Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label NguoiVietNoiTieng. Show all posts
Showing posts with label NguoiVietNoiTieng. Show all posts

Thursday, 14 July 2022

Phi công gốc Việt là anh hùng nước Pháp, nhưng ở Việt Nam ít ai biết.


Theo như sự tìm hiểu về người phi công gốc Việt là người đầu tiên lái máy bay đã được Pháp vinh danh anh hùng là một trong những ‘chân dung nước Pháp’ và được đặt tên cho một quảng trường ở Paris; tuy nhiên, ở trong nước Việt Nam, thái độ đối với phi công gốc Việt có phần dè dặt do lịch sử thuộc địa.
Đỗ Hữu Vị, đứng ngoài cùng bên phải, trong tấm ảnh gia đình chụp cùng cha mẹ và các anh em trai (Ảnh chụp màn hình amdohuuvi.org)

Ngày 29/6 năm 2022, chính quyền thủ đô Paris đã tổ chức lễ đặt tên Quảng trường Đỗ Hữu Vị (Place Đỗ Hữu Vị - bảng tên đường có để dấu) – một trong những phi công đầu tiên của quân đội Pháp đã chiến đấu và hy sinh cho nước Pháp trong Đệ nhất Thế chiến.

Place Đỗ Hữu Vị nằm ở trung tâm quận 16, ngay nút giao giữa đại lộ Versailles và đường Louis Blériot, người lái máy bay vượt biển Manche vào năm 1909 và cũng là thầy dạy của Đỗ Hữu Vị, nhìn ra trụ sở Radio France (Đài phát thanh Pháp) và cầu Grenelle, theo mô tả của Thông tấn xã Việt Nam.


Trên tấm biển đề Place Đỗ Hữu Vị có ghi dòng chú thích bằng tiếng Pháp như sau: “Phi công, tử trận trên cánh đồng danh dự thuộc Vịnh Somme cho đất nước An Nam của ông, và cho nước Pháp, tổ quốc ông.”

Buổi lễ đặt tên có sự hiện diện của bà Laurence Patrice, phó thị trưởng Paris, ông Francis Szpiner, quận trưởng Quận 16, đại diện gia đình dòng tộc Đỗ Hữu ở Pháp, đại diện Đại sứ quán Việt Nam và người dân địa phương, theo bản tin của hãng tin nhà nước Việt Nam.

Bản tin ngắn gọn của Thông tấn xã chỉ cho biết Đỗ Hữu Vị là ‘một trong hơn 300 người gốc hải ngoại có công với nước Pháp, và là người gốc Á duy nhất được đưa vào triển lãm ‘Chân dung nước Pháp’ tại Bảo tàng Con người (Musée de l’Homme) ở thủ đô Paris’.

Triển lãm này, diễn ra hồi đầu năm, đã lựa chọn 58 người (29 nam, 29 nữ) vốn là di dân có đóng góp đặc biệt cho nước Pháp để vinh danh. Chân dung ông Vị đã được đặt trang trọng cạnh những tên tuổi lừng danh khác như danh họa gốc Tây Ban Nha Pablo Picasso, nữ khoa học gia gốc Ba Lan hai lần đạt giải Nobel Marie Curie và ca sỹ-vũ công gốc Mỹ Josephine Baker…

‘Người không biết sợ’

Theo trang web amdohuuvi.org do gia tộc Đỗ Hữu lập ra để lưu lại những ký ức về ông, Đỗ Hữu Vị sinh ra vào năm 1883 ở Chợ Lớn, thuộc thành phố Hồ Chí Minh ngày nay, là con trai thứ năm trong một gia đình danh gia vọng tộc.

Thân phụ ông cũng là một nhân vật lừng lẫy từng được đặt tên đường dưới chế độ thuộc địa: tỉnh trưởng Nam Kỳ Đỗ Hữu Phương. Ông Phương là một trong bốn phú hào giàu nhất xứ Nam Kỳ xưa được lưu tryền trong câu nói quen thuộc: ‘nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Định’. Ông Phương có quốc tịch Pháp nên các con ông dù sinh ra ở Việt Nam nhưng cũng là công dân Pháp.

