Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label MatUocThanhDo. Show all posts
Showing posts with label MatUocThanhDo. Show all posts

Thursday, 12 December 2019

VIỆT CỘNG ĐÃ ÂM THẦM THỰC HÀNH MẬT ƯỚC THÀNH ĐÔ TỪ NHIỀU NĂM QUA - DÂN TRUNG CỘNG ĐÃ TRÀN NGẬP VIỆT NAM - SAU 75 VIỆT CỘNG ĐUỔI NGƯỜI HOA RA KHỎI VN CHƯA ĐẦY 1 TRIỆU MÀ NAY TRUNG CỘNG ĐÃ CÓ MẶT TẠI VN CẢ CHỤC TRIỆU ??? MẬT ƯỚC THÀNH ĐÔ TỪ TỪ THỰC THI BAO TRÙM ĐẤT NƯỚC ..../-TCL

*(Theo Wikipedia có ghi:Đến năm 1989, số người gốc Hoa tại Việt Nam đã giảm từ 1,8 triệu năm 1975 xuống còn 900.000. Người gốc Hoa không còn là thế lực kiểm soát nền kinh tế Việt Nam như trước nữa,...)


Mật Ước Thành Đô: Thời kỳ Bắc thuộc mới bắt đầu
Image result for HÌNH MẬT ƯỚC THÀNH ĐÔ

Người ta tự hỏi: Không biết CS là loại người gì, học ở đâu, ăn uống những thứ chi? Mà sao không bao giờ có sự chân thật ? Họ mở miệng ra là nói lời dối trá: nói trắng thành đen, bảo đen thành trắng, nói tốt thành xấu, nói hay thành dở. Bảo rằng thành công rực rỡ, là thất bại thảm thương. Dựa vào sự nhẹ dạ và cả tin của người dân, họ rất được thành công, nhờ vào dối gian, lừa bịp, cộng thêm ác độc, bạo tàn. Bấy nhiêu năm rất là “thắng lợi”, “quang vinh”. Và… luôn tự hào về thành tích vẻ vang, gian manh ấy.



Cộng sản quốc tế thì như vậy. Và CSVN cũng chẳng khác gì mà có phần vượt trội hơn !
Mật Ước Thành Đô (MƯTĐ) ! Ai có nghe, biết về nó ?
Nghe rằng: một hiệp ước được ký kết giữa lãnh đạo hai đảng CS trong tình thế chẳng bình thường: Một bên là “có thế” làm chổ dựa. Và một bên là “kẻ chết đuối”, sắp đắm chìm giữa cơn bão táp phong ba - Từ năm 1990, CSQT/Liên Xô (Nga sô và các nước CS Đông Âu) tan rã, thì CS Trung quốc là nơi nương nhờ cho CSVN.
Ai cũng biết: bao phen nhảy nhót (đong đưa qua lại) - bạn hóa ra thù, và thù trở thành bạn - Đảng CSVN (khôn khéo tài tình) cũng phải biết tự cứu lấy mình, khi mà “tường thành” Liên Xô sụp đổ, và người CS đàn anh (TQ) bất đồng, thù hận, thì chả lẻ chịu chết theo vết đổ LX? Thế là muối mặt, đành chấp nhận cúi lòn để cứu lấy sự sống còn cho đảng. MƯTĐ từ đó ra đời trong 2 ngày đêm lén lút cùng ký kết nhau – ngày 3 và 4/9/1990 tại khách sạn Kim Ngưu, Thành đô, Tứ Xuyên, Trung quốc.
“Thời kỳ Bắc thuộc mới bắt đầu”. Đây là lời nói (thấy trước?) của bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch. Và: “Biết rằng theo TQ là mất nước, nhưng mà còn đảng. Thà mất nước hơn là mất đảng” - lời của TBT Nguyễn văn Linh (lúc ấy), không biết bằng tâm trạng vui hay buồn ?
Qua hình ảnh chụp chung: có Nguyễn văn Linh, Phạm văn Đồng, Đỗ Mười (bên ta), và Giang Trạch Dân, Lý Bằng (bên Tàu), hình ảnh thật tươi, mà trong số này, Đỗ Mưới là cười tươi nhất.
Từ ấy đến nay, bên ta (CSVN) vẫn luôn là lặng tiếng, im hơi, không bao giờ nhắc đến. Chỉ có bên Tàu, một lần phổ biến trên báo . Đại khái là: VN hứa hẹn đồng ý thời hạn 30 năm sẽ lần lượt thực thi để VN trở thành thống thuộc (sát nhập) nước Tàu – năm 2020 .
Đã nói rằng: CS không bao giờ là chân thật. Âm thầm, tự ý làm, chẳng hề cho dân biết, dân hay. Từ ấy đến nay, người dân VN ta vẫn thấy từng bước CSVN thực thi bao đường lối, chính sách, hoạt động, việc làm chỉ nhằm đưa đến lệ thuộc CS Tàu. Bảo rằng: phát triển và dựng xây đất nước.
Người ta thấy: một đất nước phát triển đi lùi. Và mọi sự dựng xây là: theo kế hoạch Tàu cộng.
- Hiệp định biên giới phía Bắc (1999). Kết quả là: mất Ải Nam Quan, thác Bản Giốc còn một phần. Và toàn tuyến biên giới lùi lại (phía Nam) từ 5km – 20km dọc theo Đông – Tây.
- Hiệp ước phân định vùng biển (vịnh Bắc bộ) – ký kết năm 2.000 – ta được một nửa (51%), địch được ít hơn (49%). Tự hào: ta thắng lợi.
- Bô Xít Tây Nguyên - một chủ trương lớn, giao giang san cho giặc - Thấy nguy, (toàn dân) can gián, chẳng chịu nghe - Độc đoán, độc quyền, và càng độc hại: rước giặc vào nhà !
- Từ đấy về sau, khắp đất nước, mọi chính sách, kế hoạch đều là sẵn sàng để cho kẻ địch Tàu cộng tuần tự, lần lượt mà vào chiếm lĩnh lãnh thổ. Cho rằng: đảng ta tài tình, khôn khéo, vì rất biết lúc nào đầu phục, cúi lòn .
Chống đối chăng ? Sẵn sàng có đám sai nha vô lại nanh vuốt đầy mình trấn áp, cắn xé. Tất cả (mọi việc) hãy để đảng và nhà nước lo !
Vâng! Đảng lo: Lo cướp đoạt để cho từng đảng viên trở nên sang giàu hưởng thụ. Lo cho từng lãnh đạo các cấp: cuộc sống vương giả, nhà cao cửa rộng, biệt thự nguy nga để tự hào, cao ngạo: “Đất nước ta chưa bao giờ có được như hôm nay” - Đất nước VN, hay nói đúng hơn: CHXHCNVN, ngày hôm nay (năm 2019) như thế nào ? Mọi người đều rõ !
- Một đất nước biến thành bãi rác: Bao nhiêu rác rưỡi, cặn bã, chất độc, đồ độc… từ Bắc phương tự do ồ ạt tuông vào.
- Một đất nước mà từng lượt người (hàng trăm, hàng ngàn) xếp hàng chờ đợi để được “xuất khẩu” đi làm thuê, ở mướn, cả bán dâm, làm điếm nơi xứ người để lo cho sự sống. Và cũng để kiếm tiền nuôi đảng.
- Một đất nước không dám ngẩn mặt với lân bang, với thế giới bên ngoài. Đi đâu, đến đâu, vẫn thấy bảng đề: “coi chừng kẻ cắp VN”. Lo sợ người dân trốn chạy, bỏ đi, lìa khỏi “thiên đường”, mà tìm nơi “đang giẫy chết” !
Image result for mật ước thành đô 1990

