Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label PhanVanSong. Show all posts
Showing posts with label PhanVanSong. Show all posts

Friday, 2 August 2019

Mùa Hè nói dóc chuyện Cà Phê: Cà Phê
02/08/2019
Trời hồng hồng sáng trong trong. 
Ngàn phượng rung nắng ngoài song. 
Cành mềm mềm gió ru êm. 
Lọc mầu mây bích ngọc qua mầu duyên Hè về - Hùng Lân (1922-1986) 

Hè về ! Ở cái xứ Pháp của thằng tôi đang ở đậu, thiên hạ nói đến Hè là chỉ nói đến hai tháng: tháng 7 và tháng 8 thôi! Phải, một trong những cái quyền của Con Người, cái Nhơn quyền đòi hỏi qua các cuộc đấu tranh đòi các quyền công dân và các quyền công nhơn, ... là được quyền nghỉ ngơi. Đấu tranh thành công nhứt của của chánh quyền xã hội 1936 Pháp là được nghỉ Hè ăn lương đầy đủ. Thuở ấy 2 tuần, ngày nay 5 tuần và làm việc chỉ 35 giờ một tuần …  Hai tháng Hè, vì thời tiết nóng nực, nên phải cho thợ thuyền công nhơn nghỉ ăn lương đầy đủ - phải vacances,phải nghỉ Hè : 2 tháng cho các học sanh, sanh viên, - một cách bán tiếp các thầy giáo cũng 2 tháng luôn ! Dở lắm cũng 2 tuần cho các công nhơn (ba tuần còn lại để dành cho Mùa Đông hai tuần, và một tuần lai rai )… các dịch vụ cũng bắt chước theo luôn ! ...  tiệm bánh mì đóng cửa – bánh mì là cần thiết, mà cũng vậy ( Việt Nam ta mua gạo, mỗi ngày nấu cơm, người Pháp, mỗi ngày phải đi mua bánh mì, bánh mì baguette không ai trữ cả, chỉ trữ bánh mì Mỹ, mềm, để khi ăn thì nướng thôi và thường dùng để ăn sáng) Các tiệm tạp hóa  nhỏ cũng đóng cửa (tôi thích đi tiệm tạp hóa gần nhà hơn là lái xe ra siêu thị, chật chội ồn ào) … Hè về dân chúng cả xứ Pháp, cả âu châu thoải mái rời nhà đi nghỉ Hè … dắt nhau xuống biển, lên núi, về đồng quê, hay đi du lịch … Mà lạ lùng thay, ở Pháp, hể nói đi du lịch là phải đi thăm xứ lạ … nghĩa là ngoài xứ mình đang ở, chứ đi xuống biển hay đi lên núi, viếng đồng quê lái xe có khi cả 6/7 giờ không được gọi là khách du lịch - touriste mà là estivant – dân đi nghỉ hè (estivant do chữ été - hè) ! 
Mà các xứ lạ ở âu châu, gần gần giống nhau cả … cũng cây, cũng cỏ, cũng hồ nước xanh, danh lam đâu đâu cũng giống nhau, vật lạ đâu đâu cũng giống nhau… cá nhơn thằng tôi, có cái may mắn, chúa thương tuổi trẻ hay tuổi trung hay tuổi gần già và nay tuổi già, đều phải lang bạt giang hồ đi kiếm ăn, nên đi cùng cả xứ Âu Tây, từ Tây ba Nha – Ý đại Lợi cuối Nam Âu Châu đến xứ Scotland miền Bắc Âu châu, rồi Phi Châu, Trung Đông, hai ba xứ… Mỹ châu, Úc châu thì bà con bạn bè kéo gọi qua thăm viếng … nên ngày nay tuổi già, thằng tui, hơi ngại đi xa, du lịch … 
Vẫn biết đi máy bay một cái vù là xong, một giờ bay  vượt không gian bằng một ngày lái xe, nhưng tại sao các thủ tục máy bay quá rườm rà ? Tại sao các phi trường sao quá lớn ? quá rộng ? Tại sao những cái valises, xách tay càng ngày càng quá nặng ?… Vẫn biết có xe đẩy, có xe lăn … có người phục vụ … Nhưng còn nước còn tát, ngồi xe cho người phục vụ, sao coi « kỳ quá »… xe đẩy, xe lăn ngày nay, rồi ngày mai ? Sẽ sắp tới xe hòm, 6 ngựa kéo, sáu người khiên … Thằng tôi tiếc còn quá nghèo, không có máy bay riêng, không có có người xách giỏ, xách valises dùm mình … nên quá sợ du lịch ! Ngày nay, còn thích tự lái xe tà tà đây đó. Nhà lên Paris người ta lái xe 3 tiếng rưởi, 4 tiếng, tôi lái đến 6 tiếng – cứ 1 giờ tôi nghỉ 15 phút, có khi tôi dừng lại ngủ trưa nữa - siesta ! Thôi hỏng nói cái tôi nữa. Có lẽ vì tôi bực mình với cái không khí lúc nào cũng gấp gáp của thế hệ ngày nay … ! 
Mấy năm gần đây, hè ở Pháp từ nóng nực nay vọt đến nóng bức, nóng đến chó « phải ngáp » « canicule » ! ( từ canicule của Pháp do từ canicula của Ý là chó con (canis của la tinh). Nhưng đó cũng là tên bình dân của tinh cầu Sirius, ngôi sao sáng nhứt củachùm sao Đại Cẩu – la constellation du Grand Chien. Sao Siriusmọc và lặn cùng Mặt Trời vào lúc trời nóng nhứt từ 22 tháng 7 đến 22 tháng 8, do đó các nhà khoa học dùng từ canicula để gọi những ngày nóng nhứt (thằng tôi PVS xin dịch thoáng thành « chó ngáp » ! Vì khi chó bị nóng qua, chó hả miệng, thè lưỡi để kiếm hơi gió !) 
Nói đến trời nóng, phải nói đến thức uống giải khát… Một trong những thức uống thường trực hằng ngày của thằng tôi là cà phê !Cà phê, tôi uống suốt ngày, tôi pha một bình cở trên một lít, sáng pha tối hết, sáng sau pha bình mới ! Tôi không uống trà được, uống trà làm tôi không đã khát, … nếu tối, mà lỡ uống trà thì tôi mất ngủ, trái lại cà phê bửa tối làm tiêu hóa ngủ ngon… ăn cơm tối xong, tôi thường uống một tách expresso cho dễ tiêu hóa… 
Tuần nay, cũng trong tờ tuần báo Obs quen thuộc, có bài viết về gốc gác Cà phê, xin phỏng dịch và mắm muối việt hóa thêm với lời bàn Mao tôn Cương, gọi là chia sẻ cùng quý bà con thân hữu một câu chuyện dzui để tránh cái nóng « chó ngáp » của  Mùa Hè năm nay !

