Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label NhungChuyenHay. Show all posts
Showing posts with label NhungChuyenHay. Show all posts

Sunday, 8 September 2024

 Chị tôi

Truyện

DTChinh_1
Tranh Đinh Trường Chinh.

Tuy Hòa, nơi tôi sống quãng đời thơ ấu, là một thành phố nhỏ hiền hòa nằm sát bờ biển, giống như nàng “Mỹ Nhân Ngư” phơi tấm thân kiều diễm trên bãi cát trắng tinh. Nàng dựa đầu trên núi Chóp Chài, đôi mắt mơ màng nhìn ra biển Đông, nghe gió thổi vi vu qua những bãi thùy dương dày đặc trên bãi biển Đại Lãnh, đầu đội vương miện hình Tháp. Ai từng đi qua Tuy Hòa, nhìn lên Tháp Nhạn đứng hiên ngang trên đỉnh núi, soi mình bên dòng Đà Giang lững lờ trôi, đều ngậm ngùi cho nền văn minh một thời rất huy hoàng của nước Chiêm Thành. Cả một vương quốc đã mất hẳn dấu tích, chỉ còn lại vài cái tháp đứng trơ gan cùng tuế nguyệt! Xa kia về phía nam là ngọn Thạch Bi Sơn (Núi Đá Bia) cao ngất quanh năm mây phủ, đánh dấu chiến công hiển hách của vua Lê Thánh Tôn một thời đại phá quân Chiêm Thành. Đó cũng là biên giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành thời Hậu Lê.
    Tôi là một trong nhóm người Bắc di cư, được may mắn định cư và lớn lên trên vùng đất tự do, ấm cúng Tuy Hòa nơi mà người dân có tiếng là chất phác, đôn hậu và nhiệt tình. Năm 1954, chính quyền cho cất một xóm độ vài chục căn nhà tranh vách đất vây quanh cái giếng nước trên một mảnh đất khá rộng, để đón dân Bắc Kỳ di cư. Tất cả sinh hoạt của trại đều xảy ra ở đó. Từ tắm rửa, giặt quần áo, xách nước về nhà để nấu ăn, chuyện gẫu, trai gái gặp gỡ làm quen. Đó đúng là một tụ điểm hội họp, giống như những sân đập lúa ở một làng quê nào đó, bởi vì chẳng có một thứ giải trí nào khác.
    Trại di cư được tổ chức theo kiểu làng xã thời xưa: có một trưởng trại, vài vị trong ban hội đồng, họp nhau thường xuyên để cải thiện đời sống cư dân. Ngoài ra, hội đồng trại còn lo việc phân phối thực phẩm và làm cái gạch nối giữa dân di cư và chính quyền thành phố. Hồi xưa chưa có điện thoại, nên tôi được chỉ định làm “thằng mõ” để thông báo tới từng gia đình những tin tức từ ban hội đồng trại đưa ra. Mỗi nhà đều có “Sổ Gia Đình”. Chính quyền tùy theo nhân khẩu mà cấp phát nhu yếu phẩm như dầu hôi để nấu ăn và thắp đèn, gạo, đường, đồ hộp, sữa bột, bột mì, bột bắp. Sữa thì pha với nước sôi để uống, ai không quen, Tào Tháo đuổi là chuyện thường. Bột mì và bột bắp chẳng biết làm gì, nấu chè mãi ăn cũng ngán bèn nhồi thành những con thú như bò, gà, heo, rồi chiên lên ăn, cũng ngon ra phết!
    Có cả quần áo nữa, những bộ quần áo rộng thùng thình tuy cũ nhưng còn rất tốt. Bà con tháo ra và sửa lại cho đúng khổ người mình. Sau này còn cấp heo con để nuôi làm giống. Những con heo Mỹ trắng bóc mắt xanh lè trông rất lạ mắt, mau lớn như thổi, to như một con bê, khác hẳn với mấy con heo đen thui, nhỏ xíu của xứ mình.
    Hầu như xóm Bắc Kỳ di cư nhà nào cũng nuôi một vài con heo, heo nái cơ. Thỉnh thoảng có anh chàng nhà quê, dắt theo chú heo nọc nhỏ xíu, đi lang thang ngoài đường, tay cầm chiếc roi thật dài, để điều khiển heo như người ta chăn vịt vậy. Khi heo nái bắt đầu kêu la om xòm và phá phách trong chuồng, cứ gọi anh ta vào là vài tháng sau, chủ trại sẽ có một bầy heo con đẹp đẽ. Anh ta chẳng làm gì đâu, con heo của anh làm thôi. Thấy chú heo nọc nhỏ xíu đứng gần nàng heo nái to kềnh mà tội nghiệp. Mỗi lần như vậy, tôi cũng tò mò đứng xem chú làm gì, Bố lại đuổi đi chỗ khác chơi. Khi chàng heo nọc làm xong phận sự, được chủ nhân cho ăn một nồi cám to nấu với đậu xanh bảo là “để lấy lại sức”. À, thì ra chú làm việc cũng vất vả lắm đấy. Vài năm sau, khi những người di cư đã có thể tự lập, chế độ cấp phát thực phẩm cũng chấm dứt theo.
    Đời sống trong trại di cư khác xa với các trại của vùng kinh tế mới sau này. Đó là một đời sống tạm đầy đủ, êm đềm, tự do và tự tin cho tương lai của gia đình và đất nước. Trẻ con đều được đi học mà không phải trả bất cứ một khoản học phí nào. Tôi có những bạn cùng lớp đạp xe đi học từ những vùng thôn quê xa xôi. Bệnh viện đều miễn phí, rộng rãi và hợp vệ sinh. Xã hội có tôn ti trật tự và lễ nghĩa: kính trên nhường dưới. Tình nghĩa thày trò thắm thiết như cha mẹ và con cái.  Cửa nhà không cần khóa hai ba lớp. Chẳng phải thời Nghiêu Thuấn, nhưng tương đối hạnh phúc yên bình cho tới khi những tai họa từ trên núi đổ xuống: Ám sát, chặn đường, đặt mìn xe đò, xe lửa, pháo kích, súng nổ khắp nơi.
    Chị Linh là con độc nhất của gia đình hàng xóm kế bên nhà tôi. Bố của chị với Bố tôi cùng làm công chức trong tòa hành chánh tỉnh nên rất thân thiết với nhau. Mỗi khi mẹ tôi có nấu món ăn gì đặc biệt lại bảo tôi mang qua biếu nhà chị. Mẹ chị mỗi khi đi xa về đều có quà cáp cho mẹ tôi. Chị Linh lớn hơn tôi 3 tuổi, học trên tôi ba lớp. Chị vừa đẹp vừa học giỏi nên có nhiều chàng dòm ngó. Vì trường trung và tiểu học gần nhau nên chị và tôi thường đi học chung, nhiều đứa bạn tưởng tôi và chị là chị em ruột. Tôi chẳng thanh minh thanh nga gì cả cứ nhận vơ để lên mặt với đám học trò cùng trường. Mấy anh học cùng lớp với chị, hay dúi cho tôi quà cáp, lúc thì cái bánh “bích quy tây”, lúc thì vài cục kẹo “trứng chim” để nhờ tôi đưa thơ cho chị. Tôi chẳng bao giờ đưa, nhưng quà cáp cứ nhận đều đều. Mỗi lần nói với chị chuyện đó, chị lại trừng mắt nhìn tôi: “không được nhận quà nữa! thư cứ vất vào xọt rác cho chị!”. Tôi tảng lờ như không nghe thấy gì, mấy anh ấy có hỏi chỉ nói: “Đưa rồi, chị có đọc không, em không biết.” Mấy bức thư đó chắc gây phiền toái cho chị nhiều lắm.
