia Định nghe giọng Huế "đặc sệt" có thể không hiểu mô tê chi cả.
Cũng có thể lệ này xuất hiện sớm hơn, từ thời Minh Mạng vì ông này nổi tiếng là ông Vua có nhiều vợ và phần lớn là người miền Nam.
Về giọng nói Phường Đúc thì cho đến nay, thời gian qua quá lâu, trải nhiều thế hệ, giọng nửa Nam nửa Trung đã trở thành Huế rặt.
Ngoài ra còn có một hiện tượng buồn cười khác là các người làm việc trong nội dù là cung phi, lão tỳ, thị tỳ, nô nhân hay nê nhân, lúc mới vào đều phải tự nguyện "câm" đi trong thời gian sáu tháng. Suốt thời gian này, họ không nói gì cả hoặc nói rất ít. Không nói vì sợ phạm húy, lỡ mồm lỡ miệng thì mang họa vào thân. Chờ khi nào thuộc lòng những chữ "nên tránh" gồm trọng húy và khinh húy, hoặc những chữ cấm nói như: chết chóc, đui què, máu me, phong hủi... vì những từ này mang điềm gỡ hoặc thô tục, lúc đó họ mới được phép... hết câm.
Sao gọi "ngựa Thượng Tứ"?
Ở Huế, khi nói về một người đàn bà hung dữ, có lời ăn tiếng nói thô lỗ, cử chi vùng vằng, người ta thường ví kẻ đó như Con Ngựa Thượng Tứ. Thượng là thuộc về Vua. Tứ là xe bốn bánh do ngựa kéo.
Gần cửa Đông Nam, một trong tám cửa của kinh thành Huế, xưa có khu vườn nuôi ngựa để kéo xe cho Vua. Những con ngựa này thường là dữ dằn phải do đội phi kỵ vệ và khinh kỵ vệ nuôi dạy, huấn luyện cho ngựa trở nên thuần. Người đàn bà dữ dằn lúc nào cũng lồng lên như ngựa chứng thì có gọi là "Ngựa Thượng Tứ" cũng đúng thôi. Cửa Đông Nam vì ở gần khu Thượng Tứ nên cũng được dân Huế gọi luôn là cửa Thượng Tứ không ai còn để ý đến hai chữ Đông Nam ghi trên vọng lâu nữa.
Chợ Đông Ba hay Đông Hoa?
Chợ Đông Ba, ngôi chợ lớn nhất trong các chợ ở Huế, vốn có tên thật là chợ Đông Hoa - cửa Đông Ba xưa cũng gọi là cửa Đông Hoa. Đây là một cái tên do ta bắt chước Trung Quốc. Thời Tần Thủy Hoàng bên Tàu cũng có một cái cửa gọi là cửa Đông Hoa. Chỉ vì tránh phạm húy mà người Huế phải gọi trệch ra là Đông Ba vì tên của bà Hồ Thị Hoa, vợ Vua Minh Mạng, được phong Tá Thiên Nhân Hoàng Hậu, gốc người Biên Hòa (Nam Kỳ).
Nếu ta nghe người Huế xưa gọi "ánh sáng" là "yến sáng" thì cũng đừng ngạc nhiên vì sợ phạm húy bởi "Ánh" là tên Vua Gia Long nên phải đổi ra thành "yến" .
Lão thi ông Ưng Bình Thúc Giạ Thị làm thơ cũng đổi chữ "cành phồn hoa" ra "cành phiền ba", bởi hơn ai hết, ông phải kỵ húy vì ông là người trong Hoàng Tộc.
Bắt trẻ con là cá, trấu làm tép?
Nhân vùng biển Thuận An sắp trở thành thị xã, xin kể vài tục lạ của ngư dân vùng biển này có từ thời xa xưa. Dân chài lưới ở Thuận An rất sùng bái nữ thần Thái Dương vì vị thần này đã nhiều phen giúp họ làm ăn phát đạt. Họ lập miếu thờ và mỗi năm, cứ đến ngày 23 tháng chạp âm lịch lại tổ chức lễ hội.