A/ Cà phê : Từ thức uống đến quán Café - Cafetteria

Cà phê gốc Thổ Nhĩ Kỳ ?

  1669 ngày 04, tháng tám, cách đây chỉ thiếu hai ngày nữa là đúng 350 năm, Soliman Aga,   - người mà theo truyền thuyết Pháp, là nhơn vật đã « nhập cảng » cà phê vào xứ Pháp -         rời tàu đặt chơn xuống cảng Toulon, Vương quốc Pháp. Soliman Aga, đến Pháp với nhiệm vụ là sứ thần của ông Hoàng Mehmed IV của Thổ Nhĩ Kỳ. Thật vậy, Soliman Aga đến Pháp để trao một bức thư để giải tỏa một hiểu lầm giữa Pháp và Thổ. Thời ấy, dân Pháp đang bị mê hoặc bởi những mầu sắc và  những phong tục huyền bí của Phương Đông đầy quyến rũ … Trên đường từ Toulon lên Paris, dân chúng đầy tò mò, mê hình lạ, cảnh lạ, người lạ, tụ tập suốt đường hành trình của phái đoàn Thổ Nhĩ Kỳ. suốt dọc bên đường, qua những thành phố lớn như Marseille, Aix, Lyon … dân chúng sắp hàng dài dài, ngắm xem phái đoàn ngoại giao đến từ Trung Đông! Hết ngắm nhìn, lại trầm trồ khen ngợi, nào xiêm y mầu sắc rực rỡ, nào áo mảo lạ, nào khăn vấn đầu –turban lạ mắtnào áo choàng bằng hàng satin rực rỡ … nào những con chiến mã sặc sở, những ngựa kéo những cổ xe trang hoàng khác lạ... « les chevaux harnachés et caparaçonnés à la mode de leur Pays » ( Les Mémoires du chevalier d’Arvieux » éd de 1735 – Hồi ký của hiệp sĩ d’Arvieux xb năm 1735). Một thân hình vạm vỡ, lủng lẳng bên hông một thanh kiếm cong, dáng người hùng dũng, Soliman Aga cởi ngựa đi đầu đoàn. Với một khuôn mặt rạn nắng đen, với râu hàm rậm, dài nhưng chải chuốt, anh chàng đẹp trai, khoảng tuổi 50 nầy, đầy hấp dẫn, tạo hào hứng cho dân gian xứ Pháp… Ở mỗi nơi chàng và đoàn tùy tùng dừng chơn hay tạm nghỉ là những nơi tấp nập đầy người đến viếng thăm, và cuốn Hồi ký của hiệp sĩ d’Arvieux tả rõ,   người viếng gồm cả hai phái cả nam lẫn nữ – « des deux sexes ». Mọi mọi cử chỉ của phái đoàn, đều được mọi người theo dõi « On le suivait à la promenade, on le voyait manger, prier Dieu – Người ta tò mò đi theo, xem khi họ đi dạo, khi họ ăn uống, cả khi họ cầu nguyện Chúa của họ », chàng hiệp sĩ d’Arvieux tiếp tục viết phóng sự, tỉ mỉ kể chuyện.

Lai lịch thật sự của Cà phê: 

   - Thức uống chàng Soliman Aga mang đến từ Contantinople ? – thủ phủ bấy giờ của xứ Thổ  – tên mới ngày nay là Istanbul. 
   - Theo nhà đông phương học - l’orientaliste Jean Leclant, trích một nghiên cứu của Lefèvre d’Ormesson, năm 1951, cà phê được trình bày trong những tách nhỏ bằng sứ nhựt bổn, do những chú hầu bàn nô lệ đẹp trai, trẻ tuổi, trang diện trong những bộ quần áo đẹp của xứ Thổ – le café était servi dans des tasses en porcelaine fabriquées au Japon par des jeunes et beaux esclaves habillés d’un riche costume turc ». « Riêng đối với phái nữ, để làm bớt đắng, Soliman Aga, « một cách nhã nhặn, đầy ga lăng, đề nghị thêm đường – pousse la galanterie jusqu’à offir du sucre » !
    - Và từ đó nảy ra truyền thuyết, và từ đó biến thành huyền thoại, với ít nhiều mắm muối - xin lỗi, với ít nhiều turban, ít nhiều  áo choàng satin, ít nhiều trang sức, khi thì lọ bình bằng sứ Tàu, khi thì tách chén bằng sứ Nhựt … và cứ như thế tiếp tục được truyền tụng đến ngày nay. 
   - Do đó, câu chuyện về Soliman, vẫn tiếp tục được thần thoại hóa, và công vụ ngoai giao của Soliman Aga hoàn toàn thành công. Chàng mang toàn bộ đồ nghề để quảng bá cà phê xứ Thổ của mình. Đặc  biệt là giàn rang cà phê – le nécessaire pour latorréfaction… Và, nói tóm lại, « nghệ thuật chế biến và pha  cà phê là một vũ khí ngoại giao của chàng » !
    - Thế nhưng, nếu ngày nay cái huyền thoại cho rằng chính chàng Soliman Aga đã giúp cho cà phê được phổ biến ở Triều đình Pháp lúc bấy giờ, vẫn còn người tin. Thì sự thật là Cà Phê đã có mặt ở Pháp trước đó một thời gian rồi !  Nhà sử học và địa dư học Christian Grataloup nhắc ta như vậy ! Và nhắc ta cũng chớ quên rằng Vua Louis IV (trị vì 1643 -1715) không chờ đến Soliman Aga nhà ta ( 04/08/1669) để thưởng thức cà phê đâu nhé … ? «  Nhà Vua đã biết uống cà phê trước năm 1669 rồi ! Sổ sách sở thu mua hàng hóa của sở lương thực hoàng gia đã chứng minh việc ấy ! Nhà Vua và gia đình thường dùng cà phê trước khi đi ngủ – Il en buvait bien avant 1669, les documents liés aux approvisionnements royaux en attestent. Il se le faisait servir dans ses petits appartements avant de se coucher, en famille et en privé » Mireille Jacotin, quản thủ Bảo tàng Viện Muceum dẫn chứng. Theo Bà, Nhà Vua ( xin nhắc lại, Louis XIV sanh 1638, trị vì 1643-1715) hay dùng cà phê khi đi xem những buổi diễn xuất hay trình diễn những chuyện đông phương rất thịnh hành thời ấy… thứ nhứt những buổi trình làng – ra mắt quảng cáo hàng mới nhập từ đông phương. 

