Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label QGHCTranDucTaoUSA. Show all posts
Showing posts with label QGHCTranDucTaoUSA. Show all posts

Saturday, 3 May 2025

 Hai Lần Trốn Chạy

Trần Đức Tạo -ĐS16

1951

Hình như có ai gọi tôi? Dạy… dạy đi con…. Tiếng Mẹ tôi gọi hằng ngày là đi lễ vào khoàng gần 5 giờ sáng.

Thường là tôi ngủ nướng vài phút nữa rồi mới dạy hẳn. Từ nhà Bà ngoại ra nhà thờ chưa đầy một trăm

bước mà lo gì? Linh tính báo cho tôi biết lần này không phải đi lể vì còn quá sớm; đâu khoảng 4 giờ.

Đêm qua Ba Mẹ tôi nói chuyện gì mà lúc to lúc nhỏ có vẻ quan trọng lắm. Ba tôi thì đang đánh thức

thằng em khỏang 12 tuổi. Nó tưởng đâu được đi chơi nên ăn mặc sẵn sàng rồi. Cà Ba mẹ nhìn hai thằng

con mà aí ngại. Mẹ tôi như muốn khóc: “Mẹ thương các con lắm mà…” Tôi chỉ biết im lặng mà không

hiểu chuyện gì xảy ra. Tôi ôm lấy cổ Mẹ thì mẹ tôi chỉ nấc lên và cố giữ cho không thành tiếng . Tội

nghiệp, Mẹ về với Ba khi mới mười lăm tuổi đầu. Ông ngoại và ông Nội là hai bạn đồng song, cùng học

một thầy. Thấy hai đứa trẻ kháu khỉnh thi hai Ông và hai bà đồng ý làm xui gia với nhau. Đến khi gả con

xong ông Ngọại nhớ thương con còn non dại, bèn ngồi khóc hu hu, bắt đền Bà Ngoại. Ông Ngoại đâu ngờ

con gái đi lấy chồng thì cũng ở gần đây đó chớ có ngờ đâu đi xa dữ vậy…

Ba và hai anh em tôi ra khỏi nhà trước giờ đánh chuông lễ. Ba tôi còn nhắc Mẹ cừ để cái đèn dầu sáng,

đừng có tắt, cứ coi như Ba tôi đang ở nhà vậy… Vừa ra khỏi làng Ba tôi đứng lại chờ hai anh em tôi và

dặn: “Từ bậy giờ Ba đi trước, con cứ nhắm cái mũ của Ba mà đi theo”. Em tôi thì bước sau tôi một

khoảng cách khá xa, cũng nhìn đầu tôi mà đi… Ba cha con coi như người xa lạ. Cứ đi khoàng hai tiếng và

vắng người thì Ba tôi mới dừng lại đợi chúng tôi đến nghỉ mệt.

Những cơn gió Lào khô và nóng hừng hực làm rát cả mật mũi. Khổ nhất là mùa gió Lào còn đem theo

bệnh đau mắt ghèn. Con nít ngủ một đêm sáng dậy mở mắt không ra, cứ tưởng đã bị mù rồi. Phải lấy

khăn nhúng nước đắp vào mắt một lúc lâu cho ghèn tan ra thì mới mở mắt được. Khi anh em nhìn thấy

rõ nhau thì mới mừng là chưa bị mù. Thấy mấy bà đi chỢ cũng vào nghỉ nắng, chúng tôi lẳng lặng ra đi..

Ba tôi vừa cầm mũ quạt mấy cái là chúng tôi biết ba tôi bảo chúng tôi chuẩn bỊ lên đường. Tôi không

hiều làm sao mà Ba tôi lại thuộc đường đi đến thế, lúc thì đi trên đê, lúc thì đi qua đường xe lửa, lúc lại

đi xăm xăm vào nhà dân, đi đàng sau nhà ra đàng trước, qua bụi tre, ruộng sắn. Đường xe lửa chỗ còn

đường rầy, chõ đã bị bóc mất tà-vẹt. Đường cái đã bị đào thành đường đất. Trường học đã bị rỡ đề vào

chùa hay đình làm lớp học. Ba tôi cứ tiếc cái cầu Hàm Rồng thật đẹp bắc qua sông Mã. Tây thì chưa thấy

vào Thanh hóa bao giờ và được coi là khu an toàn thế mà họ cho ba cái đầu máy xe lửa vào giữa cầu rồi

giât mìn cho sập.Đây là kết qUẢ của tiêu thổ kháng chiến, hình thức của chiến tranh du kích.

Chúng ôi muốn khóc thét khi thấy một đám đông đang giết một con ngựa xẻ thịt. Vì sợ nên chúng tôi

lỉnh êm. Mấy tên du kích đang theo dÕi để có phần.

Trời đã xế chiều. Thằng em và tôi thắc mắc không biết đêm nay ngủ đâu. Mẹ tôi đã khóc sáng nay có lẽ

đã đoán trước lo âu này… Khi chúng tôi đến nơi thì thấy Ba tôi đang nói chuyện với một tên cán bộ. Có

điều lạ là ba tôi nói năng như quen tên này từ bao giờ. Ông nói Ông là hiệu trưởng và đi lãnh lưong về

phát cho giáo viên, hay đi họp chuyên môn về giáo dục như sư phạm mới chẳng han.Riêng tôi thì tái mặt

vì cái túi dết và khẩu súng lè lè bên hông chứng tỏ hắn ta làm lớn lắm.Mùi thuốc lá hắn hút cũng thơm

khác thường, khác với mủi thuốc lào bát mà Ba tôi hút mỗi ngày thật nặng mùi…


Lúc này thì chúng tôi đang bước vào một nhà thờ. Sau này tôi mới biết là nhà thờ Điền Hộ và Ba tôi cho

biết là đi thăm một ông cha phó trước có đi giúp xứ tại họ đạo làng tôi. Nay cha bị liệt chân nên đi lại

khó khăn.

Sáng sớm hôm sau, khi ngủ dây, chúng tôi đã thấy một anh nông dân ngồi chờ trước nhà. Cha đang ngồi

viết một vài chữ trên giấy rồi đưa cho anh nông dân. Cha nói hai con đi theo ông này. Ba tôi thí mặt tái

mét nói không nên lời. Tôi biết lúc này Ba tôi đang đau khổ lắm. Giao hai đứa con cho một người lạ đem

đi đâu thí lành dữ biết sao được. Tôi sợ đến muốn khóc mà không giám. Tôi khóc thì em tôi nó sẽ khóc

và Ba tôi không đành giao con cho kẻ lạ mang đi. Suốt dọc đường, anh nông dân lầm lì không nói gì hết.

Chúng tôi ra khỏi nhà thờ đã khá xa. Tôi cũng chẳng có chuyện gì để nói với anh nông dân mà có hỏi

chắc gì anh ta đã nói. Hình như anh ta cũng đang lo sợ chuyện gì cho an ninh của riêng anh. Chúng tôi

đang ở vùng sôi đậu. Có thể chúng tôi đang đi trên những bờ ruộng đã gài mìn; những tràng đại liên lâu

lâu từ sau lũy tre có thể bắn ra. Anh nông dân áo đen có khác gì anh du kích áo đen đâu…

Tự nhiên tôi thấy cần phải thay mặt Ba tôi lo cho mình và cho thằng em và anh nông dân. Tôi hòi anh ta

cha viết gì vậy anh ? Anh ta đáp gọn lỏn : tui có coi đâu mà biết. Vừa nói tôi vừa với tay lấy là thư từ tay

anh nông dân. Cha viết vỏn vẹn vài chữ “ Ba người này đi lấy đồ lễ cho cha “. It nhất tôi cũng phải biết để

trà lởi cho quân đội quốc gia, cho pạc-ti-dăng Pháp hay mấy chú du kích cộng sản.

Những ngọn núi đá vôi vùng Ninh Bình đả xuất hiện. Lá cờ Pháp tam tài đang bay phất phới. Đây cũng là

nơi trung uý Bernard, con trai độc nhất của đại tướng de Lattre de Tassigny, tư lệnh quân đội Pháp tại

Đông Dương, tử trận. Nếu may mắn không gặp cuộc hành quân nào của hai bên trong vùng này hôm nay

thì kể như tới được Phát Diệm, vùng Quốc Gia.

Hàng mấy chục cánh tay từ dưới ruông đang vẫy vẫy. Sau đó vẫy mạnh và khần cấp hơn. Cả ba chúng tôi

không hiểu chuyện gì đang xảy ra hay là mắt đang bị quáng gà, hay là ma trơi. Hai bóng người vuột qua

gấp rút, đầu đội nón lá. Một trong hai người nói hụt hơi “bị phục kích, chúng có súng “. Chúng tôi chạy

nốt cái bờ ruông mươi buớc thì gần năm chục người đang chờ nhằm bắn hai tên du kích vừa rồi. Chúng

tôi vừa cúi sang một bên thì hàng tràng đại liên, tiểu liên, súng trường bắn tung toé. Hai cái nón lá nhấp

nhô trên ruộng lúa xanh rì và nhỏ dần, nhỏ dần… Toán người phục kích gồm lính Tây, lính Ta, lính Phi

châu như Maroc, Algerie, Senegal… Kẻ ra cũng phải cám ơn đám phục kích đã chờ cho chúng tôi đi qua

rồi mới bắn và cũng vì thế mà hai tên du kích chạy thoát được. Ba người chúng tôi coi như chết hụt.