Họ thường nhắc câu: "20 làm tốt, 21 xâu tai, 22 đeo hoa, 23 tế Nhân". Xâu tai, đeo hoa là làm đẹp cho tượng thần và Nhân là tên của nữ thần Thái Dương.
Ngư dân ở đây đã lấy lưới vây trên bến cạn, bắt một số trẻ em trần truồng cho vào trong lưới giả làm cá vừa lưới được, xong nhiều người đem rổ cá đến mua. Cũng diễn ra cảnh chọn cá và kỳ kèo, trả giá, xong thì đem bọn trẻ sang bờ bên kia thả cho chúng chạy.
Họ cũng dùng trấu giả làm tép biển và lấy vợt xúc lên, giả như đang thu hoạch. Tiếp sau đó, có những trò vui như đua trải, nhậu nhẹt và hát bội cho dân làng xem"
Tô Kiều Ngân
(Trích Hương Giang)
Nguồn hoài niệm miền nam một thời
PHIẾM : HUẾ CỦA TUI!
Sau hơn 40 năm sống chung nhà với O bây giờ tôi đã thành dân Huế lai! Gọi là “lai” vì trong các món ăn Huế do cái lưởi của dân Nam kỳ tôi dần dần hoà hợp hoà giải để cái chất Huế để có chút chút chất Nam bộ.
Chẳng hạn như ăn món bún bò lần đầu cay xé lưỡi vừa ăn vừa hít hà, trời mùa đông ăn xong tô bún toát mồ hôi nóng như mùa hè. O nêm có hơi nhiều ruốc nên người mới ăn món Huế như tôi hơi dị ứng cái lỗ mũi.
Vậy là lần sau tôi chủ động làm công tác nêm nếm. Ruốc quậy riêng trong tô nước nóng cho bay bớt mùi, thêm tí đường cát vàng cho nước lèo dịu lại. Ớt phi dầu bớt lại vừa đủ cho có một lớp váng mỏng bên trên, không chú ý đến chất cay mà nhấn ở nét mỹ thuật của tô bún. Vậy là có một tô bún bò Huế lai!
Câu chuyện tình O Huế bắt đầu vào mùa hè 1977 khi tôi đi công tác ra Huế. Cái cảm tưởng đầu tiên khi tản bộ trên con đường bên kia bờ sông Hương nơi có trường Đồng Khánh và Quốc Học thật là tuyệt vời. Nầy nhé, hoa Phượng rực rỡ nở dọc theo đường, tiếng ve sầu nghe như bản tình ca xứ Huế rồi đàn bướm trắng tan trường (Đồng Khánh). Một bức tranh tuyệt đẹp chưa kể dòng sông Hương đang lững lờ trôi…..
...sau chuyến đi Huế mới khám phá ra là cái văn phòng nơi đã gởi tôi đi công tác ngoài Huế có…mấy O lấp ló ở cổng sân nhà. Thiên thời, địa lợi, nhân hoà…vậy là quân ta hai mủi giáp công….
Chiến thắng đem về cho tôi một O Huế cũng có cái tên của loài hoa mà tôi đã chiêm ngưỡng trong lần đi tản bộ ngày nào dọc bờ sông Hương. Bây giờ tôi mới tin ở cái chữ Duyên!
Tiến trình chinh phục O Huế.
Ai cũng biết con đường dẫn đến trái tim là đi qua bao tử. Áp dụng chiến thuật nầy bắt đầu với những lần đi ăn ở Ngự Bình một quán ăn thuần Huế cuối đường Hiền Vương gần Casino Đa kao. Tôi cũng ít có dịp thưởng thức món Huế nên một công đôi chuyện thám hiểm vùng đất ẩm thực Huế. Nơi đây có mấy món ngon của Huế như bánh bèo chén, bánh ướt thịt nướng và đương nhiên cơm Hến. Cái món tương đậu phộng ăn với bánh ướt phải nói là tuyệt cú mèo! Cứ từng bước như vậy quân ta tiến dần tới mục tiêu : trái tim!
