Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label NhacSiVanGiang. Show all posts
Showing posts with label NhacSiVanGiang. Show all posts

Sunday, 11 June 2023

NHẠC SĨ XUÂN TIÊN SỐNG LẶNG LẼ Ở ÚC NGAY NGƯỜI VIỆT Ở ĐÂY CŨNG ÍT AI BIẾT ÔNG SỐNG Ở ÚC- Hận Đồ Bàn là bản nhạc nhức nhối chỉ có Từ Công Phụng hát mới biểu lộ, gây xúc cảm trọn vẹn; khán giả như trực tiếp nghe được  tâm sự thiên thu oán hờn của Dân Tộc Chàm Phan Rang, Phan Rí./-Mt68
___________
Nhạc sĩ Xuân Tiên qua đời tại Úc, hưởng thọ 103 tuổi.

Nhạc sĩ Xuân Tiên vừa qua đời sáng 2/6 tại Úc, hưởng đại thọ 103 tuổi, để lại nhiều ca khúc nổi tiếng như ‘Khúc hát ân tình’, 'Cùng một mái nhà', 'Hận Đồ Bàn'...

Nhạc sĩ Xuân Tiên (1921-2023) qua nét vẽ của Trần Thế Vĩnh.

Nhạc sĩ Xuân Tiên có họ tên đầy đủ Phạm Xuân Tiên, sinh ngày 28/1/1921 tại Hà Nội. Nhạc sĩ Xuân Tiên là con út trong gia đình có 6 anh em trai. Nhạc sĩ Xuân Tiên có người anh kế cũng tham gia sáng tạo nghệ thuật là nhạc sĩ Xuân Lôi (1917-2006).

Nhạc sĩ Xuân Tiên đám cưới với người phụ nữ cùng tuổi Hoàng Thị Hương vào năm 1940. Họ sống bên nhau hạnh phúc hơn 8 thập niên, với 8 đứa con chung. Bà Hoàng Thị Hương qua đời ngày 18/6/2021.

Công việc chính của nhạc sĩ Xuân Tiên là chơi nhạc và đệm đàn cho các sân khấu nên ông viết không nhiều ca khúc. Từ bài hát đầu tiên “Chờ một kiếp mai” viết chung với nhạc sĩ Ngọc Bích vào năm 1953 đến khi qua đời, nhạc sĩ Xuân Tiên chỉ có khoảng 20 ca khúc. Tuy nhiên, điều đặc biệt là hầu hết các ca khúc của nhạc sĩ Xuân Tiên đều khai thác chất liệu âm nhạc dân tộc và có sức sống lâu bền.

Nhạc sĩ Xuân Tiên từng thổ lộ: “Tôi thích những âm hưởng lạc quan yêu đời, tôi yêu những lời hát ca ngợi quê hương dân tộc. Tôi cũng có làm những loại nhạc tình yêu lứa đôi và nhạc buồn nhưng không có sầu thương ủy mị quá. Có buồn những cũng chỉ là chớm buồn chút thôi”.

Trong ca khúc của nhạc sĩ Xuân Tiên có thể tìm thấy âm hưởng dân ca Huế qua “Tiếng hát trong sương”, âm hưởng dân ca Nam bộ qua “Cùng một mái nhà”, âm hưởng dân ca Chàm qua “Hận Đồ Bàn” và âm hưởng dân ca Bắc bộ qua “Khúc hát ân tình”.

Ca khúc “Khúc hát ân tình”, còn có tên khác “Duyên Bắc tình Nam”, là một trong những sáng tác quen thuộc nhất của nhạc sĩ Xuân Tiên. Tính đến nay, bài hát đã qua đời gần 70 năm. Sau Hiệp định Geneve, nhạc sĩ Xuân Tiên đã chứng kiến dòng người di cư và ông mong muốn cộng đồng có được sự gắn bó yêu thương. Ông đã soạn nhạc và nhờ nhạc sĩ Song Hương viết lời ca khúc "Khúc hát ân tình".


Ca khúc "Khúc hát ân tình" nổi tiếng của nhạc sĩ Xuân Tiên.

