Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label VuHiepDinhPARIS1973. Show all posts
Showing posts with label VuHiepDinhPARIS1973. Show all posts

Thursday, 26 January 2023

NHÌN LẠI HÒA ĐÀM PARIS: HOA KỲ HOÀN TOÀN CHỦ ĐỘNG VÌ MỤC ĐÍCH MUỐN RÚT RA KHỎI VIỆT NAM - CHỨ KHÔNG PHẢI VÌ HÒA BÌNH HAY SỰ TỒN TẠI CỦA VNCH - MỸ VÌ NHÂN ĐẠO KHÔNG NÉM BOM PHÁ ĐÊ HỒNG HÀ - TỰ GIỚI HẠN CHIẾN TRANH VÌ "SỢ" TRUNG CỘNG VÀ NGA NHẢY VÀO- GIỐNG NHƯ HIỆN GIỜ MỸ SỢ NGUYÊN TỬ CỦA PUTIN KHIẾN UKRAINE TỔN HAO NHIỀU XƯƠNG MÁU HƠN./-Mt68
_____________
Hiệp định Paris là điều kiện tiên quyết để thần tốc giải phóng miền Nam

Việc giải phóng miền Nam dự kiến kéo dài hai năm 1975-1976, nhưng khi thời cơ đến, Bộ Chính trị quyết định phải xong trong tháng 5/1975, theo thiếu tướng Nguyễn Hồng Quân.

Nhân 50 năm ngày ký kết hiệp định Paris, chấm dứt cuộc chiến tranh dài nhất thế kỷ 20 (27/1/1973), VnExpress phỏng vấn thiếu tướng Nguyễn Hồng Quân, nguyên Phó viện trưởng Viện Chiến lược quốc phòng, Bộ Quốc phòng, về sự kiện này.

- Đàm phán Paris là một trong những cuộc đàm phán kéo dài nhất trong lịch sử ngoại giao quốc tế. Vì sao phải mất tới 5 năm mới có thể ký kết hiệp định?

- Một cuộc đàm phán quốc tế thông thường chỉ kéo dài vài ngày, hoặc đến vài tháng. Nhưng đàm phán ký kết hiệp định Paris kéo dài đến gần 5 năm do nhiều nguyên nhân chính trị, bối cảnh lịch sử phức tạp và diễn biến khó lường của chiến trường.

Thứ nhất, quan điểm của quan chức Mỹ và phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khi mới bước vào đàm phán rất xa nhau, gần như trái ngược hoàn toàn. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa yêu cầu Mỹ rút quân ra khỏi miền Nam và chấm dứt dính líu về quân sự. Trong khi đó phía Mỹ yêu cầu ngược lại, khẳng định vai trò của họ là cần thiết nhằm duy trì sự ổn định ở miền Nam. Rất nhiều lần đàm phán phải dừng lại vì hai bên không thống nhất quan điểm ở nội dung mấu chốt này.

Thứ hai, lúc đầu đàm phán chỉ gồm phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ, nhưng sau đó mở rộng ra 4 bên với thêm hiện diện của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa. Việc các bên luôn bảo lưu quan điểm của mình, dẫn đến việc đàm phán chỉ có thể định đoạt bằng kết quả trên chiến trường. Điều này khiến đàm phán kéo dài đến 5 năm, sau khi Mỹ chịu khuất phục trên bầu trời Hà Nội.

Thiếu tướng Nguyễn Hồng Quân. Ảnh: Sơn Hà

Thiếu tướng Nguyễn Hồng Quân. Ảnh: Sơn Hà

Thứ ba, phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khi đó vẫn là một nước rất nhỏ, lại đối đầu với cường quốc về kinh tế, quân sự và cực kỳ lọc lõi trong ngoại giao. Để đi đến thắng lợi cuối cùng của hiệp định Paris đòi hỏi khoảng thời gian, chuẩn bị kỹ lưỡng để có thể chiến thắng trên cả hai mặt trận là quân sự và ngoại giao.

Thứ tư, bản thân Mỹ cũng muốn dùng sức mạnh quân sự để khuất phục Việt Nam, buộc tuân theo các điều khoản có lợi cho họ. Họ nghĩ rằng dùng bom đạn, máy bay B-52 có thể dễ dàng khuất phục chúng ta. Tuy nhiên, đến cuối năm 1972, chỉ khi nhận ra kế hoạch dùng B-52 phá sản, Mỹ mới chịu nhượng bộ.

Đàm phán kéo dài gần 5 năm, song chỉ thực sự có tiến triển từ cuối năm 1971 cho đến năm 1972. Sau các chiến dịch vào năm 1971-1972, chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh bị phá sản, tạo đà thuận lợi rất nhiều cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên bàn đàm phán.

Phía Việt Nam chỉ thực sự đàm phán khi giành được thắng lợi trong cuộc tấn công nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Bị thiệt hại nặng, Mỹ mới tính toán xem xét để tìm một lối thoát trong danh dự. Và chỉ khi đó, Mỹ mới bắt đầu coi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một bên đối thoại trực tiếp, bình đẳng để giải quyết các vấn đề của cuộc chiến tranh.

- Đâu là bước ngoặt, định đoạt việc ký kết hiệp định Paris?

- Dù khả năng ngoại giao, đàm phán tài tình đến đâu, cốt lõi của việc giành thế chủ động, điều khoản có lợi về mình vẫn phải xuất phát từ thực tế chiến trường. Khi bắt đầu đàm phán, quân đội Việt Nam mới có thắng lợi xuân Mậu Thân 1968, chưa đủ để phía Mỹ chấp thuận đi đến giải pháp.

Cục diện trên bàn đàm phán bắt đầu đổi chiều sau những chiến thắng liên tiếp của quân dân Việt Nam vào năm 1971 và đặc biệt là năm 1972. Trong đó có chiến dịch đường 9 - Nam Lào; Đông Bắc và Đông Nam Campuchia; Trị - Thiên; Bắc Tây Nguyên; Đông Nam Bộ; Bắc Bình Định và chiến dịch Khu 8 Nam Bộ.

Nhưng đánh dấu bước ngoặt phải nói đến chiến dịch bảo vệ thành cổ Quảng Trị, và bảo vệ bầu trời Hà Nội trong cuộc tập kích bằng B-52. Quân đội Việt Nam đã thể hiện bản lĩnh, trí tuệ, kiên cường, làm phá sản chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" khiến Mỹ phải chịu thua trên chiến trường và tiếp theo là trên bàn đàm phán.

Ngay từ tháng 4/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra chỉ thị và giao nhiệm vụ cho Quân chủng Phòng không Không quân tìm toàn cách đánh B-52. Người dự đoán "sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B-52 ra đánh Hà Nội... Ở Việt Nam, Mỹ sẽ nhất định thua, nhưng nó chỉ thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội".

Sau khi được Bác Hồ giao, Quân chủng Phòng không Không quân đã mất đến 6 năm để nghiên cứu, tìm tòi và cho ra đời cuốn cẩm nang "Cách đánh B-52" vào tháng 10/1972. Bộ tài liệu chỉ 29 trang, nhưng là đúc kết của nhiều tâm huyết, trí tuệ, thậm chí hy sinh của bộ đội ta. Đến tháng 12/1972, tức chỉ sau 2 tháng, ta có trận quyết chiến với pháo đài bay B-52 trên bầu trời Hà Nội.

Thất bại của Mỹ trên chiến trường miền Nam cộng với thất bại của không quân chiến lược Mỹ trên bầu trời Hà Nội đẩy họ vào thế thua không thể gượng nổi. Chấp nhận thất bại, Mỹ buộc phải nối lại đàm phán tại Paris và ký vào bản dự thảo hiệp định mà hai bên đã thống nhất.

- Hiệp định Paris tác động thế nào đến tình hình chính trị hai miền Nam Bắc lúc đó?

- Hiệp định Paris là kết quả của cuộc đấu tranh kiên cường của quân dân ta ở cả hai miền, tạo ra bước ngoặt mới trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc. Mỹ và các nước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Mỹ và nước đồng minh phải rút hết quân viễn chinh, quân chư hầu, phá hết các căn cứ quân sự, cam kết không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam.

Các bên để cho nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị thông qua tổng tuyển cử tự do. Các bên công nhận thực tế miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị.

Và quan trọng nhất, hiệp định Paris là điều kiện tiên quyết để chúng ta quyết định thần tốc giải phóng miền Nam. Dự kiến trước đó, quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976. Nhưng khi thời cơ đến, Bộ Chính trị đã quyết định việc này phải làm xong trong tháng 5/1975.

Sau này xem lại, nếu tháng 5/1975, chúng ta chưa tiến vào Sài Gòn thì tình hình sẽ phức tạp chứ không thuận lợi như từng chứng kiến. Việt Nam đến nay là nước duy nhất khiến Mỹ phải ký một hiệp định toàn diện nhất, đầy đủ nhất như vậy.

Lễ khai mạc cuộc nói chuyện chính thức giữa đại diện chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đại diện chính phủ Mỹ tại Paris, ngày 13/5/1968. Ảnh: TTXVN

Lễ khai mạc cuộc nói chuyện chính thức giữa đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đại diện Chính phủ Mỹ tại Paris, ngày 13/5/1968. Ảnh: TTXVN

- Gần 5 năm đàm phán, phía Việt Nam nhiều lần rơi vào thế khó, bị ép buộc nhân nhượng. Vậy làm cách nào để Việt Nam duy trì được sự độc lập, tự chủ?

- Suốt sự nghiệp cách mạng từ khi có Đảng, chúng ta luôn luôn nêu cao vai trò độc lập dân tộc về cả chính sách đối nội cũng như đối ngoại. Trước khi ngồi vào bàn đàm phán hiệp định Paris, phái đoàn Việt Nam đã tích lũy được rất nhiều kinh nghiệm quý báu về ngoại giao.

Như khi đàm phán hiệp định Geneve 1954, Việt Nam bị động, không được chủ động nêu ra điều khoản cũng như thời gian đàm phán. Chính vì thế quá trình đàm phán, Việt Nam chịu nhiều sức ép bên ngoài. Điều này đã được rút ra và đúc kết thành kinh nghiệm khi đàm phán hiệp định Paris.

Trước tiên, Việt Nam chủ động đàm phán với Mỹ, chỉ với Mỹ, không để cho các nước lớn khác can thiệp vào quá trình đàm phán. Thứ hai, các bước đàm phán như thế nào là Việt Nam quyết định, không bàn bạc với quốc gia khác, chỉ đàm phán theo đúng phương châm đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên hàng đầu.