Tiếng đạn bay chíu chíu trên đầu nghe thấy lạnh tai. Hai tên du kích chạy thục mang vào hướng mà

chúng tôi mới đi ra năm phút. Nếu ba tôi mà cũng ra về cùng lúc với chúng tôi ra đi thì không biết ra

sao? Tôi thấy thưong Ba vô cùng. Tôi đang lẩm nhẩm đọc kính cho Ba bằng an. Tự nhiên tui thấy yên tâm

vì cả năm chục mạng lính ô hợp, súng Ống lớn bé đủ cả mà mỗi người bắn một nơi, bắn cả xuống ruộng

cách đó chừng mưoi thước. Tôi có cảm tường hay là họ bắn cho chúng sợ, cho chúng chạy?

Sau này hỏi lại Ba là lúc tui con ra đi thì ba đã về chưa. Ba có nghe súng nổ không ? Ba cho biết là hôm

đó Ba còn ráng ở lại nói chuyện vớ cha phó và cũng muốn nghe ngóng tình hình tụi con đi ra sao. Ba có

nghe súng nổ nhưng dân làng không báo tin gì dữ chắc là con đi được rồi. Sau đó cả tiếng Ba mới trở về

làng bẳng con đường cũ. Đi bộ là phương tiện duy nhất thời kháng chiến. Trong làng chỉ có cha Xứ là còn

chiếc xe đạp Saint- Etienne từ thời Pháp để lại. Ba tôi hay nói đi bộ lắm ”dạc” cả người, nước tiểu đỏ

như máu. Đôi dép cao-su ra đời cách đó vài năm và được coi là mốt mới, oai như bộ đội. Sau còn có dép

làm bằng crêpe tựa như nhựa non.


Chúng tôi đã ra tới Phát Diệm. Mọi cái đều mới lạ. Phố xá đông người qua lại. Ai cũng mặc đồ đẹp. Đồng

bạc cũng khác đồng bạc Hồ chí Minh. Có đồng in hình Ông Bảo Đại. Thằng em ngạc nhiên lắm vì có một

bà bán hàng mà nói hai thứ tiếng. Nó chạy chung quanh bà ta xem có tiếng nói thứ hai ở đâu ra. Nó cho

lá có ma. Tôi tức cười và giảng nghĩa đó là cái radio. Mười hai tuổi đầu mới biết cái radio lần đầu trong

đời. Ông Cậu và Ông Chú thấy hai cháu ra mừng lắm, đãi cháu uống xá xị con cọp.. Thấy mùi thơm thơm

có bọt tôi làm một ngụm. Cái lưỡi của tôi bị tê cứng và rát cả tuần mới bớt. Đúng là nhà quê ra tỉnh.

Ngược lại, ông nông dân bây giờ lại tỏ ra thành thạo lắm. Chắc ông ta đã ra vào vùng này nhiều lần. Sau

khi dẫn chúng tôi vào phòng cha Khánh thì Ông biến luôn vì coi như nhiệm vụ đã hoàn tất.

Cha Khánh hỏi hai con đi đâu. Tôi đưa tờ giấy cho ngài dù biết rằng chẳng liên can gì đền cha cả.Tui nói

luôn chúng con muốn gặp Ông cậu Hiền là học tró cũ của cha. Cha nói ngay” Nó nói với cha nó đi Hà-Nội

tuần nay rồi”. Cả hai anh em bật khóc. Làm sao bây giờ. Không gặp được cậu ruột thì đi đâu mà về thì ai

đưa về….Chúng tôi khóc ấm ức mà quên cả đói. Bây giờ chỉ còn hai anh em và nhớ nhà, nhớ các em, nhớ

cha mẹ. Nhớ thiệt là nhớ…. Có tiếng vài người bước vào…” Ờ hai cháu đấy à? Đúng rồi! tiếng Cậu Hiền

và Chú Phát. Chúng tôi ôm cứng hai người….. Việc đầu tiên là Cậu dẫn chúng tội đi ăn cơm và sau đó đi

sắm quần áo.. Tôi cứ thắc mắc tại sao chỉ cách nhau môt ngày đường mà hai bên có nếp sống khác hẳn

nhau. Người nào ở đây cũng ăn cơm trắng chứ không phải cơm độn như dân làng tôi. Gia đình tôi tuy

mang tiếng địa chủ nhưng cũng ăn cơm độn khoai hay đậu. Áo quần thi may bằng vải nội hoá rồi đem

nhuôm nước củ nâu. Củ nâu lớn hơn củ khoai mài. người ta gọt vò, cắt thành lát mỏng rồi cho vao cối

giã nát, vắt lấy nước để nhuộm vải thành vải nâu. Vải nâu có mùi khét, nhuộm bằng củ nâu nên đôi khi

dày như mo cau, cứa đau cả cổ. Hồi tháng Ba năm Dậu, dân làng đói quá ăn cả củ nâu bị ngộ độc

chết….Chúng tôi khoái hai cái áo Cậu mới mua hồi chiều. Sao nó nhẹ, nó mát và thơm thế. Hai anh em

hít hả mãi. Vừa mặc vừa để dành cả năm sau vẫn còn thơm! Tôi thật cảm động lòng tốt của Cậu đối với

anh em tôi. Cậu tôi cùng vài thanh niên con nhà khá giả trong làng xuống tỉnh học trong nhà dòng với

cha Khánh. Sau 1945 nhà dòng bị đóng cửa, học sinh về lại quê mình chờ đi bộ đội, đi nghĩa vụ lao động

hay đi dạy bình dân giáo dục. Cậu tôi còn làm một toán trường thanh niên công giáo, toán Micae. Vì sinh

hoạt tích cực quá mấy tên cán bộ trong làng ganh tỵ và dòm ngó. Cậu tôi còn mang thêm một tội là con

địa chủ, thấy tình thế ngột ngạt, bà ngoại đồng ý cho cậu trốn ra vùng quốc gia kiểm soát dù mới cưới vợ

vài tháng.Mấy năm sau Bà ngọại bị đấu tố vì mang tội địa chủ. Cán bộ bắt Bà phải quỳ nhìn thẳng vào

mặt trời đến mù mắt. Bà ngoại có bộ ván lim thật dày. Trưa nóng chúng tôi thương nằm cho mát nhưng

cán bộ cứ mượn về làm kịch. Rốt cuộc bà tôi thuê người đóng cho một cỗ quan tài. Ngày ngày Bà tôi lau

chùi đến bóng láng. Cô con dâu, mợ tôi, nhìn cái hòm mới mang vể muốn khóc thét.!

Ông chủ nhà nơi Cậu tôi ở trọ có dịp lên Nam Định nên Cậu gửi hai anh em tôi lên Nam Định với ông

Nội.Chúng tôi kể như bị bỏ học trong khi chờ Ba tôi dẫn mẹ và các em ra sau mà chưa biêt đến bao

giờ.Thế rồi như một phép lạ khi thấy năm người đang đi trên bờ ao mà sao giống ba mẹ tôi và các em

đến thế. Ô không phải chiêm bao mà là đúng Ba Mẹ và các em rồi. Nhưng sao ai cũng cháy nắng nhận

không ra. Kỳ này Ba dẫn mẹ đi bằng đò nên đỡ hơn nhiều. Mẹ tôi khóc mắt đỏ hoe….Cám ơn trời đã cho

gia đình chúng tôi được đoàn tụ. Mẹ cho biết các con đi rồi “tụi nó” hành hạ cả nhà. Không đi không biết

sao sống! Chúng đang chuẩn bị đấu tố….

Nha học chánh vẫn còn người Pháp làm việc. Họ cho biết Ba tôi ở Thanh Hóa thuộc Trung Kỳ mà nay

Trung kỳ chỉ còn Nhatrang là nơi an toàn nhất nên họ đề nghị ba tôi chọn Nhatrang, và trong vòng hai

hay ba ngày chúng tôi đã có mặt tại Huế để bổ túc hồ sơ. Ở phi trường Huế chúng tôi còn đọc được:

“Hoan hô Đức Quốc Trưởng hồi loan”. Nhưng những cơn mưa bong bóng không dứt giữ chúng tôi ở


trong nhà cả tuần lễ. Chúng tôi cũng không còn nhớ máy bay Cosara hay Air Việt Nam đã đưa chúng tôi

vào Nhatrang với biển xanh, nắng ấm và cát vàng.

Ba năm sau, Điện biên Phủ thất thủ, Hiệp định Geneve 1954 chia đôi Việt Nam ở vĩ tuyến 17. Cầu Hiền

Lương, sông Bến Hải ngăn cách Bắc Nam.Một triệu người chọn vào miền Nam bỏ lại mồ mả, ruộng vườn

để trốn tránh cộng sản. Hiệp định Geneve chia cắt Việt Nam nhưng đã dành cho người dân cả năm để

lựa chọn và chuẩn bị ra đi khác với hiệp định Paris 1975 để lại một sụ hỗn loạn và gây nhiều cảnh chết

chóc tang thương. Cũng nhờ vậy mà cả làng, cả gia đình ra đi được bình an dù phải trốn tránh. May mắn

thay trong cả triệu người di cư có ông bà nội, Bà Ngoại, bà Mợ và các con. Chúng tội mừng rỡ có dịp gặp

lại một số bà con, hàng xóm cũng vào được. Với sự trợ giúp của thế giới tự do, chính quyển miền Nam

đã ỗn định cho cả triệu ngưòi di cư sau đó.


