Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label NhaCaHue. Show all posts
Showing posts with label NhaCaHue. Show all posts

Thursday, 30 May 2019

TRẦN DẠ TỪ, NHÃ CA , CLB TÌNH NGHỆ SĨ ... ĐÂY LÀ NHÓM BẢO VỆ VC TUỆ SỸ - CHÚNG CHỐNG TRUNG CỘNG CÁI ĐÉO GÌ CHỨ ??? HÒANG KHIỀU TỪ THIỆN BẠC TRIỆU NHƯNG MỞ NHÀ MÁY HUYẾT THANH LÀM GIÀU Ở TRUNG CỘNG ĐẤY BÀ CON LITTLE SAIGON - LÀM ƠN MỞ MẮT BÀ CON ƠI !!!./PTCL


Con trai chủ tờ Việt Báo ở Little Saigon bị bắt vì buôn lậu 72 triệu USD
Click image for larger version

Name: alechan.jpg
Views: 0
Size: 37.9 KB
ID: 1392387 Click image for larger version

Name: alehchan.jpg
Views: 0
Size: 44.7 KB
ID: 1392388 Click image for larger version

Name: ale.jpg
Views: 0
Size: 21.0 KB
ID: 1392399 
5/30/19

Theo tin tức địa phương tại Quận Cam, Lê Hưng Chấn, 44, con trai của Lê Hạ Vĩnh (tức nhà thơ Trần Dạ Từ) và Trần thị Thu Vân (tức nhà văn Nhã Ca), chủ nhiệm tờ Việt Báo, đã bị bắt về tội buôn lâu những mạng hình và linh kiện giả cho các điện thoại iphone của Apple, Samsung, và Nokia..

Lê Hưng Chấn đã mua đồ giả từ Trung cộng, buôn lậu qua Mỹ và bán ra thị trường.
Cùng với người bạn đời, Tăng Thu Thủy, Lê Hưng Chấn, đã mở một công ty EZ Elektronix và chuyển hơn $72 triệu qua Trung Cộng để mua đồ giả.

Nếu Lê Hưng Chấn thật sự phạm tội sau khi được tòa xử, thì đây là tội buôn lậu lớn nhất trong cộng đồng người Việt. Họ đã làm tay sai cho Trung cộng vì đồng tiền, làm hại nền kinh tế Mỹ và làm giàu cho Trung cộng.

Hiện nay Lê Hưng Chấn và đồng bọn có thể bị phạt đến 45 năm tù.

Câu chuyện của Lê Hưng Chấn không phải là chuyện đầu tiên người tị nạn đã làm lợi cho Trung cộng. Tại TP Garden Grove, Nghị viên Phát Bùi đã vận động và chấp thuận cho TP Garden Grove ký hợp đồng cả chục triệu mỹ kim để mướn công ty Trung cộng qua Mỹ xây cất cơ sở thương mại cho TP Garden Grove.

nguồn BM
https://baomai.blogspot.com/2019/05/...-o-little.html

Sunday, 3 March 2019

RẤT TIẾC VÀ ĐÁNG TIẾC CHO NHÃ CA VÀ CHỒNG LÀ TRẦN DẠ TỪ KHI SỐNG Ở HOA KỲ LẠI VỀ HÙA ĐỨNG CHUNG DANH SÁCH VỚI VĨNH HẢO, MỘT TU XUẤT- MỘT VIỆT CỘNG NẰM VÙNG Ở HOUSTON ./-TCL

50 Năm Sau Huế Mậu Thân

03/03/201900:05:00(Xem: 380)
Hue cover
2015, bản Anh ngữ của Giải Khăn Sô Cho Huế ra mắt tại UC Berkeley. 
1. Nhã Ca: trả lời BBC
Cuộc phỏng vấn do Bình Khuê BBC Tiếng Việt thực hiện trong tháng 2/2018, nhân 50 năm trận Tết Mậu Thân. 26 tháng 2 2018.
Sau trận Tết Mậu Thân, phía Mỹ và Việt Nam Cộng hòa chiếm lại được một thành Huế tan hoang. Bên cạnh việc dọn dẹp, tái thiết thành phố, những hố chôn người tập thể dần dần được phát hiện.

Trong số những tin tức, tường thuật, phóng sự, ghi chép được đăng tải ở miền Nam Việt Nam về 'thảm sát ở Huế' khi đó, bút ký Giải Khăn Sô Cho Huế của Nhã Ca đã gây choáng váng dư luận. Một phần của sách sau này được dựng thành phim "Đất Khổ", với Trịnh Công Sơn vào vai chính, người con nhạc sĩ Huế.

Tác giả cuốn sách nói bà đã có mặt tại cố đô trong những ngày Tết Mậu Thân, tận mắt chứng kiến và trực tiếp nói chuyện với các nhân chứng về cuộc giao tranh, về các cuộc bắt bớ, về những nấm mồ tập thể...

Cuốn sách bị cấm lưu hành tại Việt Nam sau khi Sài Gòn sụp đổ. Tác giả cùng chồng bị bắt giam, nhà cửa tài sản bị tịch thu. Là cây bút nữ duy nhất trong số cả trăm nhà văn nhà báo Saigon bị cầm tù, 14 tháng sau bà được phóng thích cùng 21 đồng nghiệp.

Nhân 50 năm trận chiến 1968, BBC phỏng vấn nhà văn miền Nam, người đã trực tiếp sống và viết với Huế Tết Mậu Thân.

Tác giả Nhã Ca: Là kẻ sống sót sau tàn sát thời chiến và tù đày hậu chiến, tôi luôn tin vào tương lai của Huế, tương lai Việt Nam.

Tôi tin vào tình yêu, tình người, tình gia đình, và tin là người Việt mình từng biết thế nào là ăn ở tử tế. Như Quốc Văn Giáo Khoa Thư đã dạy, tôi tin dân tộc mình cũng là một gia tộc. Anh em, con cháu một nhà có thể bất hòa hoặc tranh chấp, nhưng rồi sau cùng, tất cả cũng vẫn phải về đứng bên nhau trước bàn thờ chung trong ngày giỗ gia tiên.

Tại Huế cũng như tại Việt Nam, từ bao năm qua, mọi hình thức tập họp của dân chúng, dù chỉ tại đền chùa để tưởng niệm cầu siêu cho những hồn oan trong cuộc chiến, vẫn tiếp tục bị ngăn chặn và trấn áp thô bạo.

Với chính quyền trong nước, trận chiến Tết Mậu Thân đến nay vẫn chỉ là thứ đại lễ mừng chiến thắng. Năm mươi năm rồi vẫn vậy. Nhưng dù bao lâu đi nữa, vết thương vẫn sẽ đến lúc buộc phải mở ra chữa trị.

Một thế hệ hiểu biết hơn, khôn ngoan hơn, sẽ biết cách thu xếp gánh nặng ông cha họ bỏ lại. Niềm tin ở một Việt Nam tương lai và một Huế tương lai cho tôi hy vọng ấy.

BBC: Là người có mặt tại Huế trong thời gian xảy ra cuộc tấn công Tết Mậu Thân, lúc nào là thời điểm bà nhận ra lực lượng Cộng sản đã vào chiếm thành phố?
Tác giả Nhã Ca: Cuộc tấn công bắt đầu lúc nửa đêm về sáng ngày mồng Một Tết. Với người dân tại miền Nam như tôi, đó là một đêm hưu chiến vốn vẫn được các phe tôn trọng nhiều năm trước.

Riêng Tết Mậu Thân, còn có tin phía Hà Nội và Mặt Trận Miền Nam xác nhận không chỉ hưu chiến ba ngày Tết như mọi năm, mà sẽ ngưng bắn luôn bảy ngày để đồng bào an tâm mừng Tết dân tộc.

Đêm Tết năm ấy pháo nổ ran khắp nơi. Tiếng súng thoạt đầu có thể lẫn vào tiếng pháo. Nhưng với gia đình tôi thì không thể lẫn được, vì súng nổ ngay trong vườn nhà, nghe buốt tai, buốt óc. Một người em bảo đó là tiếng súng AK, bọn họ đầy vườn.

Ngay sáng đầu năm, khi chạy ngoài đường, tôi thấy những người lính miền Bắc mặc quân phục mang súng AK hoặc ống thép gắn đạn gọi là B40. Thời đó, quân chính quy miền Bắc xâm nhập đã được trang bị hai loại vũ khí Liên Xô tối tân này, trong khi quân đội VNCH chưa có loại tương đương. Nghe AK tróc tróc, nghe B40 ình ình rồi nhìn xe tăng phía VNCH và Mỹ bị bắn ở An Cựu, tôi được biết lực lượng cộng sản đã vào chiếm thành phố.