Ông Đỗ Hữu Phương là nhân vật lịch sử gây tranh cãi. Mặc dù phục vụ cho chính quyền thuộc địa của người Pháp, nhưng sau lưng ông âm thầm giúp đỡ nghĩa quân kháng Pháp và cứu giúp những người bị Pháp bắt. Sau năm 1975, tên đường Tổng đốc Phương, một con đường lớn ở Chợ Lớn, đã được đổi thành đường Châu Văn Liêm cho đến nay.


Cũng như các anh em khác trong nhà, ông Vị được cho đi học trường Pháp ở Sài Gòn từ nhỏ. Ông được cha cho sang Pháp học trung học ở các trường Lycée Janson-de-Sailly và Lycée Louis-le-Grand. Học xong trung học, ông được nhận vào trường võ bị danh giá Saint-Cyr, nơi đào tạo các tướng lĩnh hàng đầu của Pháp, khi 21 tuổi. Ra trường, ông có quân hàm thiếu úy phục vụ trong Quân đoàn Lê dương (Légion Étrangère) số 1 và được điều đi các chiến trường của Pháp ở Ma-rốc và Algeria.

Khi ngành hàng không thế giới còn phôi thai, ông Vị đã đăng ký học lái máy bay vào năm 1910. Ông cùng một đồng đội khác đã thực hiện chuyến bay vòng quanh nước Pháp vào năm 1911. Đến năm 1912, ông trở thành phi công với hàm trung úy chuyên lái máy bay do thám ở Casablanca, Ma-rốc, một công việc hết sức nguy hiểm thời bấy giờ. Sau hai năm chiến đấu, ông được Chính phủ Pháp trao Bắc đẩu Bội tinh vì sự dũng cảm.

Đệ nhất Thế chiến bùng nổ vào năm 1914, là sỹ quan của quân đội Pháp, ông Vị đã thực hiện các chuyến bay do thám quân Đức trên chiến tuyến để thu thập các thông tin tình báo có giá trị. Sau khi gặp nạn trong một chuyến bay, ông Vị bị trọng thương và vĩnh viễn không thể lái máy bay được nữa.

Tuy nhiên, thay vì giải ngũ, ông Vị lại tình nguyện tham gia bộ binh trở lại ở Somme, chiến trường cực kỳ khốc liệt trong Đệ nhất Thế chiến, và trở thành chỉ huy Đại đội 7 của Binh đoàn Lê dương.

Ông tử trận ở Somme vào năm 1916. Thi hài ông sau đó đã được anh trai là Đỗ Hữu Chấn, vốn cũng là sĩ quan trong quân đội Pháp, đưa về Việt Nam làm tang lễ trọng thể sau khi chiến tranh kết thúc.

Đỗ Hữu Vị từng trở lại Việt Nam một thời gian ngắn vào năm 1914 trước khi được gọi trở lại chiến trường. Khi đó, ông là phi công người Việt đầu tiên diễn tập cùng các phi công nước ngoài tại Sài Gòn và Hà Nội. Ông cũng đã lái thử nghiệm thủy phi cơ trên sông Cửu Long.


Thời Pháp thuộc, tên ông từng được đặt tên đường ở Hà Nội, Đà Nẵng và Sài Gòn. Phố Cửa Bắc ở Hà Nội bây giờ ngày xưa có tên là phố Đỗ Hữu Vị. Trường Sư phạm Đỗ Hữu Vị nằm cuối con phố này từng đào tạo giáo viên tiểu học cho toàn xứ Bắc Kỳ. Nhưng sau này, chính quyền của Đảng Cộng sản đã xóa toàn bộ tên ông ở những nơi công cộng.

Chân dung ông đã được chính quyền Pháp in trên tem bưu chính và chính quyền Ma-rốc cũng đặt tên ông cho một con đường ở Casablanca để ghi nhận những chiến tích của ông khi còn là phi công.