Vinh quang thay ! Tự hào thay ! Hãnh diện thay ! Một đất nước, một dân tộc 70 – 80 năm dưới sự lãnh đạo “tài tình” của đảng !
Để đến bây giờ, đất nước này… trước họa xâm lăng. Nhưng mà, nếu ai vùng dậy chống xâm lăng (không có phép) là bị bắt, đánh đập, bỏ tù. Đất nước mang danh CHXHCNVN hôm nay là như vậy đó.
Người ta ví: Lãnh đạo CSVN như một loài đà điểu: Rượt đuổi, săn mồi thì nhanh lẹ chẳng ai bằng, gặp lúc hiểm nguy chỉ biết chui đầu vào cát .
Giặc Tàu lấn chiếm lãnh hải: - mặc kệ nó. Giặc Tàu xâm lấn lãnh thổ: - Mình yếu thế, không được chống. Giặc giết hại ngư dân: - Không hề gì, ráng chịu, ráng chờ - chờ đảng ta van xin, giao thiệp ? Hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn cách thế cúi lòn, để đảng ta được bình yên vui hưởng.
“Nếu tranh chấp, chống đối... liệu ta có được bình yên ngồi ở đây bàn bạc, thảo luận thế này không ?”. Ai đã nói câu này? TBT/CTN đó ! Hãy ráng mà “thần phục”, cho được “vinh thân” !
Như thế thì, đất nước này (VN) có còn yên ổn, vững vàng, tồn tại nữa không ? Một khi vẫn phải dưới sự cai trị của một đảng đớn hèn, nhu nhược ?
“Thời kỳ Bắc thuộc mới bắt đầu”
Lời báo trước của bộ trưởng ngoại giao Nguyễn cơ Thạch (năm 1990) - sau 29 năm, đã thấy rõ ràng, xác thực !
Image result for mật ước thành đô 1990
Để chuẩn bị cho đỉnh điểm năm 2020, trong những tháng ngày cuối năm 2019, đảng và nhà nước đang ráo riết thực thi:
- Tuyến đường vận chuyển Vân Nam, Lào Kai, Hà Nội, Hải Phòng, do Tàu hoạch định và VN hợp tác thực hiện… bắt buộc phải được xúc tiến.
- Ba đặc khu, vùng ven biển và hải đảo (rất trọng yếu cho công cuộc thôn tính): Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc phải được thành lập và xúc tiến. Cùng với QH vừa phê chuẩn: miển visa cho “người nước ngoài” vào vùng ven biển (tách ra ?) lãnh thổ VN.
- Xài tiền Tàu - học chữ Tàu - lấy chồng Tàu - sanh con Tàu... Mọi thứ phải là “Tàu” . Đó là đường lối, chính sách chủ trương của đảng.
- Tuyến đường cao tốc Bắc – Nam, phục vụ cho “vành đai, một con đường” nhất định phải xúc tiến thực thi cho đúng kỳ, đúng hẹn, kịp lúc, kịp thời. Tốn bao nhiêu không ngại, đã có người bạn vàng “4 tốt” giúp cho !
Nói chung là phải hoàn thành sứ mạng “Hiệp Ước Thành Đô”. Để một sáng đẹp trời nào đó: các đồng chí lãnh đạo đảng ta (CSVN) được qùi xuống “tuyên thệ” dưới lá cờ 6 sao:
“Vinh hạnh thay, chúng con từ nay, nguyện xin làm khuyển mã, làm THÁI THÚ TRUNG THÀNH dưới một đất nước CHNDTH vĩ đại Thiên Triều”.


Nguyễn Dân

Tuesday, 3 December 2019

MẬT ƯỚC THÀNH ĐÔ LÀ MỘT HỨA HẸN LÂU DÀI CHỨ KHÔNG PHẢI TỚI NGÀY THÁNG LÀ TRUNG CỘNG BIẾN VIỆT NAM THÀNH MỘT CHƯ HẦU NGAY ./-TCL



Tác giả: Đặng Xương Hùng

Thành Đô - Đặc khu - Sách trắng quốc phòng.

Mới đây, một anh bạn của tôi tỏ ý không tin là có Thành Đô. Anh lập luận, chỉ còn một tháng rưỡi nữa là đến năm 2020, đâu thấy có dấu hiệu gì Việt Nam trở thành một tỉnh của Trung Quốc đâu ?

Tôi không hẳn chỉ muốn phản bác lại anh, mà là cố gắng xâu chuỗi lại các sự kiện để cùng anh đi đến kết luận : nguy cơ mất nước đang hiển hiện 100% và đảng cộng sản Việt Nam phải chịu tội này trước dân tộc Việt Nam.