Nói dzậy chớ cũng phải qua rất nhiều công đoạn như : những bức thư tình chưa gởi, ca ngợi Huế đa tình, rồi hồn vương xứ Huế…
Nhận được thơ O, coi như quân ta đã đến mục tiêu. Rồi tin chiến thắng đưa về bằng cái đám hỏi giữa hai gia đình.
Bây giờ ta đã là chủ nhân của…
CỒN HẾN.
Đó là một hòn đảo nhỏ trên sông Hương, dân địa phương khi đến mùa hến hay ra đây xúc.
Một đặc sản của Huế với món cơm hến.
Nếu ai có hỏi tôi thích Huế ở chỗ nào xin được trả lời đó là : CỒN HẾN!
Còn cồn Hến... ở đâu? đố ai biết được!
Bây giờ mà trả lời thì không chừng có dĩa bay, chén bay trong nhà!
Nếu có phải viết về cồn hến thì ngàn trang cũng không đủ! Nên chỉ tóm gọn ở mấy câu sau :
Mơ màng Cồn Hến giữa sông Hương.
Ta yêu O Huế mấy ngàn thương?
Hương giang Cồn Hến nơi mô nhỉ?
Yêu O yêu luôn cả cái…Cồn.
Friday, 23 September 2022
Chuyện Huế ít người biết.
Người Huế mà không được nói tiếng Huế Đó là lệnh cấm đối với các thiếu nữ được tuyển vào làm cung phi trong Nội, dưới triều Nguyễn. Họ không được nói rặt giọng Huế mà phải nói y như giọng dân Phường Đúc.
Phường Đúc là khu quần cư, tập trung các người thợ đúc đồng tài giỏi do triều đình tuyển từ Bắc vào hoặc trong Nam ra. Họ là tác giả của chuông chùa Linh Mụ, Cửu Vị Thần Công Và Cửu Đỉnh ở Huế. Những sản phẩm của họ dãi nắng, dầm mưa, trải bao tuế nguyệt đến nay vẫn chẳng chút nứt rạn hay có tì vết gì. Họ mang theo gia đình ra làm ăn sinh sống lâu ngày ở Huế nên hòa đồng ngôn ngữ với dân địa phương.
Dân Phường Đúc không nói rặt một giọng nào mà pha trộn nửa nọ, nửa kia. Các cung phi trong Nội phải bắt chước giọng Phường Đúc, nghĩa là vừa nói nửa Trung, nửa Nam ai không tuân thì bị tội. Tại sao lại có hiện tượng này? Kể cũng khó hiểu. Và lệnh này có từ đời nào?
Có người đưa ra giả thuyết: có lẽ chuyện này xuất phát từ thời bà Từ Dũ vốn là một phụ nữ Nam Kỳ, con gái của Đại Thần Phạm Đăng Hưng, người Gia Định. Ba được phong Nghi Thiên Chương Hoàng Hậu, lấy Vua Thiệu Trị, đứng đầu bộ phận "hậu cần" của Hoàng Đế, có nhiều quyền uy đối với các cung phi khắp ba cung, sáu viện. Có lẽ bà muốn những người dưới tay mình phải dùng giọng nói pha âm sắc Nam Kỳ để trao đổi cho dễ hiểu chăng, bởi vì người Tân Hòa - Gia Định nghe giọng Huế "đặc sệt" có thể không hiểu mô tê chi cả.
Cũng có thể lệ này xuất hiện sớm hơn, từ thời Minh Mạng vì ông này nổi tiếng là ông Vua có nhiều vợ và phần lớn là người miền Nam.