1975

Từ 1954 đến 1960, miền Nam có thể nói sống trong an bình dù phải đối phó với khó khăn nội bộ. Năm

1960 Cộng sản thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam sau khi không có Tổng tuyển cử theo Hiệp định

Geneve 1954. Chiến tranh lại do Cộng sản gây ra. Hoa kỳ và đồng minh đã có mặt để giúp Vìệt Nam tự

do chận làn sóng cộng sản. Việt cộng được sự trợ gíp của khối công sản Nga, Hoa cố tình xâm lấn Nam

Việt Nam. Chiến tranh ác liệt đã gieo rắc tang thương trên đất nước Việt Nam. Đã có hàng triệu quân

nhân Mỹ tham chiến tại Nam Việt Nam. Gần 60.000 quân nhân Mỹ tử trận làm dấy lên phong trào phản

chiến tại HOA kỲ. Người Mỹ thấy không thắng tại Việt Nam nên đã bỏ cuộc qua hình thức Việt nam hóa

chiến tranh và bắt tay với cộng sản Trung Hoa. Biết được người Mỹ không giúp Nam Việt Nam nữa, khối

cộng sản nỗ lực giúp Bằc Việt ồ ạt tân công với chiêu bài giải phóng Miền Nam.Từ Bắc xuống Nam và từ

cao nguyên xuống đống bằng các tỉnh thành của Miền Nam bị cộng sản xâm chiếm. Dân chúng trốn

tránh cộng sản kéo theo một đợt di tản mới từ Miền Trung xuống Miền Nam và sau cùng là bỏ nước ra

đii bằng đường hàng không và đường thủy. Ra đii bằng phương tiện chính thức hoặc bằng lén lút, trốn

tránh.

Sự rút quân tại các tình bắc Trung phần và cao nguyên đã gây hoang mang va hoảng loạn cho dân

chúng.Những đoàn người bỏ chạy trên quôc lộ bi cộng sản pháo kích chết như rạ. Dân chúng dùng đủ

mọi phương tiện để chạy thoát thân gây gia đình ly tán.Việt cộng vào Nhatrang cuối tháng 3-1975 khiến

đường bộ Nhatrang-Saigon tắc nghẽn. Đủ mọi loại xe dân dụng, quân dụng bị bỏ lại để chạy bộ. Như

một phép màu, gia đình chúng tôi đều từ từ vào được Saigon. Chú em út phải chạy theo máy bay chạy

trên phi đạo và cuối cùng nhảy lên được . Phi cơ không giám ngừng vì ngừng thì dân chúng và quân nhân

tràn lên quá tải không bay lên được. Đó là chuyến bay cuối cùng rời thành phố Nha Trang. Toàn bộ gia

tài, nhà cửa đều bỏ lại sau 24 năm gây dựng…

Nhà ông Cậu ở Saigon nay như một “trung tâm hành quân”. Mọi người ra vào nhốn nháo. Ngoài đường

xe cộ ngược xuôi inh ỏi. Ai cũng đang tìm đường trốn chạy nhưng không biết chạy đâu.Một máy bay mới

thả bom xuống dinh Độc Lập. Không khí hoảng loan lại tăng thêm. Dân chúng xếp hàng để rút tiền mua

vàng mua quý kim. Mấy người bạn thân đang ra USAID làm thủ tục đi theo diện chuyên viên. Tòa đại sứ

Hoa Ký đông nghẹt người xếp hàng làm thủ tục xuất cảnh.Từng đoàn xe dài nồi đưôi ra Phi trường Tân

Sơn nhất…Một chú em được một người Mỹ làm cùng sở trước đây cho cái mật hiệu và dặn khi nghe

đưực tín hiệu này thì đến các cơ quan Hoa kỳ gần nhất để được di tản. Chúng tôi đánh stencil và quay


roneo phát cho từng người.Tôi làm thêm 5 cái thẻ bài cho hai đứa con và ba đứa cháu có địa chỉ phòng

hờ khi thất lạc.

Các văn phòng đều vắng. Nhân viên chỉ còn dăm người. Sốt ruột quá tôi cũng chạy về nhà ăn trưa. Khi

vào phòng ăn tôi với tay mở radio, đài FM của Mỹ đang phát thanh nhạc bỗng ngưng hẳn và đọc lên cái

tín hiệu tôi quay roneo hôm qua. Thật sự cứ nghĩ làm cho có và không mong nó xảy ra. Mật hiệu lại đọc

nữa và có vẽ hối hả hơn.: “ 105 degrees and rising I am dreaming the White Christmas”.Tôi bốc điện

thoại gọi chú em mở radio và nói chạy lẹ xuống USAID cuối đường Lê văn Duyệt như đã định trước.Thiên

hạ ngược xuôi như nước chảy.Người MP Mỹ không cho chúng tôi vào dù có nói và đưa mật hiệu. Chúng

tôi đên điểm hẹn sớm nhất và chỉ có bốn người, hai vơ chồng và hai con. Mỗi người chỉ có một bộ quần

áo trong người. Cái Honda tôi vẫn nổ máy. Bỗng nhiên có hai chiếc xe Jeep có dán chữ Press chở đầy nhà

báo trờ tới và anh MP phải nâng rào cản. Thừa cơ hội, tôi đánh liều chạy theo vào. Máy bay trực thăng

đang bốc người ở building mé sau. Đám phóng viên ngoại quốc mới vào đã biến mất. Môt nhân viên

USAID người Việt hứa sẽ bốc những ai đã vào, trong đó có cả gia dình ông ta gồm mẹ già, vợ và sáu bảy

đứa con. Chúng tôi ra cổng chờ cha mẹ và các em tới sau nhưng ông MP đuổi vào; lấy lý do có thể bị bắn

sẻ. Từ đó chúng tôi mất liên lạc với cha mẹ và các em. Dân chúng tràn vào USAID ngày một đông và trực

thăng không tới nữa. Hỏi ông người Việt thì ông ta trả lời phi hành đoàn đi ăn cơm và tới 11 giờ thí ông

ta nói phi hành đoàn đi đổ xăng. Sự thật máy bay chở quá tải, bị rơi và bị bắn ,nên không tới đón trong

thành phố nữa. Sau 11 giờ dân chúng phá hàng rào vào hôi của. Chúng tôi chán ngán ra về. Phi trường

Tân Sơn Nhất bị pháo kích, không còn các chuyến bay . dân chúng bị kẹt cứng chịu trận. Chúng tôi phải

ghé vào nhà người quen trú qua đêm. Hai đứa con nhịn đói từ trưa nằm sõng xoài.

Rạng sáng ngày 30 tháng Tư 1975, chúng tôi lại chạy ra kho Năm bên Khánh Hội. Ghe thuyền đủ loại chật

nich dòng sông. Mọi người trên bờ ai cũng vẫy tay xin quá giang nhưng không ai giám ngừng. Có người

dùng súng bắn thị oai cũng không làm cho ghe thuyển nào vào cứu. Một số dân chúng hiếu kỳ ra coi

cảnh náo loạn. Một só nói gạt ghe này sắp ra khơi để mọi ngưới leo lên và họ lấy xe chạy. Một số khác

trèo lên cả ghe đang đóng hay đang sửa chữa. Một số khác đi cướp của. Một số thanh niên đeo băng đỏ

chạy tới chạy lui. Ai có băng đỏ đổ xăng khỏi trả tiền. Hai ông đại tá với một nhóm quân nhân đi xe có

truyền tin giống như đang đi hành quân cùng với vài người dân sự mà sau đó chúng tôi nhận ra là dân

biểu và nghị sĩ. Trước khi ra đi họ còn nói với tôi: Có đi thì ra Vũng Tàu cũng nạp mang thôi. Tụi nó đã

vào đến Cần Giờ rồi. Tôi nhận ra một người bạn bên Hành Chánh bèn hỏi có đi không. Anh ta trả lời gọn

muốn đi lắm nhưng biết đi đâu bây giờ. Tôi đề nghị đi đường bộ ra Vũng Tàu rồi tính. Anh ta trả lời cầu

xa lộ chúng giật xập rồi. Tôi có cảm tưởng mọi người đang như con cá trong lờ hay con chuột trong bẫy,

ráng tìm cách thoát thân mà không được… Vừa đói, vừa thất vọng, chúng tôi quay xe về văn phòng gần

Kho Bạc. Xe vừa lên cầu Calmette thì Ông Minh tuyên bố đầu hàng. Trời đã lất phất mưa.Người lính

Thuỷ quân lục chiến gác kho Bạc không còn ở đó nữa. Chúng tôi, cả nhà như muốn khóc và suy xụp hoàn

toàn. Tương lai rồi sẽ như hai mươi bốn năm trước mà chúng tôi đành bỏ ra đi.

Một toán quân chừng 12 người, đầu đội nón tai bèo đi dọc bên hông Ngân Khố. Tên chỉ huy la lớn: “ yêu

cầu đồng bào mở cửa đón quân giải phóng”. Ngày hôm sau chúng tôi được lệnh trình diện tại nhiểm sở.

