Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label VuaBaoDaiVN. Show all posts
Showing posts with label VuaBaoDaiVN. Show all posts

Tuesday, 1 November 2022

ĐÁNG LÝ RA NẾU VIỆT CỘNG QUAN TÂM ĐẾN VẤN ĐỀ NẦY THÌ CHÁNH PHỦ PHẢI LÊN TIẾNG MỚI ĐÚNG - THẰNG KU VŨ NẦY LẤY TƯ CÁCH CON CHÓ, CON HEO HAY CON BÒ ĐỂ LÊN TIẾNG CHỨ ? KU VŨ CHỈ LÀ THẰNG LÁU CÁ TỰ CHÙI BÓNG TÊN TUỔI XỎ LÁ - VẤN ĐỀ CHÍNH LÀ VIỆT CỘNG ĂN CƯỚP ẤN KIẾM TỪ TAY BẢO ĐẠI- CHỨ KHÔNG PHẢI BẢO ĐẠI TỰ NGUYỆN VUI VẺ HIẾN TẶNG - CHO NÊN VIỆT MINH GIỮ CỦA ĂN CƯỚP CHỨ KHÔNG PHẢI SỞ HỮU ẤN KIẾM ẤY HỢP PHÁP - CHUYỆN NGƯỜI THỪA KẾ SAU CÙNG NẾU CÓ TRANH CHẤP LÀ TÙY VÀO LUẬT PHÁP CỦA PHÁP PHÂN XỬ - CHẮC CHẮN KU VŨ KHÔNG THỂ NÀO NGĂN CẢN ĐƯỢC VIỆC ĐẤU GIÁ VÌ KU VŨ ĐÉO CÓ TƯ CÁCH GÌ CẢ- NGU HƠN BÒ MÀ DÁM XƯNG LÀ LẬT SƯ GIỐNG NHƯ TRỊNH HỤI VÀ KỲ VẸM VẬY./-Mt68 (*VC nếu muốn chỉ có cách duy nhứt đứng ra đấu giá mua lại mà thôi./-Mt68)

________________________



 

Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ gửi Chủ tịch Nhà đấu giá Millon thư yêu cầu rút ấn “Kim Bảo Tỷ” của Triều Nguyễn khỏi đấu giá.

 

Bởi
 AdminTD
 -
28/10/2022

Maître Alexandre MILLON                CÙ HUY HÀ VŨ, công dân Việt Nam

Chủ tịch MILLON,                             24 Điện Biên Phủ, Điện Biên,

Nhà bán đấu giá                               Ba Đình, Hà Nội, Việt Nam

                                                  Tạm trú: 10926 Lotus Drive,

                                                  Garden Grove, CA 92843, USA

Chủ đề: Yêu cầu rút ấn “Kim Bảo Tỷ” (金寶 璽) khỏi cuộc đấu giá

Garden Grove, ngày 27 tháng 10 năm 2022

Thưa Ông,

Tôi được biết vào ngày 31 tháng 10 năm 2022 tại Paris, Nhà bán đấu giá Millon, sẽ đấu giá ấn bằng vàng ròng có tên “Kim Bảo Tỷ” (金寶 璽), được làm từ thời vua Minh Mạng, biểu tượng quyền lực của Triều Nguyễn (Việt Nam, 1802-1945). Cuộc đấu giá này được thông báo trong catalog là Món đồ đấu giá số 101/329.

Tôi rất tiếc phải nói rằng cuộc đấu giá này là bất hợp pháp vì ấn này là tài sản của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Sau đây là bằng chứng.

Ngày 25/8/1945, Hoàng đế Bảo Đại công bố Chiếu thoái vị, bày tỏ “quyết tâm thoái vị, nhường quyền lãnh đạo đất nước cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Cù Huy Hà Vũ).

Tiếp đó, tại lễ thoái vị tổ chức vào ngày 30 tháng 8 năm 1945 tại Ngọ Môn, Huế, Hoàng đế Bảo Đại đã trao ấn “Kim Bảo Tỷ” (金寶 璽) và kiếm “Khải Định Niên Chế” (啟 定 年 製) cho các đại diện. của Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ông Trần Huy Liệu, Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền và ông Cù Huy Cận, Bộ trưởng không Bộ (thân phụ tôi). Như vậy, kể từ ngày 30 tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam, do Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và các chính phủ kế nhiệm, trong đó có Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là chủ sở hữu của hai báu vật tượng trưng cho vương quyền Việt Nam.