Theo báo Tuổi Trẻ, trong hồ sơ quân ngũ của Đỗ Hữu Vị có ghi dòng nhận xét như sau: “Lì lợm, kiên trì, dũng cảm, tinh tế trong chiến thuật, chữ sợ không có trong ngôn ngữ của sĩ quan Vị!”

Một câu nói nổi tiếng của ông Vị thường được người đời sau lưu truyền là: “Tôi phải can đảm gấp bội, bởi vì tôi vừa là người Pháp, vừa là người An Nam.”

Trang bìa nhật báo La Croix vào ngày 12/2 năm 2021 có chân dung ông Vị cùng những công dân Pháp gốc hải ngoại lỗi lạc khác dưới dòng tít: ‘Họ đến từ những nơi xa xôi và họ làm nên nước Pháp’. Bài báo của La Croix gọi ông Vị là ‘phi công sáng tạo chuyến bay trinh thám’.

Đóng góp cho Việt Nam

Trao đổi với VOA qua email, ông Christian Do Huu, 69 tuổi, giáo sư toán và hiện là một công chức cấp cao của Bộ Y tế Pháp vốn thuộc hàng chắt của ông Vị và gọi ông Vị là ông cố nhỏ (em trai ông cố), cho biết ông là người đã xây dựng hồ sơ để chính quyền Paris đặt tên Quảng trường Đỗ Hữu Vị.

Trả lời câu hỏi ông Vị có đóng góp gì cho Việt Nam hay không, ông Christian chỉ ra việc ông Vị ‘đã đóng góp tâm huyết vào nghiên cứu sử dụng thủy phi cơ trên sông Mekong’. “Đừng quên ông ấy là phi công người Việt đầu tiên,” ông Christian viết cho VOA bằng tiếng Pháp.

Mặc dù là người hùng của nước Pháp, nhưng công chúng Việt Nam hầu như biết rất ít về ông. Bản tin của hãng thông tấn Nhà nước chỉ mô tả vài dòng ngắn ngủi mà không đề cập tiểu sử của ông. Việc này, theo tìm hiểu của VOA, là vì ông Vị đi lính cho quân đội Pháp vào giai đoạn Pháp đô hộ Việt Nam.

Chính quyền và giới sử học của Đảng Cộng sản lâu nay vẫn ác cảm với tất cả những ai từng phục vụ hay hợp tác với người Pháp cho dù họ không có hành động gì làm tổn hại đến đất nước, dân tộc Việt Nam mà thậm chí còn có đóng góp cho kinh tế, văn hóa hay học thuật nước nhà.

Về vấn đề này, ông Christian nhắc lại câu nói của ông cố của ông rằng ‘tôi vừa là người An Nam vừa là người Pháp’ để chỉ ra rằng ông Vị luôn ghi nhớ cội nguồn của mình.

“Chúng ta không nên dùng lăng kính ý thức hệ của ngày hôm nay để đánh giá lịch sử của ngày hôm qua,” ông viết cho VOA.

“Việt Nam cần tôn vinh Đỗ Hữu Vị cũng như tự hào về những thành tích và tấm gương của ông. Việc phủ nhận hay bỏ tên đường phố Đỗ Hữu Vị chẳng có ích gì cho vinh quang nước Việt.”./-

Tuesday, 1 August 2017

ĐỌC ĐẾN ĐỌAN CHÓT THẤY TỘI CHO CHÁU NẦY- THÍCH VỀ XỨ VIỆT CỘNG LÀ CƠ HỘI ĐỂ VIỆT CỘNG SẼ LÀM QUEN , MUA CHUỘC LÀ NGHỀ CỦA VIỆT CỘNG ....