Một số người nhận ra tên chỉ huy mới là một nhân viên Saigon Tin Dụng cũ.

Vài ngày sau đài BBC loan tin những ghe thuyểm và tàu hải quân rời hải phận Viêt Nam.Tôi cầu xin

những người thoát đi được có gia đỉnh tôi. Tôi bật khóc lúc nào không hay. Chừng nào tôi mới gặp lại

cha mẹ, anh em, họ hàng, bạn bè. Nhiều người đã từ Bắc vào Nam năm 1954 với bàn tay trắng, nay lại ra


đi một lần nữa năm 1975 và cho đến nay 2017 tính ra 62 năm chưa về Cố hương. Sáu mươi hai năm là

cả một đời người.

Cái thư đầu tiên từ ngoại quốc gữi về là thư của Ông Cậu tôi trong đo báo tin cả gia đình đã tới Mỹ bằng

an trừ một tin buồn là cô em kế tội bi khủng hoảng tinh thần khi ra đi, nên đã bước xuồng biển từ chiến

hạm Mỹ , bỏ lại chồng và ba con còn nhỏ dai.Cô em này rất ngoan và đựợc ba mẹ yêu quý. Tôi không

hiểu làm sao Ba Mẹ tôi có thể chịu đưng nổi trước tin dữ này. Mẹ tôi cho biết lúc đó trên tàu người đông

như liến, nằm la liệt, nhiều người nói mê sảng. Mẹ cho biết, khi nghe con chết mà không còn nước mắt

để khóc nữa. Ba bốn ngày sau mới thấy đau lòng vì thương con... Mẹ cũng cho biết khi hay tin có người

rơi xuống biển, 7 thuỷ thủ Mỹ đã nhảy xuống mà vớt không được xác vì sóng quá cao. Sau cùng một ngư

dân Việt Nam đã nhảy xuống và vớt đươc xác em tôi. Mẹ tôi có đền ơn ông ta nhưng ông không nhận.

Sau này mỗi lần giỗ em, tôi vẩn đọc kinh cầu nguyện cho ông được mọi ơn lành . Em gái tôi được thuỷ

táng. Đại dương mênh mông biết em trôi dạt về đâu! Nhớ lại hồi còn bé mỗi lần thấy em tôi nhỏng

nhẻo, Ba tôi nhăm mắt lại rồi dọa: con không nghe Ba chết nhá.” Không, không, Ba không được chết

đâu đó, và ôm cứng lấy Ba. Thế mà nay em tôi lại ra đi trước Ông Cụ…!!

Sau lễ tại nhà nguyện đường Tú Xương, vợ tôi nói nhỏ mình đi thăm cô bạn có con đang nằm ở nhà

thưong gần đấy. Hai vợ chồng người bạn đang ủ rũ bên đứa con gái nằm thiêm thiếp. Người chồng,

nguyên là một phó tỉnh trưởng vùng tiền giang nhưng nay thì đang khiêng sắt bên kho Khánh Hội. Tôi

kéo ông ta ra mé cửa sổ hỏi nhỏ : “Ông có tính gì không hay cừ khiêng sắt vậy sao ? “Ừ để coi “. Dù là

bạn thân, Ông ta chỉ trà lời có thế… Khoảng sáu tháng sau hai ông bà trở lại . “Anh còn nhớ chuyện Anh

hỏi trong nhà thương không? Nhớ, nhớ chứ, nhưng nay thì tụi tui cạn “cây” rồi sau bốn năm lần thất bại.

Mình tổ chức, cũng thất bại mà đi theo cũng bị lường gạt hết tiền. Kể như sau 1975, Miền Nam có một

nghề là gạt nhau vượt biên. Đi đâu cũng nghe tổ chức vượt biên. Nếu đồng ý phải đóng trươc vài cây

vàng để đóng ghe, mua xăng dầu tich trữ nhưng lúc ra đi thì gia đình họ đi, bỏ mình kẹt lại. Mất vàng,

mất tiền mà không giám nói với ai…Hôm nay bị bể, mất dăm cây vàng, sáng hôm sau vào cơ quan phải

đóng kịch tỉnh bơ như không có chuyện gì xảy ra…. Từ Sàigon lặn lội xuống Rạch giá, một người dẫn ra

bến cá, chỉ cái ghe có phơi cái quần xà lỏn. Hắn nói nhỏ tuần sau tui mình “dọt”. Trên đường về hắn xin

hai cây vàng “đổ xăng dầu “. Thật giả có trời biết. Đôi khi mặc cả một cây vàng mà lỡ chuyến đi. Tuần sau

xuống thăm dò tình hình thì nhà đó đã bị niêm phong, tức họ đã ra đi thật…Đôi khi tin bạn mình nhưng

bạn mình cũng bị lừa gạt thành ra mất tiền cả đám với nhau và mất cả tình bạn lâu năm. Nhà tôi thường

than: đúng là không có cái dại nào bằng cái dại tìm đường vượt biên. Nhưng xét cho cùng đó là một cái

giá của tự do. Ngoài mất tiền, đôi khi còn phải trà cả sinh mạng. Nể tình xui gia,hai gia đình cùng rủ

nhau vượt biên theo diện người Hoa 12 cây một đầu ngưởi. Vì gấp rút và tham tiển, kỹ thuật đóng tàu

sơ sài, chở quá đông, tàu chưa ra đến hải phận quốc đã rã bèn. Cả hai gia đình chết hết…

Tụi tôi hỏi ông bạn phó tỉnh :” tui mình quen biết vói nhau, tôi tin ông bà, nhưng căn cứ vào đâu mà ông

bà tin họ” ? “Hồi tôi làm phó tỉnh thi Ông Ba là kế toán trưởng của tỉnh. Ông ấy tu tại gia. Mấy người đưa

hối lộ Ổng gọi tôi cho cảnh sát bắt nhốt hết. Sau đó họ đành phải mua tượng Phật để đền ơn ông ấy. Do

đó mà nhà Ổng có tượng Phật chưng từ ngoài ngõ vô đến trong nhà. Một nửa nhà Ổng đi chuyến trước

rồi nay đến lần Ồng và mấy đưa con còn lại. “Rồi còn ai làm tài công? “Anh yên trí đi. Ông này lái cho

ViệT Nam Thương Tín trước đây. Đi về Saigon- Singapore như cơm bữa. Chính lẽ Ổng lái đi chuyến trước

cùng chung với vợ con, nhung “taxi” chở Ổng ra “cá lớn” trễ nghi bị lộ nên chúng bỏ Ổng lại. Kỳ này đi có

cả anh ruột Ổng nữa… Mấy Ổng là em ông bự để có dịp nói anh sau… Anh tin tôi đi, mất tôi đền “. Tôi

đáp: đã mất thì mất cả hai, Ông cũng mất còn lấy gì đền”. Để cho tôi dễ chấp nhận, Ổng nói “anh có bao

nhiêu đóng cho đám họ bấy nhiêu. Lúc đi anh đem theo mấy đồ anh sắm kỳ trước mang theo được rồi.


Ồng muốn nhắc tôi mang la bàn,cờ cấp cứu, pháo hoả châu, bản đồ, mấy cái máy bơm của thiết giáp để

bơm nước tự động khi cần….

Sau mấy lần đình hoãn, chúng tôi quyết định đi mùng 4 Tết ta vì thời tiết lúc đó biển còn êm và mấy ông

công an còn lo vui Tết. Điểm hẹn gặp nhau của người Saigon xuống là chợ Cái Bè, lấy lý do đi ăn giỗ.

Chúng tôi đã mua xong đồ đi ăn giỗ mà sao không gặp ai quen cả . Kinh nghiệm mấy lần trước thất bại

làm tôi lo lắng…Hai cái nón tai bèo lù lù đi tới. Tôi liếc nhìn chừng vợ và hai đứa con. Nếu chúng bắt tôi

thi vợ con cứ im lặng về lại Sagon như đã hẹn trước. Tôi nghiệp vợ tôi sợ hãi thấy rõ… Hai cái nón tai bèo

ngay sát sau lưng tôi. Cái nón rộng vành nên che hết nửa khuôn măt. Đến lúc này thì tôi lại mong xem

chúng làm gì. Dù sao tôi cũng có giấy đi đường đàng hoàng.. Một tiếng nói cho tôi vừa đủ nghe : “ chú

mới xuống hả chú” Ối trời ! Tôi vừa lo, vừa sợ, vừa giật mình, vừa vui và muốn đá cho nó một phát. Nó là

thằng Tính mà. Nó làm tôi hết hồn. Nó đã lên nhà tôi lấy đồ mây lần rồi mà tôi nhận không ra. Phải công

nhận nó hoá trang giỏi quá… Chúng tôi lẳng lặng đi theo hai cái nón tai bèo về nhà một người cùng đi với

chúng tôi. Nhà một nửa trên bờ một nửa trên sông. Vài cái tam bản của dân chúng đi chợ buộc đây đó.