Tôi đã nhắc lại với anh :
- Cuộc gặp bí mật tại Thành Đô - Trung Quốc là có thật 100%. Họ đến đó để cầu xin, quy phục cộng sản Trung Quốc. (Tôi muốn anh tìm đọc Hồi ký của Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ).

- Khi nhắc đến Hiệp ước Thành Đô thì ta không nên hiểu đó chỉ là một văn bản Hiệp ước được ký kết ngay cuộc gặp này, mà phải hiểu là tổng hợp tất cả những cam kết bằng miệng và bằng giấy tờ tại Thành Đô và tại những cuộc trao đổi giữa hai bên những năm sau đó trong quá trình đạt được bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc.

- Bức tường Berlin sụp đổ. Đảng cộng sản Việt Nam thấy rõ nguy cơ đe dọa. Họ đã chọn giải pháp quy hàng cộng sản Trung Quốc để có thể tiếp tục tồn tại. Trong ngoại giao chúng tôi gọi đó là giải pháp đỏ (hợp tác giữa những người cộng sản tại CPC và giữa TQ - VN).

- Họ chả có gì đủ mạnh để hy vọng đổi được sự che trở của TQ ngoài việc hứa đưa Việt Nam về chung ngôi nhà với Trung Quốc, tiến tới một thế giới cộng sản đại đồng. (Tôi khẳng định 100% đây là suy tính của những người lãnh đạo chóp bu lúc bấy giờ).

Tôi cũng chia sẻ thêm với anh:

- Lãnh đạo Việt Nam là những kẻ tiểu nhân, hứa thật cao để đạt được mục đích, sau nuốt hoặc trì hoãn thực hiện lời hứa là chuyện bình thường.

- Tuy nhiên, thâm nho như Tàu thì có mà chạy đằng giời, mọi món nợ đã trói chặt VN trong vòng kiểm soát của TQ. Những sự kiện cho thấy việc dần phải quy tụ lại với TQ, trong những năm qua, là rất rõ ràng:
+ Nhượng đất, nhượng biển đảo.
+ Cờ 6 sao (cố tình hay nhầm lẫn mà những ba bốn lần)
+ Chuyển đổi quân phục quân đội giống y TQ.
+ Bắt buộc học tiếng Trung.
+ Liên minh ngân hàng, tiêu tiền TQ trên lãnh thổ VN.
+ Hợp tác truyền hình, phát sóng tiếng Trung.
+ Hiệp định dẫn độ.
+ Người TQ tự do tràn ngập, có cả khu tự trị của người TQ, người VN không được vào.
+ Mọi dự án quan trọng đều lọt vào tay TQ.
(Danh sách này vẫn còn chưa đủ, mời quý độc giả bổ sung)

Bây giờ, tôi mới quay lại chủ đề chính của bài viết: Thành Đô - đặc khu - sách trắng quốc phòng.

Như chúng ta đều biết, vào năm ngoái Luật đặc khu bị người dân phản đối kịch liệt. Người dân chả cần phải cao siêu gì người ta cũng đều nhận xét, ký luật đặc khu là bán nước. Và mọi người đều biết suy luận, đó là hậu quả của Thành Đô.

Tưởng chừng trước sức ép của người dân như vậy lãnh đạo Việt Nam cũng phải dè chừng trong câu chuyện đặc khu. Nhưng không, với bản chất của những kẻ tiểu nhân, chẳng bao giờ biết thành thật, chỉ biết dối trá, lừa dối cả chính nhân dân mình, họ đã đánh tráo khái niệm, thay đổi câu chữ, thay đổi quy trình, giữa tháng 11/2019, thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã lấp liếm ký rất „nhanh lẹ“, „kín đáo“ câu chuyện đặc khu.

Cùng với nó, quốc hội VN, ngày 25/11/2019, đã thông qua luật sửa đổi cho phép người nước ngoài được miễn thị thực khi họ đến các „khu kinh tế đặc biệt trên biển“. Thật là một sự phối hợp „nhịp nhàng“ và thông điệp cũng khá dễ để suy luận: những đặc khu này chỉ là dành cho Trung Quốc.

Câu hỏi đặt ra là tại sao họ phải làm mọi cách để thông qua câu chuyện đặc khu một cách mau lẹ như vậy, câu trả lời chỉ có thể là đặc khu là thành tố rất quan trọng trong quy trình quy tụ VN về với TQ và với sức ép từ phía TQ, nó không thể chần chừ thêm được nữa.

Như chúng ta đều biết, một hai tháng trước đây, câu chuyện TQ xâm phạm lãnh hải VN ở bãi Tư Chính đẩy quan hệ hai nước căng như dây đàn, tưởng chừng như sắp có chiến tranh đến nơi giữa VN và TQ. Nhưng rốt cuộc rồi mọi chuyện lại đâu vào đấy. Quan hệ hai nước lại quay về chỗ cũ như thể „chưa từng có một cuộc… ra tay“.

Tại sao lại như vậy? Rất khó hiểu và cũng rất dễ hiểu. Thông điệp dằn mặt, nắn gân của TQ với VN thì chỉ có người VN hiểu, hoặc phải cam chịu mà hiểu. Thông điệp phản đối, đáp trả của phía VN thì cũng rất „khôn khéo“ chỉ đủ để cho người TQ hiểu là được. Tóm lại, VN đã rất hài lòng chấp nhận với chính sách „gác tranh chấp cùng khai thác“ mà TQ từng đưa ra, có thể bỏ qua câu chuyện chủ quyền.

Những phản ứng của ngoại trưởng Phạm Bình Minh tại LHQ thực chất cũng chỉ để nhằm đối phó với nhân dân mà thôi. Đại diện phía TQ vẫn ngồi nguyên trong diễn đàn để nghe phản ứng của ngoại trưởng Phạm Bình Minh cơ mà. Phải chăng thông điệp chính thức của phía VN muốn gửi cho phía TQ đã đi đêm qua kênh khác rồi.