BIẾT BAO NHÂN TÀI TRẺ NỔI TIẾNG RỒI MƠ MỘNG VÀ CUỐI CÙNG LẠI VƯỚNG CHÂN VỚI VIỆT CỘNG HÓA RA THÂN TÀN MA DẠI- CHA MẸ CHÁU NẦY LƠ LÀ RỒI SẼ HỐI HẬN KHÔNG KỊP VÌ CÁI CHUYỆN MUỐN ĐEM RUỘT GIÀ VỀ DÂNG CHO QUÊ HƯƠNG VC./-TCL

================
NỮ KHOA HỌC GIA GỐC VIỆT.



nha-khoa-hoc-nu-goc-viet-trong-top-anh-huong-nhat-the-gioi
Giáo sư Nguyễn Thục Quyên
Tuổi thơ theo  mẹ đi khắp nơi để kiếm sống, sang Mỹ thì bị bạn bè chê cười vì không biết tiếng Anh, nhưng Nguyễn Thục Quyên đã vượt qua tất cả và trở thành một trong những nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới. 
Giáo sư Nguyễn Thục Quyên sinh ra ở Ban Mê Thuột (Đắk Lắk) trong một gia đình thượng lưu gồm 5 anh chị em. Sau năm 1975, cha đi cải tạo, mẹ chị - một cô giáo dạy toán cấp 2, dẫn dắt đàn con đến các vùng kinh tế mới như Phước Lâm, Long Điền, Đất Đỏ, Phước Tỉnh và Vũng Tàu để sinh nhai.
Lúc 5-6 tuổi, cô bé Quyên phải phụ giúp mẹ dọn dẹp nhà cửa, kiếm củi nấu cơm, đào khoai, câu cá, gánh nước... Cuộc sống cơm áo, gạo tiền cứ đeo bám cho đến năm 1986 khi gia đình mở tiệm phở ở Bến Đá - Vũng Tàu, Quyên mới được đi học ở trường Trung học Trần Nguyên Hãn.
 
Nhọc nhằn nơi xứ người
Tháng 7/1991, chị cùng bố mẹ và 5 anh chị đến Mỹ định cư. Hai năm đầu, các anh chị em của chị Quyên cứ đòi về Việt Nam vì không biết tiếng Anh và phong tục tập quán Mỹ. Nhưng chị thấy ổn vì được làm điều mình thích mà không sợ người khác dị nghị. 
"Khi còn ở Việt Nam, gia đình đã vất vả rồi, nên khi sang Mỹ tôi phải cố gắng hơn rất nhiều để có được cuộc sống tốt hơn", chị Quyên chia sẻ. Để tự khẳng định bản thân nơi đất khách quê người, chị đã quyết tâm học tiếng Anh thật nhanh bằng cách ghi danh ở ba trường trung học tại ba thành phố. Ở Mỹ, tiếng Anh được học miễn phí.
Vất vả với bao tủi nhục khi bị nhiều người coi thường càng khiến chị có thêm động lực vươn lên. "Có giáo viên chế nhạo tôi trước cả lớp vì khả năng nói tiếng Anh kém. Một ông người Mỹ còn nói thẳng với tôi hãy về nước của cô đi", chị nhớ lại và cho biết ở Mỹ vẫn còn một số người phân biệt kỳ thị như vậy. "Thậm chí có đồng nghiệp lúc ở trường không bao giờ nói chuyện với tôi mặc dù tôi đã cố gắng để nói chuyện với anh ta vài lần", nữ giáo sư nói.
Tháng 9/1993, người cô họ cho chị ở cùng nhà, nhưng chị phải dọn dẹp, nấu nướng, đi chợ và chạy việc vặt cho cô. Thời gian này, chị xin học ở Đại học Santa Monica nhưng không được nhận vì tiếng Anh kém. Chị đã năn nỉ nhà trường cho học thử một kỳ và hứa nếu không học được sẽ trở về trường trung học để học thêm tiếng Anh. Ban ngày đi học, ban đêm chị tìm lớp học thêm ở trung tâm dạy tiếng Anh miễn phí. Với sự nỗ lực không ngừng nghỉ, cuối cùng chị cũng được nhận vào học. 
Thấy bố mẹ vất vả làm trong nhà hàng và ở hãng may, chị không cho phép bản thân thất bại mà cố gắng gấp đôi, gấp ba so với những bạn cùng trang lứa. Để có tiền học, chị xin làm thêm trong thư viện trường từ 17h đến 22h mỗi ngày, nhưng vẫn không đủ nên phải vay thêm tiền của Chính phủ.
Tháng 9/1995, chị xin chuyển lên Đại học California , Los Angeles và làm thêm trong phòng thí nghiệm với công việc rửa dụng cụ. Chị xin làm nghiên cứu nhưng không có phòng thí nghiệm nào nhận. Sau khi tốt nghiệp bằng đại học Hóa năm 1997, chị nộp đơn học cao học. Chỉ trong một năm chị đã có bằng thạc sĩ ngành Lý - Hóa và quyết định học tiếp tiến sĩ. Thật bất ngờ, cuối năm của chương trình này chị là một 7 nghiên cứu sinh xuất sắc của Đại học Califonia, Los Angeles được trao học bổng.
Tháng 6/2001, chị nhận bằng tiến sĩ và ra trường trước cả những sinh viên chị từng rửa dụng cụ thí nghiệm cho họ trước đây. Ra trường chị đạt giải thưởng xuất sắc ngành Lý - Hóa. Tháng 9/2001, được giải thưởng của liên bang đi tu nghiệp ở phòng thí nghiệm quốc gia nhưng chị từ chối và đến làm ở Đại học Columbia, New York.
Ba năm sau, chị bắt đầu làm việc ở Đại học California, Santa Barbara và mất hơn hai năm xây dựng hai phòng thí nghiệm riêng. Sau 11 năm, chị đã có 7 phòng thí nghiệm riêng cho nhóm nghiên cứu. Chị còn xin hơn 10 triệu USD cho những dự án nghiên cứu, được mời tới hơn 200 địa điểm trên thế giới để thuyết trình cũng như nhận nhiều giải thưởng lớn cho công trình nghiên cứu.
"Bạn bè tôi ở Việt Nam vẫn thường bảo hồi ở quê học dốt thế mà sao qua Mỹ học giỏi ghê thế. Tôi trả lời rằng ngày xưa làm gì có thời gian để học vì còn phải phụ giúp gia đình", vị giáo sư nói.
 