Trong hồi ký “Con rồng An Nam” của ông (Nhà xuất bản Plon, 1980), Cựu Hoàng Bảo Đại kể lại rằng, ông Trần Huy Liệu và ông Cù Huy Cận, đại diện của Việt Minh (Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Cù Huy Hà Vũ) thay mặt dân tộc Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu ông thoái vị, giao ấn và kiếm của chính thể quân chủ cho chính quyền cách mạng và ông đã thực hiện yêu cầu này tại lễ thoái vị.

Việc chuyển giao quyền sở hữu ấn và kiếm, biểu tượng của sự chuyển giao quyền lực từ Hoàng đế Bảo Đại cho Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cũng được đề cập bằng tiếng Pháp và tiếng Việt trong bản thuyết trình Món đồ đấu giá:

Chiếc ấn triện rồng năm móng này tượng trưng cho quyền cai trị tuyệt đối dưới triều đại nhà Nguyễn, đã trở thành biểu tượng của sự chuyển giao quyền lực.

Quyền sở hữu báu vật này đã được chuyển giao nhiều lần, đặc biệt là khi Vua Bảo Đại thoái vị trước chính quyền Việt Nam, nơi nó được Hoàng đế giao cho đại diện chính quyền cách mạng tại sân Ngọ Môn vào ngày 30 tháng 08 năm 1945. Tại đó, vị Hoàng đế cuối cùng đã thốt lên câu nói nổi tiếng:

‘Thà làm công dân của một nước độc lập còn hơn làm vua của một nước nô lệ’.”

Đáng tiếc là sau ngày 19 tháng 12 năm 1946, ngày Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định kháng chiến chống quân Pháp nỗ lực tái chiếm Đông Dương, hai báu vật này đã rơi vào tay người Pháp. Ngày 28 tháng 2 năm 1952, trong khi đào móng một ngôi nhà ở làng Nghĩa Đô, ngoại thành Hà Nội, để tìm vật liệu xây lô cốt, người Pháp đã phát hiện ấn và kiếm chôn dưới đó. Mười ngày sau, ngày 8 tháng 3 năm 1952, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, người Pháp đã tổ chức lễ trao ấn và kiếm cho Cựu Hoàng Bảo Đại với tư cách Quốc trưởng Việt Nam. Ông Lê Thanh Cảnh, Đặc ủy viên của Quốc trưởng Bảo Đại tại Hà Nội, đã thay mặt ông nhận hai báu vật này.

Sự kiện này cũng được mô tả trong bản thuyết trình Món đồ đấu giá:

Báu vật này còn mang một vai trò quan trọng và đầy tính biểu tượng tới sự can thiệp của Pháp vào Việt Nam, khi chính quyền Pháp đã cố gắng thành lập một chính phủ chống lại cộng sản với việc bổ nhiệm Vua Bảo Đại ngồi vào cương vị Quốc trưởng. Sau đó chiếc ấn báu được người Pháp trao trả cho vị vua cuối cùng của triều Nguyễn trong một buổi lễ tấn phong diễn ra vào ngày 08 tháng 03 năm 1952 tại Đà Lạt (thực ra là ngày 8 tháng 3 năm 1952 tại Hà Nội – Cù Huy Hà Vũ)”.

Năm 1953, khi chiến tranh trở nên khốc liệt, Cựu Hoàng Bảo Đại đã chỉ thị cho thứ phi Mộng Điệp vận chuyển ấn và kiếm sang Pháp để giao lại cho Hoàng hậu Nam Phương và Thái tử Bảo Long. Năm 1963, Nam Phương hoàng hậu qua đời, Bảo Long giữ ấn và kiếm.

Bản thuyết trình Món đồ đấu giá cũng kể lại đời sống hôn nhân của Cựu Hoàng Bảo Đại:

Sau những thất bại liên tiếp của quân đội Pháp, nổi bật là trận Điện Biên Phủ, quân Pháp rút khỏi Việt Nam và vua Bảo Đại bị phế truất năm 1955. Từ đó, ông sống lưu vong ở Pháp và không còn được hưởng trợ cấp tài chính của Pháp. Bên cạnh đó, ông cũng ly thân với người vợ đầu là Nam Phương Hoàng Hậu (Nam Phương nghĩa là hương thơm từ phương Đông) và sống một lối sống phóng túng, xa xỉ hơn.