Kế tiếp, cũng trong ngày 25/11/2019, Bộ quốc phòng VN cho công bố sách trắng quốc phòng. Người quan sát tình hình, chả cần phải quá thông thái mới nhận ra rằng : công bố sách trắng khẳng định chính sách 4 không lúc này là không đúng lúc. Trong khi TQ ngang ngược phản đối VN xâm phạm chủ quyền của TQ tại bãi Tư Chính, trong khi TQ đang làm hết sức, khiêu khích công khai, để khẳng định đường lưỡi bò của mình, thì VN lại ra sách trắng công khai tuyên bố chính sách 4 không, khẳng định không liên minh quận sự.

Tại sao từ chính sách ba không chuyển thành bốn không, chả có gì thật sự là mới mà VN lại phải ra sách trắng vào thời điểm này? Câu trả lời chỉ có thể là họ muốn chính thức chuyển một thông điệp làm yên lòng TQ: chúng tôi chấp nhận không liên minh với Mỹ để chống TQ, Hiểu một cách khác, chúng tôi sẽ không làm gì với những tranh chấp chủ quyền mà TQ mới tuyên bố tại biển Đông, chúng tôi gác vấn đề chủ quyền để cùng TQ khai thác hưởng lợi tại biển Đông.

Cuối cùng, tại sao VN phải hối hả làm cùng một lúc một loạt những việc liên quan đến TQ như kiểu „cưới chạy tang“ vào thời điểm cuối năm 2019 như vậy? Câu trả lời dễ chỉ có thể là năm 2020 đã quá gần, sức ép ông chủ TQ ngày càng lớn. Những gì thuộc quy trình Thành Đô như: đặc khu kinh tế trên biển, miễn thị thực, cam kết lời hứa năm xưa phải được thực hiện, để chứng minh sự trung thành với TQ.

Tóm lại, tôi và anh bạn của tôi thống nhất khẳng định: nói về Thành Đô là nói đến việc, đảng cộng sản VN vì sự tồn tại của mình, đã lấy đất nước VN ra để ngã giá, đổi lại sự che trở của đảng cộng sản TQ.

Tôi đoán biết, các bạn tôi tại Bộ Ngoại giao, trước sau cũng sẽ đọc được bài viết này của tôi. Tôi thiển nghĩ, các bạn nên đưa những gì tôi viết ở trên ra mổ xẻ, phân tích, tìm ra lối tránh vết xe đổ mù quáng của lớp lãnh đạo trước đây. Nếu để đất nước chìm sâu vào sự lệ thuộc TQ, chính các bạn là người có lỗi đầu tiên, như tướng Lê Mã Lương nhận định, vì các bạn là những người hiểu biết, tỉnh táo và sáng sủa nhất trong giới lãnh đạo hiện nay.

Đặng Xương Hùng
Genève, 27/11/2019

Wednesday, 15 May 2019

TRẦN THANH CHƯƠNG COI NHƯ TÊN GIẢ CỦA TRỌNG LÚ FUCKIM NGÂN CHỨ KHÔNG AI KHÁC./-TCL

LỘ MẶT NẠ MỘT DƯ LUẬN VIÊN ĂN KỨT VIỆT CỘNG CHẠY TỘI CHO CUỘC ĐI ĐÊM Ô NHỤC Ở THÀNH ĐÔ 
Phạm Đình Trọng

1- Facebooker có nick Tran Thanh Chuong ngày 4.5.2019 có bài viết chạy tội cho một sự kiện đớn hèn, tội lỗi của đảng cộng sản Việt Nam. Để tăng độ tin cậy vào những điều lừa dối trong bài viết Phải Hiểu Cho Đúng Về Hội Nghị Thành Đô, dư luận viên này tự nhận là bác sĩ, nhà thơ, nhà văn và “tôi có người bạn thân làm việc ở Bộ ngoại giao từ những năm 1980. Về sau, anh là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại một nước châu Âu. Qua anh, tôi biết được khá nhiều điều bí mật và tế nhị phía “hậu trường” liên quan đến sự kiện này”



Rồi Dư luận viên Tran Thanh Chuong lên giọng tuyên giáo cấp phường:





 “- Tuyệt đại đa số nhân dân trong nước tin tưởng vào lãnh đạo Đảng ta thời đó thì đánh giá: Hội nghị này đóng vai trò tích cực và có lợi cho Việt Nam.”




“Theo đánh giá của tôi, Hội nghị là kết quả tất yếu đáp ứng đòi hỏi bức thiết của tình thế đất nước ta thời đó. Nó được tiến hành sòng phẳng, vị thế hai bên ngang ngửa, cả Việt Nam, Trung Quốc và Campuchia đều được hưởng lợi. Tuy nhiên, bên giành thắng lợi lớn hơn cả là Việt Nam. Vì:


- Nhờ chấm dứt chiến tranh, bình thường hoá quan hệ giữa hai nước, tiến tới cắm mốc biên giới để từ đó Trung Quốc trở thành đối tác kinh tế lớn nhất của nước ta.


- Phái Khmer đỏ dần dần bị loại bỏ, chính quyền của Thủ tướng Hun Sen do ta ủng hộ vẫn vững mạnh nhiều năm qua. Đất nước Campuchia hoà bình, biên giới Tây Nam ổn định.


- Hội nghị là tiền đề giúp ta thực hiện bình thường hoá quan hệ với Mỹ và các nước phương Tây, sau đó tiến tới xoá bỏ hoàn toàn bao vây và cấm vận kinh tế.


- Chấm dứt chiến tranh không những quân đội ta chấm dứt đổ máu mà còn tạo điều kiện cho ta giảm quân từ 1,5 triệu xuống còn 0,5 triệu, giảm chi phí quân sự, tập trung nguồn lực xây dựng kinh tế để nước ta có được vị thế như ngày nay.


Vậy thì, có thể gọi Hội nghị Thành Đô là một HIỆP ĐỊNH HOÀ BÌNH ký kết cho cả ba dân tộc Việt - Trung- Khmer. Giá trị lịch sử của nó chẳng kém gì hai Hội nghị: Giơ-ne -vơ (1954) và Pa-ri (1973). Nếu Hiệp định Giơ-ne-vơ chỉ lập lại hoà bình cho nước ta một thời gian ngắn, Hiệp định Pa-ri chỉ có tác dụng buộc Mỹ rút quân về nước, chiến tranh vẫn tiếp tục diễn ra, thì Hội nghị Thành Đô là cơ sở kiến tạo hoà bình lâu dài, bền vững cho cả ba nước đến tận bây giờ.”