Về giọng nói Phường Đúc thì cho đến nay, thời gian qua quá lâu, trải nhiều thế hệ, giọng nửa Nam nửa Trung đã trở thành Huế rặt.
Ngoài ra còn có một hiện tượng buồn cười khác là các người làm việc trong nội dù là cung phi, lão tỳ, thị tỳ, nô nhân hay nê nhân, lúc mới vào đều phải tự nguyện "câm" đi trong thời gian sáu tháng. Suốt thời gian này, họ không nói gì cả hoặc nói rất ít. Không nói vì sợ phạm húy, lỡ mồm lỡ miệng thì mang họa vào thân. Chờ khi nào thuộc lòng những chữ "nên tránh" gồm trọng húy và khinh húy, hoặc những chữ cấm nói như: chết chóc, đui què, máu me, phong hủi... vì những từ này mang điềm gỡ hoặc thô tục, lúc đó họ mới được phép... hết câm.
Sao gọi "ngựa Thượng Tứ"?
Ở Huế, khi nói về một người đàn bà hung dữ, có lời ăn tiếng nói thô lỗ, cử chi vùng vằng, người ta thường ví kẻ đó như Con Ngựa Thượng Tứ. Thượng là thuộc về Vua. Tứ là xe bốn bánh do ngựa kéo.
Gần cửa Đông Nam, một trong tám cửa của kinh thành Huế, xưa có khu vườn nuôi ngựa để kéo xe cho Vua. Những con ngựa này thường là dữ dằn phải do đội phi kỵ vệ và khinh kỵ vệ nuôi dạy, huấn luyện cho ngựa trở nên thuần. Người đàn bà dữ dằn lúc nào cũng lồng lên như ngựa chứng thì có gọi là "Ngựa Thượng Tứ" cũng đúng thôi. Cửa Đông Nam vì ở gần khu Thượng Tứ nên cũng được dân Huế gọi luôn là cửa Thượng Tứ không ai còn để ý đến hai chữ Đông Nam ghi trên vọng lâu nữa.
Chợ Đông Ba hay Đông Hoa?
Chợ Đông Ba, ngôi chợ lớn nhất trong các chợ ở Huế, vốn có tên thật là chợ Đông Hoa - cửa Đông Ba xưa cũng gọi là cửa Đông Hoa. Đây là một cái tên do ta bắt chước Trung Quốc. Thời Tần Thủy Hoàng bên Tàu cũng có một cái cửa gọi là cửa Đông Hoa. Chỉ vì tránh phạm húy mà người Huế phải gọi trệch ra là Đông Ba vì tên của bà Hồ Thị Hoa, vợ Vua Minh Mạng, được phong Tá Thiên Nhân Hoàng Hậu, gốc người Biên Hòa (Nam Kỳ).
Nếu ta nghe người Huế xưa gọi "ánh sáng" là "yến sáng" thì cũng đừng ngạc nhiên vì sợ phạm húy bởi "Ánh" là tên Vua Gia Long nên phải đổi ra thành "yến" .
Lão thi ông Ưng Bình Thúc Giạ Thị làm thơ cũng đổi chữ "cành phồn hoa" ra "cành phiền ba", bởi hơn ai hết, ông phải kỵ húy vì ông là người trong Hoàng Tộc.
Bắt trẻ con là cá, trấu làm tép?
Nhân vùng biển Thuận An sắp trở thành thị xã, xin kể vài tục lạ của ngư dân vùng biển này có từ thời xa xưa. Dân chài lưới ở Thuận An rất sùng bái nữ thần Thái Dương vì vị thần này đã nhiều phen giúp họ làm ăn phát đạt. Họ lập miếu thờ và mỗi năm, cứ đến ngày 23 tháng chạp âm lịch lại tổ chức lễ hội.
Họ thường nhắc câu: "20 làm tốt, 21 xâu tai, 22 đeo hoa, 23 tế Nhân". Xâu tai, đeo hoa là làm đẹp cho tượng thần và Nhân là tên của nữ thần Thái Dương.