Thứ ba, có lúc chúng ta được bạn bè quốc tế viện trợ nhiều khí tài, trang bị. Song việc sử dụng số vũ khí đó đều được chuẩn bị kỹ lưỡng, đồng thời phải biết cải tiến cho phù hợp với cách đánh của Việt Nam, tức là phù hợp với nghệ thuật quân sự Việt Nam. Ví dụ trong kế hoạch đánh B-52, trên thế giới lúc đó chưa có quân đội quốc gia nào có thể đánh được B-52. Phải mất 6 năm trời, bộ đội Việt Nam mới xây dựng được cách đánh B-52.

Điều này thể hiện sự độc lập về đường lối kháng chiến, dám đánh Mỹ, biết đánh Mỹ và biết thắng Mỹ, sáng tạo, chủ động trong cách đánh. Tương tự, trong đàm phán, chúng ta cũng tạo nên nghệ thuật "vừa đánh, vừa đàm", biết thắng đối phương từng bước, cuối cùng giàng thắng lợi hoàn toàn.

- Theo ông, từ đàm phán ký kết hiệp định Paris, Việt Nam rút ra được bài học gì trong chính sách đối ngoại hiện nay?

- Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn rất gay gắt như hiện nay, đường lối đối ngoại khôn ngoan nhất là giữ quan hệ thăng bằng. Việt Nam không từ chối ai nhưng cũng không lệ thuộc vào ai.

Chúng ta không chọn bên, không ngả về bên này để đối đầu với bên kia. Việt Nam có thể tham gia các quan hệ hợp tác song phương, đa phương, miễn là phù hợp và phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên hàng đầu. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa chúng ta vị kỷ, theo chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Chúng ta bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế.

Thực hiện đường lối ngoại giao trên các cơ sở này sẽ tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của các nước. Những nước lớn cũng không thể chê trách Việt Nam. Quan trọng nhất là chúng ta luôn phải phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc đó là sức mạnh kinh tế, chính trị, quân sự, khoa học công nghệ, đối ngoại, cũng như các sức mạnh mềm khác.

Sơn Hà - Viết Tuân

Saturday, 25 April 2020

MỸ CÓ MẬT ƯỚC VỚI BẮC VIỆT VÀ CÓ NOTHING VỚI VNCH ??? NHƯ VẬY SUỐT CUỘC CHIẾN MỸ CHỈ ĐÙA VỚI VNCH VÀ CHỈ COI TRỌNG BẮC VIỆT THÔI VÀ BÂY GIỜ (2020) MỸ CỨ TIẾP TỤC NGU NGƠ, KHỜ KHẠO TRƯỚC BẮC VIỆT./-TCL


Đằng sau Hiệp định Paris, Mật ước Nixon & Phạm Văn Đồng.
Click image for larger version

Name: p03hbdd2.jpg
Views: 0
Size: 12.1 KB
ID: 1571508 
Năm 1973, ngày 7.2, mười một ngày sau khi ký kết Hiệp Định Paris, Kissinger lên đường đi Hà Nội. Tại Hà Nội Kissinger trao cho Phạm văn Đồng một công hàm của Tổng Thống Nixon, trong đó quy định thể thức thanh toán số tiền bồi thường chiến tranh cho Hà Nội là 4,75 tỷ USD. Sau đó Thủ Tướng cộng sản Việt Nam Phạm văn Đồng giao cho Kissinger mang về cho Tổng Thống Hoa Kỳ một công hàm hoan nghênh tinh thần Mật ước của Nixon và hứa sẽ thi hành nghiêm chỉnh Mật ước này. Như vậy là Mật ước đã có đủ chữ ký của cả hai người cầm đầu chính phủ. (Lưu văn Lợi, Các Cuộc Thương Lượng Lê đức Thọ & Kissinger tại Paris)



Nguyên văn Mật ước:
“Ngày 1 tháng 2 năm 1973.
Tổng Thống thông báo cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa những nguyên tắc sẽ chỉ đạo sự tham gia của Hoa Kỳ về việc xây dựng lại sau chiến tranh ở Bắc Việt Nam. Như đã nêu trong Điều 21 của Hiệp Định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết tại Paris ngày 27 tháng giêng năm 1973, Hoa Kỳ thực hiện sự tham gia này theo chính sách truyền thống của mình.
Những nguyên tắc đó là:
1.- Hoa Kỳ sẽ đóng góp xây dựng lại Bắc Việt sau chiến tranh mà không cần một đòi hỏi chính trị nào.
2.- Con số cam kết sơ khởi là 3,25 tỷ Dollars viện trợ không hoàn lại trong vòng 5 năm. Những hình thức viện trợ khác (viện trợ phát triển kinh tế) sẽ được nghiên cứu sau.
3.- Công việc điều hành kế hoạch viện trợ sẽ do một Ủy Ban được đặt tên là Ủy ban hỗn hợp kinh tế Hoa Kỳ-Bắc Việt. Ủy ban sẽ được hình thành trong vòng 30 ngày sau khi ký Hiệp Định.
4.- Chức năng của Ủy ban này sẽ là đề ra các chương trình cho việc đóng góp của Hoa Kỳ vào công cuộc xây dựng lại ở Bắc Việt Nam. Sự đóng góp của Hoa Kỳ sẽ tiến hành trên cơ sở những yếu tố sau đây:
a/ Các nhu cầu của Bắc Việt Nam do những tàn phá của chiến tranh gây nên.
b/ Các yêu cầu của công cuộc xây dựng lại sau chiến tranh trong các lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp của nền kinh tế Bắc Việt Nam.
5.- Ủy ban hỗn hợp kinh tế sẽ gồm những đại diện ngang nhau của mỗi bên. Ủy ban sẽ thỏa thuận về một bộ máy để quản lý chương trình đóng góp của Hoa Kỳ vào công cuộc xây dựng lại Bắc Việt Nam. Ủy ban sẽ cố gắng hoàn thành sự thỏa thuận này trong vòng 60 ngày sau khi được thành lập.
6.- Hai thành viên của Ủy ban sẽ hoạt động trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Những trụ sở của Ủy ban sẽ đặt tại một nơi sẽ được thỏa thuận giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
7.- Hoa Kỳ cho rằng việc thực hiện những nguyên tắc nói trên sẽ thúc đẩy những quan hệ kinh tế thương mại và các quan hệ khác giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và sẽ góp phần vào việc bảo đảm một nền hòa bình vững chắc và lâu dài ở Đông Dương. Những nguyên tắc này phù hợp với tinh thần của Chương VIII của Hiệp Định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam ký tại Paris ngày 27 tháng giêng năm 1973.

Điều ghi chú về những hình thức viện trợ khác: Về những hình thức viện trợ khác, việc nghiên cứu của Hoa Kỳ cho thấy rằng những chương trình thích hợp có thể là vào khoảng 1 đến 1,5 tỷ đô la tùy theo nhu cầu của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa về lương thực và hàng hóa khác.
Hiểu biết về Chương trình xây dựng lại kinh tế: Có sự hiểu biết là những đề nghị của ủy ban hỗn hợp kinh tế nói trong công hàm của Tổng Thống gửi Thủ Tướng sẽ do mỗi thành viên thực hiện theo những quy định của Hiến Pháp của mình” (Lưu văn Lợi, Các Cuộc Thương Lượng Lê đức Thọ-Kissinger Tại Paris)”.

Tại sao cả hai bên đều không thi hành mật ước?
Như vậy những gì hai bên thương lượng với nhau suốt 4 năm không nằm trong Hiệp Định, mà nằm trong Mật ước. Và hai bên ký với nhau Hiệp Định Paris chỉ là che mắt thế gian, còn Mật ước mới là kết quả thương lượng thực giữa hai bên.

Khoan nói tới hai bên đã mật cam kết với nhau những gì, nhưng tại sao lại không giữ lời giao ước ? Đây là một giao ước mật chứ không phải là giao ước công khai. Một khi giao ước mật được ký kết thì phải được tôn trọng tuyệt đối, gần như là lời thề thiêng liêng. Nếu có một bên phản bội thì bên kia chỉ cần tung mật ước ra trước ánh sáng thì bên vi phạm sẽ trở thành kẻ lừa đảo.

Mãi đến ngày 19.5.1977 Tổng Thống Hoa Kỳ Carter mới loan báo rằng sau khi ký Hiệp Định Paris 1973, Tổng Thống Nixon đã có ký với Hà Nội một mật ước riêng. Trong đó cam kết bồi thường 4,75 tỷ USD cho Hà Nội.
Sau loan báo của Tổng Thống, Quốc Hội Hoa Kỳ tuyên bố đó chỉ là lời hứa của người đứng đầu cơ quan hành pháp Hoa Kỳ, cho nên quốc gia Hoa Kỳ không có trách nhiệm phải thi hành cam kết đó. Vì vậy dư luận hiểu rằng chính phía Hoa Kỳ đã không thi hành đúng như cam kết, nghĩa là sau Hiệp Định Paris Hoa Kỳ không chung cho Hà Nội một đồng nào trong số 4,75 tỷ.

Vấn đề được đặt ra là tại sao Nixon lại không thi hành những điều mà ông nhân danh Tổng Thống Hoa Kỳ để viết ra ? Trong khi đó Hà Nội cũng không đưa mật ước ra để tố cáo Nixon thất hứa ? Nhất là khi Nixon còn tại chức ? Đặc biệt theo như nhân dân Hoa Kỳ được biết một cách không chính thức thì Hoa Kỳ chỉ phải chung cho Hà Nội 3,25 tỷ đô la mà thôi, tại sao giờ đây chính phủ Cater lại loan báo là 4,75 tỷ.
Còn về phía Hà Nội tại sao họ cứ một mực tố cáo Nguyễn Văn Thiệu vi phạm Hiệp Định mà không công khai hay bán công khai tố cáo Nixon không giữ lời hứa về số tiền tái thiết Bắc Việt ? Nhất là khi Nixon còn tại chức ?

Chìa khóa giải mã
Năm 1998 chính phủ cộng sản Việt Nam (Phan văn Khải) đã cho công bố toàn bộ biên bản các cuộc mật đàm giữa Lê đức Thọ và Kissinger bằng một cuốn sách của Đại Tá cộng sản Việt Nam Lưu văn Lợi, ông là chuyên gia thương thuyết trong phái đoàn Hà Nội tại Paris. Cuốn sách có tựa đề là “Các Cuộc Thương Lượng Lê đức Thọ & Kissinger tại Paris”, sách xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1998 nhưng phổ biến hạn chế, đặc biệt không cho lưu hành trong nước.

Đến tháng 10 năm 2002 nhà xuất bản “Công an Nhân dân” mới in lại và xuất bản trong nước. Trong chương cuối có đăng nguyên văn bản mật ước Nixon-Phạm văn Đồng, được Nixon ký ngày 1.2.1973, nghĩa là 4 ngày sau khi hai bên ký kết Hiệp Định Paris.