Buổi ban đầu bỡ ngỡ : 

   Vào những năm 1604, mọi hàng hóa, mọi thực phẩm đến từ Đông Phương đếu do cái hải cảng âu châu đầu tiên chuyên môn nhập cảng của lạ, và kể cả cà phê là Venise (Ý Đại Lợi). Tiếp theo đó là Marseille, « cửa ngõ của Đông phương – La porte de l’Orient » (của Pháp). Năm ấy là 1644, 25 năm trước thời Soliman Aga (1669). 
    - Cà phê đã được dùng từ cuối thế kỷ thứ XV tại hai đế quốc Ba tư (Iran ngày nay) và Ottoman (Thổ Nhĩ Kỳ) rồi. Những kiện hàng cà phê, và tất cả đồ nghề, cách rang, pha chế cà phê đầu tiên đã do nhà xuất nhập cảng Pierre de la Roque cho nhập bến Marseille từ Constantinople rồi ! Nhà xuất nhập cảng mở một tiệm (chưng bày) nhỏ nhỏ, rang pha chế cà phề cho vài bạn bè thưởng thức  «  Cái căn phòng nho nhỏ trang hoàng kiểu Thổ nhĩ kỳ, là cả một sự vật tạo sự hiếu kỳ, và những người được mời đến thưởng thức chất uống kỳ lạ nầy thường là những người bạn, từng đã du lịch đó đây, kiểu ông chủ tiệm la Roque, gần gủi thân thuộc với phong tục Đông Phương - Son petit cabinet à la turque, passait pour une vraie curiosité et le public invité à goûter le breuvage était composé de voyageurs amis comme la Roque, accoutumés aux usages du Levant » nhà Đông phương học Jean Leclant thuật lại. 
    - Thật vậy, thuở ban đầu của cà phê, chất uống thịnh hành ngày nay, đầy bỡ ngỡ, do dự … Vài tay giang hồ đi lại quan biết với Đông phương, kéo theo vài bạn bè tò mò, tìm của lạ … vài nhóm thủy thủ các thuyền buôn, các thuyền giang hồ, vài tay lái buôn, vài tay thích của lạ, mạo hiểm, thưởng thức … thử cho biết …
- Sau Marseille, đến Paris, môt nhà buôn khác, năm 1657, Jean de Thévenot, nhập từ Ai cập  một kiện hàng hột cà phê, để làm quà bà con mình, dể bà con mình thưởng thức chất uống lạ !             Khác với trà, một thức uống Đông Phương khác được nhập cảng vào Âu Châu rất sớm từ Tàu, và đã được dân La mã ghiền gẩm rồi … thiên hạ thời ấy không biết gì về cà phê cả !
    - Thiên hạ ngày nay,  vẫn cho rằng gốc gác cà phê là ở Yémen, bán đảo À Rập. Lầm to ! Cà phê thật sự đến từ Ethiopie. Thế nhưng, sau khi đã đem các hột giống mọc hoang từ Ethiopie về, vào thế kỷ thứ XII, các hột nầy được thuần hóa, được rang, được giả nát thành bột. Đầu tiên là các thầy sư soufis ( Soufisme một nhánh của Đạo Hồi – dùng lên đồng để hành đạo) dùng cà phê để « phê » nhanh – entrée en transe  – lên đồng nhanh (PVS phỏng dịch)…. Bắt đầu thế kỷ XIV, cà phê bắt đầu theo những giòng người đi hành hương la Mecque … và bắt đầu là thức uống thịnh hành của dân Hồi Giáo. Tiếng a rập gọi cà phê là qahwah !
Qahwah  rất thịnh hành với dân Trung Đông từ đấy. 
Từ âm qahwah, của a rập ban đầu biến thành caouat, kawa, tiếng lóng của dân Pháp, rồi biến thành  kaouê, kawé rồi biến thành café, coffee, Kaffié, Kaffee - cà phê, … đi khắp thế giới !

Thức Uống khích thích thế Rượu :

   Istanbul, ngay năm 1554, hai chủ nhà hàng người Syriens mở một « quán cà phê » đầu tiên, nơi ấy, là nơi tụ tập, khách ngồi lâu, nhâm nhi ly cà phê, nói dóc, hút thuốc, chơi cờ… Thoạt đầu một tiệm, sau đó nhiều tiệm, các « quán cà phê » mở cửa suốt ngày, thay thế những nhà hàng, những tiệm ăn vặt, … Các tửu điếm ở xứ Hồi không có, vì Hồi Giáo cấm uống rượu … Sau Istanbul, phong trào « quán cà phê » lan tràn đến Cairo, Ai cập, rồi Tabriz, rồi Ispahan… chẳng chốc toàn các xứ Ả rập, xứ ảnh hưởng đạo Hồi ... Chỉ trong vòng chưa đầy một trăm năm, các tiệm cà phê mọc đầy đầt Trung Đông – En moins d’un siècle, le café s’était ainsi répandu dans tout le Moyen Orient » Alain Stella (Le Livre du Café-Flamarion – Viết về Càphê nhà sách Flammarion). 
   - Và cứ thế, từ thành công nầy đến thành công khác Cà phê lên như diều gặp gió. Thoạt đầu dân buôn xứ Venise nhập cảng, càng ngày càng nhiều Qahwah - Café - Caffé – Coffee – Kahwê - từ Trung Đông. Dân Trung Đông và Arabe phải đi tìm tận Moka (Hải cảng El Mukkha Yémen trên Hồng Hải)  và do đó cà phê càng cao giá khi đến Âu châu.
   -  Và tại sao phải nhập cảng ? Tại sao mình không trồng lấy ?  Âu châu thiếu chi thuộc địa ? Nhổ trộm cây làm giống ? Mua hột giống ? « ăn cắp » vài gốc, và hột giống thoạt đầu ở Moka, dân Hoà lan đem trồng thử ở đảo Java, Batavia, thuộc địa mình. (Indonesia ngày nay). Và thành công ! Cà phê Hòa lan vượt cà phê Moka … trên thị trường tiêu thụ !
   - Và từ đó, từ ăn cắp nầy đến ăn cắp khác, các hột giống, các cây giống,  các nhánh giống đem trồng thử khắp mọi nơi. Chẳng chốc Moka tiêu tùng, Hòa lan lên hàng số một. Rồi các nhánh, các cây, các hột giống của Hòa Lan cũng được đưa đi trồng mọi nơi !
   - Từ giống phát sanh từ xứ ả rạp arabica … « lang thang cắm dùi » khác nơi, từ xứ sa mạc cát nóng chạy qua trồng xứ nhiệt đới lại hạp phong thổ hơn, rồi lai giống thành giống robusta. … Thoạt đầu từ Indonesia của Hòa Lan nhập đất Pháp, vào đảo Réunion thuộc Pháp, từ Réunion chu du qua Việt Nam ( cũng thuộc Pháp lúc bấy giờ). Đây là giang sơn cafê phương Đông. Riêng về Phương Tây, Nam Mỹ. Thoạt đầu ca phê được Hòa Lan trồng ở Surinam thuộc Hòa Lan, một anh láng giềng người Pháp đẹp trai, ve vãn bà chủ đồn điền người Hòa Lan ăn cắp hột giống đem về Guyane thuộc Pháp trồng quanh vùng Cayenne ( huyền thoại El Gringo). Đầu thế kỷ 20, lại một chuyện tình khác, cũng một gringo khác, người Bồ Đào Nha ve được một cô chủ đồn điền, người Pháp ở Guyane, ăn cắp cây giống cà phê Cayenne, đem về Brazil trồng. Ngày nay Brazil đệ nhứt xuất cảng cà phê trên thế giới.