    Mẹ tôi buôn bán cam. Dì tôi ở Saigon, cứ cách một vài ngày lại gởi hàng ra bằng xe lửa. Tôi chỉ việc ra lãnh mang về, Mẹ phân phối cho bạn hàng ngoài chợ. Đường xe lửa xuyên Việt chạy ngang thành phố. Mỗi khi về tới, tiếng còi tàu “ò e…, ò e…” đánh thức cả thành phố đang ngái ngủ. Tôi vội mướn xe xích lô chạy ra nhà ga để lãnh nhận những cần xé cam nặng trĩu…Bao giờ tôi cũng dấu một vài trái để cho Chị, chị thích lắm. Đó là thứ quà rất xa xỉ thời đó.
    Bố Mẹ tôi có 4 đứa con trai. Khi sanh thằng út, mấy người hàng xóm xấu miệng rỉ tai nhau “5 đứa con gái là Ngũ Long Công Chúa, còn 5 thằng con trai là Ngũ Quỷ”. Bố Mẹ tôi và Bố Mẹ chị Linh đồng ý trao đổi với nhau như trong chuyện giả tưởng thời xa xưa: Thằng út sẽ là con nuôi của nhà chị Linh và chị Linh là con nuôi của Bố Mẹ tôi. Thế là Út và chị Linh có hai cha mẹ, được cả hai chiều chuộng. Bốn anh em tôi trở lại thành “Tứ Quý” như xưa. Cha mẹ chị Linh thương thằng Út ra mặt, ngày nào cũng qua nhà tôi nựng nịu ngắm nghía nó như một báu vật. Đồ ăn đồ uống cung cấp cho nó thôi thì vất đi không hết. Mẹ tôi thường bận buôn bán nên hầu như Mẹ chị Linh chăm sóc Út nhiều hơn, thành ra Út đeo theo Mẹ nuôi cả ngày không rời.
    Hai năm sau khi sanh Út, Mẹ tôi bị bạo bịnh qua đời, từ đó Út ở hẳn bên nhà bố mẹ nuôi. Chị Linh thay Mẹ săn sóc anh em chúng tôi. Đi học về, chị dọn dẹp nhà cửa, nấu ăn, gánh nước từ giếng về đổ đầy mấy thùng phuy. Đó là thùng sắt đựng nhựa đường tráng mặt lộ, mấy thày công chánh sài hết nhựa, bán lại cho dân đựng nước, không bị rỉ sét. Trước khi trời tối, chị bắt tất cả ra giếng tắm rửa sạch sẽ. Tôi nhớ có lần chị đang giặt quần áo, thấy chiếc quần đùi tôi mặc lấm đen bùn đất chị bảo cởi ra cho chị giặt. Tôi còn chần chừ vì mắc cỡ, chẳng lẽ cởi quần tồng ngồng trước mặt chị. Chị la tôi “ Bé bằng quả ớt mà bầy đặt mắc cỡ.” Tôi vội cởi quần đưa cho chị, rồi lấy tay che thằng nhỏ, chị dí tay vào đầu tôi bắt vô nhà mặc quần. Sau này lớn lên một chút tôi thay chị sách nước, giặt dũ quần áo. Chị chỉ làm bếp thôi.
    Chị đậu bằng trung học đệ nhất cấp rồi đi học lớp Y tá điều dưỡng bốn năm. Tôi cũng vừa lên Trung học. Chị tốt nghiệp về làm trong bệnh viện duy nhất của tỉnh.
Bố tôi được đổi về Saigon, ngay khi tôi vừa học xong trung học đệ nhất cấp. Cả nhà dọn đi, nhưng Bố để lại thằng Út cho gia đình chị. Thỉnh thoảng vào những dịp nghỉ hè, tôi xin phép Bố về thăm chị và thằng Út. Chị gặp lại tôi mừng rỡ lắm, dẫn vô nhà thương giới thiệu với mọi người, tôi là em trai cưng của chị. Chị làm việc rất giỏi, cai quản tất cả y tá trong bệnh viện, những khi không có bác sĩ trực, gặp ca khẩn cấp, chị một mình quyết định mọi việc. Tôi vô cùng hãnh diện.
    Sau tết Mậu Thân, tôi phải nhập ngũ, nay đây mai đó chẳng còn dịp nào về thăm chị và thằng Út. Đôi khi nhận được thơ chị ở những nơi đèo heo hút gió, tôi mừng lắm, giữ gìn rất kỹ những bức thư đó, bỏ vào ba lô. Khi đi hành quân, rảnh rỗi lại mang thơ chị ra đọc. Chị luôn lo lắng cho an nguy của tôi, khuyên tôi xin đổi về thành phố cho an toàn. Chị đâu có biết, đời lính sai đâu đi đó, làm sao xin xỏ được. Có lần nghe chị kể, có anh chàng Bác Sỹ mới ra trường, làm việc ở nhà thương muốn xin cưới chị, hỏi tôi có được không? Tôi biết chị làm bộ hỏi, cũng như thông báo rằng chị sắp lấy chồng vậy thôi. Tôi có gần anh ấy đâu mà biết con người ấy ra sao, mà nói được hay không được. Tôi nói với chị, khi nào làm đám cưới, có chết tôi cũng dẫn xác về ăn cưới. Tôi chẳng ghen gì, nhưng bỗng thấy buồn, như vừa mất mát một cái gì thương yêu lâu nay vẫn dấu kín trong tim mình. Ngày Mẹ tôi mất, tôi cũng chẳng buồn như thế, có lẽ lúc đó tôi còn bé quá chăng? Thì ra, giữa tình chị em, chắc còn có một cái gì khác, rất mờ nhạt, khi ẩn khi hiện trong đáy tim tôi, tôi không bao giờ nhìn thấy rõ, cho đến khi sắp vuột khỏi tầm tay. Tôi chẳng có tình yêu thương của Mẹ, cũng chẳng có người yêu bé nhỏ nào trong lòng, cho nên vừa buồn vừa giận vu vơ. Không biết buồn giận ai, và buồn giận cái gì? Không biết vì sao nước mắt tôi cứ tuôn ra, hình ảnh vui tươi của chị cứ hiện ra trước mặt tôi. Bao nhiêu gian khổ nguy hiểm đời lính tôi chẳng coi ra gì.
    Chiến cuộc một ngày một khốc liệt hơn, đoàn quân di chuyển thất thường không báo trước, cho nên lâu ngày bặt tin tức nhà. Rồi miền Trung thất thủ, tôi may mắn nhảy lên được một chiếc tàu Hải Quân, về Vũng Tàu. Chẳng bao lâu trôi dạt qua Subic Bay bên Phi Luật Tân, rồi qua Mỹ. Mấy đứa em tôi, đứa mất tích, đứa đi tù, mình tôi lang thang nơi xứ người, quạnh hiu, cô đơn, làm lại cuộc đời từ con số không to tướng.
    Đầu thập niên 90, tôi trở về thăm chị và Út. Chị ôm tôi khóc mãi, còn Út chẳng biết tôi là ai. Tôi hỏi chị, anh rể của tôi đâu? Chị nói anh ấy bị động viên đi ngành quân Y và chết trên đường số 7 khi di tản từ Pleiku về Tuy Hòa. Chị chẳng có con cái gì và vẫn được làm ở bệnh viện với số lương chết đói. Tôi nghĩ đến câu “Hồng nhan bạc mệnh” mà không cầm được nước mắt. Cuộc đời chị vất vả từ nhỏ nhưng ông Tròi vẫn chưa tha. Tôi giúp chị một số tiền để xây lại căn nhà nay đã hư hại rất nhiều. Út đã là một chàng thanh niên cao lớn, ngoan ngoãn, thương yêu và săn sóc cha mẹ. Nó rất nghe lời chị làm tôi thấy ấm lòng. Chị Linh thương nó lắm và muốn nó theo nghề nghiệp của chị. Tôi hỏi chị, tôi có người bạn làm cùng sở, hiền lương chăm chỉ, độc thân, chị có muốn tôi làm mai không? Chị đỏ mặt nhưng không nói gì. Tôi chọc chị: “Già rồi mà còn mắc cỡ!”, nhớ khi xưa chị chọc tôi: “Bé bằng quả ớt mà bầy đặt mắc cỡ!”
    Năm sau, tôi dẫn người bạn đó về thăm chị.
 