BBC: Bà đã trực tiếp nhìn thấy hoặc gặp gỡ những cảnh, những người như thế nào, đã chứng kiến chuyện gì trong những ngày đó?
Tác giả Nhã Ca: Ngay khi phải ra khỏi nhà, tôi thấy bên đường đầy xác người. Trong số người gục chết, có những bà mẹ mang áo dài, những cô gái mang áo mầu ngày Tết, có cả từng khúc chân tay người vương vãi.

Cùng đoàn người chạy giữa lằn đạn, tôi từng thấy chính mình ngộp ngụa trong máu khi bị xô đè bởi xác người vừa bị bắn đổ xuống, có lần không phải người, mà là một con chó không biết từ đâu tới. Xin lỗi lỡ lời là bị xô, bị đè. Lẽ ra, phải nói là được che phủ, che chắn, vì sau cùng tôi thấy mình sống sót.
Trong cảnh bom đạn chớp lóa, tôi thấy Cung An Định của bà Hoàng Thái Hậu bốc cháy, thấy Bà Từ Cung mẹ Vua Bảo Đại mặc áo gấm đeo trên lưng một người không biết nam hay nữ. Từ cầu thang cung điện ngộp khói lửa lao xuống, đoàn người theo phò bà Thái Hậu luôn miệng hô "Ngài Ngự, Ngài Ngự", đạp cả lên đầu đám dân đang núp đạn để chạy.

Tuy là Phật tử nhưng từ chiều tối mùng Một Tết, nơi đầu tiên chúng tôi tới được lại là một nhà thờ Thiên Chúa. Đó là khu Dòng Chúa Cứu Thế nổi tiếng ở Huế.

Nhà thờ liên tiếp bị tràn ngập bởi cả người sống lẫn người chết. Không biết cơ man nào là người. Trong nhà giảng, ngay trên bệ thờ cao, bên chân tượng Chúa Cứu Thế, người lớn con nít nằm ngồi chen chúc. Khu nhà ngang đầy người bị thương và xác chết.

Từ mọi xó xỉnh trong nhà thờ tới hang đá ngoài sân, đủ thứ chuyện xẩy ra, lẫn lộn. Mọi lằn ranh hầu như bị xóa nhòa. Sự chết, sự sống không ngừng bị chấn động, biến hiện. Có bà mẹ ôm chặt bọc tã giấu xác con thơ đã bốc mùi. Có bà mẹ trở dạ và em bé sơ sinh chào đời.

Đó là cả một thế giới thu nhỏ bị dìm vào cuộc chiến. Không chỉ gia đình tôi, đồng bào tôi mà cả những người da trắng, tiêu biểu là hai người Pháp, một nam một nữ cầm cờ trắng ghi chữ "Báo Chí", cũng đã bị đưa đẩy tới đây.

Đó là sơ lược cảnh tượng ba ngày Tết Mậu Thân tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế mà tôi đã chứng kiến, đã viết trong sách và dựng lại trong phim.

BBC: Bà nhắc tới hai nhà báo Pháp. Tâm trạng của bà khi thấy họ và trong suốt thời gian có giao tranh tại Huế ra sao? Bà cũng nói đã trực tiếp nhìn thấy binh sĩ Cộng sản. Bà có suy nghĩ, tiếp xúc, và đã viết về họ?
Tác giả Nhã Ca: Khi hai nhà báo Pháp cầm cờ trắng vào nhà thờ, tôi nghe Cha quản nhiệm nhà thờ nói chuyện với họ bằng tiếng Pháp nhưng tự mình thì không tiếp xúc mà chỉ nhìn.

Nhà báo nữ nhỏ thó, dù mặt mũi thất thần, đã nhanh chóng cầm lại máy ảnh hành nghề. Cô chụp người bị thương, em bé nhay vú mẹ cạn sữa, chụp sản phụ, hài nhi. Ống kính có đưa về phía tôi cùng nụ cười làm thân nhưng đã bị cản lại.

Hình như chính hình ảnh cô lúc ấy nhắc tôi nhớ mình là người cầm bút. Không có ống kính máy ảnh như cô, nhưng vẫn có thể ghi những hình ảnh tức thì bằng tai, bằng mắt để sẽ viết. Dù sao, việc viết sách, làm phim là một tiến trình dài.

image001
Huế tan hoang sau Mậu Thân.(Hình từ trang BBC tiếng Việt)


Sau trận chiến 26 ngày tại Huế, sống sót trở về Sài Gòn, tôi biết tên cô phóng viên người Pháp là Catherine Leroy, từng bị cộng sản bắt giữ tại Huế trong Tết Mậu Thân nhưng thoát nạn. Tấm hình cô chụp hai chàng lính miền Bắc sau đó xuất hiện trên bìa báo Life với tựa đề "Một Ngày Đáng Nhớ. Kẻ thù để cho tôi chụp hình."

Kẻ thù ư? Không. Không phải vậy. Hai chàng lính trẻ trong hình và những bộ đội miền Bắc khác, với cô cũng như với những người dân miền Nam như tôi không hề là kẻ thù của nhau. Giữa binh sĩ hai miền cũng vậy. Nơi họ bị đẩy đến, thay vì để giết và bị giết, lẽ ra phải là để được quen biết, để yêu và được yêu.

Tôi còn quay lại Huế nhiều lần, đứng với những hình ảnh được khai quật từ các hầm chôn người, dự các đám tang tập thể, cúng giỗ và có thêm 8 truyện ngắn viết cho Huế đổ nát, đau thươngNhà văn Nhã Ca, Tác giả bút ký Giải Khăn Sô Cho Huế.

Chuyện Huế Tết Mậu Thân đầu tiên tôi đã viết và in là "Tình Ca Trong Lửa Đỏ". Đó là chuyện tình yêu giữa chàng lính trẻ miền Bắc dễ thương với một cô gái Huế.

Để biết nhân vật chàng lính Bắc ra sao trước khi bị đẩy vào "chiến trường B", ngay trong năm 1968, tôi đã có dịp trực tiếp thăm hỏi một số chiến binh miền Bắc trong cuộc tổng tấn công, những người đã rời bỏ cộng sản và đang sống tại hải ngoại mà tôi có gặp lại sau này.

Sau đó tôi còn quay lại Huế nhiều lần, đứng với những hình ảnh được khai quật từ các hầm chôn người, dự các đám tang tập thể, cúng giỗ và có thêm 8 truyện ngắn viết cho Huế đổ nát, đau thương.

Riêng "Giải Khăn Sô Cho Huế", một bút ký chạy loạn, kể những chuyện tai nghe mắt thấy, có sao viết vậy.

BBC: Cuốn "Giải Khăn Sô Cho Huế", như bà nói là viết chuyện tai nghe mắt thấy khi chạy loạn. Vậy các thông tin nêu trong đó, như các tên tuổi, địa danh, con số... có độ chính xác, xác thực đến đâu? Đã từng có ai được nhắc tới trong cuốn sách lên tiếng phản bác một phần hay toàn bộ nội dung hay không? Nếu có, thì những phản bác đó là gì, và bà đã tiếp nhận, phản hồi ra sao?
Tác giả Nhã Ca: Đây chỉ là bút ký, không phải sách nghiên cứu văn chương hay lịch sử, không có loại thông tin sử địa hay con số để đo độ chính xác. Chuyện tai nghe mắt thấy xác thực đến đâu là tùy phán đoán của người đọc hoặc sự đánh giá của các nhà phê bình, nghiên cứu.

Khi cùng các bạn văn nghệ sĩ Sài Gòn đi tù, có lần được công an cộng sản áp tải vào "Nhà Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy", đối diện với sách vở miền Nam bị đóng đinh trưng bầy, trong đó có cuốn Giải Khăn Sô Cho Huế được treo cao, chúng tôi đã đứng yên, nhìn thẳng, lặng lẽ chào tác phẩm của mình và bạn hữu.

Sách đã có đó, nhìn nhận nó như thế nào không còn là phần của người viết. Xin lãnh nhận mọi phần số thử thách. Cám ơn và lặng lẽ là đủ.

BBC: Theo bà, người Việt Nam học được gì khi đối diện với các vấn đề lịch sử có ít nhất ba bên, trong đó mỗi bên nói một cách?
Tác giả Nhã Ca: Chắc sẽ học được điều hay, chọn được cái tốt nhất. Trước mọi vấn đề, nếu được tiếp cận và chọn lựa giữa những thông tin đa chiều -"ít nhất ba bên, mỗi bên nói một cách" - thì đó là cơ hội tốt để nhận thức, chọn lựa.

Nhìn lại Việt Nam và các nước cùng cảnh ngộ một thời, sẽ thấy "Ba mươi năm nội chiến từng ngày" chỉ là một cuộc chiến oan nghiệt. Không cần có.