Suốt mấy chục năm qua, suốt mấy thế hệ người Việt bị tuyên giáo cộng sản lừa dối cho ăn bánh vẽ, nhiều người đã tỉnh ra, dễ dàng nhận ra ở bài viết Phải Hiểu Cho Đúng Về Hội Nghị Thành Đô giọng tuyên giáo, giọng dư luận viên bóp méo sự thật, tuyên truyền lừa dối, răn dạy người dân như cô giữ trẻ răn dạy đám con nít ở lớp mẫu giáo. Nhưng phải ăn bánh vẽ mãi, nhiều người đã thành con nghiện, thành tín đồ bánh vẽ và Phải Hiểu Cho Đúng Về Hội Nghị Thành Đô có tới hơn 2 K like, hơn 1,3 K share và tới tấp những lời tấm tắc “Một bài viết thấu đáo dù anh không là người trong cuộc . Bài viết đã làm rõ mà trên hết ta đã thấy kết quả lập lại hoà bình và những bước phát triển như ngày nay ! Một vị tướng trận mạc trong bốn cuộc chiến tranh hiểu rất rõ nên đã có những hành động đúng và đầy trách nhiệm với dân tộc” Và “Nhờ bài viết của anh mà em hiểu thêm công lao to lớn của nguyên chủ tịch nước Lê Đức Anh, ông xứng đáng được nhân dân cả nước mang ơn và ngưỡng mộ.”





Đến kỉ nguyên tin học, mạng xã hội ra đời làm cho tuyên giáo cộng sản không còn độc quyền thông tin, không thể mặc sức dối trá được nữa mà một dư luận viên cấp phường vẫn nhâng nháo vào mạng xã hội, trợn trạo bịp bợm và vẫn có nhiều người háo hức, sung sướng ăn bánh vẽ cộng sản thì quá thảm hại. Thảm hại như chủ tịch hội Nhà Văn Việt Nam Hữu Thỉnh viết bài tâng bốc thứ thơ thiền ba xu của nhà thơ dỏm Hoàng Quang Thuận. Thảm hại như “Nhà báo quốc tế” dỏm Lê Hoàng Anh Tuấn được hết trường trung học nọ đến viện nghiên cứu kia rải thảm đỏ đón rước. Thảm hại đến mức từ lãnh đạo hội nhà báo quốc gia đến chủ tịch hội nhà báo tỉnh cùng hí hửng tháp tùng, cùng vênh váo công kênh đưa “nhà báo quốc tế” dỏm đi khắp nơi lừa bịp.





Vì sự thảm hại đó, dù hơn tuần sau tôi mới đọc những lời lừa dối của bài viết Phải Hiểu Cho Đúng .  .  . tôi phải viết những dòng này.





2.  Trước hết, cuộc đi đêm Thành Đô là chuyện riêng, kín mít ở cấp chóp bu của đảng cộng sản Việt Nam. Chuyện riêng của mấy ông Bộ Chính trị Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Đức Anh .  .  . và mấy ông già cố vấn Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Võ Chí Công .  .  . . Chuyện riêng của hai đảng Việt Cộng và Tàu Cộng chứ không phải chuyện của hai nhà nước. Cơ quan đứng ra lo bảo đảm kĩ thuật cho chuyến đi đêm lén lút, tội lỗi này là ban Đối ngoại của đảng. Bộ Ngoại giao của nhà nước bị gạt ra rìa. Những người nắm giữ vị trí trọng yếu nhất ở bộ Ngoại giao như Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch, Thứ trưởng Trần Quang Cơ cũng phải ngồi nhà và chỉ được chứng kiến những chuyện đã rồi. Vì đớn hèn và ô nhục, nội dung thỏa thuận Thành Đô năm 1990 đến nay vẫn phải niêm phong kín mít, chưa dám hé ra một chi tiết nhỏ. Đến những ông bà ủy viên ban chấp hành trung ương của các khóa từ 1990 đến nay còn mù tịt thì ông cán bộ vô danh những năm 1980 mới ngơ ngác về bộ Ngoại Giao làm sao có thể biết “nhiều điều bí mật và tế nhị phía “hậu trường”.





Hư cấu ra nhân vật “người bạn thân làm việc ở bộ Ngoại giao” chỉ để ông dư luân viên mang danh “bác sĩ”, “nhà thơ, nhà văn” có cớ vẽ ra bức tranh “Hội Nghị Thành Đô” rực rỡ màu hồng bằng trò lửa bịp sống sượng và cũ rich của tuyên giáo cộng sản “cả Việt Nam, Trung Quốc và Campuchia đều được hưởng lợi. Tuy nhiên, bên giành thắng lợi lớn hơn cả là Việt Nam”. .





3.  Tháng chín, 1989, trước cuộc gặp Thành Đô một năm, quân đội Việt Nam đã hoàn toàn rút hết khỏi Campuchia, kết thúc mười năm cuộc sa lầy quân sự đẫm máu ở Campuchia. Tháng chín, 1989, trước cuộc gặp Thành Đô một năm, chiến sự ở biên giới Việt Trung cũng hoàn toàn chấm dứt, kết thúc cuộc chiến tranh mười năm Trung Quốc xâm lược Việt Nam. Ngày đó còn làm biên tập ở xưởng phim Quân đội Nhân dân Việt Nam, tôi đã dẫn một tổ điện ảnh mang máy quay phin Konvat của Nga đi quay phim tư liệu quân Việt Nam rút khỏi Campuchia. Đơn vị lính quân khu Năm rút về nước có cả mấy người đàn bà Campuchia vợ lính ôm con theo chồng ngồi trên thùng ô tô giữa những người lính Việt. Dừng chân ở Đà Nẵng, mỗi gia đình lính, chồng Việt vợ Miên được đưa đến ở tạm trong một gian nhà khách của bộ tư lệnh quận khu Năm ở bãi biển Mỹ Khê. Những thước phim lịch sử đó nay còn trong kho phim tư liệu của Điện ảnh Quân đội Nhân dân Việt Nam.