– Minh Đạo Nguyễn Thạch Hãn

Friday, 5 July 2024

Casablanca - nhớ về Mạ 
28/06/2024 

Hoàng Quân 

 Có lẽ từ khi xem cuốn phim Casablanca, một cuốn phim khá xưa, tôi có ý thích đi Morocco. Phim kể về một chuyện tình trong bối cảnh đệ nhị thế chiến. Humphrey Bogart và Ingrid Bergman thủ vai chính. Lúc đó, nhiều nơi trên đất Pháp đã bị Đức Quốc Xã chiếm đóng. Rất nhiều người chạy trốn Hitler bằng những con đường gian truân. Đi từ Paris, đến Marseilles, đến Lisbon, thoát qua Morocco. Để từ quốc gia ở bắc Phi lo giấy tờ trốn qua Hoa Kỳ. Hình ảnh Ingrid Bergman trong vai Ilsa cúi xuống nói với người nhạc công: “Sam, play it once, play “As Time Goes By”, đã đọng lại thật lâu trong trí nhớ tôi. Vì những lý do ngẫu nhiên, mà chuyến công tác sang Morocco cứ bị dời mãi. Hoạch định từ đầu năm, mãi đến tháng Sáu mới lên lịch được. Tôi nói với thượng cấp của tôi, sẽ lấy một tuần nghỉ phép sau khi đi làm ở Morocco. Lúc đó con tôi cũng được nghỉ lễ hai tuần, rất tiện. Chúng tôi sẽ về nhà Ba Mạ tôi."

Tranh
Mẹ Con, tranh Nguyễn Đức Tuấn Đạt
 
Ravi, người bạn đồng nghiệp thúc nhắc tôi, phải đi với anh ta, làm việc vài ngày ở Morocco. Ravi bảo:

-Mình sẽ thăm khách hàng ở Casablanca. Sau đó, Philipp đón mình đi thăm khách hàng khác ở Rabat.
 
Có lẽ từ khi xem cuốn phim Casablanca, một cuốn phim khá xưa, tôi có ý thích đi Morocco. Phim kể về một chuyện tình trong bối cảnh đệ nhị thế chiến. Humphrey Bogart và Ingrid Bergman thủ vai chính. Lúc đó, nhiều nơi trên đất Pháp đã bị Đức Quốc Xã chiếm đóng. Rất nhiều người chạy trốn Hitler bằng những con đường gian truân. Đi từ Paris, đến Marseilles, đến Lisbon, thoát qua Morocco. Để từ quốc gia ở bắc Phi lo giấy tờ trốn qua Hoa Kỳ. Hình ảnh Ingrid Bergman trong vai Ilsa cúi xuống nói với người nhạc công: “Sam, play it once, play “As Time Goes By”, đã đọng lại thật lâu trong trí nhớ tôi. Vì những lý do ngẫu nhiên, mà chuyến công tác sang Morocco cứ bị dời mãi. Hoạch định từ đầu năm, mãi đến tháng Sáu mới lên lịch được. Tôi nói với thượng cấp của tôi, sẽ lấy một tuần nghỉ phép sau khi đi làm ở Morocco. Lúc đó con tôi cũng được nghỉ lễ hai tuần, rất tiện. Chúng tôi sẽ về nhà Ba Mạ tôi.  
          
Trước khi đi Casablanca, tôi về thăm gia đình cuối tuần. Mạ mới phải vào bệnh viện vì sưng phổi. Tôi và vợ chồng đứa em út vào thăm Mạ. Ba chị em ngồi kể chuyện cho Mạ nghe. Mạ không nói tiếng nào. Tôi ngồi bên giường Mạ, cầm tay Mạ:
 
-Con đi làm bên Ma-Rốc vài ngày. Tuần sau, con về đây ở với Ba Mạ một tuần. Mạ thích không? Con đã hỏi cô y tá. Cô bảo, Mạ hết bệnh sưng phổi. Nhưng tốt hơn, ở lại trong bệnh viện để người ta chăm sóc và theo dõi đến cuối tuần. Vậy cũng tiện, Mạ ra khỏi bệnh viện, tuần sau, có con ở nhà chơi với Mạ, nghe Mạ.
 
Mạ nhìn tôi, ánh mắt mệt mỏi, không tỏ lộ tình cảm rõ rệt. Trước đây vài năm, tôi bắt đầu có những chuyến đi làm xa vượt đại dương. Nhiều người gọi đùa là du lịch mà khỏi phải tự mình trả tiền máy bay và khách sạn. Riêng Mạ băn khoăn, mỗi khi tôi kể cho Mạ nghe, tôi sắp sửa đi làm xa:

-Con đi xa dữ rứa? Đi chừng mô mới tới? Có đông người làm cùng chỗ đi theo không? Tới chỗ lạ, đi đứng, ăn ở ra răng? Có ai phụ việc cho con không?
 
Mạ chẳng thể tưởng tượng công việc của tôi như thế nào. Chỉ nghe con kể, nhìn thấy con vẫn mãi nhỏ bé, yếu ớt như thuở ấu thơ, nên Mạ lo con cực. Tôi trấn an Mạ:

-Con lên máy bay, ngủ một giấc là tới nơi. Bên đó, hãng sắp xếp có người đón đưa thuận tiện, ăn ở khách sạn tươm tất lắm. Mạ yên tâm.
 
Lúc nào trong mắt Mạ, bầy con cũng luôn nhỏ dại. Năm ngoái, từ Ả Rập về, tôi mua những tấm khăn choàng Cashmere làm quà. Trời tháng Sáu, ở Đức vẫn chưa có hơi hướm mùa hè. Mạ ngồi nơi ghế dựa, gần cửa sổ, đắp cái mền mỏng trên chân. Tôi hỏi:

-Mạ thích màu nào nhất?
 
Tôi nhớ, ngày xưa khi Mạ bằng tuổi tôi, Mạ buôn bán giỏi giang. Với tiệm sách, tiệm cà phê Mạ cho bầy con của Mạ ăn ngon, mặc đẹp. Mạ mặc những chiếc áo dài thật sang trọng, quý phái. Mạ mân mê tấm khăn:

-Mạ thích màu ni. Mạ chỉ cái khăn màu cà phê sữa. Chà, vải chi mà mịn màng quá hè. Khăn ni bao nhiêu tiền một cái đây con?
 