Không đáng có. Càng không đáng kéo dài. Vậy mà ngay cả khi bom đạn đã im tiếng, đủ loại vết thương có thật từ cuộc chiến vẫn tiếp tục không được mở ra để chữa trị.

Trong lịch sử Hoa Kỳ, hai năm trước khi Nội Chiến Nam Bắc Mỹ kết thúc, Tổng Thống Abraham Lincoln đã chỉ định "ngày tủi nhục quốc gia" cho nước Mỹ, ngày 30/3/1863. Trong ngày đó ông kêu gọi cả nước cùng nhận chung "tội lỗi dân tộc của chúng ta", cùng nhau xưng tội, cầu nguyện sự khoan dung, tha thứ.

Nội Chiến Hoa Kỳ chấm dứt vào tháng 4/1865. Tất cả tướng tá binh sĩ phe bại trận được giữ tài sản riêng, kể cả súng cá nhân, khi trở về quê quán làm ăn. Lá cờ, tượng đài và nghĩa trang miền Nam bại trận được tôn trọng. Không thấy có người tù đày hay vượt biển. Nước Mỹ mau chóng hàn gắn vết thương, và vững mạnh.

Tháng Tư 1865 của nước Mỹ cách tháng Tư 1975 của Việt Nam 110 năm.

Nước Mỹ đã bắt đầu hàn gắn vết thương ngay sau cuộc chiến. Còn ở Việt Nam, chúng ta đã chờ thêm 43 năm mà vẫn chưa thấy sự hòa giải thực sự. Đó là sự khác biệt dễ thấy.

Lịch sử nhân loại cho thấy mọi cuộc chiến đều yên nghỉ khi được nhìn nhận đúng vị trí của nó, và cuộc sống tiếp tục. Tôi tin sự khôn ngoan của nhân loại. Tôi tin dân tộc tôi từng biết thế nào là truyền thống, là văn hóa, lịch sử. Và tôi luôn vững tin rồi sẽ có một bó nhang chung, một bàn thờ chung, một ngày giỗ chung.

B85_4940_preview (1)
Nhã Ca và Đêm Thắp Nến Tưởng Niệm Tết Mậu Thân tại Chùa Pháp Vân, Toronto.

2. Đêm Thắp Nến Tưởng Niệm



Thưa quí thầy và quí vị,

Tôi vừa từ Cali bay tới đây chiều qua, được nhà chùa kêu tới cho dự lễ tưởng niệm "50 Năm Thảm Sát Huế Mậu Thân," xin nói đôi điều để cùng thương cùng nhớ.

Huế với tôi, gần gụi nhất là con dốc Nam Giao. Bắt đầu dưới dốc là ngôi chùa Báo Quốc, đường lên dốc đầy tiếng chuông tiếng mõ hiền hòa. Ngôi chùa xa hơn sẽ là chùa Tường Vân, nơi có vị Đại lão Hòa Thượng đức độ Thích Tịnh Khiết, Đức Tăng Thống đầu tiên của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất mà chúng tôi gọi là Ôn Tường Vân. Trong đám trẻ Phật tử một thời, tôi nhớ mình và Lê Hữu Bôi là hai đứa được Ôn thương nhất. Hai chị em thường hay níu áo Ôn vòi vĩnh.

Đường Nam Giao cũng như cả thành phố, mỗi mùa Phật Đản, mỗi mùa Lễ Vu Lan, mỗi dịp Lễ Tết giăng đầy cờ Phật Giáo. Riêng con dốc chật ních người đi chùa. Hai bên đường, dân chúng đặt sẵn những gánh Nước Giếng lấy từ cầu Lim cho người đi lễ chùa uống khi khát. Đó là những lu nước của một ngày, một đêm nấu sôi để nguội. Tôi nhớ thời nhỏ, dù không khát cũng vẫn chờ được uống, vì... ngọt ơi là ngọt. Khi lớn khôn vào đời, tôi vẫn nhớ nước giếng cầu Lim. Nhiều lúc tưởng như mình vẫn nghe hàng trăm, hàng ngàn tiếng chuông dộng đêm ngày, nhắc nhở tâm từ cho những người con Phật.
Tết Mậu Thân, tôi có mặt tại Huế.

Theo bà con từ nhiều phía cùng chạy loạn cho biết, ngay ngày đầu tiên đã có một số dân bị bắt theo danh sách được xử tử trong những phiên tòa án nhân dân. Thanh niên và thiếu nữ khỏe mạnh bị xung công đi khiêng xác chết lính Việt Cộng, người bị thương lên miệt vùng núi. Và rồi khắp thành phố Huế, từ mặt đường, đến ngõ nghách, trong nhà thờ, nhà chùa, nơi nào cũng có thịt rơi, máu đổ.

Và rồi, hàng ngàn dân Huế bị tàn sát.

Theo đoàn người chạy loạn, có những con chó đói, đang nhai, đang gặm những khúc tay, khúc chân, miếng thịt rứt được từ bên lề đường, trong bụi cây, đó là những người đã chết hoặc bị thương nặng, không thể mang theo được, có cả người già và trẻ thơ…

Người em thời nhỏ Lê Hữu Bôi, đêm giao thừa đang ở chùa Tường Vân bị bắt đi xử tử.

Bạn tôi là Hoàng Thị Tâm Túy, khi được tìm thấy từ một hầm chôn người ở trường Gia Hội, nghe nói tóc Túy mọc dài hơn, móng tay mọc dài hơn. Trong cuốn sách "Cuộc Thảm Sát của Việt Cộng tại Huế", tác giả là Alje Vennema một bác sĩ người Canada, có kể rõ công việc của Tâm Túy ở đường Tô Hiến Thành, công việc chỉ là bán hàng ngoài chợ.

Sống sót sau cái Tết oan nghiệt ấy, tôi vẫn thường trở lại với Huế mỗi mùa giỗ tết.

Đầu năm, tiếng khóc bi ai và khăn tang trắng xóa cả thành phố. Hai bên đường là vàng hương, nhang đèn, cây trái, bàn thờ lớn nhỏ chen chúc những lễ giỗ nạn nhân chết trong Tết Mậu Thân, với tiếng khóc não nề.

Không chỉ bên đường, mà trong sân chùa, sân nhà thờ, sân trường học, trên cầu, bên bờ sông, bên các lùm cây, bên cạnh những đống gạch đá chưa được thu dọn hết, khói nhang vẫn nghi ngút. Người đào đã tìm thấy xác thì cúng ở mộ, ở những ngôi mồ tập thể. Những người không tìm ra xác người thân, thì cứ đặt bàn thờ, nhang đèn bất cứ nơi nào nào họ nghi ngờ. Khắp thành phố, khi chiều tối, đâu đâu cũng thấy có người cầm đuốc chạy quanh nhà. Đó là phép "sai vía" mà dân Huế tin tưởng, để dẫn hồn những người chết oan biết đường về nhà.

Nhà chùa, nhà thờ cả tháng giêng dâng những lễ cầu nguyện cho những hồn oan, có đặt thêm bàn thờ dành cho cả những người lính Bắc Việt sinh bắc tử Nam. Chính tôi từng thắp nhang trước những bàn thờ này.

thap nen
Đêm Thắp Nến Tưởng Niệm Tết Mậu Thân tại Chùa Pháp Vân, Toronto.


Nhưng rồi, với chế độ cộng sản thì khác.

Sau năm 1975 không còn cảnh cúng giỗ.

Bia mộ ba tầng bị đập phá, chùa chiền, nhà thờ cấm làm lễ tưởng niệm. Trong trường y khoa Huế, bia tưởng niệm các vị Giáo sư người Đức bị thảm sát cũng bị đập phá, vứt xuống ao rau muống.

Từ sau năm 1975, tôi không trở lại Huế. Nhưng sau khi đi tù về, tôi có duyên may giống như được thấy lại tháp cổ, chuông xưa, nghe được tiếng chuông chùa Thiên Mụ. Đó là lúc được ở bên Ôn Đôn Hậu. Ôn là Đức Tăng Thống thứ ba của Giáo Hội, nhưng cũng là vị trụ trì Chùa Thiên Mụ từ thời tôi còn là một đồng nữ.

Một ngày, cùng với vị bổn sư của tôi là Hòa Thượng Thích Trí Thủ, chúng tôi chờ Ôn tại ngôi chùa nhỏ. Ôn mới từ Huế vào Sàigòn lấy cớ chữa bệnh. Phải khó khăn lắm mới thu xếp để Ôn rời bệnh viện. Thầy thị giả chở Ôn về chùa bằng xe Honda hai bánh. Vị viện chủ Thiên Mụ, ngôi chùa lịch sử 500 năm được gọi là quốc tự, tuy già yếu, nhưng vẫn đẹp uy nghi.