Năm 1972, ông gặp bà Monique Baudot, người sau này trở thành vợ ông, và phong cho bà làm Công chúa Vĩnh Thụy”.

Năm 1980, khi xuất bản cuốn hồi ký “Con rồng Việt Nam”, Cựu Hoàng Bảo Đại đã yêu cầu Cựu Thái tử Bảo Long cho mượn ấn để đóng vào cuối cuốn sách. Bảo Long đã từ chối yêu cầu của ông. Sau khi tái hôn với bà Monique Baudot vào năm 1982, Cựu Hoàng đã kiện Bảo Long ra tòa để lấy lại ấn và kiếm. Tòa án ra phán quyết, theo đó Bảo Đại được giữ ấn và Bảo Long được giữ kiếm.

Cuối cùng, bản thuyết trình Món đồ đấu giá chỉ ra nguồn gốc của ấn:

“Nguồn gốc :

– Xuất xứ món đồ:

– Hoàng đế Minh Mạng, triều Nguyễn (1791-1841)

– Hoàng gia triều Nguyễn (theo dòng dõi)

– Tài sản của Hoàng đế Bảo Đại, Hoàng thái tử Vĩnh Thụy (1913 – 1997) – Hoàng đế An Nam và nguyên Quốc trưởng Việt Nam.

– Được thừa kế theo di chúc cho Công chúa Vĩnh Thụy (1946-2021) và sau đó được giữ bởi con cháu gia đình.”

Như vậy, theo Nhà đấu giá Millon, Cựu Hoàng Bảo Đại đã di chúc để lại cho bà Monique Baudot – Công chúa Vĩnh Thụy ấn và những người thừa kế của bà đem nó ra bán đấu giá.

Như tôi đã nói ở trên, ấn “Kim Bảo Tỷ” và kiếm “Khải Định Niên Chế” đã được Hoàng đế Bảo Đại giao lại cho Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại lễ thoái vị. Như vậy, hai báu vật này đã trở thành tài sản của Nhà nước Việt Nam được đại diện bởi Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và các chính phủ kế nhiệm, trong đó có Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cựu hoàng Bảo Đại biết rõ điều đó, cuốn hồi ký “Con rồng Việt Nam” của ông là bằng chứng.

Vì vậy, việc Cựu Hoàng Bảo Đại chiếm hữu ấn và kiếm là không ngay tình. Do đó, Cựu Hoàng không có quyền sở hữu đối với ấn và kiếm. Điều này có nghĩa những người thừa kế của bà Monique Baudot và ông Bảo Long không có quyền hợp pháp để bán hoặc chuyển nhượng hai báu vật này.

Điều 2276 của Bộ luật Dân sự Pháp quy định rằng, bất cứ ai đánh mất hoặc bị trộm một thứ gì đó đều có thể đòi lại.

Kể từ khi Luật số 2008-561 ngày 17 tháng 6 năm 2008 của Pháp về cải cách thời hiệu dân sự có hiệu lực, vấn đề thời hạn sở hữu trong trường hợp chiếm hữu không ngay tình đối với động sản đã không được văn bản luật nào đề cập đến. Như vậy, khi chủ sở hữu có động sản bị đánh mất hay bị trộm mất mà đòi lại thì người chiếm hữu động sản không ngay tình phải trả lại động sản cho chủ sở hữu.

Theo các quy định trên của Bộ luật dân sự Pháp, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với tư cách chủ sở hữu ấn “Kim Bảo Tỷ” (金寶 璽) và kiếm “Khải Định Niên Chế” (啟 定 年 製), sẽ dành quyền khởi kiện những người thừa kế của bà Monique Baudot và ông Bảo Long ra trước tòa án có thẩm quyền của Pháp để yêu cầu họ hoàn trả hai báu vật này cho Nhà nước Việt Nam.

Vì lý do này, tôi kính đề nghị Ông rút ấn “Kim Bảo Tỷ” (金寶 璽) khỏi cuộc đấu giá.

Xin Ông hãy nhận nơi tôi sự trân trọng.