Vì vậy không có chuyện “Kết quả Hội nghị gồm hai phần được ký kết:


Phần thứ nhất: Chấm dứt xung đột biên giới giữa hai nước, bình thường hoá quan hệ Việt- Trung.


Phần thứ hai gồm bảy điều khoản về vấn đề Campuchia. Chủ yếu là: Các bên ngừng bắn, chấm dứt chiến tranh. Quân đội Việt Nam rút hết về nước .  .  .





4.  Trước sự sụp đổ liên hoàn của các nhà nước cộng sản Liên Xô và Đông Âu, những trái tim xơ cứng và những cái đầu tăm tối, cuồng tín giáo điều cộng sản của lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam không biết đến thân phận đau thương của giống nòi Việt Nam trong nô lệ cộng sản, không biết đến đất nước Việt Nam tan hoang vì sự tàn phá của ấu trĩ, ngu dốt tham lam cộng sản, không biết đến tiến trình lịch sử của loài người đang phẫn nộ chôn vùi cái quái thai cộng sản vào hố rác lịch sử. Chỉ biết có đảng cộng sản, hốt hoảng lo mất ngai vàng vua tập thể, họ liền quên ngay tội ác của nhà nước cộng sản Trung Quốc với dân tộc, với lịch sử Việt Nam, kẻ vừa xua hơn nửa triệu quân tràn qua biên giới xâm lược Việt Nam, giết hàng chục vạn dân Việt Nam, kẻ vừa cướp toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và cướp bảy bãi đá trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Họ ảo tưởng rằng đảng cộng sản Trung Quốc với gần trăm triệu đảng viên là một sức mạnh to lớn của lực lượng cộng sản thế giới, là một cái cọc vững chắc cho đảng cộng sản Việt Nam bấu víu trước bão táp nhân dân khi dân nổi can qua. Với ảo tưởng đó, Lê Đức Anh đã thốt ra lời: “Mỹ và phương Tây muốn cơ hội này để xóa cộng sản. Nó đang xóa ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xóa cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc” (Trần Quang Cơ. Hồi Ức Và Suy Nghĩ . T88)





Sợ cơn bão nhân dân loại bỏ cộng sản từ Liên Xô và Đông Âu sẽ lan tới Việt Nam Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh đã hành xử vô nguyên tắc, bỏ qua bộ máy nhà nước, phớt lờ bộ Ngoại giao, nhân danh đảng hạ mình trực tiếp thậm thụt tiếp xúc với đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy và cùng viên đại sứ thiết kế ra cuộc đi đêm Thành Đô.





Đang trên giường bệnh nhưng khi được nghe báo cáo việc Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh hấp tấp hạ mình cầu cạnh Trương Đức Duy, cố vấn Lê Đức Thọ cũng phải thở dài: “Việc anh Nguyễn Văn Linh và anh Lê Đức Anh gặp đại sứ Trung Quốc đã làm cho Trung Quốc cứng lên. Đáng lẽ không nên gặp” (Trần Quang Cơ. Sách đã dẫn. T77) Còn cố vấn Phạm Văn Đồng thì nói rõ hơn: “Trong cuộc họp Bộ Chính trị bàn về đàm phán với Trung Quốc, tôi đã nói tới ba lần là không được hớ, phải rất thận trọng với Trung Quốc. Đằng này các anh lại ngửa bài trước để họ biết hết .  .  . Trung Quốc họ nghĩ theo kiểu Đại Hán của họ và kết quả là họ ép mình. Ngoại giao là một vũ đài, phải giữ thế, không phải lúc nào cũng lật hết bài ra. Không thể đưa ngực ra cho nó đấm” (Trần Quang Cơ. Sách đã dẫn. T77)





5. Không khi nào vì đời sống nhân dân khó khăn do Mỹ cấm vận mà lãnh đạo cộng sản Việt Nam phải vội vã bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc để mở lối thoát cho nền kinh tế Việt Nam và mở cửa làm ăn cho người dân Việt Nam như sự dẫn dụ của dư luận viên cấp xã, cấp phường Tran Thanh Chuong. Với lãnh đạo cộng sản, đất nước chỉ là kho tài nguyên để họ vơ vét và nhân dân chỉ là bầy nô lệ để họ sử dụng như người nông dân sử dụng sức kéo của con trâu. Nhân dân chỉ là kho sức người để họ bóc lột và kho máu để họ làm chiến tranh củng cố và mở rộng lãnh thổ thống trị của họ mà thôi. Lịch sử cai trị của nhà nước cộng sản Việt Nam và của tất cả nhà nước cộng sản trên thế giới đã chứng minh đầy đủ điều đó. Nhà nước cộng sản Việt Nam vét của, vét máu dân ngày chiến tranh là “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, ngày nay là tăng thuế, tăng giá vô tội vạ móc túi dân, hút máu dân bù vào ngân khố trống rỗng do làm ăn kém cỏi, thua lỗ và tham nhũng.





Lịch sử cận đại của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan đã khẳng định muốn phát triển kinh tế, dân giầu, nước mạnh, đất nước hóa rồng, hóa hổ thì phải thiết lập mối quan hệ làm ăn đàng hoàng, văn minh, tin cậy với Mỹ và thế giới phương Tây, một quan hệ bình đẳng, sòng phẳng có luật pháp minh bạch và nghiêm ngặt. Còn vì ý thức hệ cộng sản, vì cái ngai vàng vua tập thể mà lẻn đi vào lối mòn ô nhục của Trần Ích Tắc, Lê Chêu Thống sang cầu cứu Trung Quốc để giữ ngôi vua tập thể thì chỉ giơ cổ ra nhận lấy cái dây xích chư hầu và rước họa Bắc thuộc về cho giống nòi. Nếu làm việc chính đáng vì dân vì nước thì Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh đâu phải hấp tấp và lén lút tiếp xúc với Trương Đức Duy sau lưng bộ Ngoại giao vậy.