Kết luận :

Cà phê là ma túy ! Có người ghiền !  Có người mê ! Cà  phê mê hoặc lòng người ! Có người Phê với Cà Phê ! Quên sao cái thuở, mới lớn, thời sanh viên Sài gòn, … một chiều mưa gió lạnh, ngồi quán cóc ... chờ em, với một điếu Bastos, mơ màng ngồi ngắm những giọt cà phê phin rơi đều, trên đáy cái ly trong… Cà phê đen đậm, uống không đường, nhâm nhi vị đắng, cùng điếu Bastos xanh đậm đà … buổi chiều chạng vạng, ngoài đường trời mưa gió, trong quán một mình … ngồi chờ em ... nhưng em không đến ! Vì em, nói theo Tây,  nhưng ta dịch - là cho ta ăn thịt thỏ – M’a posé un lapin Em không đến thăm anh  trời mưa… Vị đắng Bastos hòa vị đắng ca phê tại một quán cóc. Nhớ đời, 60 năm sau còn nhớ ! Nhớ Sài gòn da diết ! Nhớ trời gió, mưa lạnh, nhớ điếu Bastos xanh, nhớ ly cà phê phin bây giờ không tìm được. Nhớ chờ một em ! Nhưng ai ? Nostalgie quand tu nous tient !

 B/ Cách pha cà phê , và uống cà phê: 

Cách Đông phương :
  Nếu ở Thổ Nhĩ  Kỳ thì nói Cà phê Thổ Nhĩ Kỳ gọi Cà phê Thổ – Café Turc
 và nếu qua Hy Lạp nên gọi là ca phê Hy Lạp Cà Phê Hy lạp. 
Cả hai đều là ca phê pha kiểu đông phương – orientale – PVS tạm dịch là cà phê luộc, hoặc cà phê nấu sôi. Cà phế vớ ở Sài gòn thuở xưa cũng nấu cái kiểu ấy.  Là cho cà phê vào nước và nấu sôi. Cà phê với các chú chệt Sài gòn Chợ lớn hồi xưa nhờ cái vớ hay hay cái vợt không để xác cà phê trộn vào nước. Còn Cà phê turc hay grec đều có xác cà phê trong cái tách.
  Trong một cái nồi nhỏ – tên là cezve, hay ibrik ( turc), hay briki (grec)… Một cái nồi với một cái cán rất dài, chế muổng « cà phê »  loại cà phê « đông phương » - được xay rất nhuyển. Thêm đường, Thêm nước (một tách nước cho một muổng cà phê). Trộn đều, đun sôi, Khi bắt đầu sôi, tắt lửa ngay, không để được trào… Lập lại, tất cả hai lần. Chế ra tách. Chờ cho bột cà phê lắng xuống, thưởng thức. Uống chậm, nhẹ nhàng, không thì ăn xác cà phê ! Il y a autant à boire qu’à manger. Vừa đủ cả uống lẫn ăn ! Người viết đã thưởng thức. Tại Istambul. Không đã, vì quá ngọt ! Và qua hấp tấp, uống cả xác cà phê. Không phải vị mình …
 Cà phê phin :
  Quý vị biết rồi. Hạp vị Việt Nam 
Cà phê piston, ép :.
  Expresso –  Thường uống ở các tiệm cà phê. Quý bạn biết cả, ngày nay, thông dụng là máy expresso mua về nhà. Đủ vị, đủ kiểu, sáng, trưa, chiều tối. Đậm nhạt thơm ngon tuỳ lựa chọn !
Cà phê Ý :
  Rất gắt. Đặc biệt chỉ ở Ý. Uống để phê, chứ không đã khát …
Cái nồi ngồi cái cốc 
  Không hạp với cá nhơn thằng tui .. . Uống để nhớ. Chỉ có ở những quán người Việt ở Mỹ
Và cà phê Vớ
  Cà phê không ngon, vì nấu caphê chứ chằng lọc, chẳng ép, gì cả. 
Cuối cùng Café instantanné :
  Và là cà phê bột trộn nước sôi. 
Bột cà phê, một muổng hai muổng, tùy đâm lợt… Nước sôi vừa sôi. 
Trộn đều, uống. Sáng trưa chiều tối. Sáng đậm tối lợt… 
Sáng cộng điếu thuốc, tối cộng điếu thuốc…  nghe vợ rầy, bác sĩ la, con cằn nhằn … Ra đi là vừa !

 C : Các loại cà phê :

 Arabica : Đây là loại cà phê thông dụng nhứt thế giới. Trồng ở độ cao 600 trở lên đến 2000 thước. Tên họ « Coffea Arabica » Ít chất caféine hơn các cà  phê khác. Vị nhẹ
Robusta : Gốc gác từ Đông Phi Châu, Brazil-Ba Tây – Indonesia. Tên là «  Coffea Canephora » Được trồng rất nhiều ở Việt Nam. Không cần ở độ cao lắm dưới 600 thước. Vị đậm gắt, vì chứa nhiều caféine – chất cà phê ! Thằng tui không quen, không thích… quá đắng, vì tôi uống không đường !
Moka d’Éthiopie : Trồng ở độ cao khoảng 1200 thước ở Éthiopie, rất ít caféine. Cà phê hoàn toàn 100 % arabica nguyên thủy. 
Kính chúc quý bà con thân hữu thưởng thức những ly cà phề đậm đà thân quý 
Hồi Nhơn Sơn, Hè 2019
Phan Văn Song 

Sunday, 31 March 2019

ÔNG SONG VIẾT NỘI DUNG NẦY RẤT ẤM Ớ THEO KIỂU VẼ VỜI TỪ CHƯƠNG :

THẬT RA DÂN CHÚNG VIỆT NAM KHÔNG HỀ CÓ 2 LỐI SỐNG KHÁC BIỆT ĐỂ XUNG ĐỘT THÀNH CHIẾN TRANH - SỰ THẬT BẮT ĐẦU TỪ HỒ CHÍ MINH LẶN LỘI THEO CHỦ THUYẾT CỘNG SẢN NGA TÀU VÀ LẬP RA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - QUYẾT GIÀNH CHÁNH QUYỀN BẰNG SẮT MÁU NÊN MỚI XẢY RA CHIẾN TRANH - ĐÂY KHÔNG PHẢI NỘI CHIẾN NHƯ BẮC -NAM MỸ - BỞI VÌ HỒ CHÍ MINH CÔNG KHAI CHỦ TRƯƠNG THỐNG TRỊ VIỆT NAM ĐỂ THI HÀNH NHIỆM VỤ CỘNG SẢN QUỐC TẾ- ĐÓ MỚI LÀ MỤC TIÊU CUỐI CÙNG CỦA NGA, TÀU VỚI CÁI GỌI LÀ CỘNG SẢN QUỐC TẾ./-TCL