Tính cho tôi biết gia đình Ông Phó cũng vừa mới đến đang ở trên lầu và cho biết đúng trưa thì ra điểm

hẹn. Thời gian sao chậm hẳn lại. Bụng thì đói mà không muốn ăn. miệng đắng nghét…

Dân chúng đi chợ đang ra về. Tính lái cái tam bản chở gia đình tôi cùng tách bến. Cái ghe đi trước có hai

tên đội nón cối đang chỉ chỏ chúng tôi và tỏ ra đồng ý vơi nhau chuyện gì đó. Tôi nhìn kỹ lại thí thấy vợ

tôi khác hẳn bà con đi chợ về. Cũng đội nón lá nhưng lá còn mới cáu cạnh; cũng mặc quần đen nhưng

màu đen còn bóng láng…Nói chung vợ tôi không thể là một thôn nữ lam lũ đi chợ về. Quần áo của hai

đứa con cũng nói lên chúng không phài con nít nhà quê. Nếu tôi là công an tui cũng phải xét giấy tờ rồi…

Ghe đang chạy tự nhiên chậm lại và rẽ vào một con lạch. Nhìn lên bờ thấy một ông già cởi cái áo pijama

trắng ra và rũ bụi mấy cái làm ám hiệu. Có thể là ám hiệu của phe ta hay là ám hiệu cho công an vây bắt.

Trên trời dưới nước chạy đâu bây giờ! Hai cái tam bản nữa mới quay vào nhưng không phải của ông

Phó. Tôi lo toát mồ hôi tại sao không tản ra xa mà tụm lại một chỗ như thế này. Những người đi chợ về

qua ai cũng nhìn. Thôi may rủi đều phó cho Ơn Trên. Một cái ghe ở xa phóng tới cho Tính biết mười

thùng dầu chôn hôm rày bị sóng đánh trôi mất năm thùng; hiện đang nhờ người thu mua. Linh tính như

báo điếm chẳng lành. Một người đứng tuổi chèo ghe tới lui đang hát bài Mười Thương. Tôi không thể

hiểu Ông ta là ai. Nếu đi chợ thì ai về nhà đó, cớ sao chèo tới chèo lui làm gì?.. Trời tối dần… đến 10 cái

tam bản tụ lại giữ dòng sông… Trong xóm tiếng chó sủa vang và to dần. Thôi đám du kích hay công an ra

bắt chăng? Nhưng lạ thay trên bờ lại có mười mấy người nói chuyên oang oang….Một cái ghe bự như cái

nhà lù lù tới và chẳng ai nói một câu, những nguời trên 10 cái tam bản nhảy lên ghe lớn trong tich tắc.

Tôi cũng chẳng còn nhớ tôi đã thảy vợ và hai con lên ghe lớn hồi nào. Chỉ nhớ tôi lên ghe lớn sau cùng.

Ông Ba, kế toán trưởng của ông Phó, đứng gần đó cúi đầu chào tôi một cách trịnh trọng. Tôi vỗ vai ông

ta và nghĩ thầm “đang hối hả mà chào chi kỹ quá vậy”. Sáu mươi lăm người đã vào gọn trong ghe. Chúng

tôi đang hướng ra cửa Cổ Chiên. Dân chúng Cửa biển này đều làm nghề đóng đáy trên dòng sông nên

ghe đi hình chữ chi và phía trước có người dẫn đường. Một em bé trên mười tuổi lái cái ghe nhỏ với

ngọn đền dầu đi trước. Một tiếng” xạt” vang lên, ghe bị mắc cạn. Em bé đã quên cái ghe sau em chất

đầy người, cần có độ nước sâu hơn. Các em thanh niên xuống đẩy ra một cách nhanh lẹ. Một em cho

biết ghe còn phải đi qua ba đồn công an mới ra tới biển. Em cho biết sẽ tắt máy và cho trôi không ,để

tránh tiếng động….” Qua ba đồn công an chưa các em? Rồi, êm rồi Chú. Tôi mệt quá nên đã ngủ thiếp đi

hồi nào không hay. Hú hồn. Gió biển mát rợi làm mọi người dễ thở. Em bé đang chào từ biệt. Ai cũng

tặng em tiền, nhất là tiền Việt Nam. Có người còn ôm hôn em vì em còn nhỏ quá. Người đi không biết

may rủi ra sao nhưng người về thì vật lộn với đời sống lam lũ khó khăn. Tương lai của em là bán vé số,


rồi đi thanh niên xung phong, đi nghĩa vụ quân sự bên Căm-pu-chia…Tính đến nay em đã bốn mươi sáu

tuổi. Em còn sống hay đã chết, còn ở Việt Nam hay lại tổ chức một chuyến nữa ra đi vài năm sau…Tôi

muốn nói lời cảm tạ Em một lần nữa….

“Ối tụi bay ra coi vượt biên” những người lố nhố trên 5 cái ghe đánh cá quốc doanh đang gọi nhau ra

xem cái ghe của chúng tôi. Theo lệ thường, mùa này, thuyền ra cửa Cổ Chiên đều hướng về Bắc ra Phan

thiết đánh cá. Trong khi ghe của chúng tôi lại xuôi Nam. Hên cho chúng tôi là họ không bắn vì có thấy

khẩu AK gần mũi tàu. Thêm nữa họ đã thả lưới nên không đuổi. Và sau cùng có thể họ làm ngơ cho

chúng tôi đi thoát…Quả thật như vậy tôi phải cám ơn họ.. Chúng tôi đang xa rời quê hương. Tình cảm thì

vui buồn lẫn lộn. Nếu thoát được thì có tự do, có cơ hội cho con cái thăng tiến nhưng rồi quê hương thì

sao. Tôi có cảm tưởng phạm tội với quê hương và bà con còn lại. Rạng cau, bụi chuối, lũy tre đang xa

dần.Thôi xin chào quê hương ở lại. Xin tạ tội ra đi và xin hẹn một ngày về. Nhưng biết bao giờ… Ba giờ

sau một cái ca-nô có lẽ từ Côn Sơn ra đuổi chúng tội. Mới đầu chúng tôi tưởng hai cái râu tôm nhưng

một lúc sau thì rõ ràng hai khẩu cà-nông và trên ca nô chỉ có một người lái. Họ muốn bắt để lấy của rồi

sau mới giải về giam để làm tiền. Bác tài công tái mặt . Ông ta nói nó đang đuổi bắt mình. Ông ta trả lại

cái ống nhòm cho tôi và tăng tốc lực. Đám thanh niên đang phụ nhau quay cái máy phụ F10. Ba cái tay

quay đã gẵy và như một phép mầu khi bi rượt gấp nhất thì cái thứ tư thành công. Nhưng nó bắt đuợc

mình chỉ là thời gian. Ông tài công làm một vòng tròn trên biển, bọt trắng xóa. Tôi nhìn kỹ thì nó vẫn còn

đuổi phăng phăng. Ông bảo để Ông làm hai vỏng tròn liên tiếp và thật gắt rồi ông ta nói “Anh coi xem nó

còn không”? Tôi nhìn kỹ thì thấy bọt trắng xoá hình số 8 trên mặt nước mà không thấy cái ca-nô đâu cả !

Ông ta giảng nghĩa vì nó háu ăn, chạy lanh, làm sóng to và chỉ một bất cẩn nhỏ là chui xuống đáy biển l

Tôi thật bâng khuâng… Hai người cùng yên lặng.

Sau bốn ngày lênh đênh, biển êm như mặt hồ Dalat.Nhưng ban đêm thí thật kinh khủng. Trên trời dưới

nước bao la, một chiếc ghe mong manh lầm lũi không biết mệt mang theo sáu mươi lăm sinh mạng đi

tìm lẽ sống. Chỉ một cơn sóng lớn đủ đưa tất cả mọi người về lòng đại dương. Nước biển ban đêm đen

như dầu hắc và có vẻ đặc hơn ban ngày. Tôi liền nghĩ đến Cô Em.” Em có linh thiêng phù hộ cho anh chị,

các cháu và bà con trên ghe. Lúc này mà sóng gió nổi lên thì ai mà cứu vớt. Anh cũng chẳng có gì cúng

em cả…” Tôi đã khóc và cầu xin một cách thành khẩn. Tôi tin Em tôi sẽ cứu người anh Cả. May quá trong

túi còn hai điếu thuốc “Hải Đảo “. Tôi mồi cả hai điếu thuốc. Cúng em một điếu và tôi hút một điếu!

Tôi giật mình vì qua bốn ngày mà sao không thấy đói. Có lần hỏi đồ ăn đâu thì họ nói trên mui ghe và chỉ

có một rá xôi ngào đường, ngọt đến không nuốt nổi. Hình như cũng chẳng có ai đi tiểu. Lo sợ quá cái

đồng hồ sinh học cũng không làm việc chăng ? Qua bốn ngày thì phải ra đến hải phận quốc tế mà sao ít

thấy tàu bè gì nhiều. Có hai lần tàu buôn thấy ghe chúng tôi ra hiệu cấp cứu SOS, họ ngừng xem tình

hình rồi đi luôn, bỏ mặc cho đại dương. Hồi đó có lệ tàu nước nào vởt dân tị nạn thì phải mang về nước

đó. Thuyền trưởng vì thương người mà vớt có thể bị đuổi hay khiển trách.