6.  Sau khi ngừng đấu súng ở biên giới Việt Trung và sau khi quân đội Việt Nam rút hết khỏi Campuchia cũng là khi hệ thống nhà nước cộng sản Liên Xô và Đông Âu tan rã. Tình thế đó tạo ra cho hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc hai mối liên quan lớn. Mối quan tâm của đảng cộng sản Việt Nam là cần gấp gáp bình thường hóa quan hệ giữa hai nhà nước Việt Trung để đảng cộng sản Việt Nam tìm liên minh, tìm sự bảo kê của đảng cộng sản đàn anh Trung Quốc hòng tồn tại trước xu thế của thời đại rũ bỏ độc tài cộng sản khỏi đời sống chính trị thế giới. Còn đảng cộng sản Trung Quốc lại chỉ quan tâm giành cho Khmer Đỏ do Trung Quốc nuôi dưỡng đã bị quân đội Việt Nam đánh cho tan tác vẫn có được vị trí ngang bằng với ba lực lượng chính trị khác trong cơ cấu quyền lực nhà nước Campuchia.





Cuộc đi đêm Thành Đô tháng chín, 1990 là cuộc giao kèo, đổi chác hai nội dung trên. Vì đầu óc tối tăm, tâm thế thấp hèn, Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh đã ngửa bài trước khi vào ván bài Thành Đô, đã bộc lộ sự hốt hoảng lo sợ mất ngai vàng vua tập thể, bằng mọi giá phải bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc để dựa vào Trung Quốc mà giữ ngai vàng cộng sản. Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh đã đưa cộng sản Trung Quốc lên vị thế cứu tinh đối với số phận cộng sản Việt Nam. Từ vị thế cứu tinh đó, cộng sản Trung Quốc ép đoàn cộng sản Việt Nam đến Thành Đô do Nguyễn Văn Linh dẫn đầu phải chấp nhận mọi đòi hỏi của họ. Và cộng sản Việt Nam đã mang độc lập của đất nước, danh dự của tổ quốc, đất đai của giang sơn, tự hào của lịch sử, khí phách của giống nòi ra đánh đổi lấy bình thường hóa quan hệ Việt Trung. Cộng sản Việt Nam phải chấp nhận để Pôn Pốt kẻ thua trận ở vị thế ngang hàng với Hun Sen người thắng trận trong cơ cấu quyền lực nhà nước Campuchia.





Vì sự đổi chác ở Thành Đô ngu xuẩn, nhục nhã như vậy nên đến nay cộng sản Việt Nam vẫn phải giấu kín nội dung cuộc đổi chác Thành Đô như mèo giấu cứt.





Trong đoàn chư hầu ô nhục đi Thành Đô có Phạm Văn Đồng, cố vấn Ban Chấp hành trung ương đảng cộng sản Việt Nam và ông cố vấn tóc bạc, mắt lòa phải có người dắt đi từng bước này phải ngậm ngùi nói về ông trưởng đoàn chư hầu, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh: “Đã hớ, đã dại rồi mà còn nói đặt sự nghiệp cách mạng lên trên hết… Người lãnh đạo không nên làm như vậy. Với Trung Quốc, vừa qua không phải là chúng ta bình thường hóa, mà là chúng ta đã bị “phụ thuộc hóa” quan hệ (Sách đã dẫn. T93).





Còn Thứ trưởng bộ Ngoại giao Trần Quang Cơ thì nhìn nhận về cuộc gặp Thành Đô: “Sở dĩ ta dễ dàng bị mắc lừa ở Thành Đô là vì chính ta đã tự lừa ta. Ta đã tự tạo ra ảo tưởng là Trung Quốc sẽ giương cao ngọn cờ CNXH, thay thế cho Liên Xô làm chỗ dựa vững chắc cho cách mạng Việt Nam và chủ nghĩa xã hội thế giới, chống lại hiểm hoạ “diễn biễn hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc do Mỹ đứng đầu. Tư tưởng đó đã dẫn đến sai lầm Thành Đô” và “Vì quá nôn nóng cải thiện quan hệ với Trung Quốc, đoàn ta đã hành động một cách vô nguyên tắc, tưởng rằng thỏa thuận như thế sẽ được lòng Bắc Kinh nhưng trái lại thỏa thuận Thành Đô đã làm chậm việc giải quyết vấn đề Campuchia và do đó chậm việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, uy tín quốc tế của ta bị hoen ố.” (Sách đã dẫn. T 94)





Cuộc đổi chác Thành Đô buộc Việt Nam phụ thuộc vào Trung Quốc đến mức ngày 5.8.91, giữa cuộc họp Hội Đồng Bộ Trưởng, Hồng Hà trưởng ban đối ngoại của đảng cộng sản cao giọng nhắc nhở cả bộ máy chính quyền: Từ nay trong quan hệ với Trung Quốc các ngành cứ tập trung ở chỗ anh Trương Đức Duy (Đại Sứ Trung Quốc), không cần qua sứ quán Việt Nam ở Bắc Kinh’’ (Sách đã dẫn. T109).





7.  Kí văn bản giao kèo đổi chác Thành Đô, lãnh đạo cộng sản Việt Nam chỉ có hồn cộng sản, hồn băng nhóm giang hồ cướp quyền con người, cướp quyền làm chủ đất nước của người dân, không có hồn Việt Nam, không có tư thế của lịch sử Việt Nam, của văn hóa Việt Nam “Như nước Đại Việt ta từ trước / Vốn xưng nền văn hiến đã lâu” (Nguyễn Trãi. Bình Ngô đại cáo). Do đó đảng cộng sản vừa phải giấu kín văn bản đổi chác nhục nhã ở Thành Đô vừa phải tung đội ngũ dư luận viên đi lừa bịp “Hội nghị (Thành Đô) là kết quả tất yếu đáp ứng đòi hỏi bức thiết của tình thế đất nước ta thời đó. Nó được tiến hành sòng phẳng, vị thế hai bên ngang ngửa, cả Việt Nam, Trung Quốc và Campuchia đều được hưởng lợi. Tuy nhiên, bên giành thắng lợi lớn hơn cả là Việt Nam.”  