*******************

Nam Việt Nam,  năm Cộng Sản thứ 44: 

Một Đất Nước, Hai Loại Dân

Phan Văn Song


Loay hoay tháng Tư lại trở về. Đó chỉ là lịch, đó chỉ là một cái mốc của thời gian. Nhưng đối với đa số người Việt chúng ta, nhứt là những người gốc miền Nam Việt Nam, hay đã từng cư ngụ tại miền Nam, tháng Tư là tháng của những kỷ niệm đầy tang tóc, của một quá khứ hãi hùng, của một cái vết thương không thành sẹo được. Miền Nam Việt Nam và dân chúng đã thua cuộc, và đã lãnh cái giá rất đắt của một sự trả thù cho sự lựa chọn một cách sống của mình. Đây là một cuộc nội chiến, cũng như tất cả những cuộc nội chiến, huynh đệ tương tàn chỉ tranh chấp trong một cái nhìn, một quan niệm về cuộc sống.
 A -  Cuộc chiến từ giữa hai quan niệm chánh trị:
1/ Hai nền văn hóa, hai tổ chức xã hội, hai văn minh:
Phải, đây là một cuộc đụng độ không đội trời chung không những của của hai nhơn sanh quan chánh trị, mà là của hai luồng tư tưởng, giữa phóng khoáng cởi mở và hẹp hòi đóng khung, của hai nền văn hóa, giữa một bên là nhơn bản, hiền hòa đặt con người và tình thương vào trọng tâm, và một bên xem con người là dụng cụ sản xuất, là công cụ phục vụ cho một Đảng  vô thần Đảng Cộng sản Quốc tế. Đảng Cộng sản Quốc tế thành công là cứu cánh, con người chỉ là phương tiện và dụng cụ.
Đây là cuộc chiến đấu của phe của những con tim, của những đạo đức, của những đức tin, của nhơn bản, của tình tự dân tộc, của tình tự gia đình, chống phe của những người không còn có con tim, không có tình thương, vì bị một lý thuyết mỵ dân, lường gạt, hứa một thiên đàng không bao giờ có, hứa những của cải, những ruộng vườn không bao giờ cho, hoàn toàn Cộng sản hóa với những người phủ nhận, xóa bỏ quá khứ văn hóa văn minh dân tộc, nhìn nhận tô thờ những ông râu xồm ngoại bang làm thầy, với những lý thuyết vô thần, vô đạo, mơ tạo một thế giới lấy người thay máy móc, lấy con người làm công cụ sản xuất, lấy nhu cầu xác thịt làm cứu cánh phục vụ cho một tổ chức giành quyền lực quốc tế,  mơ thống trị, cầm quyền quốc tế: “Bàn tay ta làm nên tất cả, Có sức người sỏi đá cũng thành cơm ».
Đảng Cộng sản được một tổ chức như một tôn giáo, để thay thế tôn giáo, thay đạo đức tâm linh bằng những bổn phận ngụy danh như cách mạng, như phục vụ Đất Nước, với những chiêu bài giả tạo như nhơn dân làm chủ, nhưng thực tế thay thần quyền bằng đảng quyền. Những Các Mác, những Lê Nin dùng những lời sấm giảng như những Ma-thi-ơ, Giăng, Mác hay Luca của Thiên Chúa Giáo … Xì Ta lin thì khác chi Phao lồ … Đảng Cộng sản quốc tế tổ chức rập khuôn theo tổ chức Giáo hội Thiên Chúa Giáo La mã, với Điện Kremlin-Cẩm Linh tương tự Điện Vatican. Do đó, “Mập mờ đánh lận con đen, Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền, mất chi?” (TKiều), vàng thau lẫn lộn.
Tư tưởng con người, với sức tiến hóa, với sức phát triển của khoa học, mọi lý thuyết đều phải biết biến cải để hòa hợp với thời đại. Phật Giáo Tây Tạng cũng nhiều phái, Mũ Vàng, Mũ Đỏ,… Phật Giáo cũng phải chia Tiểu Thừa Đại Thừa, Thiên Chúa Giáo cũng nào Chánh Thống, nào Copte, nào Roma, cũng Tin lành … Nhưng với Đảng Cộng sản, tất cả phải gom về một mối. Cộng sản không chấp nhận những tư tưởng khác. Nhóm Đệ tam Quốc tế đã tiêu diệt các bạn đồng hành Đệ tứ chỉ vì bất đồng quan điểm, với Cộng sản không thể có đối thoại, không thể có tranh chấp, tranh cải dân chủ …Chẳng những ở Nga, ở Tàu mà còn cả ở Việt Nam. Hồ Chí Minh và đệ tử nhơn danh chủ nghĩa Cộng sản Đệ tam đã đưa đất nước vào 30 năm chinh chiến chỉ để áp dụng chủ nghĩa Cộng sản thôi ! Chống Pháp dành Độc Lập chỉ là một cái cớ. Những bánh vẽ như Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc chỉ là những từ ngữ trống không, vô nghĩa. Những lời hứa, như Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc, khi cướp chánh quyền trên tay Đức Bảo Đại năm 1945, hay khi kêu gọi toàn dân kháng chiến chiến tranh giải phóng… Nay ta thử kiểm điểm xem ngày nay còn cái gì?
 2/ Việt Nam sau 74 năm triều đại Cộng Sản:
Độc Lập?: Năm tới 2020, tròn 75 năm từ ngày cướp quyền, Đảng Cộng sản Hà nội từ cầm quyền nửa nước -1954, rồi cả nước-1975, đã làm xong bổn phận giao toàn bộ quốc gia Việt Nam cho Đại Đế Cộng Sản Hán tôc. Chỉ còn một năm nữa thôi, năm 2020, đúng hạn, đúng hẹn, là chu toàn chương trình Hán Hoá Việt Nam. Từ nay, sẽ hoàn toàn áp dụng toàn thể trên toàn thể đất nước ta! Đúng, năm 2020 nầy, Việt Nam hoàn toàn Hán Thuộc, Hán Hóa!
Hai quần đảo Hoàng Sa Trường Sa, hai quần đảo chiếu theo sử ký, chiếu theo địa dư, chiếu theo luật hàng hải quốc tế đều thuộc Việt Nam đúng như sử sách, đúng như tài liệu, vì ở cách bờ Việt Nam dưới 200 hải lý, nay từ tình trạng tạm bị cưởng chiếm, nhưng mai nầy, hoàn toàn mất hẳn, lý do là Tàu vừa qua đã tuyên bố nhập vào một đơn vị hành chánh Tàu dưới tên là Huyện Tam Sa của Tỉnh Quảng Đông rồi! Từ nay, Huyện Tam Sa, tỉnh Quảng Đông, gồm từ đảo Hải Nam, xuyên qua Hoàng Sa hướng về Nam hợp cùng Trường Sa giáp giới với các quốc gia miền Nam Đông Nam Á. Xưa biển Đông Việt Nam, nay mai hoàn toàn đúng là Biển Nam Hải của Tàu. Còn trên đất liền của đất nước Việt ta, hàng ngàn mẫu rừng, mẫu đất, xưa đã bán đứt hay cho thuê dài hạn cho Tàu phá rừng lấy gỗ, phá núi phá đồi, khai thác, đây là mõ Bô Xít, đó là khoánh sản, cây kỹ nghệ… Và năm tới sẽ hoàn toàn đất sở hữu vĩnh viễn  vì thuộc một tỉnh của quốc gia Tàu.
Tự Do?: Hiện ngay, mỗi mỗi cử chỉ hành động chánh trị ngoại giao của Nhà Nước và Đảng Cộng Sản của quốc gia Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đều phải qua Tàu hỏi ý kiến. Còn người dân ?  Người Dân đang sống trong một căn Ngục Tù khổng lồ. Chỉ biết Vâng Lời chỉ thị Đảng và Nhà Nước, ngoài ra tất cả đều bị cấm. Chỉ trích bị đi tù, biểu tình đòi Tàu trả đảo, bị đàn áp đánh đập, hàng chục tờ báo không có một tờ báo tư…Luật An Ninh Mạng bóp miệng, bịt tư tưởng...