Hôm nay nữa là năm ngày rời quê hương, trôi nổi trên biển cả để rồi không biết sẽ về đâu ? Sóng không

lớn nhưng sao cái ghe lắc mạnh hơn. Dưới phòng máy xì xào hết dầu. Tôi và Ông phó bắt đầu nấu nước

biển đế cất lấy nước ngọt giống như cách nấu rượu ở quê nhà. Trung bình một giờ cất được một lít nước

lờ lợ nhưng uống được. Chúng tôi phải giữ kín vì 65 người cùng khát một lúc thỉ nguy to. Ngày mai có lẽ

phải phá bớt cái ghe để có cái nấu nước biển mới có nước ngọt?

Một con tàu cao to như trái núi sừng sững chận cái ghe nhỏ xíu của chúng tôi lại. Trên tàu lớn có chừng

bảy người cởi trần trùng trục, râu ria rậm rạp, tóc màu hung, thật to lớn, đứng nhìn cái ghe khiêm

nhường của chúng tôi. Họ đã đến đủ gần để nói đủ nghe. Họ nói vọng xuống họ muốn gặp thuyền


trưởng.Bác tài công cho biết Bác mà lên gặp họ, không ai kềm ghe thì ghe mình va vào tàu lớn bể lấy gì

đi nữa. Ông ta đề nghị tôi lên gặp họ. Thật sự tôi hơi lo vì không biết quốc tịch chiếc tàu kia. Nếu nó là

tàu của phe Cộng Sản thì họ cũng vớt nhưng lại đem vế tận kho Năm Saigon ! Tôi nói bác tài công chạy

một vòng quanh cái tàu lớn cho tôi tìm tông tích cái tàu kia. Cái cờ quốc tịch của họ đã bị khói tàu làm

đen thui. Theo tôi đoán hoặc là tàu Ấn Độ hoặc là tàu Hòa Lan. Bác tài chạy chưa hết vòng thì tôi nhìn

thấy chữ Rotterdam. Tôi la lớn họ là tàu Hoà Lan. “Cám ơn Trời Phật chúng ta sống rồi “. Tôi tình nguyện

lên gặp họ. Ông Captain tàu lớn rẫt lịch sự và vui tính. Ông cho biết :

_ Ông sẽ vớt chúng tôi với điều kiện là đánh chìm cái ghe nhỏ của chúng tôi

_ Đàn bà và con nít lên trước và ở trong phòng của thủy thủ nhường chỗ………

Để chắc ăn tôi hỏi ông ta “ Vậy tàu các ông sẽ đi đâu và bao giờ ? Ông cho biết :” chúng tôi từ Hongkong

về Singapore. Sáng mai 7 giờ các ông sẽ tới Singapore”. Tôi biết chúng tôi đã được cừu thoát và coi như

sống lại. Tôi ôm lấy ông Captain và cám ơn mà nước mắt lưng tròng.

Tôi và Ông thuyền trưởng xuống ghe kiểm soát lần chót. Chiếc tàu lớn lùi nhẹ qua chiếc ghe nhỏ và trên

biển chỉ còn những mảnh ván vụn trôi lững lờ. Một vài thanh niên khóc vì họ góp công làm ra nó. Nó đã

tan tành, sau khi cứu mạng chúng tôi.


TAO TRAN

Kính dâng Hương Hồn Cha mẹ, Em Yến 24-4-2017

Kính cám ơn Cậu NHT đã giúp đỡ gia đình cháu ra đi 1975

Cám ơn bạn NST,( ĐốcSự HC, Ông Phó), Các bạn cùng tàu vớt Smitlloy 12( 1981 )

Gửi về hương hồn Lâm Ngọc Báu, người vợ hiền yêu quý

Mến gửi “ Người Cuối Trời”

Gửi tới Các Em và các con Linh Trung để nhớ ngày ra đi 1981

Thân gửi quý bạn Kỷ niệm 30-4-75

Thursday, 29 August 2024

 TAM HƯỜNG, MỘT THÚ VUI BỊ QUÊN LÃNG

Trần Đức Tạo

Trước đây, Tam-Hường là một thú vui trong gia đình vào ngày Tết và những ngày đầu Xuân.



Nhưng rồi chiến tranh kéo dài đã khiến thú chơi Tam-Hường không còn được phổ biến nhiều.

Nguyên nhân có lẽ một phần vì đời sống kham khổ, ít ai còn chơi Tam-Hường. Ngay trong gia

đình, chúng tôi cũng chỉ chơi vào những năm đầu 1950 rồi thôi. Do đó, nhân dịp Xuân về, chúng

tôi muốn nhắc lại một thú vui nhàn nhã và thanh lịch kẻo sau một thời gian quá lâu, thú vui này

sẽ bị mai một.


Về NGUỒN GỐC Tam-Hường: Chúng tôi không rõ chắc chắn

Tam-Hường xuất hiện từ hồi nào và ở đâu nhưng qua nét chữ

thì con bài được ghi bằng chữ Hán. Điều này không có nghĩa

Tam-Hường xuất phát từ Trung-Hoa vì các Cụ ta ngày xưa đều

dùng Hán-tự trong thư-văn, câu đối hay trong hoa-văn ở đình

chùa. Bài Tam-Cúc, Tứ-Sắc đều dùng chữ Hán cả và có thêm

hình vẽ. Theo chúng tôi tìm hiểu, Tam-Hường trước đây thịnh

hành từ Thanh-Hóa vào đến Thừa-Thiên, nhất là kinh thành

Huế.


Các con bài đều mang các học-vị như Tú-Tài, Cử-Nhân, Tiến-

Sĩ, Hội-Nguyên, Bảng-Nhãn, Thám-Hoa và tột đỉnh là Trạng-

Nguyên.


Theo Cụ Dương Quảng Hàm, nước ta có khoa-cử từ đời nhà Lý (1009-1225) nhưng đến đời nhà

Trần (1225-1400) mới có các khóa thi thường lệ cho thi Hương và thi Hội . Dưới đời Vua

Trần Thái Tôn có mở các khoa thi Thái-học-Sinh. Năm 1247, Ngài đặt ra Tam-Khôi (ba người

đỗ đầu thuộc Đệ-Nhất-Giáp) là Trạng-Nguyên, Bảng-Nhãn, Thám-Hoa. Năm 1374, Vua Trần

Duệ Tôn mở khoa thi Đình (thi ở sân Vua) lấy Tiến-Sĩ. Năm 1396, Vua Trần Thuận Tôn đặt

ra thi Hương lấy Cử-Nhân. Như vậy các kỳ thi chọn nhân tài ra giúp nước có từ thời nhà Lý và

nở rộ vào thời nhà Trần với các quy-lệ rõ ràng.

Đến triều Nguyễn, năm 1822 có mở khoa thi Hội đầu tiên và thi Hương vào năm 1807.(1)

Qua chút tài liệu lịch sử trên ta có lý do tin phần nào Tam-Hường là của Việt-Nam, dựa vào các

học-vị của triều đình ta xuất phát từ đời Lý, hoàn thiện qua đời Trần cho đến đời Nguyễn.

Các thẻ bài của Tam Hường cũng từ nhỏ nhất là Tú-Tài cho Nhất-Hường, và Trạng-Nguyên là

cao nhất cho Tứ-Hường,Lục-Phú. Sự chọn lựa này phù hợp với các văn bằng cấp phát của triều

dình từ thấp đến cao. Theo thiển ý, dù là một thú tiêu khiển, người sáng lập ra Tam-Hường cũng

muốn đề cao học vấn cho người chơi.

Theo gia đình cho biết ông ngoại của tôi từ những năm 1920 đã có chơ i Tam-Hường và năm

1951 khi theo cha mẹ vào Nha Trang thì chúng tôi đã thấy và biết chơi thú vui này.

Hồi đó, Tam-hường chỉ thấy các cụ lớn tuổi là chơi có tiền còn trẻ em chỉ chơi giải trí và tính

điểm ăn thua mà thôi. Ít lâu sau, thấy có trò chơi bầu-cua-cá-cọp lại được giới bình dân ưa

chuông. Thật sự, Tam-Hường ai chơi cũng đuợc nếu có thời giờ nhàn rỗi như là vào những ngày

Tết, đầu Xuân.

TÊN GỌI: Tam-Hường nghĩa là ba cái hường, màu hoa, màu của mặt 4 của con xúc-xắc. Có

người gọi là Xâm-Hường (Xâm là Tam, âm Hán là 3). Có người gọi chơi Tam Hường, hay đổ


Tam Hường hoặc “xây” một sòng Tam-Hường .Có người gọi bộ Tam-Hường hay rõ hơn bộ

bài Tam-Hường.

ĐẶC-ĐIỂM của chơi Tam-Hường:



- Chơi Tam-Hường không cần cao thấp vì chỉ dùng tay đổ 6 hột xúc xắc

- Khó hoặc không thể chơi gian lận vì lối chơi có tính cách công khai, ai

cũng có thể nhìn rõ, và kiểm soát kết quả.

- Cách tính kết quả mau lẹ.

- Không cần đắn đo, cân nhắc như khi chơi cờ tướng, tổ tôm, tài bàn, Pocker

- Có tính cách vui chơi, giải trí, trong gia đình

- Luật lệ có thể thay đổi từ dễ (cho người mới chơi) đến khó (cho người có

kinh nghiệm) nên có tính linh động, không gò bó.