Hơn nửa buổi ngồi nghe vị Đại Sư và bổn sư trò truyện, tôi biết Ôn đã bị lừa như thế nào. Họ nói mời đi họp rồi bị bỏ thúng khiêng đi, khiêng vô khu, khiêng luôn ra Bắc... Vị sư già có từ bi, có trí dũng, là một bức tường đá. Nhưng đủ thứ loa kèn của người cộng sản vẫn tha hồ ca hát.

Sau buổi gặp ấy, thư phản đối việc cộng sản đàn áp Giáo Hội, bách hại chư tăng, đã được chính thức công bố với ấn ký của Hòa Thượng Thích Đôn Hậu. Nhưng dưới mái nhà của đất nước, của Giáo Hội, lá bùa sát nhân của cộng sản, cho tới nay vẫn tác yêu, tác quái.

Thưa quí thầy và quí vị,

Năm nay, 50 năm sau vụ tàn sát Huế, Nhà nước cộng sản bao năm qua vẫn ăn mừng chiến thắng, vẫn tiếp tục tô vẽ một chiến công giả để khuất lấp một tội ác thật. Huế vẫn không thể có được một ngày giỗ chung. Nhưng dù bị trấn áp mức nào đi nữa, tôi biết giải khăn tang Mậu Thân vẫn thắt trên đầu Huế.

Dân Huế, dù sống chết oan khiên, không hề không đòi trả thù. Trả thù để làm gì? Huế, Tết Mậu Thân, người bị giết và kẻ giết người đều chỉ là nạn nhân của nhiều tầng lừa gạt. Thủ phạm đích thực là chủ nghĩa Cộng Sản khủng bố và thủ lãnh thừa sai.

Chiều tối nay, ánh nến sân chùa này bảo tôi, những hồn oan từng bị chôn lấp năm xưa đang ở cùng chúng ta, họ luôn nhắc chúng ta không cho phép lịch sử tiếp tục bị đánh tráo, Không để con em chúng ta phải học, phải đọc những điều gian dối về cha anh của họ.

Xin quý vị cùng góp công cầu nguyện.

Nhã Ca

Tuesday, 24 May 2016

NHÃ CA GIẢI KHĂN SÔ CHO HUẾ ĐÃ CHẾT RỒI !

BÀI VIẾT NẦY THẬT LÀ VÔ DUYÊN VÀ CÓ Ý BỢ ĐỠ CHO BỌN CƯỚP BẮC VIỆT NỮA- BÀ BẮC HAY BÀ VỢ NAM KỲ AI GIỰT CHỒNG AI ??? NHÃ CA ĐÃ TRỞ CỜ TỪ KHI BÊNH VỰC CHO TUỆ SỸ VÀ BÂY GIỜ THÌ COI NHƯ ĐÃ CHẾT THẬT RỒI./-TCL