Người dân không được thấy câu chữ nhem nhuốc của văn bản bán linh hồn cho quỉ ở Thành Đô. Nhưng người dân thấy rõ thực tế ứng xử đớn hèn của nhà nước cộng sản Việt Nam với Trung Quốc từ sau Thành Đô 1990 và ứng xử đớn hèn đó đã tố cáo sự bán mình của đảng cộng sản Việt Nam cho đảng cộng sản Trung Quốc.





Với chính sách phụ thuộc, nô lệ vào nhà nước cộng sản Trung Quốc, với thân phận chư hầu, nhà nước cộng sản Việt Nam đã phản bội cha ông, phản bội lịch sử Việt Nam kí hiệp định biên giới 1999 dâng mười lăm ngàn cây số vuông đất biên cương cho Trung Quốc.





Từ sau 1990 tất cả bia đá, tượng đồng ghi nhớ chiến công của quân dân ta trong mười năm 1979 – 1989 chiến đấu chống quân Trung Quôc xâm lược bị đục bỏ. Bia ghi tội ác của quân Trung Quốc xâm lược bị xóa sạch. Pháo đài Đồng Đăng, Lạng Sơn lịch sử, nơi hàng trăm người dân Việt Nam chạy giặc ẩn náu đã bị quân Trung Quốc xả hơi độc, đánh thuốc nổ giết chết nay chìm trong lau lách hoang vu quên lãng





Nhà trường không được dạy học sinh, sinh viên những trang sử hào hùng của cha ông chống quân của các triều đại Trung Quốc xâm lược. Người dân tưởng niệm những người con yêu của Mẹ Việt Nam đã ngã xuống trong cuộc chiến đấu giữ nước chống quân Trung Quốc xâm lược, người dân biểu tình chống những hành động Trung Quốc đang tiến hành xâm lược Việt Nam đều bị công cụ bạo lực nhà nước cộng sản Việt Nam đàn áp dã man.





Từ sau 1990, nhà nước cộng sản Việt Nam hoàn toàn bỏ ngỏ biển Việt Nam cho Trung Quốc làm chủ. Quân đội bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đã khoanh tay đứng nhìn những đoàn tàu dân đánh cá Trung Quốc nhiều như là tre tràn vào biển Việt Nam, đến nhà nước cộng sản Việt Nam cũng im lặng coi Trung Quốc làm chủ biển Việt Nam như là điều bình thường, đương nhiên. Tàu vũ trang Trung Quốc tự do ngang dọc trên biển Việt Nam, đâm chìm tàu dân Việt Nam, giết hại dân Việt Nam cũng chỉ có người phát ngôn bộ Ngoại giao lên tiếng “quan ngại” chiếu lệ. Nhà nước Trung Quốc công bố lệnh cấm dân Việt Nam đánh cá trên biển Việt Nam, nhà nước cộng sản Việt Nam cũng câm miệng hến chấp nhận. Chỉ có hội Nghề cá của dân lên tiếng phản đối yếu ớt.





Bỏ ngỏ biển cho Trung Quốc làm chủ biển Đông. Mở rộng cửa đón người Trung Quốc vào tàn phá đất nước Việt Nam, đón hàng hóa Trung Quốc vào giết chết nền công nghiệp sản xuất hàng hóa Việt Nam, đón văn hóa Trung Quốc vào thiết lập trong tâm hồn người Việt Nam nền văn hóa chư hầu. Sách Vòng Tròn Bất Tử ghi nhận ý chí chiến đấu của những người lính Việt Nam giữ đảo Gạc Ma bị cấm phát hành. Nhưng lại cho dịch, in ấn số lượng lớn và phát hành rộng rãi trên cả nước hàng loạt sách ca ngợi Đặng Tiểu Bình kẻ phát động cuộc chiến tranh biên giới 1979 giết hại hàng vạn người Việt Nam.





Những sĩ quan cao cấp của quân đội, của công an phải lần lượt nối nhau sang Trung Quốc ăn cơm Tàu, học sách Tàu, thay máu Đại Việt bằng máu chư hầu. Sĩ quan cấp tướng chỉ bộc lộ lòng yêu nước, bộc lộ ý chí giữ nước chống quân Trung Quốc xâm lược liền lập tức phải rời quân ngũ như đại tướng Đỗ Bá Tỵ.





Nhà nước cộng sản Việt Nam luôn chấp hành mọi đòi hỏi, luôn thực hiện mọi dự án chỉ mang lại lợi ích cho Trung Quốc và gây thiệt hại to lớn, nhiều mặt cho Việt Nam. Dự án cho Trung Quốc vào khai thác bô xít ở Tây Nguyên, dự án cho Trung Quốc xây dựng nhà máy điện than ở Bình Thuận, dự án cho Trung Quốc trúng thầu thi công đường sắt trên cao Cát Linh – Hà Đông, dự án mở những con đường thông thống từ Trung Quốc thọc sâu vào lãnh thổ Việt Nam, dự án cho Trung Quốc xây dựng nhà máy đam Ninh Bình, những đặc khu kinh tế Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc chỉ nhằm “đón đại bàng Trung Quốc vào làm tổ”, chỉ để biến những thế đất hiểm yếu của Việt Nam thành đất sang nhượng cho Trung Quốc được lãnh đạo cộng sản Việt Nam sốt xắng thảo ra .  .  . Đất nước Việt Nam đang nguy khốn, nền kinh tế thoi thóp, què quặt, không thể phát triển. môi trường sống của thiên nhiên, của con người đang bị đầu độc, văn hóa chư hầu đang xâm nhập tâm hồn con người, đang tràn ngập trong đồi sống xã hội Việt Nam, an ninh quốc phòng bị bỏ ngỏ bởi những nhượng bộ, những.chính sách phụ thuộc đó.





Với giao kèo Thành Đô năm 1990, sẽ còn nhiều chủ trương, chính sách, nhiều dự án lớn nhỏ trên đất nước Việt Nam tiếp tục ra đời chỉ vì lợi ích của Trung Quốc và gây nguy khốn đất nước, cho giống nòi Việt Nam.