Nghe Mạ hỏi như vậy tôi mừng lắm. Chứng tỏ Mạ vẫn còn quan tâm đến đời sống con cái. Mạ sợ con tốn tiền. Lúc nào cũng vậy, Mạ tiện tặn cho Mạ, nhưng rộng rãi cho con cái.

Cũng mới năm ngoái đây, mỗi khi tôi về thăm Ba Mạ, vừa về tới Mạ đã nhắc:

-Ráng ở chơi lâu lâu với Mạ nghe con.
 
Hễ báo tin sẽ về, là trước đó Mạ hay gọi điện thoại hỏi đi, hỏi lại, như sợ con bận rộn hay quên khuấy lời hứa về thăm nhà. Chuẩn bị đi, Mạ cũng bịn rịn:

-Con ở chơi thêm chút nữa đi.
 
Vậy mà bây giờ, Mạ như không nhận biết rằng, con gái Mạ sắp đi làm ở tận châu Phi, một nơi xa lạ, để lo lắng hỏi han. Mạ cũng không cảm nhận được lời hứa hẹn của con sẽ về, ở với Mạ vài ngày, để Mạ vui mừng, náo nức. Tôi lấy khăn lau mặt Mạ, lau tay Mạ. Lấy miếng bông gòn thấm chút trà cúc rà miệng cho Mạ. Mạ nắm chặt tay tôi, tỏ vẻ không đồng ý. Tôi vuốt nhẹ tay Mạ, nói:

-Thôi, Mạ không thích thì thôi.

Tôi ngồi phụ Mạ làm vài động tác thể dục. Khi bóp chân cho Mạ, tôi chặc lưỡi:

-Mạ ốm quá, da bọc xương thôi.

Khi chuẩn bị về, tôi cúi xuống hôn trán Mạ, hôn má Mạ, nhắc lại những lời mình đã kể với Mạ khi mới đến:

-Chừ con phải về, mai con đi Ma-Rốc. Tuần sau con xin nghỉ một tuần về chơi với Mạ, Mạ thích không?

Mạ nằm, mắt nhắm hờ như đang ngủ. Hơi thở có vẻ mệt nhọc. Tôi vuốt vuốt tay Mạ, cúi hôn Mạ lần nữa rồi chạy vội. Nhưng không hề có ý nghĩ đó là lần sau cùng được nhìn thấy Mạ.
 
Từ khi Mạ bị bệnh, đi tới đâu, buổi tối tôi cũng gọi về thăm hỏi. Càng về sau, Mạ càng ít nói. Tôi bảo các em đưa điện thoại cho Mạ nói chuyện với tôi, nhiều lần Mạ lặng yên rất lâu. Các em thúc dục:

-Mạ nói đi, chị chờ hoài cho đến khi Mạ nói, chị mới yên lòng. Mà chị gọi từ xa lắm, tốn tiền lắm.

Chúng tôi vẫn hy vọng đánh trúng tâm lý sợ con tốn tiền của Mạ. Có khi Mạ ừ, có khi Mạ nói không. Đôi lần hiếm hoi, Mạ nói: “Bữa ni sao mệt quá.” Tôi vẫn tin và luôn hy vọng rằng tình trạng sức khoẻ của Mạ chỉ tệ trong thời gian ngắn. Rồi Mạ sẽ bình phục.
 
Qua ngày hôm sau ở Casablanca, kết thúc hai buổi họp dài, chúng tôi đi thăm các cơ sở thương mại của khách hàng. Khi xong việc, xem như rảnh rỗi cho chương trình của mình, trời đã chập choạng tối. Hơn bảy giờ ở Morocco, tức đã chín giờ đêm bên Đức. Sợ khuya, nên tôi không gọi nữa. Định bụng ngày mai, hoặc trước khi đi làm, hoặc giữa giờ nghỉ trưa, sẽ gọi về thăm Mạ. Văn phòng hãng tại Casablanca phái một nhân viên người bản xứ đến đưa chúng tôi đi chơi lòng vòng và mua sắm lặt vặt. Vào trong khu chợ, đầy dẫy những sạp, những tiệm bán đồ da. Không hấp dẫn tôi bằng những xe bán dạo, có lò than trên là thau ốc, sò luộc và những xe bán nước cam vắt. Tôi thích dừng chân bên những chiếc xe thô sơ này hơn. Tôi nhìn quanh quất, như tìm xem có còn chút gì của những cảnh trong phim Casablanca, chẳng hạn như Rick's Café Américain. Ravi hỏi tôi, nếu muốn mua áo khoác và túi xách da, anh tài xế sẽ tìm và trả giá cho. Các mặt hàng đồ da rất đa dạng và giá cả phải chăng. Tôi không chủ tâm mua sắm gì, chỉ thích nhìn ngắm khung cảnh chung quanh trong con mắt của du khách tò mò. Sau cùng, tôi mua dăm ba món quà lưu niệm lẳn tẳn cho con trai và đám cháu. Ravi bảo:

-Ngày mai nếu có thì giờ, mình đi thám hiểm chợ khác.
 
Tôi về đến khách sạn đã gần nửa đêm. Mệt nhoài. Tôi đi nằm ngay, chuẩn bị cho ngày làm việc dài đằng đẵng hôm sau. Nghe điện thoại reo trong giấc ngủ say, tôi tưởng tiếng đồng hồ báo thức. Nghĩ, mình vừa đặt lưng một chút, sao đã tới giờ dậy đi làm. Nhìn đồng hồ điện, mới 4 giờ sáng. Nhưng như phản xạ tự nhiên, tôi chồm người với lấy điện thoại, đưa lên tai: “Thúy đây, Thuy’s speaking.” Tiếng chị lớn của tôi:

-Thúy ơi, Mạ mất rồi.
 
Trong giây phút đó, tôi lặng người, tai như ù đi. Tôi không nhớ mình đã những câu hỏi dồn dập, tại sao, lúc nào… Tôi cầm chặt điện thoại, oà khóc. Không, đó chỉ là cơn mộng dữ mà thôi. Có tiếng báo điện thoại nhận được tin nhắn. Tôi bật đèn. Nước mắt ràn rụa. Mang mắt kính vào. Người gởi: KemHandy. “Chị Thúy ơi, Mạ qua đời lúc 9 giờ tối 07.06. Em Kem.” Tôi khóc ngất. Đọc đi đọc lại lời nhắn của đứa em út, xem có thể nào là sự nhầm lẫn chăng: Chi Thuy oi, Ma qua doi luc 9 gio toi 07.06. Em Kem. Tôi run rẩy bấm số gọi lại cho chị tôi, tiếng chị như văng vẳng lúc xa lúc gần:

-Mạ ra đi thanh thản lắm. Bây giờ Mạ đang nằm trên giường như đang ngủ. Có Ba đây, nhưng Ba đang xúc động quá, không nói chuyện được.

-Chị Tâm ơi, thiệt hả. Mạ không còn đó nữa sao? Mạ bỏ mình thiệt rồi sao? Tôi khóc oà.