Ca khúc “Khúc hát ân tình” mang sự hòa hợp và bao dung: “Người từ, là từ phương Bắc đã qua dòng sông, sông dài. Tìm đến phương này, một nhà thân ái. Ơi! Tình Bắc duyên Nam Là duyên tình chung muôn đời ta đắp xây. Gặp nàng, nàng là thôn nữ mắt duyên cười say môi hồng. Tình ngát đôi lòng mộng vàng chung bóng.

Ơi! Mạch đất dâng hương là hương cần lao chung đời vai sát vai. Cùng góp bàn tay thương yêu nhau rồi, ngô khoai hai mùa ngát một niềm vui chung vui. Cho thơm hương đời lúa vàng tình ơi”.

Nhạc sĩ Xuân Tiên rất đam mê luyện tập thể thao, nên ông sống khỏe mạnh đến tận tuổi 100. Trong cuốn hồi ký xuất bản tại Úc, nhạc sĩ Xuân Tiên thổ lộ bí quyết trường thọ: “Dù tuổi đã nhiều, lúc nào cũng nên vui vẻ với mọi người, sống lạc quan, bỏ qua sự hờn giận, tìm sự vui tươi cho trí óc. Cố không nghĩ ngợi lung tung để cho trí óc được thanh thản. Nếu có thể, nên tập thể dục một chút cho máu huyết lưu thông, đó là sức khỏe vô giá của người nhiều tuổi”./-

Sunday, 12 May 2013



Nhạc sĩ Văn Giảng tức Thông Đạt (tác giả ĐÊM MÊ LINH ..., Ai Về Sông Tương...)

Vừa từ trần tại Melbourne, Úc Đại Lợi
Ngày 9 Tháng Năm, 2013
Hưởng Thọ 89 tuổi.

Tang Lễ được cử hành tại Chùa Quang Minh vào ngày 12 & 13-05-2013
Sẽ được hỏa táng vào lúc 8 giờ sáng ngày Thứ Ba 14-05-2013.

Xin thành kính chia buồn cùng thân quyến của nhạc sĩ
và nguyện cầu cho anh linh của nhạc sĩ sớm vãng sanh Tịnh Độ.




Tiểu Sử Nhạc Sĩ Văn Giảng (Tác giả: Nhạc sĩ Lê Dinh)



Đường trường xa muôn vó câu bay dập dồn
Đoàn hùng binh trong sương lướt gió reo vang
Đi đi đi, lời thề nguyền, tung gươm thiêng, thi gan trai
Đời hùng cường quyết chiến đấu đoàn quân ra đi...


Trên đây là lời ca 8 trường canh đầu của bài hành khúc "Lục Quân Việt Nam" của Văn Giảng mà mọi người Việt Nam, từ cậu học sinh đến anh tân binh ở quân trường cũng như tất cả quân nhân Việt Nam Cộng Hòa đều biết. Bài hát được tác giả viết vào năm 1950 với cung Ré trưởng, khi được đồng ca bởi một số đông người, đem lại cho người nghe một cảm giác như hăng say cương quyết, như nung chí anh hùng:
... Phá tan tành ầm ầm đoàn quân xông pha
Thét oai linh tung gươm giết tan quân thù
Đoàn hùng binh say sưa nhìn trong trời sương
Ta anh hùng đời đời lục quân Việt Nam...

Nhạc sĩ Văn Giảng sinh ngày 12 tháng 5 năm 1924 tại Huế trong một gia đình trung lưu. Thừa hưởng năng khiếu thiên phú gia tộc về âm nhạc vì ông nội của Văn Giảng cũng là một nhạc sĩ cổ nhạc rất giỏi cho nên Văn Giảng cũng có khiếu về âm nhạc từ lúc nhỏ và ngày còn bé, nghe người ta chơi một loại nhạc khí nào là ông có thể về mò mẫm tự học lấy và thành công trong việc xử dụng loại nhạc khí đó. Cũng như mọi người thích âm nhạc và quyết tâm chơi nhạc, loại đàn dễ học nhất cho mọi người là đàn mandoline, nhạc sĩ Văn Giảng cũng vậy, khi bắt đầu ông học đàn măng cầm và sau đó lần đến lãnh vực tây ban cầm. 