Bản mật ước gồm có 7 mục, trong đó 3 mục đầu quy định thể thức chi trả 3,25 tiền bồi thường chiến tranh và 4 mục sau quy định thể thức viện trợ kinh tế dài hạn cho Hà Nội, bước đầu là 1,5 tỷ hàng hóa và lương thực (viện trợ với lãi xuất ưu đãi). Cơ quan điều hành hệ thống viện trợ bồi thường chiến tranh của Hoa Kỳ tại Hà Nội sẽ được thành lập xong trong vòng 30 ngày sau khi Hiệp Định Paris được ký kết. Và hệ thống sẽ đi vào hoạt động trong vòng 60 ngày sau khi được thành lập, nghĩa là đồng đô la viện trợ đầu tiên sẽ đến Hà Nội 1 tháng sau khi người tù binh Hoa Kỳ cuối cùng đã được thả (Tù binh được thả trong vòng 60 ngày).

So sánh thời gian trao trả tù binh và thời gian bắt đầu chung viện trợ thì có thể kết luận được rằng ”Nếu Hà Nội thả hết 391 tù binh Hoa Kỳ xong rồi thì Hoa Kỳ mới thưởng bằng tiền viện trợ” Đây là lời hứa của bên chiến thắng: Hà Nội phải thả hết tù binh vô điều kiện, thả xong tới người cuối cùng một cách vui vẻ thì mới được chung 4,75 tỷ. (Thường thì giao ước bồi thường và trao trả tù binh được thực hiện trên nguyên tắc: Đồng tiền đầu tiên được đưa ra cùng với người tù đầu tiên được thả, và đồng tiền cuối cùng được đưa ra cùng với ngày người tù binh cuối cùng được thả. Thêm một bằng chứng chứng minh Hà Nội đã đầu hàng sau cuộc dội bom).

Vậy thì ai đánh lừa ai ?
Sự kiện tù binh phải được thả hết trước khi Hà Nội nhận được viện trợ chứng tỏ Hoa Kỳ không có lý do gì để sợ Hà Nội phản bội mật ước. Có chăng là Hà Nội sợ Hoa Kỳ lấy xong tù binh rồi quỵt nợ không chung tiền. Và thực tế xảy ra đúng như vậy, Nixon lấy được toàn bộ tù binh nhưng không chung được 1 đồng như đã hứa. Cái gì khiến cho Nixon và Kissinger trở thành những tay lừa đảo hạng bét ?

Người ta xem lại biên bản từng cuộc mật đàm để truy nguyên hoàn cảnh phát sinh ra bản mật ước Nixon-Phạm văn Đồng. Hóa ra ban đầu, trước trận thả bom 12 ngày đêm thì mật ước đã được soạn trước nhưng chỉ có 3 mục đầu, nghĩa là bồi thường 3,25 tỷ. Số tiền này đã được thông báo cho Quốc Hội Hoa Kỳ.

Nhưng sau khi Hà Nội thiếu điều kéo cờ trắng trong cuộc dội bom 12 ngày đêm thì hai bên mới ngồi lại và thêm vào 4 mục sau, có thêm 1,5 tỷ viện trợ lương thực và hàng hóa (Đây là số tiền cho vay để phát triển kinh tế chứ không phải là viện trợ nhân đạo không hoàn lại). Đồng thời có thêm một kế hoạch viện trợ phát triển kinh tế về lâu về dài cho Bắc Việt.
So sánh mật ước 3 mục (trước cuộc dội bom) với mật ước 7 mục (sau cuộc dội bom) thì sau cuộc dội bom Hà Nội đã được Nixon thưởng thêm bằng cam kết sẽ viện trợ phát tiển kinh tế cho Hà Nội như là viện trợ cho một nước đồng minh, giống như viện trợ cho Nam Hàn sau Hiệp Ước Bàn Môn Điếm hay viện trợ cho Sài Gòn sau Hiệp định Genève.

Suy ra Hà Nội đã âm thầm trở thành đồng minh của Hoa Kỳ sau cuộc dội bom, nghĩa là thay vì đầu hàng thì Hà Nội đã xin hồi chánh.
Đầu hàng là buông súng và chịu mọi sự phán xét của kẻ thù, còn hồi chánh là ly khai với phe cọng sản và trở thành đồng minh của phe tự do. Lê Duẩn quyết định hồi chánh thì có lợi cho Bắc Việt nhiều hơn so với đầu hàng. Ông ta có quyền ly khai khỏi phe cộng sản bởi vì Trung Quốc và Liên Sô đã phản bội ông ta trước.

Còn nếu như ông ta đầu hàng thì không có ai giúp ông hồi phục kinh tế sau chiến tranh mà trái lại ông còn giữ nguyên quyển sổ nợ chiến phí của Liên Sô và Trung Quốc. Vả lại chạy theo Mỹ thì tất cả dân Việt từ Nam chí Bắc đều hoan hô ông, còn như tiếp tục chạy theo hai đàn anh đểu cáng là Trung Quốc và Liên Sô thì dân tộc mãi mãi trong tăm tối và đói khát như Bắc Hàn hay Cu Ba ngày nay.

Tại sao không bắt Hà Nội đầu hàng mà lại cho hồi chánh ?
Ngay từ những ngày đầu có cuộc mật đàm Kissinger-Lê đức Thọ thì Quốc Hội Hoa Kỳ đã mặc nhiên cho phép Kissinger có quyền bỏ tiền ra lấy tù binh trở về. Vấn đề là Kissinger trình diễn làm sao cho việc chung tiền không có vẻ là Hoa Kỳ bại trận. Vì vậy Nixon vẫn hợp pháp khi Kissinger soạn ra tờ “Mật ước 3 điểm” hứa chung 3,25 tỷ cho Hà Nội. Số tiền đã được thông báo cho Quốc Hội Hoa Kỳ và ngay cả dân chúng Hoa Kỳ cũng được biết một cách không chính thức.

Thế nhưng 4 mục sau (cam kết thiết lập hệ thống viện trợ kinh tế dài hạn cho Hà Nội) là một việc làm phi pháp, bởi vì không xin phép Quốc Hội Hoa Kỳ, “lén thỏa thuận với đối phương”. Vả lại viện trợ kinh tế dài hạn chỉ được dành cho quốc gia đồng minh của Hoa Kỳ chứ không thể nào dành cho ”kẻ thù”.

Ngoài ra những đối thủ của Nixon trong Đảng Dân Chủ cũng có thể cáo buộc rằng cái giá để lấy tù binh trở về là công cuộc viện trợ phát triển kinh tế cho Hà Nội. Cũng là phạm pháp vì không xin phép Quốc Hội, nhưng nếu có xin phép thì Quốc Hội cũng sẽ bác bỏ bởi vì viện trợ kinh tế chỉ được cung cấp cho các quốc gia đồng minh trong khi Hà Nội đang là quốc gia thù địch.

Sự kiện Nixon lẫn Hà Nội giữ kín tờ mật ước cho tới 1977 chứng tỏ ngày đó hai bên đồng thỏa thuận “Hà Nội bí mật hồi chánh”. Hà Nội có quyền ly khai khỏi thế giới cộng sản là do Trung cộng và Liên Sô tráo trở, cả hai đã ngưng cung cấp vũ khí để buộc Hà Nội phải chấm dứt chiến tranh và trả tù binh cho Hoa Kỳ.

Thế nhưng tại sao Nixon lại giấu nhẹm tin Hà Nội hồi chánh ? Câu trả lời rằng nhân dân Hoa Kỳ sẽ không chấp nhận bởi vì mối thù giữa Hà Nội và nhân dân Hoa Kỳ đang còn nóng hổi, Quốc Hội và dân chúng Hoa Kỳ muốn Hà Nội phải đầu hàng chứ dứt khoát không có chuyện Hà Nội tự nhiên trở thành đồng minh của Hoa Kỳ mà chẳng phải trả giá cho tội lỗi của họ.

Vậy thì tại sao Nixon không buộc Hà Nội phải đầu hàng đúng theo ước vọng của dân chúng Hoa Kỳ ? Câu trả lời là Trung cộng và Liên Sô sẽ không chấp nhận. Họ đã thỏa thuận trói tay Hà Nội để Hà Nội ngưng theo đuổi chiến tranh chứ không phải để cho Hoa Kỳ tha hồ đánh Bắc Việt đến nỗi phải đầu hàng. Thế giới sẽ nguyền rủa hai đàn anh đểu cáng.
\
Nếu Hà Nội đầu hàng vì trận dội bom 12 ngày đêm thì đương nhiên Liên Sô và Trung cộng sẽ công bố cho thế giới biết rằng trong năm 1972 đích thân Nixon đến Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa để năn nỉ họ thôi viện trợ vũ khí cho Hà Nội để Hà Nội chấm dứt mộng theo đuổi chiến tranh, đem lại hòa bình cho nhân dân Việt Nam và cho toàn thế giới chứ họ không ngờ là Hoa Kỳ đã lợi dụng việc này để tấn công buộc Hà Nội phải đầu hàng.

Hậu quả chắc chắn sẽ kéo theo sự căng thẳng trở lại giữa Hoa Kỳ và thế giới cọng sản. Và dư luận thế giới sẽ coi Hoa Kỳ như là một kẻ tráo trở vô liêm sỉ, bởi vì rõ ràng là Hoa Kỳ đã bị cộng sản Việt Nam đánh bại nhưng lại năn nỉ Liên Sô và Trung cộng trói tay Hà Nội để Hoa Kỳ tiếp tục hạ gục Hà Nội.

Vì vậy mà Nixon đã không kịp trở tay khi nghe Hà Nội đề nghị hồi chánh, ông chỉ còn có nước bí mật giúp đỡ Hà Nội dưới hình thức viện trợ bồi thường chiến tranh. Sau đó là hiệp thương trao đổi hàng hóa giữa hai miền Nam Bắc (theo Hiệp Định Genève và Hiệp Định Paris). Cuối cùng là tổng tuyển cử lựa chọn chế độ (Cũng theo Hiệp Định Genève và Hiệp Định Paris). Dự trù đến lúc tổng tuyển cử thì Hà Nội sẽ sắp xếp cho dân miền Bắc bỏ phiếu quyết định theo chế độ tự do. Lúc đó Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa sẽ không nói gì được. Và nhân dân Hoa Kỳ không thể nào từ chối.