Hạnh Phúc?: Ai sống hạnh phúc ? Thành phần cán bộ, đảng viên… Xã hội Việt Nam ngày nay chia làm hai LOẠI dân: loại một ăn trên ngồi tróc, của thế giới của kẻ cầm quyền, của một nomenklatura, nhà sang, cửa rộng, xế hộp, hàng sang ... Trái lại, loại dân thứ hai, đầu tắc mặt tối kiếm ăn ngày hai bửa. Sàigòn Hànội nhan nhản em bé bán vé số, chị bán hàng rong, cảnh những hàng người, nam thất nghiệp phải culi cửu vạn, bán mồ hôi, sức lao động, sắp hàng buổi sáng chờ người thuê vẫn còn như thời Pháp thuộc, gái, thất thời, bán thân thể, khi gái phòng trà, chạy bàn, lúc rửa chén tiệm ăn, khi đấm bóp, lúc bia bia ôm hay tôi nghiệp hơn phải bán cả trôn và tiết hạnh để nuôi thân, nuôi gia đình.
 Và chiêu bài chiến tranh giải phóng ? Giải phóng gì ? Giải phóng ai ? Khi Vua Bảo Đại đã hai lần lấy lại Độc lập, Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục đánh, không chấp nhận chánh phủ Bảo Đại:
- Lần đầu năm 45 khi Nhựt đảo chánh Pháp ngày 9/3/ 1945, giao trả Việt Nam lại, và
- Lần thứ hai năm với Hiệp Ước Élysée năm 1949 Pháp trả Độc lập vĩnh viễn cho Việt Nam.
Cuộc chiến tranh do Hồ Chí Minh xúi dục là một cuộc xâm chiếm, chiến tranh xâm lược  để làm phận sự quốc tế, nhuộm đỏ Đông Nam Á
Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Sô cho Trung Quốc” như Lê Duẫn đã tuyên bố năm nào.
Cuộc Thánh Chiến Cộng Sản nầy đã BUỘC thanh niên nam nữ miền Bắc vượt Trường Sơn  - chết cho xâm chiếm, BUỘC thanh niên nam nữ  miền Nam - chết để tự vệ, và biến:
 3/ Hai Miền Nam Bắc nước ta, xưa kia Đàng Trong, Đàng Ngoài,
ngày nay, Cộng Hòa, Cộng Sản, hai văn hóa, hai văn minh:
Hai miền thành hai đất nước khác nhau, với hai nguồn tư tưởng khác nhau, với hai nền văn hóa khác nhau, với hai cuộc sống, hai nhơn sanh quan, hai nền văn minh khác nhau.
 - Một bên, Miền Nam, phóng khoán, dân tộc, nhơn bản đặt con người làm trọng tâm, đặt đất nước và lịch sử đất nước làm căn bản, lấy tâm linh tôn giáo làm đạo đức, lấy tình thương lân bang láng giềng, anh em gia đình làm lễ nghĩa, ra đường biết thưa vâng, về nhà biết thưa gởi, khi nhận biết cám ơn, khi đưa biết xin phép.
 - Còn một bên, Miền Bắc, không tình không nghĩa, tất cả quan hệ chỉ là tranh chấp, lấy lường gạt làm nền tảng, lấy cướp đoạt làm khí cụ, bé xin, lớn ban, thấp cổ xưng con, lớn mình xưng ông, ra đường chen lấn, về nhà nói trổng nói ngang, chữ thưa không còn, chữ cám ơn không có, quan trên xài của công, cấp dưới xài của cắp. Ra đường thấy hàng đẹp thì chôm, vào nhà thấy hàng ngon thì đớp.
- Miền Nam, trong hai mươi năm mặc dù chiến tranh, mặc dù bị quấy phá, mặc dù nội bị công ngoại bị kích, nhưng dưới chế độ Cộng Hòa của miền Nam, nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa vẫn phát triển mạnh, dân trí người công dân Việt Nam Cộng hòa vẫn đàng hoàng, dân tình người Việt miền Nam vẫn tử tế…
- Ngày ba mươi tháng tư 1975 đến, miền Nam bị xâm chiếm, phe tử tế thua trận, phe đểu cán toàn thắng!. Trên toàn đất nước Việt Nam từ nay, nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, tuy từ nay đã “gọi là” Hòa bình, tuy từ nay “đã hết chiến tranh”, tuy từ nay “người dân đã hết chạy nạn”.
Nhưng khi kiểm điểm lại, tại sao, năm nay 2019, 44 năm sau, nền kinh tế vẫn èo uộc, rối loạn, cuộc sống người dân Việt vẫn sống trong chụp giựt, quan chức cấp trên bằng giả, viên chức công nhơn cấp dưới bằng chôm, ra đường gặp hàng dỏm, vào nhà hàng ăn uống hàng dơ…Biên giới phía Bắc xóa hẳn, bị Trung Cộng cướp đất, Biển Đông mất biển mất đảo, Hoàng Sa, Trường Sa nay thuộc Huyên Tam Sa do Trung Cộng quản nhiệm. Núi cao do Tàu quản, khai thác Bô Xít, tàn phá môi trường. Biển sâu do Tàu chiếm, cấm ngư phủ ta đánh cá xa bờ…Công trường xây dựng giao cả cho Tàu, công ty thương mãi giao luôn cho Chệt, còn dân Việt ta, can phận nghèo hèn, bán buôn quan gánh, thuốc lá bán lẻ, thuốc tây bán viên, ăn uống vĩa hè, sống sanh đường hẻm... Và người dân vẫn mơ thoát chạy, vượt biên, tỵ nạn
B – Đảng Cộng Sản mở đường cho Bắc thuộc-Hán hóa:
Cũng chỉ lựa sai con đường. Đem một học thuyết phá hoại của ngoại bang nhập cảng vào nhà. Một học thuyết bắt đầu bằng một cuộc sang đoạt cướp của, xóa bỏ cương thường, vứt bỏ đạo lý, dẹp xóa tâm linh. Năm 1917, Đảng Cộng sản Nga đã cướp chánh quyền, sát hại cả gia đình Nga Hoàng Nicolas Đệ Nhị, tàn sát toàn bộ giòng họ Romanov, các giai cấp quý tộc, địa chủ, doanh thương Nga để lập một nhà cầm quyền độc tài chuyên chính vô sản. Hoàng đế Lénine, và tiếp theo Hoàng đế Staline đã phải giết, tàn sát, bắt giam, đày đọa hàng trăm ngàn thường dân Nga vô tội, giết và bỏ tù các nhà trí thức, các kẻ viết văn. Những trại giam, những goulag mọc đầy toàn nước Nga. Dưới danh nghĩa Liên bang Sô Viết, các Hoàng đế Cộng sản Nga đã Nga hóa cả chục dân tộc khác nhau, cùng chủng tộc Slave như Belarus, hay khác chủng tộc, như Ukraine hay Georgie, cùng gia đình ngôn ngữ hay khác gia đình ngôn ngữ cũng mặc, thậm chí cả các quốc gia và dân tộc hồi giáo nói ngôn ngữ Thổ nhỉ Kỳ nằm dọc con đường Tơ lụa xưa kia, từ Kazhastan đến Kirghistan đến tận biên giới Tàu và Thái Bình Dương.
Ngày nay, cũng bằng chủ nghĩa Cộng Sản và mai nầy 2020, Hoàng đế Cộng sản Tàu Xi Jinping-Tập Cận Bình, tiếp nối các Hoàng đế tiền nhơn Mao, Đặng hoàn thành Hán hóa Việt Nam, sau khi đã Hán hóa các dân tộc Mãn, Mông, Hồi, Tạng!
Và đúng như viễn ảnh Tố Hữu đã ca tụng, năm xưa:  “Bên kia biên giới là nhà, Bên này biên giới cũng là quê hương...”