-Thúy ơi, bình tĩnh lại đi. Có ai giúp em sắp xếp chuyến bay…
 
Chị Tâm đang cố gắng trấn tĩnh tôi. Tôi vẫn áp điện thoại bên tai. Không còn nghe rõ những lời bên kia đường dây. Tôi đã khóc không biết bao lâu, cả người như tê nhức. Tôi đang ở Phi Châu, một lục địa khác. Bao nhiêu ngàn cây số cách xa nước Đức, nơi Mạ đã nhắm mắt vĩnh viễn. Tôi chập choạng đi lại bàn, tìm số điện thoại phòng du lịch của công ty.

-Tôi đang ở Casablanca, tôi muốn về lại Frankfurt bằng chuyến bay sớm nhất. Rất cấp bách.

Lát sau, cô nhân viên phòng du lịch gọi lại cho tôi:

-Vé của cô đã xong. Cô ra phi trường, chỉ cần trình tấm Card Flying Blue.
 
Dù là chuyến sớm nhất, mà theo lịch trình, mãi 7 giờ tối tôi mới đến Frankfurt, vì phải đổi máy bay ở Paris. Tôi nằm vật ra. Sao lại như vậy. Tôi mới thăm Mạ hôm chiều thứ Hai đây mà. Lễ Pfingsten, thứ Hai lễ lá, cuối tuần dài ra. Khi lên lịch những chuyến đi xa, tôi thường xin phép thượng cấp cho tôi quá cảnh ở Frankfurt. Rồi tôi sắp xếp đủ thì giờ, để chạy vội về Bad-Nauheim, thăm Ba Mạ trước khi chuyển máy bay đi tiếp.
 
Mùa hè năm nọ, Ba Mạ cùng gia đình tôi và gia đình em tôi đi nghỉ hè bên Ý. Mạ rất thích bơi. Nhưng băn khoăn vì thấy chân yếu. Đi bộ từ nhà ra bãi biển, Mạ cứ phải nghỉ nhiều lần. Vậy mà, suốt thời gian đó, Mạ vẫn vui trọn vẹn với chồng, con, cháu. Về lại Munich, cũng là lúc gia đình nhỏ của tôi dọn qua nhà mới. Tôi nhìn tấm hình Mạ chụp đứng nơi ban công, ánh mắt Mạ rạng vui, mừng cho con có được mái nhà riêng. Những ngày tháng sau đó, Mạ vẫn luôn săn giòn, năng động. Mạ vẫn làm những hũ thịt chà bông, kho những nồi cá rau răm cho bầy con, cháu. Vào mùa xuân, Mạ cùng Ba đi hái lá rau Brennessel, làm bánh gai. Mạ vẫn thỉnh thoảng chân yếu không đứng được lâu. Sau nhiều lần đi bác sĩ, cuối cùng, em gái kế tôi, báo tin: “Bác sĩ chẩn đoán Mạ mắc bệnh Parkinson.” Lúc đó, trong hiểu biết của tôi bệnh Parkinson là bị run chân tay. Tôi đọc bài viết trong báo Focus, cũng chỉ hiểu lờ mờ. Người ta lập hội thân nhân những bệnh nhân Parkinson. Tôi ghi chép số điện thoại, định bụng, sẽ thử liên lạc trao đổi thông tin. Nhưng rồi vẫn chưa thực hiện được ý định này. Khi Mạ vào bệnh viện Parkinson lần đầu, chúng tôi có gặp một chị người Đức, vào thăm thân nhân của chị. Chị nói, tình trạng sức khoẻ của bệnh nhân Parkinson thay đổi thất thường trong những năm đầu. Sau đó, tình trạng sức khoẻ sẽ suy sụp rất nhanh. Chị khuyên chúng tôi nên chuẩn bị tinh thần để đối đầu với sự thật đó. Nhưng chúng tôi vẫn hy vọng tình trạng của Mạ sẽ là ngoại lệ. Với thuốc thang và các phương pháp thể dục trị liệu, rồi Mạ sẽ khoẻ lại.
 
Những lần về nhà, mấy chị em gái hay rủ nhau đi phố. Một hôm, mọi người đã ra xe, tôi còn xàng xê, đi sau cùng. Mạ đi với tôi ra cửa, cầm tay tôi, tần ngần, như muốn nói điều chi. Tôi hỏi Mạ:

-Hay con ở nhà với Mạ hỉ?

Mạ vui mừng:

-Ừ, ở nhà chơi với Mạ nghe.

Mạ kể:

-Mạ không đứng lâu được. Đi lui, đi tới không hề chi. Mà đứng xào nấu, dọn dẹp một chút là bắp chân mỏi ê, không chịu được.
                              
Với một chuỗi tình cờ may mắn, mùa hè cả đại gia đình về Việt Nam để làm đám cưới cho cho đứa em út. Mạ vẫn thỉnh thoảng có những cơn mệt kiệt sức, mà chúng tôi không hiểu rõ nguyên do. Hôm cuối ở Sài Gòn, mọi người đang ở nhà người anh họ, chuẩn bị đi ra ăn tiệc chia tay với bà con họ hàng. Mạ nói Mạ hơi mệt, Mạ nằm nghỉ ở nhà. Khi Mạ đứng ở cầu thang, Mạ khụy chân, té ngồi xuống. Em tôi vội chạy lại đỡ, bồng Mạ lại nằm ở ghế xa- lông. Người nhà kêu ông thầy thuốc nam đến nắn. Không sưng nhưng Mạ nói cảm thấy đau. Theo chương trình, chúng tôi phải đưa Ba Mạ đi vòng qua ngõ Thái Lan. Ba Mạ, tôi và con trai qua Bangkok trước, ở lại hai đêm. Sau đó, sẽ gặp các gia đình khác ở phi trường, rồi bay về Đức. Tôi đặt xe khách sạn đến đón. Thấy Mạ mệt mỏi, có vẻ đau. Nhưng tôi không hề nghĩ đến thương tích gì trầm trọng. Tôi hỏi mướn ghế xe lăn của khách sạn, tôi muốn đưa Mạ đi chùa. Người ta không cho mướn, tôi rất bất bình. Cuối cùng, tôi nhờ con trai ở nhà trông chừng bà Ngoại, tôi đưa Ba đến chùa Phật Nằm. Hai cha con lâm râm cầu nguyện cho Mạ mau lành bệnh. Tội nghiệp Mạ, sợ chồng con lo, suốt hành trình dài, Mạ chẳng nói cho con biết, rằng Mạ rất đau, rất mệt. Về đến Đức, qua ngày thứ hai, Mạ vẫn đau và mệt. Chúng tôi đưa Mạ ra bệnh viện. Bác sĩ chụp quang tuyến, chẩn đoán và cho biết kết quả. Chúng tôi không ngờ, cơn ngã nhẹ ở Việt Nam đã làm xương chậu của Mạ bị nứt. Bác sĩ cho biết sẽ phải giải phẫu. Chúng tôi bàn bạc nên trình bày tình trạng như thế nào để Mạ và Ba không quá hoảng sợ. Sau khi giải phẫu, ráp xương, bệnh viện chuyển Mạ về tĩnh dưỡng ở dưỡng đường trên núi gần nhà. Thời gian đó tôi nghỉ hãng cũ, chưa đi làm hãng mới, có mấy tháng quanh quẩn ở Bad-Nauheim. Nghĩ lại, đó là cái duyên tốt cho tôi, có cơ hội chăm sóc, gần gũi Mạ. Sáng, khi tôi lên đến nơi, Mạ đã xong điểm tâm, ăn bánh mì chấm sữa nóng. Còn lại đồ ăn, Mạ để dành cho tôi. Mạ làm sẵn bánh mì với xúc xích, phô mai để trên bàn, Mạ nhắc tôi ăn. Sau đó, tôi đi với Mạ đến các phòng thể dục trị liệu. Những khi không phải sinh hoạt chung với các bệnh nhân khác, hai Mạ con ngồi nói chuyện với nhau. Buổi trưa, khi Mạ ngủ, tôi trải áo khoác lên sàn nhà, ngủ lơ mơ. Chiều chiều, tôi đưa Mạ xuống sân hóng nắng và phụ Mạ tập đi. Tôi đẩy xe theo Mạ, thúc nhắc Mạ ráng tập cho mau bình phục. Lúc đó Mạ đã cố gắng rất nhiều. Có hôm Mạ mệt nhọc đưa nạng cho tôi:

 -Mạ chán quá, sao không thấy khá gì hết. Chỉ thấy ngày càng tệ hơn.
 