*(Ghi chú: Thực ra bức mật thư đã được Hà Nội tiết lộ dần dần cho các dân biểu nghị sĩ Hoa Kỳ từ năm 1975 nhưng những người này đã nhém đi vì không muốn chung tiền cho Hà Nội. Họ viện lý do Hà Nội đã không thi hành nghiêm chỉnh Hiệp Định Paris:
Tháng 12 năm 1975 phái đoàn của Hoa Kỳ do Dân Biểu Montgomery dẫn đầu đến Hà Nội đã được xem.
Ngày 15.1.1976 phái đoàn do Thượng Nghị Sĩ McGovern dẫn đầu đến Hà Nội đã được xem.
Ngày 14.4.1976, báo Nhân Dân của Hà Nội đăng một phần Mật ước với lời công kích chính phủ Mỹ (Đăng 3 điều đầu, giấu 4 điều sau).
Ngày 3.5.1977, Phái đoàn đàm phán bình thường hóa quan hệ giữa cộng sản Việt Nam và Hoa Kỳ tại Paris do Holbrooks dẫn đầu đã được thứ trưởng ngoại giao cộng sản Việt Nam Phan Hiền cho xem.
Ngày 6.5.1977, báo Nhân Dân của Hà Nội cho đăng một phần Mật ước và một phần Công hàm đáp nhận của Phạm văn Đồng cùng với lời chỉ trích chính phủ Mỹ “chà đạp luật pháp quốc tế”. Dân Biểu Hoa Kỳ Lester L.Wolff đòi đưa Nixon ra tòa nếu Nixon không đưa ra bản Mật ước.
Ngày 14.5.1977 Nixon viết thư trả lời Wolff rằng chẳng có cam kết viện trợ nào cả.

Ngày 19.5.1977, trước sức ép của Wolff, chính phủ Carter loan báo ngày 1.2.1973 Nixon có ký một Mật ước với Hà Nội với con số 4,75 tỷ USD (nghĩa là cho lộ luôn 4 điều sau mà Hà Nội đã giấu).
Ngày 21.5.1977 bộ ngoại giao Hà Nội cho công bố toàn văn Mật ước của Nixon và công hàm đáp nhận của Phạm văn Đồng).
…oOo…

ĐẰNG SAU HIỆP ĐỊNH PARIS, MẬT ƯỚC NIXON & NGUYỄN VĂN THIỆU
Năm 1973, ngày 8.1, sau trận dội bom Mùa Giáng Sinh, Hòa đàm Paris được nối lại, mở đầu phiên họp là bài diễn văn của Lê đức Thọ, ông ta công kích Hoa Kỳ lật lọng leo thang chiến tranh. Kissinger không còn vui vẻ hoạt bát như các cuộc họp trước. Buổi chiều hai bên tiếp tục soạn thảo những chi tiết của văn bản hiệp ước mà trước đây đã bị bỏ dở.

Ngày 9, 10, 11 và 12.1, hai bên hoàn thành văn bản của hiệp ước bằng tiếng Anh lẫn tiếng Việt. Buổi chiều Kissinger và Sullivan họp với đoàn đàm phán Việt Nam Cộng Hòa để thông báo nội dung toàn bộ văn bản Hiệp Định. Vấn đề còn lại là Tổng Thống Thiệu có chấp thuận hay không.
* Chú giải: Đoạn tường thuật trên đây được ghi lại trong biên bản của bộ ngoại giao Hà Nội, do Lưu văn Lợi công bố năm 1998. Đọc qua đoạn biên bản này không ai có thể ngờ rằng đây là một cuộc họp sau cuộc dội bom Hà Nội 12 ngày đêm của Hoa Kỳ.

Hẳn nhiên là phải có nhiều biến cố và nhiều thượng lượng đã xảy ra sau khi cuộc dội bom vừa chấm dứt. Thế nhưng biên bản buổi họp được ghi lại như không hề có gì xảy ra. Chứng tỏ Lưu văn Lợi đã buộc phải giấu kín những trao đổi đã xảy ra giữa Kissinger và Lê đức Thọ trước khi hai ông bước vào phiên họp ngày 8.1.1975, tức là từ ngày ngưng ném bom 29.12.1972.

Những giấu kín đó đã làm tốn rất nhiều giấy mực của những nhà nghiên cứu thời cuộc, người ta cho rằng Hà Nội đã chịu đầu hàng trước khi cuộc dội bom chấm dứt. Điều này sẽ được đưa ra ánh sáng 5 năm sau cái chết của Kissinger.

Năm 1973, ngày 14.1, Tướng Alexander Haig đến Sài Gòn với tối hậu thư của Nixon cam kết ”Chúng tôi sẽ không nhìn nhận quyền có mặt của quân đội ngoại quốc nào trên mãnh đất miền Nam. Chúng tôi sẽ phản ứng mãnh liệt trong trường hợp Hiệp Định bị vi phạm…”, “…Tôi quyết định sẽ tiếp tục viện trợ đầy đủ kinh tế và quân sự cho Việt Nam Cộng Hòa”. Tối hôm đó họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, Tổng Thống Thiệu trình bày nội dung tối hậu thư của Nixon. Đa số mọi người đồng ý nên ký vào vì đã có cam kết Mỹ sẽ tham chiến trở lại để đổi lại việc quân Bắc Việt có thể vi phạm hiệp ước.

Ngày 17.1, Tổng Thống Thiệu gửi thư phúc đáp cho Tổng Thống Nixon trong một phong bì dán kín và nhờ Haig chuyển về cho Nixon khi đến Hoa Kỳ. Nhưng Haig về đến Tòa Đại Sứ thì xé phong bì để chuyển bằng diện tín về Washington. Trong thư Thiệu cho biết cần một cam kết rõ ràng hơn nhằm bảo đảm cho việc ông ta chấp nhận quân Bắc Việt ở lại miền Nam (Hồi ký của Alexander Haig).
Ngay đêm đó, trong lúc Haig
còn ở tại Sài Gòn, Đại Sứ Bunker chuyển đến Tổng Thống Thiệu một điện văn của Nixon, cho biết sau ngày ký hiệp ước, dự trù vào ngày 27.1, Phó Tổng Thống Agnew sẽ đến Sài Gòn với một bản mật ước của Tổng Thống Nixon, trong đó nêu rõ ba vấn đề:
1.- Hoa Kỳ công nhận chính phủ của ngài là chính phủ duy nhất hợp pháp ở miền Nam Việt Nam.
2.- Hoa Kỳ không công nhận quyền có mặt của quân ngoại quốc trên lãnh thổ của miền Nam.
3.- Hoa Kỳ sẽ phản ứng mãnh liệt nếu bản Hiệp Định bị vi phạm. Ngoài ra: ”Tôi muốn được hội kiến riêng với ngài ba hay bốn tuần sau ở tại San Clements, California để chúng ta có dịp công khai nhắc lại mối hợp tác giữa hai nước, và sự cam kết của Hoa Kỳ” (Nguyễn Tiến Hưng, Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập).
Trên nguyên tắc, đây cũng là điều kiện để hình thành Hiệp Định, nếu không có điện thư cam kết đó thì Tổng Thống Thiệu đã không ký vào Hiệp Định. Nguyên bản bức điện văn được Nguyễn Tiến Hưng đưa lên sách The Palace File, bản tiếng Việt trang 663. Vì vậy sau này cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã hết lời nguyền rủa Hoa Kỳ bội ước.
Không phải Tổng Thống Nixon chủ tâm lừa đảo, sở dĩ ông mạnh dạn viết bức điện cam kết đó là vì Hà Nội đã đầu hàng. Không thể nào có chuyện Hà Nội gây chiến trở lại, họ không còn súng đạn, không còn gạo, và đang cần tiền viện trợ tái thiết của Hoa Kỳ (Tiến bồi thường chiến tranh). Không ngờ là sau này tình thế đã biến chuyển khác hẳn với những toan tính của Nixon và Kissinger.

Năm 1973, ngày 16.1. Tài liệu của CIA: ”Ngày 16/1 Haig đến Sài Gòn với một thư tay khác của Nixon gởi cho Tổng Thống Thiệu rằng nếu vẫn không ký ông sẽ công khai tố cáo trước dư luận thế giới Thiệu ngăn cản hòa bình. Thiệu vẫn hoãn binh và cho biết sẽ trả lời Nixon vào ngày hôm sau.

Hôm sau, 15 phút sau khi máy bay Haig rời Tân Sơn Nhất, Thiệu triệu tập Hội Đồng An Ninh thu hẹp, đọc tối hậu thư của Nixon cho Hội Đồng nghe. Sau đó Hội Đồng bàn về cung cách thi hành hiệp định. Việc ký kết đến đây xem như đương nhiên. CIA báo cáo rằng “trong thâm tâm Thiệu biết trước sau cũng phải ký theo ý Hoa Kỳ, nhưng ông đã làm những gì cần thiết có lợi cho sự tồn tại của Nam Việt Nam.”

Sáng ngày 20/1 Thiệu triệu tập Hội Đồng An Ninh Quốc Gia thông báo quyết định ký. Phó Tổng Thống Trần Văn Hương khóc nói rằng Nam Việt Nam đang ở trên một chiếc gậy, chạy hướng nào cũng không tránh được tai họa, và ký Hiệp Định thì tai họa nhỏ hơn. Sau khi Hương dứt lời, Thiệu nói đồng ý với sự miêu tả của Hương (CIA and The Generals, bản dịch của Trần Bình Nam).

Theo như đoạn tài liệu này của CIA thì Haig đến Sài Gòn ngày 14 rồi trở lại Hoa Kỳ, sau đó ngày 16 mới trở lại với thư cam kết của Tổng Thống Nixon. Nhưng thực ra theo hồi ký của Haig thì thay vì đem thư của Thiệu về Hoa Kỳ thì ông và Bunker đã mở thư (do lệnh của Nixon) và chuyển bằng điện về cho Nixon. Rồi Nixon gởi lại thư cam kết bằng điện cho Bunker để Bunker chuyển cho Thiệu.

Tài liệu của CIA ngày đó có hơi khác so với hồi ký của Tướng Haig, sự thực là Haig đã mở thư tại Sài Gòn và nhận điện thư của Nixon rồi đem đến cho Thiệu chứ không có về Hoa Kỳ. Haig và Bunker không cần phải cho CIA biết chuyện này. Do đó đoạn tài liệu này của CIA chỉ là nhờ thâu thập qua thông tin của Trần Thiện Khiêm, nhưng Khiêm không hề biết là Haig không có về Hoa Kỳ.

Đây mới chỉ là bức điện thư báo trước, coi như bản nháp của mật ước, còn mật ước có chữ ký của Nixon sẽ được Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Agnew đem đến Sài Gòn sau khi Hiệp Định ngưng bắn được ký kết.
Ký kết hòa ước
Năm 1973, ngày 23.1, lúc 10 giờ 45 sáng, bản Hiệp Định Paris 1973 được Kissigner và Lê đức Thọ ký tắt. Sau khi ký xong hai ông trao đổi cho nhau cây viết để làm kỷ niệm.