Giải khăn sô cho Huế – Nhã Ca

Hồi ký (1969) 14 kì của Nhã Ca. In lần đầu tại Sài Gòn 1969, giải thưởng văn học nghệ thuật quốc gia 1970, nay đã tuyệt bản.
Giai khan so cho Hue - Nha Ca
Giải khăn sô cho Huế – Nhã Ca
Nhã Ca (tên thật Trần Thị Thu Vân) sinh năm 1939 tại Huế, đến năm 1960 bà vào Sài Gòn và bắt đầu viết văn. Trong thời gian 1960 – 1975, 36 tác phẩm của bà được xuất bản gồm nhiều thể loại như thơ, bút ký và tiểu thuyết. Một số tác phẩm của bà lấy xứ Huế làm trọng điểm.
Cũng vì nội dung trong những tác phẩm của bà, sau năm 1975, Nhã Ca bị chính quyền giam hai năm vì tội “biệt kích văn hóa”. Chính cuốn Giải khăn sô cho Huế bị liệt vào hạng tối kỵ, trưng bày trong “Nhà Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy” là chứng tích kết tội bà. Chồng bà, nhà văn Trần Dạ Từ, thì bị giam 12 năm. Do sự can thiệp của hội Văn Bút Quốc tế phối hợp với hội Ân xá Quốc tế và thủ tướng Thụy Điển Ingvar Carlsson, bà được sang Thụy Điển tị nạn. Năm 1992 bà cùng gia đình sang California định cư và lập hệ thống Việt Báo Daily News tại Quận Cam.
Nhã Ca
Đó là một bà vợ Bắc Kỳ có chồng tập kết từng một thời quen mặt với khu phố Tự Do- Lê Thánh Tôn. Không ai cần biết tên bà ta là gì, nghe nói giọng Bắc thì gọi là bà Bắc. Bà ta nhỏ thó, gầy gò, khuôn mặt nhọn hoắt vì hai gò má cao quá, có hàm răng hô khó  khép miệng, lúc nào cũng như cười mà không phải cười.
Thời đánh Mỹ cứu nước, ông chồng tập kết của bà phải trở lại miền Nam. Đại thắng mùa xuân, ổng về thành phố gặp lại vợ cũ, vậy là cặp lại, bà vợ Bắc Kỳ ra rìa. Đôi vợ chồng cũ được cấp hai phòng lớn trên một tòa bin-đinh góc đường Tự Do-Lê Thánh Tôn. Vợ cũ còn tài sản, mua cho chồng chiếc xe Honda kiểu đàn bà.  Bà vợ Bắc Kỳ vô Nam dành chồng, bà đã ở lì khu xóm này cả năm, đi kiện, ăn vạ, làm đủ kiểu, chửi xiên xỏ, nói móc nghéo, cả hai vẫn trơ trơ. Rồi chính bà ta phải lặng lẽ biến mất.
Bẵng đi một thời gian, bà Bắc xuất hiện lại trên đường Tự Do. Vẫn chiếc quần đen, chỉ cũ hơn, sờn rách hơn và cái áo nâu thêm nhiều miếng vá hơn, vải có co rút mà người mặc càng lúc càng thấy rộng, chỉ là bà đã gầy tới không còn cách nào để gầy hơn. Khuôn mặt, hàm răng hô như mái hiên tơi tả, thêm nỗi đau không khép miệng được, và thay vì cái mếu, thì nó đã trơ răng ra, mới nhìn, thoạt giống cái miệng cười !
Một buổi sáng cuối năm, khi chị Mùi mở cửa lấy thùng rác vào thì đã thấy bà Bắc ngồi lù lù trước cửa.
“Mèn ơi, dì vô khi nào vậy ?”
Bà Bắc hỏi:
“Bà Muội dậy chưa?”
Bà Bắc, trước đây hay “ngồi dính” mấy bậc cấp này để ngó cho rõ “kẻ đoạt chồng”, đã thường kể lể tâm sự với bà Muội. Khi còn cơm thừa, cá cặn, bà Muội lén đem cho người đàn bà khốn khổ này.
“Dì hổng biết gì hết trơn sao ? Bà cháu ở riêng với cô Hợp rồi…”
Người đàn bà chưng hửng:
“Thế à ?”
“Dạ. Cô Hợp cháu lóng này ăn nên làm ra. Cô là ca sĩ nổi tiếng lắm, có hình đăng  nhựt trình đó, dì…”
Có tiếng trong nhà réo gọi, bà Bắc nhìn vô, bóng dáng hai tiểu thư thấp thoáng, cô nào cũng nhớn quá là nhớn.
“Hở một chút là hổng được, kêu réo om sòm…”
Chị Mùi lắc đầu, kéo tấm cửa sắt lại.
Còn lâu con đường này mới có sinh hoạt. Cũng còn lâu, bà Ba bán thuốc lá mới khệ nệ bưng sạp ra, đặt trước cửa bin-đinh. Bà nhớ, ông thường đi làm trễ. Ông vẫn làm ở cơ quan báo chí gì đó. Dáng người ông rắn rỏi, tóc hoa râm, áo sơ mi trắng, quần xanh, trông cứ trẻ trung hoài. Thấy ông dắt chiếc xe Honda nữ, sao mà giàu có sang trọng quá.  Nhiều khi thấy trên môi ông gắn điếu thuốc, khói bay vu vơ, bà hâm mộ quá, những lời cay đắng không làm sao thốt ra được. Chỉ khi nào có con mẹ, quần xoa đen, lót tót vội theo và nhảy ngồi đằng sau xe, lúc đó, máu ghen mới dâng lên, bóp nghẹt cổ, và bà nói bậy nói bạ, chửi bới như con mẹ điên.
“Hê, bà Bắc vô khi nào dzậy ?”
Bảy Cà Tong đây mà. Còn hỏi nữa:
“Tính dàn trận nữa sao đây, bà.”
Bà Bắc lắc đầu. Thua lâu rồi. Chẳng qua, lết vô đây vì uất, vì hận, và cũng vì ở ngoài không có công việc gì để sống nữa. Căn hộ được chia như cái chuồng chim, tù túng, khi đứa con dâu có thêm một đứa con thì bà không còn chỗ đặt chân.
“Đi đâu sớm thế ?”
“Đi làm. Thôi tui đi kẻo trễ xe buýt nghen chị.”
Bảy Cà Tong tất tưởi bước đi. Bà Bắc nhìn theo, cái miệng cười há hốc thèm thuồng.  Để vào được đến đây, lần này, bà ta đã phải ăn xin ngay từ trên xe hỏa.
Bà Bắc tiếp tục thả bộ qua công viên. Dân bụi đã đi kiếm sống, chỉ còn con Quê đang cho con bú bình sữa. Con này chị biết, nó đã rà mòn đường Tự Do này rồi.
“Mày đẻ rồi hả ?”
Con Quê nhìn lên. Người đàn bà này đâu xa lạ gì. Trước đây nó cũng không thích bà ta. Lúc nào cũng thấy bà ta ngồi bệt xuống đất, trước, hoặc cạnh bin-đinh, chửi xiên chửi xéo nhức cả đầu. Mà sao, mới đây, trông bà đã bệ rạc tiều tụy vậy ?
“Giai hay gái, hả ? Thằng cu hay cái đĩ thế ?”
Nghe hỏi tới Bò Lai, con Quê thấy vui.
“Thằng cu, thím. Nè, thím ngó…”
“Ối giời ! Thằng cu kháu quá nhỉ ? Mà “lày”, tớ hỏi không phải đừng “rận”, “ló nai” Tây gì thế ?”
“Biết đâu, thím.”
Giọng người đàn bà có chút ghen thầm:
“Mày mà cũng “nấy” được Tây cơ à ?”
Con Quê suýt cười lớn. Ối giời, chỉ mong là đừng dính, đừng đẻ, chớ để bình thường thì đường Tự Do này mấy năm nay, con lai các nước chạy đầy như cóc nhảy trời mưa ! Báu gì ! Nó hỏi:
“Thím muốn có một đứa hôn ? Muốn thì đẻ”.
“Tao ? Mày nói cái gì thế ?”
“Phải, thím cũng hết đẻ được rồi !”
Thấy con Quê nói chuyện hay hay, bà Bắc ngồi xuống.
“Mày cho tao “bế” nó một chút. Kháu ơi “nà” kháu, xinh quá “nà” xinh chứ “nị”… Cho bà bế tí nào…”
Làm như đứa con lai nó khác con người mình, bà phủi phủi vạt áo, chùi hai tay vào nhau, rồi đưa tay ra. Bế cũng nhẹ thôi, không dám ôm siết, ngắm nghía. Thằng bé không được mũm mĩm lắm, da trắng như trứng gà bóc, mắt xanh mà lông mi thưa, màu vàng như tóc. Bà nghĩ, ở ngoài Bắc, nhà nước nhồi nhét bắt nhân dân ghét thằng Mỹ, thử hỏi, ai ngoài miệng không phải nói “ghét”, nhưng nếu bà có một đứa cháu như thế này thì ước mười đời cũng không có. Nghĩ cũng hãi, nếu con gái bà mà đẻ ra một thằng cu như này, ngày trước ở Bắc thì có yên mà sống không đã nào, nói gì việc lo cho cháu ? Mà thằng nhỏ chắc gì sống nổi mà lo !
“Nó đẹp quá “nà” đẹp… Cho bà hít một cái “lào”. Bố đĩ nhà mày, biết cười chưa nào. Biết cười một cái cho bà ngắm, hả, hả…?”
Bà Bắc say sưa với thằng bé. Con Quê thấy bà nựng nịu con mình cũng bớt dần ác cảm.
“Thím mới vô ?”
“Ừ. .”
“Sao thím không ở ngoải cho khỏe, vô ra hoài tốn tiền lắm.”
Đang vui vẻ nựng nịu thằng bé, mặt người đàn bà héo úa.
“Ở ngoài đó không biết lấy cái “rì” mà ăn.”
“Vô đây cũng vậy, không nhà cửa, khổ lắm, thím biết ?”