Những bệnh nhân khác, hoặc thân nhân của họ, khi ngồi hong nắng cũng quan sát hai mẹ con. Thấy Mạ đi được một đoạn dài, họ vỗ tay khích lệ. Tôi liền kể ngay với Mạ:

-Họ khen Mạ đi giỏi. Có tiến bộ nhiều đó.
 
Ở nhà chuẩn bị đón tiếp Mạ từ bệnh viện về. Bầy cháu vẽ chữ trang hoàng nhà cửa. Chồng em gái tôi và các em trai lắp ráp những thiết bị dụng cụ trong nhà thích hợp cho Mạ.
 
Khi tôi qua hãng mới, cô xếp rất thông cảm hoàn cảnh của tôi. Những ngày nghỉ bắt cầu, cô luôn nhường cho tôi lấy phép, để có cuối tuần dài về thăm Ba Mạ. Mạ vẫn hay bị những cơn mệt đến ngất người. Bác sĩ gia đình không tìm thấy rõ nguyên nhân khác ngoài bệnh Parkinson. Chúng tôi thuyết phục Mạ vào bệnh viện thành phố để khám tổng quát. Lần đó, bác sĩ đề nghị chuyển qua bệnh viện chuyên khoa Parkinson. Vào bệnh viện này, tôi gặp nhiều trường hợp khác nhau. Nơi Mạ, một đôi khi chúng tôi thấy có dấu hiệu tốt hơn. Nhưng chung chung tình trạng càng ngày càng đi xuống. Mạ không muốn ăn, hay sợ hãi, hay có ảo giác, thấy thú dữ, lụt lội.
 
Anh tôi đề nghị thử đưa Mạ đến người bạn là bác sĩ châm cứu. Chúng tôi chở Ba Mạ đến bác sĩ người Việt. Những lần châm cứu đầu, cả Ba lẫn Mạ đều thấy kết quả tốt. Có lẽ yếu tố tâm lý thuận tiện. Bác sĩ rất sốt sắng, đối xử với Ba Mạ thật thân tình. Mạ kể bệnh trạng cho bác sĩ nghe, bác sĩ cắt nghĩa tường tận. Được nói và nghe tiếng Việt đã giúp Mạ lạc quan hơn. Anh tôi nghiên cứu cách chữa trị bằng nhân điện. Tôi nhớ, có cuối tuần, trời đẹp, tụi tôi đưa Mạ ra nằm chơi ngoài sân. Ba dùng ngải cứu để khai huyệt, anh tôi cầm tay Mạ, tập trung tinh thần, như truyền sức sống thêm cho Mạ. Mạ hay cảm thấy ớn lạnh, nhất là lạnh ở bắp chân. Các chị tôi tìm mua nhiều loại áo thật ấm, nhưng mỏng để Mạ mặc cho dễ chịu, hoặc đan cho Mạ những đôi vớ ống mang kéo lên đầu gối. Mấy đứa em trai thay phiên nhau xoa bóp bắp chân cho Mạ.
 
Chúng tôi bàn bạc nhau, muốn thay đổi không khí xem thử có thể làm Mạ khỏe hơn không. Anh kế của tôi đón Mạ về nhà, để anh chăm sóc một thời gian. Ba ở trên lầu với con anh, anh ở với Mạ trong phòng khách tầng trệt. Vợ anh ngủ dưới hầm. Chân Mạ ngày càng yếu. Chúng tôi để Mạ ngồi trên xe lăn, đưa Mạ dạo loanh quanh trong xóm. Một hôm, anh chị và tôi đang ăn cơm trong bếp, Mạ đứng dậy ngoài phòng khách, tính dọn dẹp chi đó, chúng tôi nghe tiếng Mạ té. Chúng tôi vội chạy ra, anh bồng Mạ lại ghế, hỏi Mạ có đau đâu không. Mạ lắc đầu. Khi anh lau mặt cho Mạ, anh thấy trên đầu Mạ bị sướt một chút, có rướm máu. Ngày hôm sau, chúng tôi đưa Mạ vào bệnh viện. Tôi kể cho bác sĩ nghe và yêu cầu chụp hình xem có thương tích gì không. Sau đó, Mạ ở lại bệnh viện, không phải do bị ngã, mà vì bị sưng phổi. Cu Bờm, con anh tôi, dẫn tôi đạp xe đến bệnh viện thăm Mạ. Có hôm ngồi nói chuyện xưa, cu Bờm nghe hóng chuyện, rồi hỏi:

-Hồi đó bà Nội có giả đò làm rớt cái khăn, để cho ông Nội lượm, rồi làm quen không?
 
Mạ bật cười thành tiếng. Lâu lắm mới thấy lại nụ cười, nghe lại tiếng cười của Mạ. Chúng tôi thật vui. Nhớ lại, mới năm nào đây, tiếng Mạ cười giòn giã, khi tụi tôi đùa giỡn với câu ăn hột mít... lên trên độn... Lần cuối Mạ bật tiếng cười, có lẽ là vào giáng sinh năm nọ. Khi một đứa cháu ngoại đem món quà giáng sinh ra thử, đôi vớ sặc sỡ, mang khít vào từng ngón chân. Mạ bật cười có vẻ thích thú. Càng ngày Mạ càng ít nói. Chúng tôi tìm đủ mọi cách để khơi chuyện với Mạ. Đôi khi chúng tôi giả đò đưa ra những câu nói vô lý để Mạ “bực” quá, phải cắt nghĩa cho chúng tôi hiểu. Ngày trước, Mạ rất thích coi ca nhạc. Nhưng dần dà, Mạ không còn quan tâm nữa. Những lời cảnh báo của những người có thân nhân bị bệnh Parkinson như càng ngày càng rõ. Nhưng trong thâm tâm chúng tôi, chúng tôi không muốn tin. Đôi khi bắt gặp Mạ ngồi bất động nhìn vào khoảng không, tôi thương Mạ đến não lòng. Tôi hay về thăm Ba Mạ. Nhưng chỉ là cuối tuần hoặc ngày lễ. Em gái út của tôi, bên Mạ hàng ngày, và những lần đưa Mạ vào cấp cứu, trong lòng chắc biết bao niềm đau nhức nhối.
 