Năm 1973, ngày 27.1, buổi sáng, 4 bên tham chiến cùng ký kết Hiệp Định có liên quan đến 4 bên, gồm có Ngoại Trưởng Hoa Kỳ William Rogers, Ngoại Trưởng Hà Nội Nguyễn Duy Trinh, Ngoại Trưởng Việt Nam Cộng Hòa Trần Văn Lắm, và Đại diện mặt trận giải phóng miền Nam Nguyễn Thị Bình. Buổi chiều Hoa Kỳ và Hà Nội ký vào văn kiện thứ hai có liên quan tới sự kết ước giữa hai bên.

* Chú giải:
Dư luận Hoa Kỳ đối với Nixon: Báo Washington Post: ”Chúng ta biết ơn Nixon vì ông đã thực hiện lời hứa chấm dứt chiến tranh trong vòng 4 năm”.
Báo Boston Herald Traveler: “Nó tốt hơn nhiều so với một cuộc đầu hàng hèn nhát mà một số người Hoa Kỳ sẵn sàng chấp nhận”.
Báo Walstreet Journal: ”Ông đã rút 550 ngàn quân ra khỏi Việt Nam và đem được tù binh trở về mà không mất chế độ Sài Gòn…Kẻ địch đã hiểu rằng xương sống của người ngồi trong Tòa Bạch Ốc được làm bằng thép…”
Báo Cleverlnad Plain Dealer: “Ván bài quốc tế của ông đã có kết quả trước mọi thứ áp lực ở trong cũng như ngoài nước. Đây là giờ phút oanh liệt nhất của vị Tổng Thống thứ 37 của chúng ta”.
Theo ghi chép của Hadleman thì sau khi xem các bài báo đó, Nixon có nhận xét rằng chưa có ai nói đúng về ông ta, đó là ”có bản lĩnh và kiên trì”.
Bí mật đằng sau Hiệp Định:
Hiệp Định gồm có 9 khoản, trong 9 khoản có 23 điều. Nội dung của 9 khoản, 23 điều cho thấy trong 4 năm đàm phán hai bên chỉ thương lượng với nhau về 3 mục là
(1) Mỹ rút quân
(2) Hà Nội trả tù binh
(3) Mỹ bồi thường chiến tranh.
Tuy nhiên chuyện Mỹ rút quân là do Nixon tự quyết định rút quân về để thay thế bằng quân Việt Nam Cộng Hòa chứ không phải là do kết quả điều đình. Như vậy chỉ còn 2 vấn đề mà người ta phải hẹn nhau đến Paris để thương lượng trong 4 năm là Hà Nội trả tù binh và đòi bồi thường chiến tranh.
Nhưng vấn đề trao trả tù binh Hoa Kỳ và tiền bồi thường chiến tranh chỉ được đưa ra sau khi cả Trung cộng và Liên Sô đều thông báo cho Hà Nội là họ muốn Hà Nội chấm dứt chiến tranh. Lúc đó Lê Duẩn có muốn đánh tiếp cũng không có gạo, không có đạn để đánh. Do đó chỉ cần 2 cuộc họp cách nhau 2 tháng thì Hà Nội đã đưa ra toàn bộ các điều kiện của họ: Tức là thả tù binh Hoa Kỳ vô điều kiện, không đòi thay thế chế độ Thiệu, không đòi thả 38 ngàn tù chính trị cọng sản miền Nam, không buộc Hoa Kỳ phải ghi điều khoản bồi thường chiến tranh vào trong Hiệp định đình chiến v.v…Dĩ nhiên là Nixon nợ Liên Sô và Trung cộngvề sự nhượng bộ này.

Nội dung 9 khoản ghi trong Hiệp Định cho thấy không cần phải tốn tới 4 năm mới có được văn bản của hiệp định:
Khoản 1: Các quyền cơ bản của dân tộc Việt Nam. Dĩ nhiên Kissinger và Lê đức Thọ không phải thương lượng với nhau về chương này, chỉ cần sao lại chương 1 của Hiệp Định Genève).

Khoản 2: Chấm dứt chiến sự, rút quân. Chương này dành cho chuyên viên kỹ thuật, ấn định ngày giờ ngưng bắn, thời hạn rút quân, dĩ nhiên hai ông cũng không thương lượng với nhau về mục này.
Khoản 3: Việc trao trả nhân viên quân sự bị bắt. Đây mới là mục chính yếu để thương lượng nhưng tránh không nói tới chữ “trao trả tù binh” mà nói là trao trả nhân viên quân sự bị bắt.

Khoản 4: Việc thực hiện quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam (Dĩ nhiên vấn đề này cũng không cần thương lượng, chỉ cần sao lại Hiệp Định Genève).
Khoản 5: Vấn đề thống nhất Việt Nam. Không cần thương lượng, chỉ cần nói rằng theo như Hiệp Định Genève 1954 là xong.
Khoản 6: Ủy ban kiểm soát đình chiến. Cũng không cần thương lượng, việc này cũng chỉ giao cho các chuyên viên quân sự.
Khoản 7: Đối với Cam Bốt và Lào. Cũng ghi theo như Hiệp Định Genève là xong.
Khoản 8: Quan hệ giữa Hoa Kỳ và cộng sản Bắc Việt.Đây mới là vấn đề chính, nghĩa là ai phải chung cho ai và chung bao nhiêu.
Khoản 9: Các quy định khác: Hiệp định có hiệu lực sau khi ký./.
Vậy thì chỉ cần xem lại khoản 3 và khoản 8 có 3 điều chính yếu:
- Điều 5 (Thuộc khoản 3): Trong thời hạn 60 ngày kể từ khi ký hiệp định này sẽ hoàn toàn rút ra khỏi miền Nam Việt Nam mọi quân đội, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự liên quan đến chương trình vũ khí, đạn dược và các dụng cụ chiến tranh của Hoa Kỳ và các nước ngoài khác…
- Điều 8 (Thuộc khoản 3): Việc trao trả những nhân viên quân sự của các bên bị bắt và thường dân nước ngoài của các bên bị bắt sẽ tiến hành song song và hoàn thành không chậm hơn ngày hoàn thành việc rút quân nói trong điều 5.
- Điều 21(Thuộc khoản 8): Hoa Kỳ mong rằng Hiệp Định này sẽ mang lại một thời kỳ hòa giải với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cũng như với các dân tộc Đông Dương. Theo chính sách truyền thống của mình, Hoa Kỳ sẽ đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh và công việc xây dựng sau chiến tranh ở Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và toàn Đông Dương.
Tóm tắt 9 khoản, 23 điều của Hiệp Định thì người ta thấy ngay sự phi lý: Ngưng bắn da beo, chính phủ Nguyễn Văn Thiệu vẫn còn tồn tại, 38.000 cán bộ dân sự cộng sản miền Nam vẫn bị giam trong các trại tù. Trong khi đó tù binh cộng sản Bắc Việt, tù binh Việt Nam Cộng Hòa và tù binh Hoa Kỳ được thả, Hoa Kỳ không phải trả tiền bồi thường chiến tranh nhưng: ”Hoa Kỳ sẽ đóng góp vào công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh và tái thiết sau chiến tranh”. Như vậy công lao chiến đấu của cộng sản Việt Nam từ 1959 tới 1973 coi như bỏ đi, họ không được một tí lợi nào cả ?

Nếu Hà Nội sáng suốt thì bắt phải ghi rõ con số 3,25 tỷ vào điều khoản 21 và ấn định lịch trình trao đổi, hễ đưa bao nhiêu thì thả bấy nhiêu, đưa tới đồng Dollar cuối cùng thì thả người cuối cùng. Dĩ nhiên một khi đã ghi con số và lịch trình trao đổi thì đến khi Quốc Hội Hoa Kỳ biểu quyết thông qua Hiệp Định sẽ phải ký thêm một đạo luật chuẩn chi ngân sách đính kèm. Phải chăng Lê đức Thọ đã bị lừa ?
Vì không tin là Lê đức Thọ bị lừa cho nên những nhà quan sát thời cuộc thừa hiểu rằng đằng sau Hiệp Định phải có một mật ước riêng giữa hai bên, trong đó sẽ quy định rõ con số bồi thường chiến tranh cũng như thể thức thanh toán.

Còn về phần Quốc Hội Hoa Kỳ thì họ không có lý do gì để từ chối một hiệp định công khai, hoàn toàn có lợi cho Hoa Kỳ, nghĩa là chấm dứt chiến tranh, đem được tù binh trở về mà không tốn một đồng nào cả

Bùi Anh Trinh

Tuesday, 28 May 2019

KHÔNG PHẢI CHỈ NĂM 1973 MÀ NGAY BÂY GIỜ 2019 HOA KỲ VẪN NGÂY NGÔ THEO ĐUÔI VIỆT CỘNG - ÔI THÂN PHẬN NHỰƠC TIỂU VNCH./-TCL

Ký Thiệt: Hiệp định Paris 1973 chưa chết? 
Hiệp định Paris được ký‎ kết ngày 27.1..1973, cách đây 45 năm, giữa 4 bên: Hoa Kỳ, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (CSBV), Việt Nam Cộng Hòa và Du kích Miền Nam Việt Nam Ngoài bốn bên tham chiến k‎ý kết, bản hiệp ước còn được Liên Hiệp Quốc và 12 nước cùng ký tên “bảo đảm” sự thi hành.

Chưa đọc nội dung bản hiệp định, chỉ mới nhìn vào “bốn bên” ký‎ tên đã thấy có điều không ổn: Hoa Kỳ và CSBV ký ngang nhau, VNCH chỉ được ký hàng dưới, ngang với bọn VC ở miền Nam, một con ma mà ai cũng biết do CSBV vẽ ra.
Trong hơn bốn năm thương thuyết, cũng chỉ có Kissinger (HK) và Lê Đức Thọ (CSBV) đi lại với nhau, trả giá với nhau cho đến khi đẻ ra cái quái thai được gọi là “Hiệp Định Chấm dứt Chiến Tranh và Phục Hồi Hòa Bình tại Việt Nam” (Agreement on Ending the War and Restoring peace in Vietnam).
Trong gần 5 năm Hoa Kỳ và CSBV điều đình với nhau, VNCH bị đặt ra ngoài và đã bị đồng minh Hoa Kỳ ép buộc phải ký vào một “hiệp định hòa bình” mà TT Nguyễn Văn Thiệu gọi là “hòa bình của nấm mồ”.
Chuyện gì xảy ra sau đó và số phận của bản “hiệp định” ấy ra sao thì mọi người đã biết.  Nay, sau 45 năm, biết bao nhiêu “nước đã chảy qua cầu”, bao nhiêu nước mắt và máu của dân Việt Nam vẫn còn tiếp tục chảy, thì Luật sư Lê Trọng Quát đã nhân danh “Thủ tướng Chính Phủ Pháp Định Việt Nam Cộng Hòa” viết cho TT Hoa Kỳ Donald Trump một bức thư (đề ngày 1.2.2018), có đồng kính gửi Tổng Thống, Thủ Tướng Pháp, Anh, Canada, Nga, Nam Dương, Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc.
Nguyên văn bức thư được dịch ra Việt ngữ và được phổ biến trên mạng điện tử như sau:

Kính thưa Tổng Thống,
Tình hình Biển Đông Á Châu càng ngày trầm trọng. Bên cạnh thái độ hung hãn của Chủ tịch Bắc Hàn Kim Yong Un hăm dọa phóng hỏa tiễn mang đầu đạn nguyên tử vào lãnh thổ Hoa Kỳ, Trung Cộng tăng cường quân sự hóa Trường Sa và Hoàng Sa bất chấp cảnh cáo của Hoa kỳ, hoành hành trong vùng biển thuộc nhiều quốc gia, làm suy giảm sự tin cậy của các nước trong Vùng với HK, điển hình là Phi Luật Tân
Ảnh hưởng xấu này đang lan tràn đến các nước vốn là đồng minh của HK nay dần dần ngả về TC trong kế hoạch TC kéo họ tham gia chương trình Ngân Hàng Á Châu Đầu Tư Hạ tầng Cơ Sở (Asia Investment in Infrastructures Bank) và chương trình xây dựng « Đường Tơ Lụa Mới » New Silk Road Funds xuyên Á – Trung Đông đến tận Phi Châu « One Belt One Road » (OBOR) nhằm phát triển quan hệ kinh tế thương mại với Trung Cộng trong một vùng rộng lớn bao trùm 68 quốc gia, 4,4 tỷ người, 62 % tổng lợi tức GDP thế giới và chất chứa 75% dự trữ năng lượng biết được.
Chủ trương bành trướng lãnh thổ và kinh tế vĩ đại này không gặp một sự cản trở nào, ngay cả tại vùng kế cận Đông Nam Á Châu. Sự kiện lạ lùng này đã rõ, bắt nguồn từ những sai lầm lớn lao của chính sách đối ngoại của đảng Dân Chủ Hoa Kỳ trong 72 năm nay.
– Thật vậy, đảng Dân Chủ Hoa Kỳ với Tổng Thống Harry Truman đã bỏ rơi nhiều dân tộc ở Đông Âu trong vòng tay của lãnh tụ cộng sản Staline sau Đệ Nhị Thế Chiến rồi tệ hại hơn nữa, bỏ rơi Trung Hoa Dân Quốc năm 1949 cho cộng sản Mao Trạch Đông trong lúc quốc gia này đã cùng chiến đấu với Hoa Kỳ chống Nhật và trở thành một trong 5 cường quốc thành viên của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc từ sau khi Đồng Minh chiến thắng Nhật ở Thái Bình Dương, tháng 8, 1945.
– Tiếp đến là Tổng thống John F.Kennedy với những trách nhiệm nặng nề qua hai lỗi lầm quan trọng: sách lược quân sự “ bờ đê ngăn chận” đánh trả hạn chế, đánh địch nhưng không chủ trương thắng địch, của bộ trưởng Quốc Phòng MacNamara khiến cho cuộc chiến kéo dài cho đến khi Hoa Kỳ bỏ cuộc trong lúc có thể kết thúc thắng lợi cuộc chiến bất cứ lúc nào để củng cố vững chắc con đê ngăn chận sự bành trướng của Trung Cộng ở Đông Nam Á.
–  Chính phủ Kennedy cũng đã tạo nên cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11, 1963 phá sập nền Đệ Nhất Cộng Hòa VN, và sát hại Tổng Thống Ngô Đình Diệm, người lãnh đạo hữu hiệu nhất của nước này, mở đường cho bộ đội Cộng Sản Bắc Việt xâm nhập ồ ạt Miền Nam, làm suy yếu hẳn năng lực chống Cộng của VNCH khiến cho Hoa Kỳ phải đưa liên tục nhiều trăm ngàn quân vào Miền Nam, tham chiến từ 1965 đến 1973 với vô vàn tổn phí và hy sinh nhân mạng để cuối cùng thất bại.
– Thật vậy, tiếp tục thi hành chính sách đánh nhưng không được thắng, sau cuộc dội bom dữ dội các mục tiêu quân sự của CSBV trong suốt hai tuần trước lễ Giáng Sinh 1972, Hà Nội đã sẵn sàng đầu hàng nhưng Hoa Kỳ ngưng tấn công để vài tuần sau ký Hiệp Định Paris ngày 27 tháng 1, 1973, bán đứng VNCH cho CSBV. Riêng về vụ này, tổng thống Nixon muốn giữ lời hứa mang lại hòa bình cho Việt Nam, đã hứa với tổng thống Nguyễn Văn Thiệu sẽ can thiệp mạnh và tức thời nếu Bắc Việt vi phạm Hiệp Định, tấn công VNCH. Sự cam kết bằng nhiều văn thư chính thức của TổngThống Nixon đã không được thực hiện vì ông đã buộc phải từ chức bởi vụ Watergate và vì đa số nghị sĩ đảng Dân Chủ ở Quốc Hôi Hoa Kỳ đã ngăn cấm mọi hoạt động quân sự ở Việt Nam.
– Vừa đây một số cựu giới chức tình báo Hoa Kỳ với ông Ted Gunderson đã tiết lộ công khai rằng Hà Nội đã xin đầu hàng tếp theo vụ dội bom trước Giáng Sinh 1972 nhưng Hoa Kỳ đã dấu nhẹm để tiếp tục hiệp thương với Hà Nội như ghi trên. Đây là một trường hợp đặc biệt cần được Tổng Thống cho điều tra để làm sáng tỏ một vụ hết sức quan trọng vì nếu thật như vậy thì không phải là một lỗi lầm mà rõ ràng là một hành động phản bội trắng trợn Đồng Minh VNCH và 57.000 chiến sĩ Hoa kỳ đã hy sinh trên chiến trường Việt Nam.
-Sau cùng cũng chính Đảng Dân Chủ Hoa Ký, qua đa số của họ ở Quốc Hội, đã ngăn cấm quân đội Hoa kỳ can thiệp chống lại các cuộc tấn công của quân đội cộng sản Bắc Việt, vi phạm trắng trợn Hiệp Định Paris 27 tháng 1, 1973 mà Định Ước chung quyết (Acte final) ngày 2 tháng 3  được chính phủ Hoa Kỳ ký kết với 11 chính phủ khác trước sự chứng giám của Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc, một sự can thiệp mà chính Tổng Thống Hoa Kỳ Nixon đã chính thức cam kết thực hiện với Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu như đã ghi trên.
Tệ hại hơn nữa, với đa số ở quốc Hội, đảng Dân Chủ đã không cho tháo khoán 375 triệu đô-la còn lại trong ngân sách quân viện để quân đội VNCH tăng cường phương tiện chiến đấu trong trận chiến quyết định số phận của đất nước họ.
– VN là một tiền đồn án ngữ sự bành trướng của Trung Cộng về Đông Nam Á Châu nên không thể nào nằm mãi trong tay của CSVN, một đàn em của chính TC. Bởi những lệ thuộc chặt chẽ về nhiều mặt: giáo điều chủ nghĩa, công ơn của TC hỗ trợ tối đa cho CSVN trong cuộc xâm lăng VNCH, đảng CSVN không thể nào thoát ra được sự kiềm tỏa của TC, chưa kể Hiệp Ước Thành Đô năm 1990 đang dần dần thực hiện cho đến năm 2020 thì VN sẽ trở thành một Vùng Tự Trị của Trung Cộng.
– Để bảo vệ chính sinh mạng của quốc gia Việt Nam liên hệ mật thiết với an ninh và hòa bình của toàn vùng Đông Nam Á Châu và Thái Bình Dương, chúng tôi , Chính Phủ Pháp Định VNCH phản ảnh ý nguyện của dân tộc VN trong nước và ở hải ngoại, long trọng và thiết tha kêu gọi Tổng Thống Donald Trump vì quyền lợi chính đáng của Hoa Kỳ, đại cường của Thế Giới và đặc biệt của vùng Thái Bình Dương đang dậy sóng, ngăn chận cụ thể sự bành trướng đại qui mô của TC như kể trên và chế tài các hành động của chúng : bất chấp luật pháp quốc tế như vụ xâm chiếm và quân sự hóa hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, chiếm đoạt các vùng biển đảo của các nước khác trong vùng, kiểm soát các tuyến lưu thông trên không và trên biển, ngăn cản đe dọa các hoạt động đánh cá và khai thác dầu hỏa trên biển Đông Nam Á.
– Mặt khác, chúng tôi thỉnh cầu Tổng Thống cho thi hành đạo luật của Quốc Hội Hoa Kỳ PL 93-559-DEC.30, 1974 khoản 4 “phục hoạt Hội Nghị Paris nhằm thực hiện toàn vẹn các điều khoản của Hiệp Định Paris 27 tháng 1, 1973 về phần các đối tác Việt Nam….” mà VNCH chúng tôi là một đối tác chính.
– Với hiệu lực của đạo luật này và hiệu lực vĩnh viễn của Hiệp Định Paris – một hiệp định quốc tế không bị triệt tiêu bởi thời gian và không bị bỏ quên vì nhân dân Miền Nam VN và chính phủ VNCH trước và sau 1975, ở trong nước cũng như ở hải ngoại, liên tục đòi hỏi và tranh đấu bằng mọi cách trong khả năng của mình để phục hoạt Hiệp Định – chúng tôi tin rằng một giải pháp công bằng, hợp lý, đúng với công pháp quốc tế có thể thành tựu đặng dân tộc Việt Nam hành sử được quyền tự quyết của mình, giải thoát khỏi chế độ cộng sản độc tài toàn trị và góp phần xứng đáng vào công cuộc ngăn chận làn sóng đỏ tuôn tràn xuống miền Đông Nam Á Châu.
– Để thi hành sứ mạng này đồng thời tái thiết và phát triển toàn diện đất nước của mình từ Bắc chí Nam, Việt Nam Cộng Hòa tương lai sẽ hợp tác chặt chẽ, bền vững với ưu tiên cao nhất với quý quốc trong mọi lãnh vực, hai nước cùng có lợi , an ninh và hòa bình được củng cố trong vùng địa lý chiến lược này của thế giới.
– Chúng tôi chắc rằng Tổng Thống đã nhận thấy những sai lầm cực kỳ tai hại của đảng Dân Chủ từ 7 thập niên qua như đã trình bày,và thỉnh cầu Tổng Thống giải quyết những hậu quả đang còn di lụy cho Việt Nam và các vùng khác trên địa cầu vì chính quyền lợi chính đáng thiết thực của Hoa Kỳ và sự cần thiết chu toàn sứ mạng lịch sử của Hiệp-Chủng-Quốc Hoa Kỳ góp phần thiết yếu bảo vệ tự do của nhân loại và hòa bình của thế giới.
– Với khả năng đặc biệt của Tổng Thống chỉ trong một năm chấp chánh đã thực hiện sự gia tăng thịnh vượng của Hoa Kỳ, chúng tôi tin tưởng Tổng Thống sẽ chu toàn sứ mạng cao quí này.
– Một khi giải thoát xong khỏi đảng CSVN lệ thuộc Trung Cộng, dân tộc VN chúng tôi, non 100 triệu người như một, sẽ tạo nên một thành trì vững chắc chống lại mọi kẻ thù xâm lược từ phương Bắc và góp phần xứng đáng vào công cuộc bảo vệ an ninh và hòa bình cho toàn cõi Á Châu -Thái Bình Dương.
Trân trọng kính chào Tổng Thống và xin Ngài nhận nơi đây lòng tri ân sâu xa nhất của dân tộc Việt Nam chúng tôi, một dân tộc khao khát tự do, công lý và dân chủ.
(ngưng trích)
Đạo luật PL 93-559-DEC.30, 1974 là cái gì và Khoản 4 nói gì? Và cũng chưa biết TT Donald Trump sẽ trả lời LS Lê Trọng Quát ra sao. Trong khi chờ đợi, tưởng cũng nên nhắc lại cuộc phỏng vấn mà TT Nguyễn Văn Thiệu đã dành cho tờ báo Đức Spiegel năm 1979 sau khi Kissinger viết những điều dối trá về Hiệp định Paris trong hồi ký của ông ta. Bài phỏng vấn này khá dài, dưới đây là đoạn kết qua bản dịch của Nhà văn Phạm Thị Hoài:
________________________________________
Spiegel: Khi Mỹ đã rút, còn Hà Nội thì được phép tiếp tục đóng quân ở miền Nam, chắc ông phải thấy là ông đã thua trong cuộc chiến này?
Nguyễn Văn Thiệu: Không hẳn, nếu chúng tôi tiếp tục được sự trợ giúp cần thiết từ phía Mỹ, như chính phủ Mỹ đã hứa khi chúng tôi đặt bút ký hiệp định. Ngay cả khi ký, tôi đã coi đó là một nền hòa bình tráo trở.
Nhưng chúng tôi vẫn tin rằng có thể chống lại bất kỳ sự xâm lăng nào của Bắc Việt. Vì hai lý do: Chúng tôi có lời hứa chắc chắn bằng văn bản của Tổng thống Nixon rằng Hoa Kỳ sẽ phản ứng quyết liệt, nếu Bắc Việt vi phạm hiệp định. Thứ hai, chúng tôi được đảm bảo là sẽ có đủ viện trợ quân sự và kinh tế cần thiết để chống Bắc Việt xâm lược. Nếu chính phủ Mỹ thực lòng giữ lời hứa thì chiến tranh có thể kéo dài, nhưng miền Nam sẽ không bị Bắc Việt thôn tính.
Spiegel: Về điều này thì ông và Kissinger ít nhiều đồng quan điểm. Ông ấy viết rằng chiến lược toàn cục có thể sẽ thành công, nếu Mỹ đủ khả năng hành động trước bất kỳ một vi phạm nào của Hà Nội và tiếp tục viện trợ đầy đủ cho miền Nam. Nhưng chuyện gì đã xảy ra? Kissinger quy lỗi cho vụ Watergate, vì sau đó Tổng thống Mỹ không còn đủ uy tín. Ông có nghĩ rằng vụ Watergate thực sự chịu trách nhiệm, khiến tất cả sụp đổ không?
Nguyễn Văn Thiệu: Rất tiếc, nhưng tôi không phải là người Mỹ. Tôi không muốn quét rác trước cửa nhà người Mỹ. Nhưng nếu người Mỹ giữ lời hứa thì đó là sự cảnh cáo tốt nhất, khiến Bắc Việt không tiếp tục xâm lăng, và chiến tranh có thể sẽ dần chấm dứt.
(hết trích)
“Nhà người Mỹ” hiện nay cũng đang có nhiều “rác”, nào DACA, nào MEMO, nào FISA…
Ký Thiệt