CÙ HUY HÀ VŨ

Tiến sĩ Luật (Đại học Paris 1 Panthéon-Sorbonne)

Email: Cuhuyhavuvietnam@gmail.com

  

Bình Luận từ Facebook

Monday, 27 September 2021

Bảo Đại Hoàng Đế Thuộc Địa


BĐại, Monarque Colonial

Christopher Goscha *** Tôn Tht Tu dịch

 

Giống như Sihanouk, hoàng đế Bảo Đại (BĐ), đã bị đặt để nhằm phục vụ quyền lợi của thuộc địa. Nhưng năm 1954, BĐ không biết cách biến mình thành nhân vật sáng chói trên trường chính trị quốc gia.

Đến cuối thập niên 1880, Pháp đã thống trị hoàn toàn đế quốc VN và chia nước thành ba vùng (Nam Kỳ, An Nam và Bắc Kỳ) để sáp vào một quốc gia thuộc địa Đông Dương bên cạnh Lào và Miên. Pháp đặt vương triều VN dưới quyền bảo hộ của mình. Nhưng đó chỉ là một chế độ quân chủ trên lý thuyết. Thuộc địa đã tuốt hết các uy quyền thực sự, và giảm thiểu sự kiểm soát lãnh thổ chỉ dồn về miền trung.

Với con số ngày một thêm nhiều, các quan cai trị thuộc địa không ngừng biến nền quân chủ VN như một công cụ chính trị.

Pierre Pasquier đến Đông Dương 1898, làm khâm sứ ở Trung Kỳ sau thế chiến I và thành toàn quyền từ 1928 đến 1935 đã viết một tập kỷ yếu rất uyên thâm về nền quân chủ xưa của VN.

Trong thập niên 1910, ông cộng tác chặt chẽ với Albert Sarraut, khuynh hướng xã hội cấp tiến, hai lần làm toàn quyền Đông Dương (1911-1913 và 1916-1919) và được chính thức công nhận là lý thuyết gia ý thức hệ về thuộc địa của chính phủ Đệ Tam Cộng Hòa Pháp, tiếp nối “lão Bắc Kỳ” Jules Ferry. Người Việt tiếp tục chống đối quyền lực của Pháp. Hai bên đều biết ý của nhau.

Trong thời gian thế chiến 1 tiếp diễn, Pasquier và Sarraut đã phá tan các âm mưu chống thuộc địa muốn kéo các vua thuộc địa vào chính nghĩa quốc gia.

Cuộc nổi dậy của Duy Tân năm 1916 đã làm cho hai ông đứng ngồi không yên. Việc quảng bá chủ nghĩa Cộng Sản cũng làm họ lo âu không kém. Từ cuộc chính biến 1917 và sự thành lập Đệ Tam CSQT hai năm sau, Sarraut theo sát các âm mưu của Nga xúi dục nổi loạn tại các thuộc địa trên thế giới.

Sarraut và Pasquier cấu kết ăn nhịp trong việc tạo dựng một lãnh chúa thuộc địa trung thành nơi cá nhân của vị hoàng tử trẻ nhà Nguyễn, Bảo Đại.

Hoàng đế tương lai, sinh năm 1913, phải thấm nhuần triệt để chính sách “hợp tác Pháp Việt” mà Sarraut đã công khai trình bày ở Hà Nội năm 1919. Hằng ngàn người Việt đã ủng hộ Pháp trong thế chiến và mong chờ các cuộc cải cách. Mục đích công khai là cải cách công quyền và gia tăng sự hợp tác chính trị của người Việt nhằm xây dựng một Đông Dương mới. Mục đích ngầm là dựa vào nền quân chủ để chính thống hóa chính sách hợp tác, đẩy lui các phe phái chống đối và kết hợp dân chúng nông thôn với Pháp qua biểu tượng trung gian là hoàng đế.

Năm 1922, Pasquier đã soạn thảo những chỉ thị rất chi tiết cách thức dạy dỗ hoàng tử trẻ; chương trình nầy, ông nhấn mạnh, phải thực hiện ở Pháp và kết thúc ở An Nam. BĐ phải theo tân thời (tính chất Pháp) và theo cổ truyền (tính chất An Nam). Với sự đồng ý của vua cha bệnh hoạn gần chết là Khải Định, Sarraut và Pasquier đã tách hoàng tử xa cách thân nhân và giao cho một gia đình người Pháp chăm sóc và được đưa đến Paris để tiếp nhận một sự giáo dục quí phái.

Khi vua Khải Định chết, ông về nước lên ngôi rồi trở lại Pháp sau một thời gian rất ngắn năm 1926.