 Pin năng                                                           lượng mặt trời                                                           làm từ chất                                                           nhựa dẫn điện                                                           Nghiên cứu                                                           trong phòng                                                           thí nghiệm của                                                           Giáo sư . 
Pin  năng lượng mặt trời làm từ chất nhựa dẫn điện Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm của giáo sư Nguyễn Thục Quyên.
 
Những vất vả của phụ nữ khi làm khoa học
Giáo sư Quyên tâm sự, có được ngày hôm nay là nhờ sự dìu dắt của mẹ và người cậu ruột khi hướng cho chị đi theo con đường tốt nhất có thể. Trong khi bố cho rằng, con gái thì nên lấy chồng, không cần học, thì mẹ ngược lại. Chị còn nhớ ngày học xong lớp 12, chị đã xác định sẽ ở nhà và tính chuyện lấy chồng, nhưng mẹ vẫn đưa chị lên Sài Gòn để thi đại học. "Mẹ đưa tôi lên Sài Gòn ở nhà bà ngoại để thi đại học, nhưng tôi không muốn. Lớn lên và học ở trường làng tôi thấy ở tuổi 18 người ta đã lấy chồng và có con rồi", chị nói.
Người cậu đã gọi chị đến nói chuyện hơn hai giờ, với mục đích khuyên chị đi thi và cố gắng vào đại học. "Tại sao có cơ hội như vậy mà cháu lại từ chối. Học đại học sau này cháu sẽ có công ăn việc làm ổn định, có sự nghiệp, nếu lấy được người tốt thì không sao...", chị kể lại lời ông cậu. 
Lớn lên, người chị hâm mộ đó là bà Marie Curie , bởi thời đó khoa học gia là nữ rất ít. Bà chính là tấm gương vượt khó để chị tiếp tục cố gắng cho nghiên cứu khoa học.
 