- Cuộc chơi chỉ có hên xui, nên có tính cách bình đẳng, không bị lừa gạt

- Tam Hường không có nhà cái, không sát phạt

- Người chơi không thể dùng mưu mô thông đồng triệt hạ như Domino

- Số người chơi có thể thay đổi từ 2 đến 7 người, càng đông càng vui

- Trò chơi có tính dân chủ, mọi người đều có thể đề nghị thay đổi nhưng

ý kiến chung được tôn trọng. Nguyên tắc đa số được đề cao.

- Người mới chơi sẽ được những người cũ hướng nên không sợ bị lừa đảo

QUÂN BÀI (Thẻ):

Một bộ bài Tam-Hường gồm những con bài làm bằng ngà hay xương, gọi là thẻ, thường là màu

trắng (hạng sang) hay làm bằng gỗ mỏng có viết chữ Hán theo các học-vị ngày xưa như Tú-Tài,

Cử-Nhân,Tiến-Sĩ,Hội-Nguyên,Bảng nhãn, Thám-Hoa, Trạng-Nguyên. Mỗi một học vị được

đánh giá bằng một số điểm. Có 6 loại thẻ to nhỏ, hình dáng khác nhau tuỳ theo học-vị để có trị

giá khác nhau.

Một bộ Tam-Hường gồm 6 con xúc-xắc và các thẻ giá trị như sau :

Số lượng thẻ: Hình thức : Tên gọi Trị giá (điểm) Cộng điểm

1 Cỡ lớn nhất Trạng-Nguyên 32 32

2 cỡ lớn Bảng-nhãn/Thám-Hoa 16 32

4 cỡ trung Hội-Nguyên 8 32

8 cỡ nhỏ Tiến-sĩ 4 32

16 cỡ nhỏ vừa Cử-nhân 2 32

32 cỡ nhỏ nhất Tú-Tài 1 32

Tổng cộng: 192 đểm

Do đó, mỗi loại thẻ có tổng số điểm là 32. (1x32)/(2x16)/(4x8)/(8x4)/(16x2)/(32x1). Như vậy ,

nếu có 6 người chơi thì mổi người phải đủ 32 điểm mới huề ( không mua/không bán) hay còn gọi

đủ một Trạng.Nếu 7 người chơi thì người có Trạng đem bán hết số thẻ của mình cho những

người thua. Bộ bài có 6 loại thẻ (6x32)nên tổng cộng là 192 điểm.Lấy 192 chia cho số người

chơi thì biết số điểm của mỗi người phài có lúc kết thúc. Nếu 4 nguời chơi thì mỗi người phải

đủ 192/4 hay 48 điểm hay một trạng rưỡi (32+16 =48 điẻm). Nếu 3 người chơi thì mỗi nguời

phải 2 Trạng hay 32x2 = 64 điểm. Dư điểm thì đem bán có lời. Thiếu điểm thì phải mua cho đủ,

điểm ấn định. Mua của người dư thẻ đem bán. Nếu đánh ăn tiền thì tuỳ, cho mỗi điểm là 1 hay

2, 3 dolllars hay cao hơn nữa.


CÁCH CHƠI :

Những người chơi thường ngồi trên bàn hay ngồi dưới chiếu. Tuỳ theo số người chơi mà đòi hỏi

số điểm mà mỗi người phải hội đủ . Trở lại ví dụ trên, 6 người chơi thì mỗi người phải đủ 32

điểm (192:6= 32 hay gọi là 1 Trạng). Nếu 3 người chơi thì mỗi ng ười phải đủ 2 Trạng hay

192:3= 64 hay 2 lần 32 (2 Trạng )...

Trước khi chơi, một nguời trong làng lấy 1 con xúc xắc thả xuống một cái bát (chén) gọi là đổ

cái, để chọn người chơi trước. Nếu ra số 1 thì người đó là ngư ời chơi trước. Nếu ra số 2 thì

người bên phải kế mình đổ trước..v.v

Mỗi người lần lượt theo thứ tự đã được bỏ cái chỉ định, nắm gọn 6 con xúc-xắc bỏ xuống cái bát

(cái chén) và tuỳ theo sự xuất hiện của những con xúc xắc này mà chọn quân bài tương xứng.

Người nào có Trạng sẻ đổ đầu cho ván kế tiếp.

Người nào đổ văng con xúc xắc ra khỏi bát thì bị phạt bằng cách :

- nộp một số điểm nào đó cho ông Trạng Nguyên (1 hoặc 2 thẻ Tú-Tài tuỳ giao hẹn)

- nếu Trạng Nguyên đã ra rồì thì khỏi phạt.

- Hoặc nạp phạt vào làng chứ không nạp cho Trạng (dễ nhớ hơn)

Ván bài chấm dứt khi không còn thẻ trong làng.

TÍNH ĐIỂM :

a-Tính theo con số 4 chấm màu đỏ(hường).

b-Tính theo những con số khác (ngoài số 4) còn lại.

a-Tính theo con số 4 (gọi là Hường)

-Nếu 1 con số 4 xuất hiện thì lấy 1 thẻ Tú-Tài (gọi là Nhất Hường); 1 điểm

-Nếu 2 con số 4 ......................1 thẻ Cử nhân (gọi là Nhị Hường); 2 điểm

-Nếu 3 con số 4........................1 thẻ Hội-Nguyên (gọi là Tam Hường); 8 điểm

-Nếu 4 con số 4.....................lấy thẻ Trạng nguyên (gọi là Tứ Hường); 32 điểm

Số chấm còn lại trên 2 con Xúc-xắc được coi như số tuổi của Ông Trạng. Nếu sau này ai đổ

được Trạng mà có số tuổi lớn hơn thì trạng nhỏ tuổi bị cướp. Ví dụ Trạng của bạn 5 tuổi thì ai

có trạng 6 tuổi trở lên sau này sẽ cướp mất trạng của bạn. Nếu trạng sau mà nhỏ tuổi hơn trạng

trước thì người này lấy những bài còn lại cho đủ 32 điểm.

Nếu đổ ra Tứ Hường thì phải lưu ý hai con xúc xắc còn lại :

- Nếu là hai con 2 + 2 gọi là Trạng Cáp chính (vì 2+2 =4 giống 4 chấm của mặt Tứ)

- Nếu là hai con 3 + 1 /6+6 gọi là Trạng Cáp Xiên

-Nếu 5 con số 4 xuất hiện (gọi là Ngũ-Hường), thì người đổ sẽ lấy Trạng-Nguyên và hai Trạng

Em Bảng-nhãn/Thám-Hoa 64 điểm (32+16+16).Nếu ai đã có Trạng trước cũng bi giật, bất kể

tuổi. Ngũ-Hưởng chỉ thua Lục-Phú đen hay đỏ.

-Nếu 6 con số 4 xuất hiện thì gọi Lục-Hường hay Lục-Phú-Hường là lớn nhất, cả làng phải

chung cho nhà đó gấp hai số điểm ban đầu minh phải có. Ví dụ 6 nguoi chơi, mà một nhà đổ ra 6

con 4 một lúc (gọi là Lục-Hường) thì mỗi nhà phải chung cho người đó 2x32 điểm.

b-Tính theo các số khác (ngoài số 4)

-Nếu 6 con xúc-xắc xuất hiện theo thứ tự 123456 thì gọi là Suốt, ăn Trạng Em (tức Bảng-Nhãn

hoặc Thám-Hoa, 16 điểm).


-Nếu có 1 cặp 3 con giống nhau thì g ọi là Phân-Song, ăn trạng Em .Nếu trong đó có 3 con số

đỏ 4 thì gọi là Tam-Hường Phân-song, vừa ăn Tam-Hường vừa ăn Trạng Em (8+16 =24 điểm).

-Nếu có 4 con cùng giống nhau (ngoài số 4) thì gọi Tứ-Tự, ăn Tiến sĩ, 4 điểm. Trừ truờng hợp 4

con số 4 thì ăn Trạng-Nguyên (nói trên).Nếu Tứ-Tự mà có thêm 1,2 con số 4 xuất hiện thí gọi

Tứ-Tự Nhất-hường hay Tứ-Tự Nhị-hường(ăn 4 điểm của Tứ-tự +.1 hoặc 2 điểm cùa Nhất


hường hay nhị hường). Những số còn lại, nếu cộng lại bằng một con số của Tứ-Tự thì gọi là Tứ-

Tự-Cáp, ăn Trạng Em (16 điểm).


Ví dụ đổ ra 4 con 5 mà còn lại hai con hoặc 1+4 hoặc 2+3 cũng bằng con số 5.

4 con 1 mà còn lại hai con 6+5 =11 (con số dư 1 giống con 1 nơi tứ tự)

-Nếu có 5 con cùng giống nhau thì gọi Ngũ-Tự, ăn Trạng-Nguyên (32 điểm).

-Nếu có 6 con giống nhau gọi là Lục-Phú thì những người chơi khác phải chung cho nguời đó

đúng số điểm mỗi nhà phải có lúc đầu (32 điểm nếu 6 người chơi tức ăn một lúc 6x32 =192

điểm, kể cả điểm của chính mình).

-Nếu 3 cặp theo thứ tự 11,22,33 gọi là Nhất Nhị Tam hay Suốt Hạ, ăn Trạng Em, 16 điểm.

Nếu 44,55,66 gọi Tứ Ngũ Lục hay Suốt Thượng, ăn Trạng Em+Nhị Hường của hai con 4.