Tại mẫu quốc, chính quyền Đệ Tam Cộng Hòa đã thúc đẩy hoàng đế trẻ tham dự các mục tiêu thuộc địa rộng lớn hơn. Nhân dịp Triển Lãm thuộc địa toàn thế giới năm 1931, Pháp tổ chức cho BĐ một buổi ra mắt công cộng hết sức đặc biệt chưa từng có. Vị vua trẻ mặc long bào đóng vai cổ truyền và xa mới giữa một buổi lễ công cộng để vinh danh đế quốc Pháp.

BD ngồi chính giữa lễ đài khánh thành, ở vị trí yếu nhân có thống tướng Lyautey, toàn quyền Maroc, trong khi tổng thống Gaston Doumergue đọc diễn văn khai mạc; Sarraut và Pasquier, mặc đại lễ phục, đi hai bên hoàng đế bước xuống các bực cấp. Không có một vương lãnh thuộc địa nào khác được mời trình diễn uy quyền bảo hộ một cách uy nghi trọng thể như vậy. Hoàng đế VN không những là hiện thân của hợp tác Pháp Việt mà là một biểu tượng của đế quốc Đệ Tam Cộng Hòa Pháp. Nhưng có điều BĐ không một lời nói với thần dân muôn loại; dễ hiểu, người Pháp đâu phải thần dân của ngài. Trớ trêu chính ngài là một thần dân của đế quốc Pháp.

Sau các cuộc nổi dậy ở Bắc và Trung Kỳ vào lúc khủng hoảng kinh tế thế giới, Pasquier, lúc nầy là toàn quyền Đông Dương liên minh trở lại với Sarraut, vừa lên chức tổng trưởng thuộc địa. Chính lúc nầy phải đưa hoàng đế về Huế để trị các nhóm làm nguy hại trật tự thuộc địa. Trong thư riêng gởi Pasquier, Sarraut nhấn mạnh toàn quyền phải cấp thiết thúc đẩy hoàng đế dùng thiên mệnh kết hợp dân chúng thành một khối và không để dân chúng nông thôn chống lại Pháp. Phải làm cho BĐ nhận chân những điều chúng ta muốn: thấy sự vĩ đại của triều chính; chứ không phải bù nhìn, đừng để cho công chúng chán ghét cho là quá phục tùng Pháp, điều mà lòng kiêu hãnh của vua không chấp nhận. “Tôi gởi thư cho ông với sự xúc động nầy: tôi không thể vui mừng nếu phải nói: chúng ta đã sẩy mất cơ hội quý báu đang đến trước mắt nhà vua”.

Khi BĐ về nước năm 1932, Pasquier thúc dục BĐ ra khỏi cung điện, thực hiện một loạt kinh lý, được sắp xếp hoàn bị, ở các vùng vừa loạn lạc.

Sarraut lẫn Pasquier tin rằng dân quê nổi dậy vẫn là những kẻ bảo thủ khắng khít với nền quân chủ. Paul Reynaud, tân tổng trưởng thuộc địa ủng hộ ý kiến để BĐ với đầu óc cải cách cầm đầu chính phủ hoàng triều, cặp chung với một người thủ cựu là Phạm Quỳnh và một quan lại Thiên Chúa giáo trẻ và muốn cải cách, có tên Ngô Đình Diệm. Nhưng khi BĐ và NĐD đưa ra các đề nghị cải cách Pasquier gạt ngang. NĐD từ chức vì tin rằng sự hợp tác Việt Pháp là trò bịp. Khi Pasquier chết năm 1934, hoàng thượng dửng dưng tiếp nối các cuộc đi săn bất tận trong rừng sâu. Về phần quân chủ thuộc địa, chính phủ Vichy có làm ít nhiều những gì Đệ Tam Công Hòa đã hứa. Đối đầu việc chiếm đóng của Nhật và áp lực từ phía người quốc gia, toàn quyền mới Jean Decoux theo vết cũ muốn dựa vào vương quyền để kết nối người Việt theo lập trường của Pháp. Tuy nhiên, kết hoạch nầy thất bại một phần thiếu điều mới lạ và phần lớn vì BĐ chẳng tha thiết gì.