Hơn 11 năm làm việc ở Đại học California, Santa Barbara, chị làm khoảng thời gian 15 tiếng mỗi ngày. Bên cạnh việc giảng dạy, chị còn làm nhiều công việc khác như biên tập báo khoa học, tổ chức hội nghị khoa học quốc tế, xin tiền dự án nghiên cứu trả lương, học phí, và bảo hiểm y tế cho sinh viên (mỗi nghiên cứu sinh tốn khoảng 100.000 đôla mỗi năm), hướng dẫn sinh viên làm nghiên cứu, giúp sinh viên viết bài đăng báo, làm trong ban xét lên lương và lên chức cho tất cả giáo sư trong trường, ban tuyển dụng giáo sư... 
Chị chia sẻ: làm khoa học đã khó nhưng phụ nữ trong lĩnh vực này càng vất vả hơn, bởi ngoài sự nghiệp, họ còn phải lo cho gia đình. Ngay  bản thân chị, dù đã cố gắng rất nhiều nhưng đôi khi vẫn không nhận được sự tôn trọng của đồng nghiệp nam giới. "Cũng may tôi có người chồng tâm lý và thông cảm, anh dạy hóa hữu cơ cùng trường, luôn hỗ trợ nên tôi có thêm động lực để giảng dạy và nghiên cứu", nữ giáo sư nói.
"Phần đông mọi người nghĩ con gái thì nên lo cho chồng con, dọn dẹp nhà cửa và không nên có sự nghiệp riêng. Tôi muốn cho những người phụ nữ khác biết là họ có thể làm cả hai. Tôi muốn làm những điều hữu ích cho xã hội", chị nói.
Chị vẫn còn nhớ như in thời điểm bắt đầu vào học trong trường. Lúc đó chị xin vào phòng thí nghiệm nhưng không được vì nhiều người nghĩ chị không thể làm được điều gì và khuyên rằng “nghiên cứu không dễ dàng và không phải ai cũng làm được. Bạn nên tập trung để học tiếng Anh đi”. Mãi sau này, có vị giáo sư thấy chị có những câu hỏi hay trong lớp nên khuyến khích theo đường nghiên cứu. Biết được tin này chị rất vui vì từ bé đã thích tìm tòi những điều mới.
Đầu năm 2004, chị đi phỏng vấn ngành hóa ở một số trường đại học. Chị cũng rất sợ vì những trường này ngành hóa rất ít hoặc không có nữ giáo sư. "Con đường đi đến thành công ở Mỹ không phải dễ dàng vì quốc gia này thường thu hút nhà khoa học hàng đầu trên thế giới nhưng bản chất người Việt Nam thông minh và chăm chỉ", vị giáo sư nói và cho rằng có công mai sắt có ngày nên kim. 
 
Thích về Việt Nam
"Tôi nhớ Việt Nam lắm. Nếu có thời gian là tôi về ngay, bởi hiện nay anh em họ hàng, nhất là ông cậu - người đặt viên gạch đầu tiên trong cuộc đời khoa học của tôi vẫn ở quê hương", nữ giáo sư tâm sự.
Lần đầu tiên chị và mẹ về Việt Nam là năm 1999 để thăm bà ngoại trong 3 tuần. 9 lần về nước ngoài dự hội nghị khoa học, chị dành thời gian để thăm gia đình.
Chị cho biết, thời gian 21 năm sống ở Việt Nam, chị nhớ món ăn thuần túy Việt Nam và các bài hát Việt, nên lần nào về nước chị cũng nhờ cậu mợ dẫn đi xem ca nhạc. "Tôi thích nhạc dân ca như bài Quê hương, Ai đưa con sáo sang sông", chị nói. 
Khi hỏi ý định về Việt Nam sinh sống, chị nói: "Có lẽ khi nào về hưu tôi mới về nước vì quê hương vẫn chưa có đủ cơ sở vật chất điều kiện tốt để tôi có thể nghiên cứu", chị nói và cho biết 7 phòng thí nghiệm riêng của chị trị giá khoảng 4 triệu đôla.
 