Có một người bạn lớn tuổi hơn ông biết đàn tây ban cầm, Văn Giảng muốn tầm sư học đạo, đến nhà ông này để nhờ chỉ dạy nhưng người này bắt ông phải trả công bằng một cây đàn guitare. Làm gì có tiền ở lứa tuổi còn nhỏ? Văn Giảng về nhà tìm tòi tự học lấy và chỉ một thời gian sau, ông vượt qua tài nghệ của ông "thầy hụt" kia và ông này phải nhờ Văn Giảng chỉ lại cho. Nhờ có biệt tài như vậy mà nhạc sĩ Văn Giảng có thể xử dụng rành rẽ nhiều nhạc khí cổ kim, trở thành một nhạc sĩ tài giỏi và đào tạo rất nhiều môn sinh có trình độ sau này.

Không những chỉ trong lãnh vực âm nhạc mà thôi, nhạc sĩ Văn Giảng còn nổi bật trong lãnh vực văn hóa, mọi thứ, mọi việc ông đều tự học như vừa làm giáo sư âm nhạc ở Huế, ông vừa tự học để rồi sau đó lặn lội vào Saigon thi lấy bằng tú tài và bằng cử nhân. 

Ông tốt nghiệp Anh văn ở Hội Việt Mỹ và trúng tuyển cuộc thi tuyển sinh viên nghiên cứu về âm nhạc ở ngoại quốc, được xuất dương du học tại trường Âm nhạc lớn của Hoa Kỳ ở Hawaii và Bloomington. Ở Hoa Kỳ, Văn Giảng đã tốt nghiệp với lời khen của Ban Giám khảo và được cấp thêm học bổng để nghiên cứu bậc cao học âm nhạc. Sau đó ông trở về nước và được đề cử làm Giám đốc trường Quốc gia Âm nhạc Huế.




HÌNH VỢ CHỒNG NHẠC SĨ VĂN GIẢNG, CHỤP NĂM 1949


Phần đông những sáng tác của nhạc sĩ Văn Giảng thuộc loại hùng ca như "Thúc Quân" (1949), "Lục Quân Việt Nam" (1950), "Đêm Mê Linh" (1951), "Quân Hành Ca" (1951), "Qua Đèo" (1952), "Nhảy Lửa" (1953) v.v... nhưng ít người được biết nhạc sĩ Văn Giảng còn có một biệt hiệu khác là "Thông Đạt" với ca khúc bất hủ "Ai Về Sông Tương" mà mọi người trong giới học sinh, sinh viên và ở lứa tuổi 40 trở lên đều biết:

Ai có về bên bến sông Tương
Nhắn người duyên dáng tôi thương
Bao ngày ôm mối tơ vương
Tháng với ngày mơ nhuốm đau thương
Tâm hồn mơ bóng em luôn
Mong vài lời em ngập hương...


Bài ca này được tác giả viết vào năm 1949 với cung La trưởng, uyển chuyển tha thướt trong phần lời lãng mạn, trữ tình, là một bản nhạc gối đầu giường, nằm lòng của thanh thiếu niên nam nữ trong những thập niên 50 - 60.

Về ca khúc này, có một câu chuyện khá thú vị như sau: Trong những thập niên 1940, 1950, ở Huế ai ai cũng biết ông Tăng Duyệt, giám đốc nhà Xuất bản Tinh Hoa Huế (xin đừng lẫn lộn với nhà xuất bản Tinh Hoa miền Nam ở Saigon do nhạc sĩ Lê Mộng Bảo làm giám đốc) in ấn và phát hành một số nhạc phẩm ít oi của thời đó. 


Là nhạc sĩ, đương nhiên Văn Giảng chơi thân với ông Tăng Duyệt vì một số hành khúc của ông đều do nhà xuất bản Tinh Hoa Huế của ông Tăng Duyệt ấn hành. Một hôm trong lúc vui miệng, ông Tăng Duyệt có ngụ ý bảo rằng nhạc sĩ Văn Giảng chỉ viết được những bài hùng ca thôi còn về những bài tình ca không phải sở trường của Văn Giảng. 