Nhà vua khéo léo tránh né Decoux bằng cách đi khắp Cao Nguyên trong những chuyến săn bắn dài ngày hay ra khỏi kinh thành khi Decoux muốn gặp. Năm 1942 Decoux đã than vãn riêng rằng BĐ không ngó ngàng gì đến các cố gắng của chính phủ Vichy nhằm gia tăng uy tín của vương triều. Như những người (của chính phủ) cộng hòa trước và sau, Decoux quên rằng vương triều không có thớ gì chống với phe cách mạng, chừng nào Pháp không chịu thống nhất các miền và cho vương lãnh đủ quyền năng thông thường của một thủ lãnh quốc gia.

Tình hình ở VN khá khác với tình hình Miên và Lào. Ở hai xứ nầy Decoux lần đầu tiên phát động hợp tác Pháp-Lào và Pháp-Miên để cầm chân người Thái Lan đã chiếm miền tây Đông Dương từ 1941 với sự hậu thuẩn của Nhật.

Decoux hướng về một hoàng tử trẻ và năng động, Norodom Sihanouk, chủ trì lễ đăng quan năm 1941 và thúc đẩy ông ta rời cung điện thực hiên một loạt kinh lý các tỉnh. Vị vua trẻ biết dân chúng ra sao và dân chúng có dịp chiêm ngưỡng ngài ngự. Sihanouk không quên bài học làm sao canh tân vương triều và huy động tiềm năng của xứ sở. Toàn quyền cũng đến Luang Pravang gặp vua Sisavang Vong. Để vô hiệu hóa việc Thái Lan đòi chủ quyền các vùng phía Tây, Decoux giao cho vua Lào quyền cai trị một số lãnh thổ mà Pháp đã giữ làm thuộc địa hơn nửa thế kỷ trước. Từ đó nước Lào thống nhất hơn thời trước khi Pháp chiếm. Làm việc nầy, Decoux cho biết ông không có ý định để cho vua VN có sự thống nhất nầy, tuy VN khác với Lào đã thống nhất trước khi bị Pháp chiếm.

Sống lưu vong ở Hongkong, năm 1948, BĐ biết người Pháp sẽ đến gõ cửa. Ông biết người Pháp sẽ không bị ngăn cản bởi những sự kiện: - BĐ đã thoái vị 1945; - BĐ đã yêu cầu de Gaules đừng tái chiếm VN bằng vũ lực; - BĐ tham gia chính phủ HCM; - BĐ hiện đang qui tập các nhóm quốc gia không CS để thành lập Lực Lượng Thứ Ba.

BĐ biết rõ các “nhóm mới” cầm đầu chính quyền thuộc địa, tinh thần ra sao, ý thức hệ thuộc địa ra sao. Nhóm nầy đứng đầu là Cao ủy Léon Pignon và các cố vấn bổ nhiệm vào thời Pasquier và Decoux.

Nhóm cộng hòa mới nầy cũng như các nhóm cũ đều tin tưởng rằng nền quân chủ có thể được sử dụng lại như một phương cách chính trị để đối đầu các lực lượng chống thuộc địa, thể hiện sự hợp tác Pháp Việt và qui tụ dân chúng vào lập trường của Pháp và cung cấp cho chính quyền thuộc địa một công cụ cai trị gián tiếp. De Gaules muốn đưa Duy Tân về; BĐ chống lại. Nhưng khi người Pháp đồng ý thống nhất năm 1949, khi Hồng Quân Tàu gần chiếm hết Hoa Nam, và khi Mỹ ủng hộ Pháp, BD chấp thuận trở lại làm Quốc Trưởng quốc gia liên hiệp ba miền.

Tuy nhiên, thay vì thúc dục Pháp chấp thuận nền độc lập chân thật đầy đủ, BĐ rút lui về Đà Lạt, hủy bỏ các cuộc kinh lý hoàng triều và không chấp nhận ý kiến cho rằng để cho dân chúng thấy mình là một phương pháp cai trị hữu hiệu. Sự thoái thác nầy làm cho người Pháp và người quốc gia không còn nghĩ như trước BĐ có khả năng chống lại Pháp và CS, là khẩu súng lệnh của vương quyền. Cuộc sống ăn chơi của BĐ không gây chút gì hy vọng. Từ giây phút đó hình ảnh của BĐ ghi khắc vào lịch sử là một con bài thuộc địa.

…..phần nói về Sihanouk ……………..