1/ Hồ Chí Minh và Việt Nam:

Đệ tam Cộng sản Quốc tế Komintern (Liên Sô) sai Hồ Chí Minh cùng các đồ đệ tiếp tục nhiệm vụ nhuộm đỏ thế giới. Và tất cả không ngại ngùng làm tai sai, phản dân tộc, đi tiếp con đường chinh phục thế giới, đem màu Sô Viết nhuộm toàn Đông dương thuộc Pháp. Điển hình không chối cải được là trong một thời gian dài, trên bức tường các đại sảnh đường của nhà cầm quyền đỏ Hà nội, đệ tử và lâu la Đảng Cộng sản Đông dương và Việt Nam đều họp hành sanh hoạt chánh trí dưới hình ảnh của ba ông râu xồm cộng sản ngoại bang tây phương Cạc Mác Lê Nin và Xì ta lin! Khi đã chấp nhận và đưa vào văn hóa Việt Nam một bài thơ “khóc Xì ta lin” của tay tổ tuyên truyền trưởng ban Văn hóa Việt Nam Cộng sản Tố Hữu là đã mặc nhiên xóa bỏ văn hóa gia đình Việt Nam rồi ! Khi đặt tình thương một tên lãnh tụ một Đảng ngoại bang trên tình thương cha mẹ, trên tình thương chồng con mình (Thương cha, thương mẹ, thương chồng. Thương mình thương một, thương Ông thương mười.) thì xin miễn bàn, và hết ý kiến !
2/ Apocalypse-Hồ Chí Minh:
Nhớ lại năm qua 2018, đài Truyền hình 2 Pháp cho chiếu đoạn 3 của tập phim Apocalyse kỷ niệm 100 năm Thế chiến thứ Nhứt. Thật kinh hoàng, cuộc chiến 1914-1918 được đặt tên là Cuộc Đại Chiến La Grande Guerre. Được đặt tên như vậy là lần đầu tiên trong lịch sử âu châu và thế giới có một cuộc chiến với nhiều quốc gia tham gia như vậy. Ngoài hai đồng minh Đức-Phổ/Áo-Hung phía đông chống hai cường quốc Pháp Anh, hai đế quốc phía tây âu châu với sự góp mặt của các thuộc địa, Anh với Ấn độ, Úc, Tân tây Lan, Nam Phi, Canada …, Pháp với các thuộc địa Bắc Phi, Tây Phi hay Đông dương, lại thêm có Nga, Ý, Thổ nhỉ Kỳ, Nhựt bổn. Mặt trận trải dài hàng ngày cây số, thoạt đầu lưu động, sau đó, đào hào lập chiến lủy ngó nhau và hằng ngày nướng mỗi bên hằng trăm binh sĩ (Pháp trung bình 900 mỗi ngày, khi có các  lần xung phong à-lát-xô). Lần đầu tiên, đại bác được sử dụng tối đa, đại bác Grande Bertha 400 ly bắn trên trăm dặm, không chiến cũng được biết tới với những anh hùng nổi tiếng như Hầu tước Đỏ-Le Baron Rouge, với 80 chiến công. Hầu tước Đại Úy Phi công Manfred Von Richthofen với chiếc khu trục ba cánh Fokker sơn mầu đỏ và hai khẩu đại liên. Không chiến thời ấy, các phi công như những hiệp sỉ thời xưa, một mình một ngựa, xông vào địch vừa lái vừa nhào lộn tránh đạn vừa bắn để hạ địch thủ. Ngày 21 tháng tư năm 1918, Hầu tước Đỏ vì quá ham rượt địch bay quá thấp nên lãnh đạn do các binh sĩ Úc bắn từ phía dưới. Anh đáp được máy bay, chỉ nói được một chữ « Kaput-xong đời rồi ! » với anh trung sĩ y tá người Úc Ted Smout trước khi tắt thở. Quân sĩ lực lượng Úc châu rất anh hùng trân trọng làm lễ quân táng tay hiệp sĩ phi công người Phổ nầy. Sáu Đại úy phi công (Úc) mang quan tài đi trước giàn lính (Úc) chào, một loạt súng bắn chỉ thiên tiển chưn người anh hùng quá cố. Mộ của vị phi công Hầu tước Đỏ được ai đó ghi dòng chữ «: À notre ennemi vaillant et digne –Tặng người địch thủ can trường và xứng đáng».
Để kết luận: Kể chuyện người, lại nghĩ đến ta:
Càng khen lòng hào hiệp người phương tây, càng khóc cho lòng ty tiện tiểu nhơn của người Cộng sản phương đông mình.
 - Hãy so sánh chuyện vừa kể trên, với cảnh giựt sập Tượng Thương tiếc của Nghĩa trang Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Hay những cảnh hôi của tài sản toàn dân Nam Việt sau ngày thắng trận của quân đội cộng sản Bắc Việt !
 - Hãy nhớ lại những cảnh phe Bắc Việt thắng cuộc chẳng những làm nhục các địch thủ Nam Việt thua cuộc, mà còn đày đọa gia đình vợ con đồng bào miền Nam, mà còn trả thù cả đến những địch thủ đã đền xong nợ nước, chả biết đạo lý, chả biết thế nào là nghĩa tử nghĩa tận: từ những nghĩa trang, đến những góa phụ những con côi dòng dỏi gia đình phe miền Nam gọi với một tội danh mạ lỵ là « ngụy », tất cả mang tội danh ấy như một bảng án lý lịch, bị đuổi nhà, tịch thu tài sản, bị mất chổ làm, bị không được đi học, bị cấm nầy, cấm nọ…