Bên cạnh giải thưởng là một trong những nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới ngành khoa học vật liệu, chị còn nhận nhiều giải thưởng khác như: Giải thưởng Nghiên cứu khoa học Alexander von Humboldt-Foundation của Đức năm 2015; Giải thưởng Nghiên cứu khoa học của Quỹ Khoa học Quốc gia Mỹ 2010, Giải thưởng Nghiên cứu khoa học của Alfred P. Sloan Foundation 2009; Giải thưởng Nghiên cứu khoa học của Camille Dreyfus Foundation 2008; Giải thưởng Nghiên cứu khoa học Harold J. Plous Memorial Award and Lectureship 2007.

Monday, 31 July 2017

XIN CẨN THẬN COI CHỪNG BỊ MUA CHUỘC THANH BẠI DANH LIỆT./-TCL

Một phụ nữ gốc Việt làm chánh văn phòng TSA

Bà Hà Nguyễn McNeill, chánh văn phòng TSA. (Hình: Twitter)

WASHINGTON, DC NV  – Bà Hà Nguyễn McNeill vừa được bổ nhiệm làm chánh văn phòng Cơ Quan An Ninh Giao Thông Hoa Kỳ (Transportation Security Administration – TSA) hồi Tháng Sáu, theo thông cáo của cơ quan này.

Trong vai trò này, bà Hà cố vấn cho giám đốc TSA trong các vấn đề liên quan đến sự nhạy cảm của công chúng, chính sách an ninh, và các hoạt động quản trị, giúp TSA trở thành cơ quan ngăn chặn khủng bố một cách hiệu quả, theo thông cáo.

Bà Hà làm việc cho chính quyền liên bang được tám năm, tập trung trong các vấn đề bao gồm an ninh nội địa, an ninh thương mại, thi hành bảo vệ bản quyền trí tuệ, quan hệ quốc tế, và an ninh giao thông.

Trước khi vào làm việc cho TSA, bà Hà Nguyễn McNeill là chánh văn phòng và phó chủ tịch điều hành BSA The Software Alliance, giữ vai trò cộng sự quan trọng và đại diện cho các vấn đề nội vụ và ngoại vụ cho chủ tịch và tổng giám đốc, và bảo đảm sự cân bằng các ưu tiên và hoạt động của BSA.

Trong khi làm việc với chủ tịch, tổng giám đốc, và nhóm lãnh đạo cao cấp của BSA, bà Hà đóng góp vào việc phát triển các kế hoạch lâu dài mạnh mẽ và vị trí của BSA với các cố gắng có tính quyết định.

Bà cũng lãnh đạo các chương trình ưu tiên, bao gồm giúp thành lập một quỹ để tạo sự chú ý của ảnh hưởng của các chương trình điện toán đối với xã hội và tầm quan trọng của chương trình giáo dục STEM.

Bà Hà cũng từng làm việc hai lần tại Tòa Bạch Ốc, ban đầu với Văn Phòng Phối Hợp Bảo Vệ Sản Phẩm Trí Tuệ, và sau đó là Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, trong vai trò giám đốc đặc trách an ninh hàng không. Trong vai trò này, bà Hà chịu trách nhiệm các chương trình chiến lược và chính sách quan trọng, bao gồm các cố gắng giữa các cơ quan trong việc giới thiệu hệ thống bảo vệ an ninh hàng không dân sự không cần người điều khiển.

Trước đó, bà là chánh văn phòng kiêm cố vấn điều hành tại Văn Phòng Chiến Lược Toàn Cầu của TSA, nơi bà chịu trách nhiệm cải tổ các thủ tục và cung cách làm việc cho văn phòng này, cũng như cố vấn cho một số chương trình an ninh hàng không quốc tế.

Bà Hà Nguyễn McNeill sinh ra tại Montreal, Canada, tốt nghiệp cao học ngành chính sách công tại trường John F. Kennedy School of Government của đại học Harvard University, và tốt nghiệp cử nhân quốc tế học và âm nhạc tại đại học UC Irvine. (Đ.D.)