Người đàn bà thở dài. Bà kể:
“Ở ngoài đó, tao cũng khổ lắm, đói là đằng khác mầy ơi ! Có căn hộ ở quê, phòng không ra phòng, con giai, con dâu, cháu, ba người đã không quay trở được. Chúng nó cũng khổ, mà mày coi, cha chúng nó như thế, đi Hon-đa đẹp “nà” đẹp”, ăn mặc sang như lãnh đạo, mê con mẹ “cướp chồng” tao, có màng gì đến con với cháu…”
“Hồi lấy bà có làm giấy tờ không ? Sao bà không đi kiện ?”
“Ối giời ! Hồi đó đánh nhau gay lắm mầy ơi. Tao lấy ông là đám cưới tập thể, có cơ quan chứng nhận đàng hoàng. Tao có hỏi cấp trên, họ trả nhời, ông ấy cũng có hôn thú với người vợ trong Nam, tập kết ra Bắc lấy vợ nữa là do hoàn cảnh chiến tranh, “nà” đảng chỉ đạo. Nay thống nhất, ông ấy không bị tội, mà kiện “rì” mày ơi, đời này đồng bạc đâm xoạt tờ giấy, ai “nại nà” không biết.”
Con Quê cảm thấy xót thương người đàn bà Bắc, mỗi người, mỗi nơi, khổ vì những cảnh ngộ khác nhau.
“Vô đây, thím lấy gì sống ?”
“Tao cũng chưa biết lấy “rì” sống. Ở ngoài, tao nhờ viết cả chục đơn kiện không ở đâu xử hết. Ức quá, tao vô đây, ‘nần này nà’ tao liều mạng… “
“Rồi thím ăn ngủ ở đâu ?”
“Thật giời có mắt, cái bà Ba bán thuốc lá bên kia kìa, mày biết không, nói ra “nà” người cùng “nàng” với tao khi xưa. Không có bà ấy tao “nàm” sao dám vô đây. Ối này, nó bĩnh ra rồi đây, mày có ngửi thấy mùi “rì” không ?”
Con Quê đón lấy thằng nhỏ. Cái áo cũ quấn đã muốn thấm ướt ra ngoài. Nó lấy đồ thay cho con. Coi, bả ngồi chòm hỏm, mắt nhìn chăm chú soi mói. Bộ cứt con lai khác cứt con người mình sao mà ngó dữ thần vậy, thiếu điều đưa ngón tay quẹt cho vào miệng thử. Con Quê buồn cười sự thật thà của người đàn bà Bắc nên khi cúi xuống gầm ghế đá, lôi ra ổ bánh mì thịt để nguội từ hôm qua, của thằng Được gửi cho, nó bẻ ổ bánh ra làm đôi:
“Thím ăn một miếng đi. Đói bụng lắm phải hôn ?”
Bà Bắc cười, có chút ngượng ngập.
“Không… không thấy đói…”
“Nhìn thím là biết. Cái bụng xẹp lép hà… Thôi, cầm đi, còn ngượng gì chớ. Tui mời thiệt à nghen.”
Vẫn còn cái thói giữ kẽ của người miền Bắc:
“Không dám đâu.”
Con Quê xởi lởi kiểu miền Nam “ruột để ngoài da”:
“Ăn đi mà, mời hoài mệt quá !”
Thì ra vậy, không nề hà, không kiểu cách. Bà Bắc nhìn con bé cụt một tay, bế đứa con lai trên cánh tay còn lại, mặt mày khắc khổ, thiếu ăn, ốm đói, nhưng vẫn có một vẻ gì nhẫn nhịn, chịu đựng. Thương con bé, bà cầm tay thằng nhỏ hít hít:
“Con mẹ mày tốt quá !”
“Bữa nào không có chỗ, thím qua đây ngủ với tui nghen.”
“Tao sợ…”
“Sợ gì ? Tui đây nè, cũng không nhà không cửa, tui ở đây ai làm gì tui. Thím biết, nhà của trời, của đất cho mình chớ của ai mà sợ, thím.”
Nói thì phải. Nhưng sự thật không có dễ vậy đâu, bà Bắc biết. Bà cảm kích con Quê lắm.
“Nuôi thím thì không được, tụi này cũng đói lắm, nhưng chỗ ngủ thì tụi này nhường. Tui bảo đảm cho thím, hổng sao đâu, đừng sợ.”
Nhớ ra, hồi trước nó ăn ở với một thằng. Bà ta có nhìn thấy, một đứa đi, một đứa bò, giỡn hớt, đuổi nhau, cười cợt nối đuôi khít rịt trên đường phố.
“Thằng kia đâu rồi ?”
Con Quê chưa kịp nhớ ra:
“Thằng nào, thím”.
“Cái thằng nó chỉ bò. Sao không thấy nó đâu ?”
À, thằng Bò. Con Quê nuốt một tiếng thở ra. Lại có người nhắc. Nó ở đâu, có ông trời biết. Nó cũng từng ngửa mặt lên trời, kêu, xin giúp nó. Ông cũng làm ngơ rồi. Còn có tin nó được đưa đi Mỹ chữa bệnh. Bệnh gì nó chớ, có tật trời sinh thì còn chữa gì nữa. Chuyện hoang đường !
“Không biết, thím.”
“Bộ nó bỏ mày hở ? Sao thằng đó độc thế ?”
“Không phải đâu thím ơi. Bị bắt. Công an bắt đó.”
“Bị bắt ? “nàm” sao mà tin được. Giời ơi, nó “nàm rì” mà bị bắt chứ ? Bắt thì cũng phải thả…”
“Tui biết đâu, thím. Bị bắt, ai cũng thấy, chỉ không thấy về…”
Người đàn bà thở dài. Sao cảnh ở đâu cũng vậy, trong này hay ngoài kia cũng đầy người khổ như thế. Chịu thôi. Thấy con Quê cứ thở ra. Thở ra, nuốt vô, đã quá thường đối với những người như chị.
****
Khi bà Bắc trở lại góc đường Tự Do-Lê Thánh Tôn thì dì Ba đã dọn xong hộp thuốc lá. Dì Ba ngồi đằng sau hộp thuốc, gác một chân lên kiểu “nước lụt”, ngó mông lung. Thấy người đàn bà bất thần hiện ra, khuôn mặt dì Ba không được vui.
“Lại vào rồi hả ?”
“Vâng.”
“Bà thiệt chưa tởn ? Người ta đã không ngó ngàng, làm cách chi cũng trơ trơ vậy thôi…”
Giọng dì Ba nửa Bắc nửa Nam.
“Ở ngoài đó sống không nổi…”
“Vô đây sống nổi ? Bà không biết thì thôi. Tui vì bà cũng bị cảnh cáo mấy lần. Lần này không yên với họ đâu.”
Người đàn bà cúi đầu. Mấy sợi tóc bạc không ăn nếp trong vành khăn rung rung. Dì Ba lại thương cảm, thở dài:
“Đã nói rồi, kiện tụng còn chưa đi tới đâu. Người ta làm lớn, nhà báo kia đấy bà ạ… Gớm, hà tiện vắt cổ chày ra nước. Lâu lâu, ve chai cân báo “Sài Gòn Giải Phóng”,, ghính một ghính đi không nổi. Tiền không đó. Bà lấy cái gì ra mà so với người ta…”
Thấy người bạn cùng quê cúi đầu, khuôn mặt khổ ải, dì Ba lại sót, giận:
“Đã nói ở ngoài đó cho yên. Làm cái gì được nữa mà ra với vô. Nó có sót có thương gì không ? Tui thấy là… Còn nữa, con mẹ còn nói xỏ nói xiên tui… a, dám chứa dân lậu, không giấy tờ, không hộ khẩu. Con này cũng đừng tưởng, không vừa. Xăn quần, chống tay vặt lại liền.. vặt cho một cái là im re, tưởng giỏi…Thấy bất bằng, không nhảy vô tức chết !”
Còn nữa, hễ thấy bà Bắc này là dì Ba nhớ quê:
“Ngoài ra sao, có khá hơn không ?”
“Ôi dào, khá cái “rì” mà khá. Chúng “ló” giàu lên, dân mới “nà” khổ nhiều chứ “nị”…”
“Ruộng ngoài đó, có máy cày chưa ?”
“Máy ? Máy “nà” cái “rì” ? Con trâu còn không có mà cày, người làm trâu cày thế thôi… “
Như sợ dì Ba không hiểu ra, bà tiếp:
“Mới đây, bên Tàu mua móng trâu giá cao lắm, vậy là ở quê mình, chặt, lột móng trâu đem qua biên giới bán, trâu còn mấy con !”
“Mua làm gì vậy ?”
“Tui “nàm” sao biết được. Chỉ biết giá cao lắm, bốn bộ móng chân mua giá nhời hơn bán một con trâu mới “nà nạ”…”
Lạ quá ! Nhưng cả hai người đàn bà đều không hiểu. Họ nói qua chuyện khác. Đến trưa, dì Ba mua bánh mì ăn, bà Bắc lại được nửa ổ.
Cả buổi chiều, bà Bắc đi xuống đi lên con đường Tự Do, ngắm nhìn dãy phố quen thuộc với những tiệm buôn. Đã thay đổi nhiều. Vài tiệm đóng cửa, vài tiệm đã thay đổi mặt hàng khác. Xuống nữa là khách sạn, nhiều Tây Mỹ ra vô quá. Bộ thằng Mỹ nó trở lại rồi sao ? Theo sự hiểu biết của bà thì nhà nước thù thằng Mỹ lắm, đời nào để cho nó sang nước mình đi khơi khơi như thế. Bà nhớ ở ngoài Bắc hồi đó, bắt được một thằng Mỹ giặc lái là trói gô lại, dẫn đi khắp đường làng quê, hô hào, vận động bà con căm thù, ném đá. Người vận động là ông chồng của bà chứ ai ? Bà nghe chồng, đã ném đá, nhiều hòn đá đã ném trúng. .. mà kể cũng lạ, ném trúng mà bà không thấy vui, còn thấy chùn tay… Không lẽ trở mặt nhanh như vậy, chắc là mấy ông “Liên Xô” cố vấn vĩ đại thôi. Bà ngó hoài từng tốp đi ra đi vô khách sạn, như con mán lạc chợ !