Nghe vậy hay vậy, không cần phải trả lời. Nhạc sĩ Văn Giảng về nhà, âm thầm lấy giấy bút viết bài "Ai Về Sông Tương", không ghi tên tác giả là Văn Giảng như mọi khi mà đề tên tác giả là Thông Đạt, một bút hiệu mới toanh trong làng tân nhạc Việt Nam thời đó. Bản "Ai Về Sông Tương" được tác giả Thông Đạt gửi đến các đài phát thanh ở Hà Nội, Huế và Saigon và cả nước đều nghe "Ai Về Sông Tương" của Thông Đạt trong thời gian sau đó:

... Thu nay về vương áng thê lương
Vắng người duyên dáng tôi thương
Mối tình tôi vẫn cô đơn
Xa muôn trùng lưu luyến nhớ em
Mơ hoài hình bóng không quên
Hương tình mộng say dịu êm...


Sau nhiều lần được nghe bài "Ai Về Sông Tương" quá hay trên làn sóng điện, qua các đài phát thanh, ông Tăng Duyệt gặp Văn Giảng và hỏi ở trong giới nhạc, Văn Giảng có biết Thông Đạt, tác giả bài "Ai Về Sông Tương" là ai không để ông thương lượng mua bản quyền xuất bản nhạc phẩm này nhưng Văn Giảng tảng lờ như không biết Thông Đạt là ai! 

Rồi một hôm có hai người bạn trẻ của Văn Giảng là nhạc sĩ Đỗ Kim Bảng, tác giả bài "Mùa Thi" (Thi ơi là thi, sinh mi làm chi, "bay" nghẹn ngào, "bám", ồn áo, buồn vui vì mi) và nhà văn Lữ Hồ tình cờ đến nhà Văn Giảng chơi và thấy bản thảo bài "Ai Về Sông Tương" với tuồng chữ và lối chép nhạc của nhạc sĩ Văn Giảng trong xấp nhạc trên bàn viết nên nói cho ông Tăng Duyệt biết. Ông này mới lái xe ngay tới nhà Văn Giảng và vài ngày sau đó, giới ngưỡng mộ tân nhạc mới có một ca khúc với thể điệu "Blues" tha thướt trong tay để mà ngân nga cho đỡ thương đỡ nhớ những khi trái tim rung động vì một bóng hình nào đó. 
Nhạc phẩm "Ai Về Sông Tương" đã chiếm kỷ lục tái bản thời đó với 6 lần in thêm trong tháng đầu tiên và được thính giả Đài Phát thanh Pháp Á chọn là bài nhạc hay nhất trong năm 1949. Qua bút hiệu Thông Đạt, chúng ta còn được thưởng thức những sáng tác sau đây: "Đôi Mắt Huyền", "Hoa Cài Mái Tóc", "Tình Em Biển Rộng Sông Dài", "Xin Đừng Chờ Em Nữa" v.v...

Ngoài hai bút hiệu trên, Văn Giảng - Thông Đạt còn một bút hiệu thứ ba để sáng tác những bài Phật giáo. Đó là bút hiệu Nguyên Thông được dùng để ghi trên những nhạc phẩm như "Từ Đàm Quê Hương Tôi", "Mừng Đản Sanh", "Ca Tỳ La Vệ", "Vô Thường", "Hoa Cài Áo Lam" v.v...

Trong thời gian làm nhạc trưởng Đài Phát thanh Huế và giáo sư âm nhạc tại các trường Trung học Hàm Nghi, Quốc Học và trường Sư phạm đào tạo giáo viên Tiểu học, nhạc sĩ Văn Giảng có sáng tác và ấn hành một tập nhạc dành cho thiếu nhi mang tên :"Hát Mà Học" gồm có 10 ca khúc: Đến Trường, Chơi Ná, Chê Trò Xấu Nết, Mèo Chuột, Tham Mồi, Gương Sáng Lê Lai, Quang Trung Hùng Ca, Trăng Trung Thu, Chúc Xuân và Tạm Biệt.