Và đến cả ngày nay, sau 44 năm đô hộ xâm chiếm, hận thù vẫn còn đó, tội danh ấy vẫn còn đó. Cả miền Nam vẫn là Đất Ngụy bị chiếm, con em Dân Ngụy vẫn là một thứ phó dân.
Nước Việt Nam được gọi là thống nhứt, là một, với một quốc gia lấy tên là Công hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, nhưng trong nước vẫn là hai thế giới của hai quốc dân, hai loại người Việt: Ta và Ngụy.  
- 1/ thế giới của phe nhà cầm quyền, đảng viên hay thân thuộc đảng viên Đảng Cộng sản, cùng với công dân là những người gốc miền Bắc gốc gia đình có công với cuộc chiến xâm lược, loại ấy là công dân, công nhơn viên cao cấp, quân nhơn, công an, hành chánh phủ huyện..  ấy là Ta ; và
 - 2/ thế giới của thứ dân, phó dân, của dân Ngụy của nước Ngụy Nam Việt đất đang bị chiếm..  của anh thợ, của chị bán hàng rong, của anh đạp xích lô, của em bé bán thuốc lá mía ghim…
Chúng ta đừng bao giờ  quên tuyên truyền Cộng sản Bắc Việt lúc thời chiến tranh xâm lược là đi vào Nam đánh Mỹ Ngụy., ..Chứ có bao giờ Bắc Việt gọi chúng ta người miền Nam là người Việt đâu ? Trong lúc ấy dân chúng miền Nam gọi dân quân Bắc Việt là Việt Cộng (là người Việt Cộng sản). Chúng ta lúc nào cũng vẫn nhận họ là người Việt, nhưng họ không nhận chúng ta là người Việt ! Sau đây là một thí dụ điển hình cho sự đối xử sai biệt ấy:
Cùng tù nhơn chống đối Nhà nước Cộng sản,
 - Cù Huy Hà Vũ (công dân Ta) được Nhà nước Cộng sản Việt Nam chiếu cố lấy tiền nhơn dân Việt Nam cho đi Mỹ chửa bịnh mập, máu cao sau 3 năm nhốt - ở tù mà mập béo quả thật sướng hơn ở tù bên xứ Tây của tui nữa, hèn chi ngày nay dân Việt Nam trong nước nhiều người đấu tranh chống Tàu, đòi đân chủ để được đi tù và may còn ra được xuất ngoại và được Mỹ rước vào nuôi và cấp dưởng -  (tội nghiệp thay cho người tù ! nhơn đạo thay người cầm quyền !) -
 - nhưng Nguyễn Hữu Cầu, gốc là phe ta  miền Nam, là ngụy,  tù 35 năm, bệnh gần chết, gầy ốm tong teo vì thiếu ăn, bệnh nặng mới được thả, mà cũng chẳng được gởi đi Mỹ chửa bệnh.
Cũng cùng một tội, chống thiên tử, chống quan Thừa tướng,
-  Cù Huy Hà Vũ vì là công dân TA dám « kiện » ông quan Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng.
 - Nguỳễn Hữu Cầu vốn dân NGỤY nên chỉ dám, « chỉ trích » thôi - cũng ông quan Nguyễn Tấn Dũng.
 -  Cù Huy Hà Vũ đã là công dân hạng cao cấp lại còn là người có « nghề », lắm nghề:  nào là Luật sư, nào là công tử đỏ, giai cấp quyền quý, nên nguy hiểm bội phần,
- Nguyễn Hữu Cầu, trên răng dưới dế, chỉ là thằng ngụy thôi, chỉ là thằng thua trận, bực mình, thất chí, anh hùng một tý chưởi « đổng » cho đã cái đầu, cho thông cái trí, hai bàn tay trắng, kiếm ăn không đủ, huống chi lật đổ quan Thừa tướng ! lật đổ nhà cầm quyền !
Vậy mà: hai nhơn vật, hai chế độ đối xử, hai cách hành xử ! Não trạng văn hóa của tháng tư đen tối ! Đánh dấu từ đấy những  điển hình của tình trạng pháp lý Việt Nam. Apocalyse-Hồ Chí Minh ! Khủng khiếp ! Thua chi apocalypse Hitler, thua chi apocalypse Đại Thế Chiến 1. Hai cái kia cho cả nhơn loại, còn Hồ Chí Minh là đại họa chỉ giáng vào đầu dân tộc Việt Nam.
Khúc Khải Huyền  khủng khiếp nầy chỉ chấp dứt khi vấn nạn Cộng sản Việt Nam không còn nữa !
Apocalypse Đại Thế chiến chỉ vỏn vẹn trên dưới 4 năm 1914-1918. Apocalypse Hitler đại họa Đen cũng chỉ từ 1938 đến 1945. Apocalypse Đỏ đại nạn Cộng sản Quốc tế trên 100 năm rồi (1917 – 2019) ngày nay vẫn chưa dứt. Với cái đuôi Poutin và họa Đại Nga, với cái đuôi  Xi Jinping và họa Đại Hán, với cái đuôi Bắc Triều tiên và cái họa do gia đình họ Kim.
Và riêng về Việt Nam ta Đại Nạn Cộng sản do Hồ Chí Minh mang đến, ngày nay vẫn chưa dứt ! Và ngày mai ? 2020, văn tự Bán Nước Thành Đô thực hiện. Mất nước là cái chắc !

Hồi Nhơn Sơn,

Tháng Tư đen cuối cùng của Đất Nước Việt Nam,
Phan Văn Song