Bà canh giờ trở lại chỗ bán thuốc lá của dì Ba. Trước giờ công nhân viên đi làm về thì không trật được. Phải nhìn cho rõ coi con đàn bà giành chồng ra làm sao, thằng đàn ông phụ bạc thế nào. Dì Ba hỏi chuyện, bà không định tâm, trả lời tầm bậy tầm bạ. Dì Ba lắc đầu:
“Khổ, già hai thứ tóc mà còn chưa muốn yên. Ghen cái gì nữa mà ghen!”
Không uổng công chờ. Chiếc xe Honda phụ nữ từ ngã tư Lê Thánh Tôn quẹo lại, tấp vô lề. Ông đó. Bà run lên. Phải mà, con người đó, cánh tay đó, đã từng ôm ấp bà suốt mười mấy năm với cuộc sống gian truân, cùng khổ. Vậy mà bây giờ, con người đã khác đi, béo tốt, tươi tắn. Còn con đàn bà đâu không thấy ? Chắc giờ này nó đang dọn mâm cơm ở trên lầu cao kia. Bà đứng như trời trồng nhìn ông dẫn chiếc xe lên lề. Ông chợt nhìn thấy bà, ánh mắt vừa thoáng gặp đã quay đi. Bà chạy lại:
“Ông…”
Ánh mắt quắc lên:
“Lại vô nữa, vô đây làm cái gì ?”
“Tui…”
“Hừ. Đừng có lải nhải…”
Lạnh lẽo, tàn nhẫn, ông dẫn chiếc xe vào bên trong nhà. Người đàn bà lùi lại đứng kéo vạt áo nâu rách lên chùi nước mắt.
Hôm đó, bà Bắc lang thang cả buổi tối, buồn bã, thất thần. Bà cũng không ngờ ma đưa lối quỷ dẫn đường gì mà khi gặp ông, miệng bà cứ gọi, cứ hỏi… Bà còn biết con đường nào để đi. Về quê, con trai trăm bề vật lộn với sinh kế, con dâu phàn nàn thêm một miệng ăn, thằng cháu thì  có lần chửi bà “Đéo mẹ mày, không bà nội bà ngoại gì hết”. Phân bua thì con trai đấm ngực kêu trời, con dâu đay nghiến “Bà không ra bà, cháu nó mới hỗn”.
Đường phố buổi tối nhộn nhịp. Qua một con đường, bà nghe tiếng nhạc inh tai nhức óc. Toàn là người ăn vận lịch sự, con trai con gái từng tốp. Con gái ở trong này ăn mặc như vậy sao ? Váy ngắn cũn cỡn, áo mỏng bày cả da, còn bá vai bá cổ con trai, cười đùa, giỡn hớt. Bà thấy chói mắt, xót trong bụng quá… Bà lại lầm lũi đi ngược trở lại, lúc băng qua đường ở nhà hát thành phố, suýt chút bà bị một đoàn xe đạp đang đua tông phải. Bà nhảy được lên lề đường, mặt tái xanh mà trống ngực đập liên hồi.
Đứng một lúc cho cơn sợ giảm đi, bà mới lo đi tìm chỗ ngủ. Lúc này đã khuya, chắc dì Ba ngon giấc lâu rồi. Bà nhớ tới con Quê, vội bước tới công viên.
Khu công viên tối thui, bà con ngủ cả rồi chứ gì? Càng hay, sẽ không ai nhìn thấy bà ta. Bà Bắc cẩn thận bước lên mấy bậc cấp. Có mấy con gì nhúc nhích từng cục ở cạnh bụi cây? Bà định thần nhìn xuống, suýt nữa kêu lên. Một cặp đang làm chuyện “bậy bạ”. Bà lắc đầu, bước tới nữa, lại đụng một bóng người đang đi tha thẩn:
“Con mẹ mày, ở đâu tới đây ?”
Bà Bắc đứng lại. Mũi bà thoáng ngửi một mùi thơm hăng hắc. Cô gái tóc xõa, gầy còm, lại nạt tiếp:
“ĐM. Cút xéo ngay… Mắt với mũi để đâu ?”
Bà đoán ra rồi, một cô gái “bán hoa” đây thôi. Bà cũng không vừa:
“Này, cái đĩ, tông người ta còn “na” cái “rì”, hở ?”
“Nói ai là cái đĩ, con mụ kia…”
Trong bóng tối, một giọng:
“Nè, việc ai nấy làm, ồn ào nửa đêm nửa hôm… ĐM con nào đó…”
Cô gái lỉnh. Bà Bắc cũng nín khe. Một sự nhịn chín sự lành mà, mấy chục năm bà đã quen nhịn.
Lần đến chỗ con Quê, ghế đá bỏ trống. Bà ngồi xuống, rồi mệt mỏi, bà đặt lưng, và ngủ liền.
Ai kéo, ai đá bà bình bịch vậy. Bà trở dậy. Một người đàn bà bế đứa bé con.
“Ai cho nằm đây ngủ, đồ vô duyên…”
“Tui….”
“Kinh tế mới phải không ? Ở đây không còn chỗ chứa, tìm chỗ khác đi…”
“Tui không phải kinh tế mới đâu…”
“Không phải ? Ở tù ra phải không ? Biết mà, coi, kiểu này là mới ra khỏi tù. Tội gì ? Ăn cắp, lường gạt ? Vô gia cư há ?”
Tất cả các tội người kia nói ra bà đều không có. Nói là “vô gia cư”, bà có một chỗ che mưa che nắng ở ngoài quê kia mà, nhưng giờ đây…
“Sao, hổng trả lời… Muốn gì nữa đây ? Tính ăn cắp gì đây ?”
Khó khăn lắm bà mới lên tiếng được.
“Tui tìm con cụt…”
Bà định nói “con cụt tay…”, nhưng sợ chọc giận người đàn bà kia nên sửa lại:
“…con…Que. ..”
“Ở đây không có ai là que, là nhánh gì hết trơn… Bà đừng có nói láo… Đi đi…”
Bà Bắc nhận ra đứa nhỏ trên tay chị đàn bà rồi, cái thằng bé lai mà lúc sáng bà đã bồng, đã ôm…
“Tui tìm gặp mẹ của thằng bé này này.
Người đàn bà là chị Thìn, ngó kỹ bà ta một lần nữa….
“Chị biết ?”
“Vâng, mẹ của nó… cụt một cánh tay…”
“Xì, cụt tay thì ăn nhằm gì chớ !”
“Vâng, vâng…”
Chị Thìn ngần ngại. Lỡ họ quen biết nhau thì sao. Chị muốn gọi chị Bảy hỏi cho ra lẽ, nhưng giờ này Bảy Cà Tong cũng đã ngủ. Tự nhiên chị thấy giận con Quê. Giờ này còn chưa thấy về. Làm ăn thì cũng có chừng mực chớ. Chết nghen con ! Nhưng rồi giọng chị vui mừng:
“Kia, con Quê nó dzìa…”
Con Quê tới, ngó bà Bắc:
“Thím phải không ? Tui tưởng ai…”
Chị Thìn:
“Tao cũng tưởng ai nên tới đuổi bả đi đó mày…”
“Hiểu lầm hết. Nè, thím, đây là chị Thìn, còn đây là thím… thím gì…à thím Bắc…Bắc là tên thím, còn thím ở ngoài Bắc mới vô…”
Chuyện gì lạ vậy. Bộ con Quê có bà thím ở ngoài Bắc ? Bà con mới ở trên trời rớt xuống ? Con Quê liếng thoắng:
“Chị Thìn tốt lắm thím. Hổng có bả là tui mệt rồi, đâu biết nhờ ai coi con để đi làm…”
Bà Bắc ngơ ngác:
“Đi làm giờ này ?”
“Phải, đi làm vào ban đêm chớ ban ngày tìm đâu ra mối…”
Tai bà Bắc nghễnh ngãng, nghe chữ mối, không hiểu rõ lắm, đoán, con này đêm đi bắt thằn lằn rắn mối sao ? Nếu có vậy, bà cũng đi bắt kiếm ăn, khó khăn gì.
“Rắn mối ở đây nhiều lắm hả ? Đâu, tao đi bắt cùng…”
Con Quê cười rộ. Rồi chợt nhớ đang nửa đêm nó bịt miệng lại. Còn chị Thìn thì lắc đầu, chê người đàn bà quê mùa, lại là thím của con Quê. Ở đâu ra có bà thím vậy.
“Mày bà con với bả ?”
“Không đâu chị Thìn. Tui biết bả lâu rồi nhưng mới nói chuyện sáng nay thôi…”
“Mới sáng nay… mèn ơi…Mày khùng rồi…”
Con Quê nói:
“Khùng gì, thì cũng như chị, không có thằng Hôi giúp, còn lâu chị mới nhập hộ được đây. Giúp người ta làm phước bà à…”
Con Quê bế thằng bé.
“Cám ơn chị Thìn, chị dzề ngủ nghen… Thôi được rồi, để tui…”
“Để tôi…”
Bà Bắc lại đón lấy thằng bé. Chị Thìn nhìn, lắc đầu bỏ đi. Chị còn biết nói gì nữa, hoàn cảnh chị, nếu không có thằng Hôi, không được dân bụi thương, giờ chị ra sao rồi…
Buổi tối hôm đó con Quê thu xếp cho bà Bắc ngủ chung cùng một chiếc chiếu. Chưa quen cảnh màn trời chiếu đất, bà Bắc khó ngủ, thức chong đến gần sáng mới thiếp đi một lúc. Vậy chớ sáng ra, bà Bắc cũng bỏ tiền ra mua khúc bánh mì đãi con Quê, tỏ lòng cảm kích.
“Mèn ơi, ai biểu thím mua. Tui có tiền nè…”
Con Quê còn dọa:
“Ở đây khó kiếm tiền lắm, giữ mà tiêu. Thím thì hết đi bắt “rắn mối” được rồi.