Saturday, 2 December 2017

BÀI VIẾT CÓ NÊU 1 CHI TIẾT KHÔNG ĂN KHỚP VỚI LÝ LUẬN: TÁC GIẢ CHO RẰNG NHỜ TỊCH THU ĐƯỢC TÀI LIỆU CỦA VC TẠI QUẢNG TÍN VÀO NGÀY 10-10-72 ....


 VÀ CHO RẰNG NHỜ TÀI LIỆU NGÀY 10-10-72 MÀ TT THIỆU DỜI ĐƯỢC NGÀY KÝ KẾT TỪ 26-9-72 SANG NGÀY 27-1-73. LÝ LUẬN NẦY MÂU THUẪN VÀ VÔ LÝ Ở CHỖ NẾU MỸ VÀ VC DỰ ĐỊNH KÝ VÀO NGÀY 26-9-72 THÌ LÀM SAO TT THIỆU PHẢN ĐỐI VÌ 2 TUẦN SAU VÀO 10-10-72 MỚI TỊCH THU ĐƯỢC TÀI LIỆU VC? 
MỸ CHƯA KÝ VÀO NGÀY 26-9-72 LÀ VÌ 1 LÝ DO NÀO ĐÓ CHỨ KHÔNG PHẢI BỞI TÀI LIỆU VC MÀ CHÚNG TA TỊCH THU ĐƯỢC VÀO NGÀY 10-10-72 - 
LỖI LẦM RẤT TRẦM TRỌNG BỞI VÌ TÁC GIẢ VIN VÀO TÀI LIỆU 10-10-72 ĐỂ CHO RẰNG NHỜ TÀI LIỆU NẦY MÀ VIỆC KÝ KẾT ĐƯỢC DỜI LẠI ĐẾN 4 THÁNG SAU./-TCL
============
Bí mật chiến tranh VN
Mỹ và CS Hà Nội thỏa thuận ký Hiệp Định Paris ngày 26.9.1972. Nhưng  nhờ tịch thu được tài liệu mật của VC tại tỉnh Quảng Tín,  TT Nguyễn Văn Thiệu đã buộc Mỹ và CS phải ký ngày 27.1.1973.

Hoàng Ngọc Lung

LGT (Gươm Thiêng): Đại Tá Hoàng Ngọc Lung sinh năm 1932 tại Bắc Việt. Sau khi đậu tú tài năm 1951, ông bước vào đời quân ngũ và tốt nghiệp Khóa 1 Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định với cấp bậc Thiếu Úy. Năm 1954, ông được thăng Đại Úy, Tiểu đoàn trưởng và Tham mưu trưởng Trung Đoàn. Vô Nam, ông giữ chức Chỉ huy phó Trường Tình Báo Cây Mai, nơi đào tạo các sĩ quan, hạ sĩ quan của 3 ngành Quân Báo, An Ninh Quân Đội, và Chiến Tranh Tâm Lý. Năm 1961, ông tự học và tốt nghiệp cử nhân Luật Khoa. Năm 1963, ông là Sĩ quan liên lạc tại Fort Bragg, North Carolina, Hoa Kỳ. Năm 1969, ông là nhân viên quân sự đầu tiên của bộ TTM trong phái đoàn VNCH tham dự Hội Nghị Ba Lê. Từ năm 1972 đến cuối tháng 4 năm 1975, ông giữ chức Trưởng Phòng 2/TTM. Tới Hoa Kỳ từ năm 1975, ông được mời viết sách cho phòng Quân Sử của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ. Ngoài ra, ông tiếp tục theo học và tốt nghiệp Computer Science năm 1976 và là chuyên viên Computer Analyst trong suốt thời gian 21 năm tại Hoa Kỳ. Ông được ân thưởng nhiều huy chương của chính phủ VNCH và Hoa Kỳ, bao gồm cả Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, Bronze Star, các huy chương đặc biệt của Hoàng Gia Thái Lan, chính phủ Nam Hàn, Trung Hoa Dân Quốc... Nhận được thư của ông Huỳnh Bá Phụng, cựu sĩ quan Phòng 2/TTM, báo tin Tổng Hội CQN/QL/VNCH Úc châu sắp xuất bản Đặc San Gươm Thiêng, Đại Tá Hoàng Ngọc Lung, tuy đã 80 tuổi, sức yếu, nhưng ông cũng đã cố gắng viết bài trình bầy về một bí mật trọng đại của cuộc chiến tranh VN: Mỹ và Cộng sản Hà Nội đã thỏa thuận ký Hiệp Định Paris vào ngày 26.9.1972. May mắn, nhờ có tài liệu tịch thu được của VC tại tỉnh Quảng Tín, TT Nguyễn Văn Thiệu đã phản đối quyết liệt, buộc Mỹ và CS phải rời ngày ký Hiệp Định tới 4 tháng sau, 27.1.1973. Thời gian 4 tháng tuy không dài, nhưng chắc chắn thời gian đó cũng đủ để có những ảnh hưởng nhất định đến cuộc chiến, làm chậm bước tiến của quân xâm lăng CS, cứu được nhiều sinh mạng, và thảm kịch CS chiếm trọn Miền Nam đã không thể xảy ra trước ngày 30-4-1975. Đặc San Gươm Thiêng chân thành cảm ơn sự đóng góp quý báu của ông Hoàng Ngọc Lung, và sau đây trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả nguyên văn bài viết của ông.

* * *


Tại bàn tròn Hội Nghị Ba Lê: Phái đoàn VNCH (trái); Phái đoàn của VC (phải); Phái đoàn Mỹ (trước); và đối diện là CS Bắc Việt.

Diễn biến lịch sử về tình hình chiến cuộc ở VN trước đây đã là đề tài của biết bao sử gia viết phân tách hoặc bình luận. Cộng thêm việc giải mật của các tài liệu Hoa Kỳ, những sự tiết lộ qua các cuộc phỏng vấn hay tự thuật của nhiều giới chức thẩm quyền liên đới, đã phô bày khá rõ rệt và đầy đủ.

Kỷ niệm năm thứ 20 của Đặc San Gươm Thiêng, tiếng nói của Tổng Hội CQN/QLVNCH Úc Châu, Ban Chủ Biên đã yêu cầu tôi viết một bài về chiến tranh VN. Tôi rất phân vân không biết phải viết gì. Tôi không phải là nhà văn, một ký giả, cũng không phải là người viết trên bất kỳ diễn đàn nào, ngoại trừ đã viết mấy cuốn Quân Sử theo nhu cầu của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ vào những ngày đầu tôi tới Hoa Kỳ năm 1975. Các tài liệu này hiện được lưu trữ tại Library of Congress của Mỹ. Vì vậy, trong khuôn khổ giới hạn của tờ Đặc San Gươm Thiêng, tôi xin đóng góp sơ sài về một vài sự việc tương đối đáng để ý trong sự bức tử làm sụp đổ chế độ VNCH chúng ta.