Ngư dân ở đây đã lấy lưới vây trên bến cạn, bắt một số trẻ em trần truồng cho vào trong lưới giả làm cá vừa lưới được, xong nhiều người đem rổ cá đến mua. Cũng diễn ra cảnh chọn cá và kỳ kèo, trả giá, xong thì đem bọn trẻ sang bờ bên kia thả cho chúng chạy.
Họ cũng dùng trấu giả làm tép biển và lấy vợt xúc lên, giả như đang thu hoạch. Tiếp sau đó, có những trò vui như đua trải, nhậu nhẹt và hát bội cho dân làng xem"
Tô Kiều Ngân
(Trích Hương Giang)
Nguồn hoài niệm miền nam một thời
Wednesday, 1 June 2022
HUẾ VẪN CHỜ AI ... SẼ CÓ MỘT NGÀY NGƯỜI XA LẠI VỀ./-TCLãnh
Friday, 5 March 2021

Cây cầu thơ mộng của xứ Huế (Ảnh ST)
Sông Hương, Núi Ngự từ lâu đã gắn liền với cuộc sống người dân xứ Huế, những cảnh đẹp này còn đi vào thơ ca, nhạc họa của những người yêu mến mảnh đất này. Nhưng bên cạnh đó, thì cầu Tràng Tiền cũng là một biểu tượng mang tính đặc trưng không kém ở Huế. Người dân xứ Huế thường có câu: “Tràng Tiền là chiếc cầu định mệnh của Huế. Tới Huế mà không lên cầu thì chưa coi là tới Huế, đó mới chỉ là tạt qua Huế mà thôi…” Quả thật, đối với người dân nơi đây thì Huế dù có sở hữu rất nhiều công trình kiến trúc độc đáo, hay danh lam thắng cảnh nổi tiếng được xếp hạng thế giới thì cây cầu này vẫn luôn là niềm tự hào, một biểu tượng tiêu biểu.

Cầu Tràng Tiền từ trên cao (Ảnh ST)
Với vẻ đẹp bình dị, mềm mại, nhẹ nhàng, … đúng như tính cách của những người dân xứ Huế, cầu Tràng Tiền vì thế luôn tạo được dấu ấn sâu sắc trong lòng mỗi người dân hay du khách tìm tới tham quan nơi này. Hình ảnh cầu Tràng Tiền cổ kính trầm mặc soi bóng trên dòng Hương Giang đã khiến không ít người phải mê mẩn khi đứng trước vẻ đẹp đó.

Hình ảnh những cô gái thướt tha trong tà áo dài (Ảnh ST)
Ta có thể nhận thấy ngay cầu Tràng Tiền cũng có rất nhiều điểm tương đồng với cây cầu Long Biên tại Hà Nội. Cả hai đều bắc qua những dòng sông lớn, đều được xây dựng sát kinh thành, và đều là những cây cầu mang tính huyết mạch của thành phố. Vào khoảng cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, cầu Tràng Tiền được khởi công xây dựng, ở thời điểm đó thì đây là cây cầu đầu tiên có mặt ở khu vực Đông Dương. Với thiết kế, kỹ thuật cũng như vật liệu đều tới từ phương Tây, cây cầu thép này sở hữu chiều dài là 402,60 mét, với tổng là 6 nhịp dầm thép hình vành, mỗi nhịp dài 67 mét, khổ cầu rộng 6 mét, với kiến trúc Gô tích, bắc ngang qua đôi bờ sông Hương.

Cầu Tràng Tiền – những hình ảnh xưa cũ (Ảnh ST)
Một đầu cầu là phường Phú Hội đầu bên kia là phường Phú Hòa. Hình ảnh cây cầu đã phai màu vì thời gian in bóng xuống dòng sông, những cánh phượng đỏ rực đôi bờ sông Hương, tà áo dài của người con gái xứ Huế thướt tha trong gió, hay khung cảnh lung linh sắc màu của cầu Tràng Tiền về đêm, … sẽ luôn là những hình ảnh đẹp, thơ mộng, đi sâu vào lòng người.