Sau chiến tranh Đông Dương, VN chia đôi, BĐ bị Ngô Đình Diệm hạ bệ, tiếp tục lưu vong ở Pháp và “tắt nến” 1997 trong lãng quên hầu như tuyệt đối. BĐ khi chết vẫn còn tước hiệu: hoàng đế thuộc địa. Năm 2006, trước bia mộ cẩm thạch của BĐ tại nghĩa trang Passy tề tựu những người sau đây: bà vợ thứ hai, thân hữu quý tộc, những kẻ bảo hoàng, những cựu chiến binh chiến tranh Đông Dương. Trong một bài diễn văn, “công chúa An Nam” gốc Pháp, đã đọc lớn tiếng lời của Pasquier trong lễ đăng quan năm 1922 của thái tử Việt Pháp như sau: Ngày Ngài nhận lãnh quốc ấn dùng trong định mệnh tương lai của Ngài, hai khuôn mặt uy danh đã nghiêng mình, cười mừng và bảo vệ Ngài: đó là người nhiều trí huệ và già tên An Nam và người dịu hiền và đẹp tên Pháp Quốc”.*

Thế rồi nước Pháp thuộc địa trở thành tro bui và tiếp tục quay cuồng trong cơn lốc.— Bao Dai, Monarque Colonial


Ghi chú ca người dch

Đây là một bài khảo luận trong tuyển tập Le Vietnam depuis 2000 ans, xuất bản bởi đại học Montreal, Canada; bằng tiếng Anh và được dịch ra Pháp văn. Goscha so sánh hai khuôn mặt trái ngược Bảo Đại và Sihanouk, tuy hai ông đều là vương lãnh thuộc địa, và đồng là dân chơi. Chúng tôi không dịch phần về Sihanouk vì nó chỉ đúng ở giai đoạn đầu, về sau Sihanouk không còn giữ thái độ trung lập 1953 và ảnh hưởng quân bình lực lượng ở Đông Dương. Nhiều bài điểm sách cho biết Sihanouk là con cắt kè đổi màu.

Câu cuối nhận định về BĐ có thể làm độc giả, nhất là độc giả Huế, không vui lòng là: Từ giây phút đó, hình ảnh của BĐ ghi khắc vào lịch sử là một con bài thuộc địa. Nhưng từ giây phút nầy là lúc BĐ về Đà Lạt hưởng thụ sau khi đã tuyên bố độc lập thống nhất tại Vịnh Hạ Long và sau khi đã chỉ định Trần Trọng Kim lập chính phủ. Duy Tân cũng được huấn luyên như BĐ, tại Huế Duy Tân học tiếng Pháp với một giáo sư danh tiếng Tòa Khâm đưa đến. Duy Tân chỉ biết tiếng Tây, hiệu triệu dân Việt bằng tiếng Tây.

Christopher Goscha được giới phê bình cho là khách quan khi viết về Đông Nam Á. Chúng tôi không có dịp đọc các sách của ông; chúng tôi đã dịch bài điểm của ông về Đông Dương. Goscha có cái nhìn chính địa rộng rãi. Riêng bài nầy chúng tôi không đồng ý khi Goscha viết: Bao Dai, même dans la mort, conserve son statut d'«empereur colonial ». [ngay đến khi chết BĐ vẫn còn giữ quy chế "hoàng đế thuộc địa"]. Có lẽ Goscha chia sẻ lối nhìn của Pháp, không muốn tách BĐ khỏi nước Pháp, vẫn là ông vua thời nước Pháp có "la grandeur" là một đế quốc thuộc địa.

Nhưng không nên viết sử theo cảm tính. BĐ đã thoái vị, và làm quốc trưởng một nước VN thống nhất; qui chế hoàng đế thuộc địa chấm dứt khi thành lập "Etat du VN". Chúng tôi tôn trọng tác giả nên vẫn giữ đầu đề vì nó tương ứng với nội dung, nhưng tùy tiện không dịch câu nói trên của Goscha.


nơi an nghỉ của Cựu Hoàng Bảo Đai, nghĩa trang Passy, Paris

Wednesday, 4 February 2015

BÁN CHỢ TRỜI THỜI VIỆT CỘNG CÓ GÌ LÀ BẬY BẠ ĐÂU - ĐA SỐ LÀ DÂN NGON LÀNH THỜI TRƯỚC ./- Mt68

CON TRAI CỦA VUA BẢO ĐẠI BÁN CHỢ TRỜI

Thứ hai - 02/02/2015 21:32
 
Nguyễn                                    Phước Bảo Ân – ở Mỹ
Nguyễn Phước Bảo Ân – ở Mỹ

alt

Sau năm 1975, hai chị em “Công chúa” Nguyễn Phúc Phương Minh và “hoàng tử” Nguyễn Phước Bảo Ân, con của thứ phi Lê Phi Ánh vợ vua Bảo Đại) bị đuổi ra khỏi nhà 213 Công Lý Quận 1, vì cho đây là nhà của tướng VNCH Nguyễn Ngọc Loan.