Cũng trong lãnh vực âm nhạc, nhờ xuất thân từ một gia đình có truyền thống âm nhạc, Văn Giảng thích tìm tòi và nghiên cứu nhạc cổ truyền Việt Nam. Năm 1956, ông đã tìm ra phương pháp ký âm cho nhạc sĩ cổ truyền có thể nhìn bài bản mà trình tấu chung với nhạc sĩ tân nhạc và từ đó, ông thành lập ban cổ kim hòa điệu "Việt Thanh", một ban nhạc đầu tiên trong nước dưới hình thức tân cổ hòa điệu với những nhạc khí tranh, tỳ, nhị huyền, nhị hồ, đàn nguyệt... hoà tấu chung với dương cầm, tây ban cầm, đại hồ cầm... 

Trong phạm vi này, ông đã hoàn thành tác phẩm độc đáo "Ai Đưa Con Sáo Sang Sông", một bản đại hòa tấu, thời lượng 60 phút, trình diễn bởi các nhạc sĩ cổ truyền. Ông cũng đã soạn nhiều sách giáo khoa về âm nhạc, hoàn thành quyển "Kỹ Thuật Hoà Âm" dày 350 trang được dùng làm tài liệu dạy âm nhạc ở các trường.

Sau Tết Mậu Thân 1968, cảm thấy sinh sống ở Huế bất an - ông Tăng Duyệt, bạn thân của ông, đã chết trong biến cố này - nhạc sĩ Văn Giảng vào Saigon lập nghiệp từ năm 1969 và ông nhanh chóng hòa hợp với nhịp sống âm nhạc của thủ đô, soạn hòa âm cho hãng đĩa Asia - Sóng Nhạc, dạy nhạc tại trường Quốc gia Âm nhạc Saigon, tham gia sinh hoạt ca nhạc ở đài phát thanh, đài truyền hình.

Cũng trong thời gian này, một số nhạc phẩm tình cảm với bút hiệu Thông Đạt của ông được thành hình và tung ra thị trường. Đồng thời, Văn Giảng được Bộ Văn Hóa Giáo Dục đề cử làm Trưởng Phòng Học Vụ Nha Mỹ Thuật, đảm trách học vấn của các trường Âm nhạc Saigon, Huế và các trường Cao đẳng Mỹ thuật. 

Năm 1970, ông được huy chương vàng giải Văn học Nghệ thuật của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (âm nhạc loại A) với sáng tác phẩm "Ngũ Tấu Khúc" (Quintet for Flute and Strings). Cùng năm này, ông được chỉ định làm Giám đốc Nghệ thuật điều hành Đoàn Văn nghệ Việt Nam gồm 100 nghệ sĩ tân cổ nhạc và vũ, ban vũ do nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ phụ trách, ban vũ cổ truyền đại nội Huế do nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba điều khiển, để tham dự Hội chợ Quốc tế Expo 70 tại Osaka (Nhật Bản).

Sau 1975, nhạc sĩ Văn Giảng kẹt lại Việt Nam cho đến năm 1981 mới vượt biên đến đảo Natuna (Nam Dương) và sau đó được chuyển đến đảo Pulau Galang. Ở đây, trong 6 tháng, Văn Giảng sáng tác được một số bài nói lên thân phận lạc loài của người dân mất nước mà bài đầu tiên là "Natuna người tình đầu" cùng một số 70 ca khúc khác.

Ngày 20/5/1982, Văn Giảng định cư tại Úc, ở đây, ông tiếp tục con đường âm nhạc, soạn và xuất bản nhiều sách nhạc lý như cách dùng hợp âm, tự học tây ban cầm, hòa âm, sáng tác, học hát, học đàn v.v... 