Chúng tôi thuyết phục đưa Mạ đi chơi tết Nguyên Đán của trường Việt Ngữ Frankfurt. Thấy anh tôi chăm sóc cho Mạ, mấy người bạn trầm trồ, Ba Mạ thật có phúc, có con trai lo lắng cho Mạ chu đáo không khác gì con gái. Đó là năm cuối cùng, các con, cháu của Mạ nhận được lì xì đầu năm, Mạ trao bằng đôi tay run run. Đến phiên Bòn Bon, đứa con út em gái tôi, Mạ như muốn cho Bòn Bon 2 phần, có lẽ do Bòn Bon là đứa cháu gần gũi nhất với Mạ.

*           *          *
Ngày xưa, nghe đến Casablanca, tôi liên tưởng đến hình ảnh cô tài tử Ingrid Bergmann trong vai Ilsa cúi xuống yêu cầu người nhạc công trình bày lại bản nhạc As Time Goes By. Nhưng bây giờ, tôi không nghĩ đến cuốn phim cổ điển nữa.
                                                   
Bây giờ, mỗi khi nghe đến địa danh này, tôi không cầm được nước mắt, nhớ đến một đêm tháng Sáu, khi tôi đang đâu đó trong thành phố này ở Phi Châu, xa thăm thẳm nơi Mạ đang ở, thì Mạ đã vĩnh viễn ra đi. Tôi thành mồ côi Mẹ. Trong tôi còn vang vọng lời hát ... Lỡ mai này Mẹ hiền có mất đi, như đóa hoa không mặt trời, như trẻ thơ không nụ cười, như đời mình không lớn khôn thêm... Tôi không có được diễm phúc bên Mạ trong những giờ phút cuối của đời Mạ, không được bên cạnh thân xác Mạ đang lạnh dần. Tuần lễ tôi sắp xếp, đã kể cho Mạ nghe, tôi không dùng để chăm sóc Mạ như dự định, mà để đưa Mạ tới nơi yên nghỉ cuối cùng. Để cùng anh, chị, em, con, cháu trong gia đình chít vành khăn tang, cùng đớn đau khóc cho mất mát lớn nhất đời người: niềm đau mất Mẹ.
 
Hoàng Quân

Saturday, 30 March 2024

 Trở Lại

29/03/2024
tro lai
Một thời gian ngắn sau Hiệp Định Genève tháng 7, 1954, gia đình chúng tôi rời Phủ Cam dọn vào ở trong khuôn viên trường Đồng Khánh. Măng chúng tôi dạy môn Nữ Công Gia Chánh, và có lẽ vì là một quả phụ với 6 con, nên được Bà Hiệu Trưởng Nguyễn Đình Chi, ưu ái giúp đỡ cho gia đình được sống trong 2 căn phòng trên lầu Ba (bên phải, nếu từ cổng trước nhìn vào). Cùng ở trên lầu Ba sát cạnh gia đình chúng tôi là gia đình của bà quả phụ Trần Thi, mà chúng tôi thường kêu là Dì Hoàn vì Dì là bạn của Măng tôi từ khi 2 người học chung với nhau tại trường Đồng Khánh trong thập niên 30. Gia đình Dì cũng đông không kém gia đình tôi – 7 người. Dì ít cười và có vẻ nghiêm khắc. Các nữ sinh nghỉ trưa tại trường rất sợ gặp “Bà Thi”, dễ bị Bà la rầy hay cho “kỷ luật”, nhất khi bị bắt gặp đi lang thang trong hành lang thay vì phải ở trong phòng học. Tuy nhiên đằng sau khuôn mặt nghiêm trang ấy là một con người hiền hòa, từ tâm, đầy lòng bác ái, thể hiện trong sự việc, ngoài săn sóc mẹ già, nuôi nấng đứa con trai duy nhất, Dì còn nhận trách nhiệm nuôi ăn ở trong nhà 4 cô cháu gái đang tuổi học trò, là con của anh trai mình. Và trong suốt thời gian 2 gia đình ở cạnh nhau, tôi chưa từng nghe Dì lớn tiếng la rầy các cháu mình. Năm năm sau, gia đình Măng tôi dời qua lầu Ba đối diện.

Trần Như Ái là tên con trai của Dì, nhưng tôi thường quen miệng gọi Bé, tên cúng cơm, nhỏ hơn tôi khoảng 5 tuổi. Có lẽ vì hoàn cảnh gia đình hai bên gần giống nhau – hai bà mẹ ở góa nuôi con – và nhất là vì hiện tượng mất cha của hai chúng tôi – cha của Bé mất khi Bé được chừng 5 tháng tuổi, cha tôi mất khi tôi còn là thai nhi 4 tháng trong bụng mẹ - nên Bé và tôi trở nên đôi bạn thân theo thời gian. Tôi vẫn giữ hình ảnh Dì Hoàn và Bà Ngoại của Bé, cả hai trong áo lam, ngồi tụng kinh trước bàn Phật trong một góc cuối phòng, trong vài lần rón rén vào nói chuyện với Bé trước khi ngủ tối.  Đăc biệt nhất âm thanh quen thuộc, đều đặn nhẹ nhàng, boong boong, boong, cốc cốc cốc; boong cốc boong cốc, cốc cốc cốc…. của tiếng tụng kinh gõ mõ của Bà Ngoại và Mẹ của Bé ru giấc ngủ bình an cho tôi hằng mỗi đêm và thanh thoát nhẹ nhàng đánh thức tôi dậy mỗi sáng sớm. Theo với tiếng gõ mõ tụng kinh là mùi hương thoáng tỏa nhẹ trong không gian lầu Ba. Năm này qua năm khác. Ngoại trừ những ngày làm việc trong tuần, Dì Hoàn thường mặc áo dài lam đi lễ chùa khá thường xuyên. Dì là hình ảnh một Phật Tử thuần chính dưới mắt mọi người.

Sau Mậu Thân 1968, Dì Hoàn đưa Mẹ vào sống tại Saigon. Bé được du học tại Australia năm 1969 sau kết quả đậu Bình về ban Toán. Do phận đời trôi nổi và cuộc sống bươn chải, chúng tôi mất liên lạc một thời gian khá dài, trên cả 4 thập niên, chỉ gián tiếp biết tin tức của nhau. Cho mãi đến hè năm 2018, vợ chồng Bé & Hương (cả hai đều du học trong cùng thời gian) đến chơi Cali chúng tôi mới gặp lại nhau. Trong một lần đến biển Montage, Bé và tôi có dịp ôm vai nhau đi dạo, nói chuyện đời, và lắng nghe tâm sự của Bé về Mẹ của mình. Những điều nghe được làm tôi quá ngạc nhiên, vì qua lời tâm sự, tôi nhìn thấy được ánh sánh mang Tin Mừng của Chúa Thánh Thần đã đổ xuống cho Dì Hoàn. Những lời Bé nói vẫn còn văng vẳng trong tôi:

“Lúc Bé còn nhỏ, thấy Me quen nhiều với mấy Mẹ và mấy Soeurs trong Dòng Kín Carmelites, và mấy Mẹ mấy Soeurs cũng rất thân tình với Me. Me tâm sự với Bé là đã quen nhau từ thời còn đi học trường Tây và Me cũng cảm thấy rất thân tình và mến Đạo. Nhưng vì Bà Ngoại còn sống nên Me không hề dám nghĩ đến chuyện theo Đạo. Tánh Me hiền, ăn chay, đi Chùa thường xuyên, được Thầy Từ Ân hướng dẫn. Rồi biến cố Phật Giáo năm 1963 Me nguyện ăn chay trường cầu mong mọi sự bình yên sẽ đến. Bé nghĩ Me có phần nào bị dằng co giữa hai tôn giáo và chỉ mong mọi người sống yên lành với nhau. Bé nghĩ cũng vì nguyện ý như vậy nên lúc sanh thời Dì Tiếp và Dì Chương rất thương Me (Dì Tiếp là Măng tôi, Dì Chương là mẹ của anh Nguyễn Xuân Đặng. cả hai gia đình đều là Công giáo và cùng sống trong khuôn viên trường Đồng Khánh). Khi Bé khoảng 4 tới 6 tuổi, rất nhiều lần Me dẫn bé đến thăm các Mẹ các Soeurs tại Dòng Kín Carmelites ở Kim Long. Sau đó tại Bé lớn hơn nên không được phép vào bên trong nữa mà chỉ còn một mình Me được cho vào thôi. Bé vẫn còn nhớ cảnh khuôn viên nhà dòng rất trang nhã với nhiều vườn hoa. Me còn đan nhiều áo ấm con nít rất đẹp để bán gây quỹ cho nhà dòng. Mấy Soeur rất hiền và dễ thương…”
         

Phải chờ đến khi bà Ngoại của Bé mất năm 1977, Dì Hoàn bắt đầu tìm hiểu lại đạo Công Giáo, gắn bó từ từ với tinh thần Công Giáo qua sự hội nhập với cộng đồng Dòng Đức Bà tại Saigon. Khi tôi hỏi Bé có biến cố nào thúc đầy Me của Bé chính thức rửa tội và trở thành con của Chúa, không một do dự, Bé cho biết như sau:

“Bấy giờ chị Xi đang kiếm đường vượt biên, nên Me của Bé phát nguyện là một khi chị Xi đến bến bờ tự do bình an, là Me rửa tội theo Chúa - Chị Xi là tên cúng cơm của Vương Thúy Loan, con gái út của ÔB Vương Quan, cũng ở trong Xóm Đồng Khánh với chúng tôi, và là chị em bạn dì với Bé vì 2 Dì Quan và Dì Hoàn là chị em ruột. Sau khi tốt nghiệp Sư Phạm và Cử Nhân Anh Văn từ ĐH Huế năm 1970, Vương Thúy Loan dạy Anh Văn tại trường Trần Quý Cáp, Hội An, cho đến 1975. Do một cơ duyên tâm linh, Thúy Loan là người duy nhất trong đại gia đình quyết định rửa tội thành người Công Giáo trước khi tốt nghiệp Đại Học. Và có lẽ Dì Hoàn là người nhiệt lòng ủng hộ quyết định cá nhân này.
Quả đúng như vậy, sự cầu nguyện thành khẩn của Me phải linh thiêng như thế nào nên sau đó chị Xi đã vượt biên thành công, đúng ngày 30 tháng 4, 1984 đến được đảo Kuku, một hòn đảo nhỏ nằm trong hơn 17 ngàn đảo của nước Nam Dương. Thật là mỉa mai và trớ trêu khi nhóm vượt biên của chị Xi đến bến Tự Do đúng vào ngày Cộng Sản trong nước ăn mừng giải phóng. Ngay sau khi nhận được tin lành, Me của Bé lập tức liên lạc với các Mẹ và Soeurs thuộc Dòng Đức Bà tại cơ sở Regina Mundi, thành khẩn xin học khóa giáo lý một cách cẩn trọng trước khi được cha và các soeurs chấp nhận, thực hiện các phép bí tích, rửa tội, cho Me trở lại Công Giáo vào một ngày gần cuối tháng 5, 1984”

tro lai 2.
Hình kỷ niệm sau lễ Rửa Tội (Từ trái sang phải): vợ chồng cháu gái của Dì Hoàn, Soeur Joseph, mẹ đỡ đầu – Dì Hoàn, mẹ của Bé – linh mục chủ lễ Rửa Tội, Soeur Gabriel

tro lai 3
Dì Hoàn nhận phép Bí Tích Thêm Sức
tro lai 4
Dì Hoàn nhận phép Bí Tích Rửa Tội
 
Trở lại có nghĩa là quay về lại nơi bắt đầu. Trở về với nguyên thủy. Như thể, trở lại nơi chôn nhau cắt rốn, trở lại với gia đình. Trở lại với niềm tin, trở lại với sự mơ ước. Như thể “con tim đã vui trở lại, tình yêu đến cho tôi ngày mai, tình yêu chiếu ánh sáng vào đời, tôi hy vọng được ơn cứu rỗi”. Hơn nữa, phải chăng trở lại mang thêm một ý nghĩa cao quý hơn, một thăng hoa tiến về cái đẹp cái tốt vì chẳng ai muốn trở lại với cuộc sống đen tối, hay trở lại với cái xấu xa của quá khứ.   

Vì vậy sự trở lại luôn mang theo một nguyện ước nguyên thủy của mình, đó là tìm về một ước vọng, một ý niệm thầm kín khắc sâu trong tâm khảm nhưng chưa thể thực hiện được, vì ảnh hưởng văn hóa những ràng buộc xã hội, những ép đặc chính kiến, tôn giáo, những trăn trở dấu kín, hay đơn giản vì một chữ Hiếu - như trường hợp của Dì Hoàn – cho đến khi đúng lúc, đúng thì tự nhiên trở thành hiện thực.

If today you hear his voice, harden not your heart.
“Hãy mềm lòng khi con nghe tiếng gọi của Người.”

Không cần phải khấn trọn, Dì Hoàn sống một cuộc đời thánh thiện, đơn giản, trong một căn phòng nhỏ với các trang thiết bị cho tiện nghi cá nhân, nằm trong khuôn viên trường Regina Mundi, nay là trường Hồng Gấm. Bé cho biết Bé về Việt Nam thăm Me từ năm 1994. Mỗi ngày có một bà đến trông nom từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều. Mỗi ngày Me đi lễ hai lần sáng tối. Khi già hơn thì được đặc ân của nhà thờ có một dây chuông, ban đêm hữu sự kéo dây thì sẽ có người đến thăm hỏi. Một năm trước khi Me mất, mỗi sáng thức dậy sớm, Me đọc kinh tại phòng, được Cha cho người đem bánh thánh tới phòng để nhận hưởng. Lần cuối cùng Bé về thăm Me vào năm 2001. 
 
5
Hình hai mẹ con năm 1994
 
Me của Bé mất vào tháng 10 năm 2004, hưởng thọ 90 tuổi. Sáng đó, sau khi xem lễ và nhận hưởng bánh thánh, được người giúp việc đút ăn một muỗng cháo, đỡ nằm xuống gối và nhắm mắt lìa đời bình thản. Me được cremated và hủ tro được đặc ân để trong hộc kính ở trên tường phía sau phòng cầu nguyện, nơi Cha đến làm lễ mỗi sáng.” Về sau vì nhu cầu mở rộng của nhà Dòng, nên một người cháu gái của Dì đưa hủ tro của Dì Hoàn về nhà thờ Thủ Đức để tiện thăm viếng.

Sống lành, chết lành. Sau đúng 20 năm trở lại đạo Công Giáo, Guisemaria Trần Thị Như Hoàn, cựu giám thị trường Đồng Khánh, và là Dì Hoàn của Xóm Đồng Khánh chúng tôi - đã được an nghỉ nghìn thu.

REQUIESTCAT  IN  PACE (REST IN PEACE)?
 
Vĩnh Chánh
Mùa Phục Sinh 2024