Hình ảnh cây cầu lung linh khi về đêm (Ảnh ST)
Với niên đại hơn 100 năm, cây cầu này đã đi qua rất nhiều giai đoạn thăng trầm cùng mảnh đất nơi đây. Ở thời điểm cây cầu mới được hoàn thiện và đưa vào hoạt động, nó như một minh chứng khiến chính quyền thực dân không khỏi hãnh diện tự hào về kỹ thuật xây dựng tân tiến hiện đại của Phương Tây, đến mức Viên toàn quyền Đông Dương lúc đó còn tự tin tuyên bố: “Khi nào cầu sập thì Pháp sẽ trả độc lập cho nước Nam”. Nhưng thật bất ngờ, chỉ sau 5 năm đi vào hoạt động cây cầu này đã bị xô đổ bởi một trận bão lớn năm 1904. Cầu Tràng Tiền có tổng cộng 6 nhịp thì có 4 nhịp bị đổ sập xuống lòng sông. Mãi tới năm 1906 nó mới được sửa chữa, trùng tu. Thay vì làm bằng gỗ, nay mặt cầu đã được đổ bê tông vững chắc.

Toàn cảnh cây cầu (Ảnh ST)
Dưới thời vua Bảo Đại, năm 1937, cầu Tràng Tiền Huế tiếp tục được tu sửa và có những thay đổi đáng kể. Lòng cầu được mở rộng với hai bên là lối đi cho xe đạp và người đi bộ. Ở vị trí chính giữa có phần ban công được làm phình ra, mục đích làm nơi tránh nhau, nghỉ chân, hay ngắm cảnh cho mọi người. Đến năm 1946, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp hai đầu cầu đã bị tàn phá nặng nề, sau đó được sửa tạm để để duy trì giao thông của hai đầu sông Hương. Năm 1953 thì cầu chính thức được sửa lại với nguyên trạng như cũ.

Cầu Tràng Tiền ngày nay (Ảnh ST)
Nhưng đến năm 1968, thời điểm điểm diễn ra cuộc tổng tiến công Xuân Mậu Thân, cầu Tràng Tiền Huế lại một lần nữa đổ sập, để không làm ảnh hưởng đến việc đi lại của người dân, một chiếc cầu phao thay thế đã được dựng lên, sau đó mới tiếp tục đi vào tu sửa cầu. Sau giải phóng, năm 1991 cầu Tràng Tiền được sửa chữa, trùng tu một lần nữa. Lần trùng tu này kéo dài trong 5 năm, do Công ty Cầu 1 Thăng Long đảm nhiệm. Và lần này cây cầu có khá nhiều thay đổi quan trọng. Hai phần ban công được loại bỏ, lối thông xe cũng bị thu hẹp do ghép thêm hai ống nẹp ở hai bên lan can. Trước cầu được sơn màu ghi xám nhưng nay chuyển sang sơn màu nhũ bạc.

Hình ảnh cầu Tràng Tiền (Ảnh ST)
Cũng trong lần trùng tu này cây cầu được chính thức đổi tên thành cầu Tràng Tiền, thay vì cầu Trường Tiền như trước. Năm 2002 diễn ra Festival Huế, cầu Tràng Tiền được lắp đặt thêm hệ thống chiếu sáng có thể thay đổi màu sắc càng khiến cây cầu này trở nên nổi bật hơn.
Đến nay, cầu Tràng Tiền không chỉ là tuyến giao thông huyết mạch nối liền đôi bờ sông Hương mà nó còn trở thành một trong những biểu tượng, điểm đến hấp dẫn du khách. Vậy nên, bạn đừng bỏ lỡ cơ hội ghé thăm cây cầu nổi tiếng này khi đi du lịch tại Huế./-