HÌNH NHẠC SĨ VĂN GIẢNG CHỤP NĂM 2011 (87 TUỔI) TẠI TƯ GIA BÊN ÚC


Ở đây, ông cũng đã sáng tác thêm nhiều tình khúc như: 12 tình khúc (Tập I), 12 Tình Khúc (Tập II) v.v... Những ai thiết tha với tân nhạc, muốn đi sâu, tìm hiểu hơn về sáng tác và hòa âm hoặc muốn trau dồi việc xử dụng các nhạc khí kim cổ, thiết nghĩ không gì bằng tìm các sách giáo khoa của nhạc sĩ Văn Giảng để đi đến nơi đến chốn. Văn Giảng hiện cư ngụ ở thành phố Footscray, bang Victoria (Úc Châu), điện thoại: (03) 9689-9623.
Ngoài một gia sản âm nhạc đồ sộ, từ những hành khúc hùng dũng đến những cung bậc uyển chuyển lả lướt của những bài tình ca qua những điệu nhạc vui tươi yêu đời dành cho thiếu nhi và những ca khúc uy nghiêm về Phật giáo, nhạc sĩ Văn Giảng còn đóng góp trong việc phổ biến âm nhạc Việt Nam ở hải ngoại với một số lượng đáng kể về sách dạy nhạc viết bằng Việt ngữ và Anh ngữ, chẳng những dành cho thế hệ trẻ Việt Nam ở hải ngoại mà cho cả người ngoại quốc muốn học hỏi và tìm hiểu về nền âm nhạc Việt Nam.

Một con người giản dị, khiêm nhường, không thích phô trương với một gia tài âm nhạc to lớn như thế của mình ẩn náu nơi một góc trời Đông sau ngày mất nước quả thật là một người đáng kính nể, đáng tôn thượng trong làng âm nhạc Việt Nam.



Lê Dinh



Ai về Sông Tương

Nhạc Sĩ Văn Giảng/Thông Đạt
Trong chúng ta - chắc chắc đã nghe -thích hay hát nhạc phẩm "Ai về Sông Tương " của nhạc sĩ Thông Đạt -một nhạc phẩm nổi tiếng đã lâu- Một nhạc phẩm Tình - sau loạt bài Hùng Ca - "Lục quân Việt nam -Thúc quân - Đêm mê Linh " với tên Văn Giảng- đã vừa qua đời ở thành phố Melbourne ngày thứ năm 9 tháng 5/2013 hưởng thọ 89 tuổi .

Khi sáng tác nhiều bản nhạc Hùng - ông Ngô văn Giảng đã ký tên Văn Giảng - sau đó bạn bè chê trách ông sao không sáng tác nhạc Tình cảm - để cho mọi người biết- nhạc sĩ Văn Giảng cũng có thể sáng tác mọi thể loại - nhạc sĩ Văn Giảng đã âm thầm sáng tác "Ai về sông tương" lấy từ ngưồi cảm hứng từ "Sông Tương " bên Tàu - sau khi sáng tác - nhạc sĩ Văn Giảng không chịu phổ biến - một hôm tình cờ nhạc sĩ Đỗ kim Bảng "Lá vàng Rơi -"đến nhà nhạc sĩ Văn Giảng nhìn thấy bản tảo "Ai về Sông Tương " với tên Thông Đạt -vặn hỏi nhạc sĩ Văn Giảng -ông thú nhận Thông Đạt chính là ông - và nhạc sĩ Văn Giảng bằng lòng cho nhạc sĩ Đỗ kim Bảng mang đi phổ biến và người hát thành công nhất "Ai về Sông Tương" là nữ ca sĩ HÀ THANH.

Để rồi sau đó nhạc phẩm "Ai về sông Tương" được nhiều ca sĩ hát - "Ai có về bên bến Sông Tương -nhớ người duyên dáng tôi thương ".............. ngoài các nhạc phẩm Hùng và Tình cảm - nhạc sĩ Văn Giảng- Thông Đạt còn sáng tác nhiều nhạc phẩm về Đạo Phật với tên Nguyên Thông -(Pháp danh ) như vậy những nhạc sĩ lão thành sáng tác từ thời Tiền Chiến cho đến bây giờ còn lại: nhạc sĩ Xuân Tiên trên 90 - nhạc sĩ Anh Bằng