(có nơi không cho ăn theo con Nhị-Hường).

Trạng của Tứ-Hường không giật được Trạng của Ngũ-Tử dù có hơn tuổi. Nói khác, Trạng Tứ


Hường chỉ bị cuớp nếu cùng Tứ Hường mà hơn tuổi thôi. Ngũ-Tử giật nhau theo tuổi của Ngũ-

tử. Ngũ-Tử mà có thêm mặt 4 hường được gọi là Đại-Ấn (con dấu lớn).


Những DU DI khi chơi :

Trên đây là những điều căn bản nhưng cũng tuỳ theo hợp đồng giữa những người chơi mà du di

theo ý chung. Ví dụ:

- Thay vì tính điểm là 1 đồng thì có thể lả 50 cent hay nhiều ít tuỳ ý cả làng chơi.

- Thay vì chơi 6 người, mỗi người phải đủ 32 điểm để coi như huề (không thua/ không ăn) thì có

thể chơi 7 người; ai thắng Ông Trạng-Nguyên thì đem bán hết phần của mình cho ai thiếu trong

6 người còn lại (đã nói trên).

- Nếu chơi lâu quá mà không ai thắng con Trạng-nguyên thì cò thể thay thế, hoán đổi bằng hai

con trạng Em, hay 32 điểm của những con khác. Mục đích để cho ván bài mau kết thúc.

- Theo kinh nghiệm, nếu chơi trên 6 người thì hơi lâu mới tới lần mình đổ . Nếu vài vòng mà

không có hường sẽ chán hay quạu cọ mất vui.

- Có người mài bớt mặt 3 để mặt 4 (hường) dễ ra cho mau kết thúc nhưng dễ người dễ ta.


Tuy trình bày xem ra dông dài nhưng chỉ ngồi xem chừng 15 phút là biết cách chơi. Số người

chơi càng đông càng vui vì ai cũng chăm chú theo dõi kết quả của mình nên hô hoán vang cả

nhà. Tiếng kêu lanh lảnh mỗi khi đổ con xúc-xắc xuống chén, làm cho không khí ngày Xuân

thêm nhộn nhịp. Con nít ngồi xem chầu rìa. Ai ăn Trạng, khoái chí mừng tuổi thêm cho con

cháu. Các bà các cô lo kẹo bánh, trà...đãi cả làng; dĩ nhiên cũng được thưởng cho vui ngày Tết.

Khía cạnh giáo-dục của trò chơi Tam-Hường.

Chúng ta đã thấy các quân bài đều mang một học vị Vua ban cho thí sinh trúng tuyển khi chọn

người tài giỏi ra giúp nước. Đây là cách chọn công khai qua một kỳ thi với những nguyên tắc,

luật lệ nghiêm minh. Các cuộc thi đều phân cấp từ thấp tới cao để có học vị, chức phận và quyền

lợi tương xứng. Điều này chứng tỏ các triều đình Lý, Trần đã có tinh thần trọng-pháp, biết đãi

ngộ nhân tài và trọng người hiền. Từ đó xã hội có cương thường, đạo lý và ổn định. Đời Nhà Lý

từ 1009 đến 1225 là 216 năm và đời nhà Trần từ 1225 đến 1400 là 175 năm.


Quân bài nhỏ nhất chỉ có 1 điểm tương đương Tú-Tài, khá hơn là Cử Nhân, Nhị Hường , 2 điểm

và cao nhất là Trạng-Nguyên 32 điểm. Khi chơi, nhặt những con bài càng cao càng nhiều điểm

làm cho người chơi thêm nức lòng. Xuyên qua hình ảnh tiêu biểu đó con em mới cố gắng trau

dồi để thăng tiến trên đường học vấn.Tôi còn nhớ Ông nội tôi ngày xưa hay nói: “ Các cháu

không chịu học thêm mà chỉ có tú-tài thì như Tú-Xương “Vị Xuyên có Tú Xương, Dở dở lại

ương ương, Cao lâu thường ăn quỵt, Thổ đĩ lại chơi lường”, quá tệ. Nhờ Ông nói khích mà các

cháu cố gắng học lên được. Xuyên qua chơi Tam Hường, cha mẹ có cơ hội dạy bảo con cái từ

cách ăn nói lễ phép, không la lối om xòm đến cách ngồi ngay ngắn, cử chỉ lịch thiệp. Khi đổ

được con bài lớn các em reo mừng; ngược lại các em thất vọng thấy rõ. Các em sẽ nhận thức

được học càng cao càng được trọng dụng trong xã hội với những quyền lợi tương xứng.

Các tỉnh miền Trung từ Nghệ-An đổ vào, đất đai khô cằn, canh tác khó khăn, cuộc sống nghèo

khổ, con người muốn vươn lên chỉ còn cách đi học, nếu không, đi làm cách mạng.

Ngày xưa, khi đi qua các vùng Đô-Lương, Nam-Đàn, Thanh-Chương (Nghệ An) chúng tôi nghe

thấy các em học bài ban đêm thật to tiếng. To đến nỗi đi ngoài đường đều nghe rõ. Sau này hỏi

lại mới biết các em học to cho khỏi buồn ngủ vì không có điện, đèn thắp bằng dầu phụng, dầu

trẩu, dầu bông hay bằng lá, bằng rơm, lù mù... Ngoài ra đọc to tiếng để cho biết trong xóm có

con em đi học, làm nở mặt cha mẹ. Hồi đó, cha mẹ thường nuôi ông đồ Nho, nhất là Đồ Nghệ,

để dạy con cháu trong nhà. Đi học, như Quốc-Văn Giáo-Khoa-Thư đã viết : “trước là đẹp mặt

sau là ấm thân”. Tam-Hường ngoài là một thú vui cũng còn hàm ý cổ suý việc học trong dân

gian.

TỰ LÀM làm một bộ bài Tam-Hường.

Chúng ta có thể làm một bộ Tam-Hường bằng gỗ mỏng to nhỏ khác nhau tuỳ theo giá trị (xem

hình). Có thể trang trí cho đẹp và ghi số điểm của mỗi thẻ cho dễ tính. Có thể nhờ ai biết Hán-tự


viết giùm chữ Nho cho thêm trịnh trọng. Nếu khéo tay, quý vị có thể tự làm lấy một bộ Tam-

Hường dã-chiến chỉ cần ghi số điểm là đủ.


Viết đến đây chúng tôi nhớ đến bộ Tam-Hường bằng ngà của Ông Ngoại để lại, màu trắng muốt,

viết chữ son đỏ chói, nhìn thật trang trọng, quý phái. Tiếc rằng thời di cư, tài sản đều bỏ lại, giữ

được mạng sống đã là quý lắm rồi.

Viết lại bài Tam-Hường, một thú vui có tính cách văn học, cổ kính, để nhớ lại tổ tiên, cha ông,

dù không xung túc về vật chất nhưng vẫn có được một thú vui giải trí thoải mái những dịp Tết

đến, Xuân về.

Khi nhắc lại thú chơi Tam Hường, chúng tôi chỉ sợ một thú vui nhàn nhã, quý phái mà bị bỏ

quên thì quá uổng. Nhưng không ngờ qua các điện thư, chúng tôi được biết một số gia đình vẫn

còn chơi Tam-Hường vào dịp Tết nơi hải ngoại. Phần lớn những người này là gốc xứ Huế hay

đã ở Huế một thời gian. Chúng tôi cũng hy vọng thú vui này vẫn còn tồn tại và sẽ phát triển nơi

Quê nhà như các tỉnh miền Trung: Thanh Hoá, Nghệ An, nhất là Huế, nơi phong thái cổ kính

vẫn còn vương vấn.

Ngày Tết, ngoài sân, cây nêu, pháo nổ; trong nhà đại gia-đình, Ông bà, con cháu xum họp quanh

cỗ Tam-Hường thật không có gì hạnh phúc và đầm ấm cho bằng. Tiếng đổ Tam Hường lanh

lảnh, vang xa, lâu lâu có đệm thêm tràng pháo tép báo hiệu một điềm lành, một sinh khí mới

đang rộn rã trở về.


Vui chơi Tam Hường không phải vì ăn tiền mà vui vì có được một bầu không khí gia đình xum

họp mà trong năm vì sinh kế đã không có nhiều cơ hội quây quần bên nhau. Con em khi lớn

khôn, trưởng thành, chỉ những ngày gia đình xum họp như thế mới để lại một ấn tượng sâu xa

trong tâm khảm.

Chúng tôi đang suy nghĩ làm cách nào để có thể chơi Tam Hường chốn công cộng như kiểu “Cờ

Người” tại các buổi trình diễn ngoài trời. Nếu được vậy, Tam Hường sẽ được nhiều người cổ võ

và ưa chuộng hơn.

Người viết xin thành thật cám ơn Quý vị và các bạn đã góp ý :

BS.Võ Đ. Hữu, Nguyễn V. Sáu, Trần V. Long, Tuyết Nhung, Hoang Sang.

Kính chúc Quý Vị và Các Bạn một Mùa Xuân Như Ý; một Năm Mới An Lành.

Kính Dâng Hương-Hồn Song-Thân, (Jan 25-2012)


(1) Dương Quảng Hàm, Việt-Nam Văn-học Sử-Yếu, tr.80, Sống Mới 1979.