Năm 1978 thứ phi Lê Phi Ánh bị quy là diện tư sản nên bị cải tạo và đưa đi KTM, vì không chịu được rừng thiêng nước độc ở vùng KTM Cao nguyên nên bỏ KTM về sống lén lút, không hộ khẩu, không CMND tại nhà ở nhờ của dì Phi Hoa (vợ của thủ hiến Phan Văn Giáo).
 Ba mẹ con của thứ phi đã tổ chức 3 lần vượt biên nhưng không thành.
alt
 
Gia đình “hoàng tử” Bảo Ân trong thời gian lăn lóc Chợ Trời.
Hai vợ chồng của “hoàng tử” Bảo Ân vất vả ra chợ trời buôn bán, mua được bất cứ cái gì bán có lời thì cứ mua đi bán lại để kiếm sống, rồi chuyển qua nghề bỏ mối nước tương, mua nước tương rồi thuê xe ba bánh chở từ Phú Thọ Hòa đến chợ Bến Thành. Thấy không khá, Bảo Ân chuyển qua bỏ mối dép xốp, nhưng trong khi làm ăn lại đụng chạm với mối lái khác, nên bị đe dọa. Tình cờ gặp lại người bạn tên Quân, nên Bảo Ân hùn vốn mua bán dĩa lậu đi bỏ mối cho các tiệm cà phê, sáng đứng ở Nguyễn Thái Bình để thu mua đĩa, chỉ mua nhạc hòa tấu thôi, buổi chiều thì đi xe bus đến các quán cafe nhạc ở Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Ðịnh để bán. Thời gian này, nhà nước chỉ cho phép các quán cafe mở nhạc không lời mà thôi, nên các đĩa nhạc hòa tấu càng ngày càng khan hiếm khó mua, lại xoay qua buôn bán đủ thứ, cái gì có lời là mua vào, bán ra.
Từ năm 1992 Bảo Ân sống tỵ nạn tại Westminter, Mỹ, có hai con, gái là Nguyễn Phước Thụy Sĩ, sinh năm 1976 và trai là Nguyễn Phước Quý Khang sinh năm 1977. Như vậy, Nguyễn Phước Quý Khang là cháu đích tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại và chắt của ông là một cặp trai song sinh có tên là Nguyễn Phước Ðịnh Lai, Nguyễn Phước Ðịnh Luân ra đời năm 2012.
Ngày 31 thang 7 năm 1997 vua Bảo Đại mất, an táng tại nghĩa địa Passy trên đồi Trocadero, “hoàng tử” Bảo Ân không có điều kiện đến Paris để tang cha vì chưa nhập quốc tịch, đến năm 2005 Bảo Ân sang Pháp viếng mộ cha, ông khóc sướt khi thấy ngôi mộ của cha rất đơn sơ, mà đã 8 năm không ai thăm viếng.
 
Phí tổn xây mộ tới 25.000 Euros, nên tổ chức vận động, có 1 cty ủng hộ 50% phí tổn, còn lại phải vận động nhưng phải đến 3 năm sau (2008) mới có đủ tiền để xây mộ cho vua Bảo Đại được khang trang hơn.

Ông Bảo Ân và con trai, Quý Khang, cháu đích tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại bên ngôi mộ mới vừa hoàn thành.
Mới thấy, câu nói “sông có khúc, người có lúc” rất đúng, dòng dõi hoàng tộc lên xe , xuống ngựa, kẻ hầu người hạ, hưởng giàu sang của bậc đế vương, không ai bằng, bổng chốc trở thành những kẻ trắng tay, rớt xuống tận đáy xã hội, hoàn cảnh thậm chí không bằng một dân đen.
Vua Bảo Đại, chết trong nghèo khó, không có người thân thích lúc đám tang. Năm 2008, tức sau 11 năm “hoàng tử” Bảo Ân mới thực hiện được việc xây cho cha môt ngôi mộ như ý.
 
Tác giả bài viết: Long Quang Nguyen




__._,_.__