Bây giờ thì bà Bắc đã hiểu đi “bắt mối” không phải là bắt thằn lằn rắn mối. Rõ là bà không đi “bắt mối” được. Hai thím cháu cười nói vui vẻ. Con Quê định tối nay, nói với chị Bảy Cà Tong, giúp đỡ cho thím Bắc sinh sống chung ở đây. Nhưng đến tối nó lại “đi làm” sớm, Bảy Cà Tong bận. Lúc chiều, thím Bắc lại sang ngồi bên thùng thuốc lá với dì Ba, con Quê bỏ lỡ dịp giới thiệu. Phải mấy ngày sau, bà con mới biết rõ. Ai cũng thương con Quê, và khi nghe hoàn cảnh của thím Bắc, không ai nỡ xua đuổi. Sợ xẩy ra chuyện, con Quê dặn chị Thìn:
“Nhớ canh chừng bả, không bả lại nổi điên nổi khùng sinh chuyện…”
Chị Thìn phàn nàn:
“Tui đã canh giữ hai đứa nhỏ, lại còn canh chừng bả nữa, có là ba đầu sáu tay…”
Thiệt ra, ba đầu sáu tay cũng không canh giữ thím Bắc đươc. Vài ngày sau, mọi người dỗ dành, khuyên bảo tưởng đã nguôi ngoai. Vậy mà một buổi sáng lại sinh chuyện.
Lúc đó, bà Bắc ngồi với dì Ba ở thùng thuốc lá. Dì Ba ngồi trên ghế còn bà Bắc ngồi bệt dưới đất. Họ cùng ăn mấy củ khoai lang bọc trong tờ giấy vở học trò tèm nhem màu mực tím. Ở góc đường, sáng sáng có một bà cắp cái thúng bán khoai lang luộc, đắt hàng lắm.
Thình lình, bên trong, ông “nhà báo” dắt chiếc xe ra, bà vợ, quần đen láng, áo xoa thêu, cầm cái giỏ xách ni-lông, loại mới sản xuất của một công ty quốc doanh làm ra do nhựa tái sinh. Thím Bắc ngừng nhai, củ khoai nằm trên tay.
“Con giành chồng”.
Người đàn bà quê mùa, tội nghiệp đứng bật dậy. Miếng khoai lang đang ăn dở rơi xuống đất. Hàm răng chìa ra và ánh mắt căm hờn. Dì Ba nắm tay người đàn bà:
“Thôi đi. Làm gì đây ?”
“Tôi…”
Giọng bà Bắc nghẹn ngào. Người vợ đang dướn người để ngồi sau yên xe. Xe nổ máy chờ. Thình lình bà Bắc nhào tới. Nhanh nhẹn, một tay túm cục tóc bối, một tay xô. Người đàn ông nhảy xuống khỏi xe, giằng vợ lại. Chiếc xe ngã, nằm vắt trên lề đường, máy vẫn nổ.
“Làm gì thế, hả ?”
“Con cướp chồng, tôi sống chết với nó… “
“Dang ra…”
Với người đàn ông đã từng cầm súng, từng vượt Trường sơn, một người đàn bà ốm đói như bà Bắc thì có nghĩa lý gì. Xô mạnh một cái, bà Bắc ngã xuống đất, đầu đụng vào lề đường kêu đánh cốp một tiếng.
“Ối giời ơi, nó giết tôi…”
Bà dãy đành đạch, kêu làng kêu nước, kêu ông phường, ông quận, ông sở công an, kêu luôn cả bác Hồ. Người đàn ông đỡ người vợ miền Nam, cơn giận làm mặt ông ta xanh dờn, hiện rõ từng nét nhăn. Tiện chân, ông đá bà vợ miền Bắc một cái rồi dằn chân lên người bà.
“Con đàn bà khốn nạn…”
Thằng Phu sửa xe cùng dì Ba chạy tới một lượt đỡ người đàn bà khốn khổ lên.
“Ông làm gì đánh người ta…”
Thằng Phu sừng sộ. Bên mé đầu của bà Bắc, máu rỉ ra, ướt mèm một mớ tóc, chảy dàn xuống một bên mặt.
“Quân giết người, bớ ông phường, bớ nhà nước…”
“Mày dám chửi cả nhà nước ? Con đĩ già… “
Ông xông tới. Một cú đá nữa, người đàn bà lăn xuống lề đường. Không nghe bà ta kêu la gì nữa. Dì Ba:
“Đánh chết người sao đây, coi…”
“Nó làm bộ, giả chết… Màn này thuộc lắm rồi…”
Ông ta dựng chiếc xe dậy. Máy vẫn nổ. Người vợ leo lên yên sau, tay ôm chặt eo ếch chồng. Chiếc xe vù đi, mất dạng.
“Khổ, còn ghen cái gì nữa mà ghen chớ. Sao mà ngu… “
Dì Ba cùng thằng Phu đỡ bà Bắc dậy. Bà đã bất tỉnh, máu trên đầu chảy rỉ rả. Quýnh quáng, dì Ba lấy một bánh thuốc lào gỡ ra, dém vào mảng đầu bị rỉ máu. Thằng Phu:
“Chở bả vô nhà thương đi…”
“Nhà thương gì mày, vô cái nhà ghét đó còn chết chắc hơn nữa mậy.”
Chị Mùi và mấy người đàn bà nữa chạy ra. Bà Bắc được vực vào phía sau cầu thang, chỗ trú mưa nắng của dì Ba. Chiếc ghế bố được dựng ra và người đàn bà khốn khổ được đặt nằm trên đó. Con Quê và chị Thìn tất tả tới với mớ bông gòn và chai thuốc đỏ mới “năn nỉ” xin được bên nhà thuốc quốc doanh. Một lúc sau, bà Bắc đã khá hơn, mở mắt, nói được, nhưng toàn là nói sảng.
“Có sao không vậy nè ?”
Con Quê nóng nảy. Dì Ba thở ra:
“Tình đời vậy đó, khi lấy người ta, vợ vợ chồng chồng, một ngày cũng là tình nghĩa, con người hơn con chó một chút là ở chỗ đó thôi… “
“Thằng chả đánh ?”
“Thì ai vô đó, bây.”
“Đồ ác nhơn, trời đánh nó đi.”
“Đánh xong còn tàn nhẫn bỏ đi…”
“Rồi bả chết thì sao ?”
“Sao nữa. Chó chết là hết chuyện…”
“Phải vậy hôn ?”
“Hơ, vậy thì sao? Thưa đi. Mà thưa ai. Người ta là cán bộ, muốn bỏ tù ai còn được nữa kìa…”
“Ờ hén !”
Buổi khuya hôm đó, dì Ba biết người đàn bà này sẽ không chết chóc gì. Nhưng lúc bà ta tỉnh dậy, đòi uống nước. Bà cầm ly nước trên tay, bàn tay run rẩy và nước sóng đổ ra ngoài. Dì Ba trách:
“Mèn ơi, cẩn thận một tí được không…”
Bà Bắc cười. Vậy là ổn rồi. nhưng nụ cười không ngừng ở đó, mà cười nữa.
“Làm cái gì vậy ? Ma bắt sao cười dữ thần vậy, má !”
Dì Ba rủa. Bực mình quá đi chớ. Bộ chuyện vui lắm sao cười ! Vậy mà bà Bắc cười nữa.
“Vui lắm sao cười hoài vậy ?”
Giọng bà Bắc như một người nào khác:
“Vui ? Cũng vui chứ “nị”. Cái đầu tui sao nó quay vòng vòng…”
“Có sao hông đây?”
Giọng Bắc của dì Ba lại đặc tiếng miền Nam. Bà Bắc đưa tay lên đầu xoa xoa, ly nước cầm một tay lại sánh ra ngoài.
“Chị nói cái “rì” thế !”
“Cái mả bố bà. Vớ vẩn .”
“Hi hi, cái mả bố. Mả bố… mả bố…
Dì Ba mở to mắt ngạc nhiên. Dưới ánh sáng của ngọn đèn từ phòng sau, nơi làm kho dọi tới, khuôn mặt bà Bắc đã như một người nào khác lạ. Vẻ khắc khổ, hờn oán đã tiêu tán mất đâu rồi. Trông cái mặt nghệch ngạc, cái miệng có hẳn nụ cười chớ không chỉ hở hàm răng hô. Vừa ngạc nhiên vừa sợ hãi, dì Ba nạt:
“Nói cái gì vậy hả ? Điên rồi hả ?”
“Ai điên ?”
Nói xong, bà Bắc ôm mặt. Ly nước bà đòi uống chưa có một giọt vô miệng.
“Đau đầu quá, tui ngủ…”
Bà Bắc nằm xuống, quay mặt vô tường, im lìm. Dì Ba lắc đầu. Lôi cái chăn cũ, bà trải ngay dưới chân ghế bố, đặt lưng xuống. Kệ chuyện gì xẩy ra, còn ngày mai mệt nhọc đang chờ. Hễ mở mắt ra là thấy khổ ! Chiếc ghế bố rung lên. Thì ra, bà Bắc cũng không ngủ.
Sau bữa “đụng độ” ít lâu,  suốt ngày bà Bắc lân la bên con Quê và thằng “bò lai,” trở thành “thím Bắc” của xóm bụi. Con Quê lại thêm một miệng ăn.
Dì Ba sau đó nói phóng lên là bà Bắc khùng khùng. Khùng gì đâu. Chị Thìn cãi. Khùng gì mà khôn quá chừng. Đi qua đường biết tránh xe, bế con cho con Quê, biết rửa ráy, lau cứt đái cho thằng nhỏ gọn ghẽ.
Chiều ba mươi tết năm ấy, Bảy Cà Tong nấu một nồi cơm nếp. Con Nết gặp mối sộp, ra chợ Cũ mua hai con vịt quay. Nước lạnh do mụ Cùi mang từ máy nước. Chị Thìn và con Kiểm góp gói đậu phọng nấu với mấy củ khoai lang.
Ăn tết vui vẻ, dân bụi chọc thím Bắc:
“Nó “nấy” chồng của thím, thím không đánh chết cha con đĩ đi…”
Thím Bắc lắc đầu, trề môi:
“Mình khôn rồi, không ngu tranh thủ nữa.”
Rồi thím cười:
“Cho nó hầu chết mẹ luôn !”.
Đầu năm, thấy “chồng cũ” chở con mẹ “giành chồng” xuất hành,  thím chỉ đứng nhìn theo với ánh mắt hiền lành, với cái miệng cười quá khổ không thể khép lại nữa.
NHÃ CA