Trong 24 năm phục vụ trong quân ngũ, tình hình chiến sự đã ám ảnh tôi rất nhiều từ khi bắt đầu giã từ học đường, đi động viên vào khóa 1 Nam Định năm 1951. Lúc đó tôi mới 19 tuổi dù rằng lệnh động viên chỉ áp dụng cho lứa tuổi 20 tới 28 mà thôi. Tôi bị gọi nhầm nhưng vẫn tuân theo mệnh lệnh quân ngũ và ra trường với cấp bậc Thiếu Úy. Đầu tiên ở trong quân ngũ tôi đã phục vụ ở các đơn vị tác chiến tại các khu vực Bùi Chu, Hưng Yên, các đơn vị hoàn toàn do các sĩ quan VN tự trị đảm nhiệm, và chiến dịch cuối cùng mà trung đoàn của tôi tham gia là chiến dịch Đinh Tiên Hoàng vùng Thất Sơn Rạch Giá, sau đó tôi trở về Sài Gòn làm công việc tham mưu.

Trong địa hạt tham mưu, thời cuộc đã đưa tôi vào địa hạt Quân Báo. Tin tức chính xác, trung thực nhất là thâu lượm, tịch thu được các tài liệu của CS, cộng thêm các nguồn gốc tin tức khác để phối kiểm. Ngay như tin tức kỹ thuật điện đàm, kiểm thính cũng có thể tạo ra tin tức giả mạo đánh lừa. Tôi lấy thí dụ, trường hợp sư đoàn 320 của CS trú đóng ở nam Pleiku, nhưng khi di chuyển xuống Ban Mê Thuột chúng đã muốn đánh lừa quân ta nên vẫn để lại bộ phận điện đài tại chỗ, và không di chuyển theo sư đoàn. Điều này đã tạo ra sự ngộ nhận của giới chức QĐ 2 của ta đã lầm tưởng mục tiêu của địch là Pleiku chứ không phải BMT như phòng 2 quân đoàn đã ước tính.

Với các tin tức tài liệu tịch thu được của địch, đã khiến tôi phải suy nghĩ lại câu châm ngôn vẫn được truyền tụng từ trước của Tôn Tử: “Biết Mình Biết Địch, Trăm Trận Trăm Thắng.” Trong chiến tranh VN lời nói này không còn là bất hủ vì chúng ta không những phải biết địch, biết mình, mà còn phải biết được người bạn đồng minh Hoa Kỳ của mình. Sự thay đổi đường lối chiến lược của Hoa Kỳ chính yếu là đặt quyền lợi của Hoa Kỳ trên hết nên Hoa Kỳ đã tìm cách rút ra khỏi VN bằng cách ký kết giảng hòa với CS qua hiệp định Ba Lê.

Tài liệu học tập của chính uỷ CS ở tỉnh Quảng Tín bị quân ta tịch thu ngày 10 tháng 10 năm 1972 đã nêu lên nội dung mới là thông báo phải học tập văn kiện hiệp định Ba Lê để CS chuẩn bị hành động. Tài liệu này phù hợp với tình báo ở Tây Ninh cho biết CS đã mở khóa học đặc biệt để hướng dẫn thảo luận hiệp định này tại bộ chỉ huy Trung Ương Cục Miền Nam, ngày ngưng bắn sẽ là ngày 26-9-1972. Phương án của địch là chiếm đất giành dân, cắm cờ và xách động dân chúng xuống đường, cướp phá các cơ sở quân sự, nhằm cướp chính quyền VNCH.

Ngày 17.10.1972, Tổng thống Thiệu ra lệnh bộ Tổng Tham Mưu hỏa tốc mang tài liệu này về Sàigòn để làm bằng chứng xác thực và cụ thể nhứt để Tổng Thống nói chuyện với Kissinger về việc Việt Nam phải ký kết chung với Hoa Kỳ vào hiệp định Ba Lê. Vì vậy cũng đã trì hoãn được thời gian ký kết để chuẩn bị.

Ngày 17.8.1972, Kissinger gặp TT Thiệu tại dinh Độc Lập với sứ mạng, bằng mọi giá, thuyết phục VNCH ký Hiệp Định Ba Lê, mà Mỹ và VC đã thỏa thuận sẽ ký ngày 26.9.1972. Tuy nhiên, với bằng chứng Mỹ đi đêm với VC do VNCH tịch thu của VC tại tỉnh Quảng Tín, TT Thiệu đã phản đối quyết liệt, nên mãi đến 27.1.1973, Hiệp Định mới được ký kết. Hình trên cho thấy TT Thiệu tự tin, chủ động khi phản đối Kissinger. Trái lại, Kissinger lúng túng, thụ động, mất tự tin, nụ cười gượng gạo, ngượng ngập, khi bị tố quả tang hành động đi đêm với VC. © Bettmann/CORBIS

Thời đó, các cuộc mật đàm giữa Hoa Kỳ và Cộng Sản, Hoa Kỳ không hề thông báo cho VNCH biết trước các chi tiết nội dung và ngày ký hiệp định. Tổng thống Thiệu rất tức giận về bí mật thỏa hiệp song phương giữa Mỹ và CS, vì về phía CS, ngay ở cấp Xã ủy cũng đã biết các chi tiết về nội dung thỏa hiệp, trong khi đó ngay cấp lãnh đạo Quốc Gia VNCH không được biết gì về việc này.

Lệnh từ Phủ Tổng Thống đòi phải đệ trình tài liệu đó tới Tổng Thống trong thời gian sớm nhứt, và không được trễ hơn sáng hôm sau, trước khi ông gặp Kissinger. Tài liệu này phải được hoàn toàn bảo mật không được cho Hoa Kỳ biết.

Để thi hành chỉ thị này, Bộ TTM đã ra lệnh cho bộ tư lệnh KQVN điều động phi cơ L19 để di chuyển tài liệu từ Quảng Tín về Huế; đồng thời xử dụng 2 phản lực cơ chiến đấu A37 từ Cần Thơ về Sàigòn, đón 1 sĩ quan cấp tá thuộc Trung Tâm khai thác Tài Liệu Bộ TTM, ra Huế nhận lãnh tài liệu, để Trung Tâm Khai Thác làm phiếu phúc trình chuyển đến văn phòng Tổng Thống trước hạn định.

Nhờ vậy, Tổng Thống Thiệu đã trao cho Kissinger tài liệu này. Và kết quả chung cuộc là ngày ký hiệp định Geneve đã được trì hoãn, tại Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973, 4 tháng chậm hơn ngày 26 tháng 9 năm 1972 mà Mỹ và CS đã thỏa thuận.

Ngày 1.3.1973, đại diện 12 quốc gia và LHQ họp tại Paris ký kết Chương trình 9 điểm, đòi 4 bên (Mỹ, VNCH, CS Bắc Việt & VC Miền Nam) đã ký kết Hiệp Định Ba Lê ngày 27.1.1973 phải tôn trọng thực hiện. Nhưng khi VC vi phạm Hiệp Định, xua quân xâm lăng VNCH, tất cả các quốc gia và LHQ đều im lặng.

Hậu quả của việc ký kết Hiệp Định Paris cho phép CS vẫn được duy trì các đơn vị quân sự tại chỗ ở miền Nam không phải rút lui ra Bắc, mặt khác đã đưa đến sự rút lui của các đơn vị Hoa Kỳ và các đơn vị Đồng minh tham chiến ở miền Nam. Đáng kể hơn nữa là sự chi viện của Hoa Kỳ đã giảm thiểu tối đa sau khi Tổng Thống Nixon phải thoái vị về vụ Watergate.

Tổng thống Ford người kế nhiệm chỉ đề nghị một ngân sách chi viện là $522 triệu Mỹ Kim cho cả 2 nước VN và Kampuchia. Phần VN là $300 triệu. Quốc hội Hoa Kỳ còn cử một phái đoàn lưỡng viện sang VN vào cuối tháng 2-1973 để nhận xét và báo cáo sự thiết yếu của ngân khoản này. Phái đoàn này đã được VN cung cấp thật đầy đủ các dự kiện thiết yếu, được phép tiếp xúc với các đơn vị của VN tại chỗ ở các Quân khu, để thấy sự thiếu hụt chính xác về quân cơ, quân dụng và đạn dược của VNCH.

Một cuộc triển lãm tại bộ Tổng Tham Mưu, về những vũ khí của VC do quân đội VNCH tịch thu được.

Bộ TTM của VNCH cũng đã tổ chức 1 cuộc triển lãm trình bày các vũ khí tối tân đủ loại của CS đã xử dụng và bị tịch thu như các đại pháo, chiến xa, vũ khí phòng không, các loại hỏa tiễn, súng ống đủ loại, không thiếu một thứ gì kể cả dụng cụ ống dòm Hải quân, mìn v.v.

Tất cả những nổ lực kể trên cũng không giúp ích gì cho sự gia tăng ngân khoản viện trợ. Trong khi CS miền Bắc được Nga Sô, Trung Cộng trợ giúp rất nhiều các loại vũ khí phòng không như hỏa tiển Sam E2 của Nga, các loại xe tăng thiết giáp... Sự gia tăng nhiều đến nỗi không còn kho chứa hàng để ẩn giấu mà để công khai lộ thiên mọi chổ mọi nơi. Sự vận chuyển xe cộ được xử dụng theo hệ thống dẫn dầu vào miền Nam trên đường xâm nhập đã thu ngắn thời gian từ ngoài Bắc vào Nam từ 4 tháng xuống còn 2 tuần.

Cuộc tổng tấn công của CS vào Ban Mê Thuột ngày 10 tháng 3, 1973 mở đầu cho cuộc xâm lược của CS sau khi ký hiệp định Ba Lê đã được phát giác từ khi chúng còn chuẩn bị trong mấy tháng đầu năm 1973 khiến cựu Đại Tướng Cao Văn Viên khi ra thuyết trình tại hội đồng An Ninh Quốc Gia đã trình bày là sự tấn công này đã được biết từ trước, nhưng vấn đề tương quan lực lượng, đã không cho phép chúng ta làm gì khác hơn.

Tóm lại tình hình biến chuyển của thời cuộc chiến tranh ở VN đã được thời gian hậu chiến phô bầy rất nhiều bí ẩn trong chiến tranh VN. Một chi tiết chưa được ai bộc lộ trước đây là Chính phủ Dương Văn Minh ngay khi lên cầm quyền đã âm mưu quyết định bắt giữ 5 sĩ quan cao cấp của Bộ TTM đứng đầu là cựu Đại Tướng Cao Văn Viên. Danh tánh của 4 người còn lại tôi không cần nêu ra vì tôi thiết nghĩ ai cũng có thể suy đoán đó là những người nào mà không sợ sai lầm.

Hoàng Ngọc Lung Ngày 21 tháng 11 năm 2012