Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.
Showing posts with label DinhDienCAISAN. Show all posts
Showing posts with label DinhDienCAISAN. Show all posts

Wednesday, 5 October 2016

CÂY SỐ 13 MỚI ĐÚNG (KHÔNG PHẢI CÂY SỐ 15 NHƯ TG GHI)./-TCL



Cây Số 13 thuộc ấp Hòa Bình, xã Mông Thọ, là một đoạn đường trên LTL 8A, cách Rạch Giá 13Km, thuộc xã Mông Thọ, quận Kiên Tân, tỉnh Kiên Giang. Từ hướng Long Xuyên đi về Rạch Giá, bên phải Cây Số 13 là ấp Tà Keo, xã Mỹ Lâm, quận Kiên Thành, bên trái là Kinh Nước Mặn, kế xã Giục Tượng, cũng thuộc quận Kiên Tân. Việt Cộng sau khi vượt qua Cây Số 13, theo Kinh Nước Mặn, đi về hướng Kiên Bình, xuống Miệt Thứ (Xin xem lại trong bài Chị Sứ – Hòn Đất), về hướng quận Hiếu Lễ, về U-Minh, mật khu Việt Cộng.
            Như tôi đã nói trong bài trước, quân Cộng Sản Bắc Việt từ Kampuchia qua mật khu Trà Tiên, di chuyển dọc theo kinh Kháng Chiến, tới Tà Keo thì dừng lại, chờ tình hình thuận tiện sẽ vượt qua Cây Số 13. Tiến trình chuyển quân nầy chỉ có đi mà không về, có nghĩa là quân từ Kampuchia qua, bắt buộc phải vượt Cây Số 13 để tiến về U-Minh. Chúng không thể dừng lại ở Tà Keo lâu vì rất nguy hiểm, có thể bị quân đội Cộng Hòa tấn công, bị pháo kích và nhất là thiếu tiếp tế, không đủ cơm gạo để trú ẩn lâu dài.
Khi quân Việt Cộng về đông, những gia đình có liên hệ với Việt Cộng ở xã Mỹ Lâm, ở Nam Thái Sơn được vận động nấu bánh tét để tiếp tế cho bộ đội. Nhà nào nấu bánh tét nhiều mà không có kỵ giỗ gì cả, có nghĩa là nấu bánh tét tiếp tế cho Việt Cộng. Việc nầy, chỉ có thể nhờ đồng bào (Tình báo nhân dân) báo cho biết. Những gia đình nấu bánh tét, họ không cất dấu trong nhà. Họ buộc bánh tét lại với nhau rồi dòng xuống kinh, vừa che mắt Quốc Gia, vừa giữ bánh tét cho được lâu vì dưới đáy kinh, nhiệt độ thấp, lạnh, bánh khỏi bị hư. Tập kết ở Tà Keo ít hôm, rồi Việt Cộng cố sống cố chết vượt qua Cây Số 13, hướng về U-Minh.
            Trước khi quân Mỹ tham chiến (Cũng như sau nầy khi Mỹ đã rút quân), Hải quân VNCH chưa phát triển (Sau hiệp định Genève 1973, có phát triển cũng bằng không vì bị hạn chế dầu, tàu bè nằm ụ một chỗ), Cộng Sản Bắc Việt tiếp tế vũ khí, đạn dược cho U-Minh bằng đường biển.
Ghe Bắc Việt giả dạng như ghe đánh cá miền Trung (Cũng thường vào đánh cá ở vịnh Thái Lan), từ ngoài bắc vào quanh quẩn ở hải phận quốc tế. Khi tình hình ở U-Minh yên ổn, không có quân đội Cộng Hòa hành quân, không có tàu Hải quân tuần tiểu, Việt Cộng ở đây, bằng phương tiện của họ, “báo cáo lên trên”. Vậy là đài phát thanh Hà Nội cho phát ra một bản nhạc đã qui định trước. Ghe Bắc Việt khi nghe bản nhạc đó liền từ từ tiến vào bờ. Trên bờ biển U-Minh có cả chục cửa sông. Theo dấu hiệu, ghe vào bờ và cho chuyển hàng hóa xuống. Đây chỉ là con đường vận chuyển hàng hóa quân sự, còn vận chuyển người, phải theo đường giây 1-C.
Đường giây 1-C có từ cuộc chiến tranh trước (1945-54). Trong chiến tranh Đông Dương lần thứ hai (1960-75) con đường nầy thay vì đi xuyên qua Dinh Điền Cái Sắn thì phải bẻ ngoặt xuống hướng xã Mông Thọ, vượt qua LTL 8A ở Cây Số 13. Chỗ nầy, Cây Số 15 là chỗ thắt họng quân Việt Cộng.
            Khi tôi về phục vụ ở Cái Sắn, cứ vài đêm lại nghe báo cáo Việt Cộng vượt qua Cây Số 13, từ hướng Tà Keo, về xã Giục Tượng. Trách nhiệm là trách nhiệm chung: Tiểu khu, Chi khu, Cảnh Sát Đặc Biệt, Võ Trang Tuyên Truyền, Thám Sát Tỉnh… hơi đâu mà lo!
            Thế rồi có lệnh khiển trách của Tướng Nam ít lâu sau khi Tướng Nam thay Tướng Nghi: Tại sao để cho Việt Cộng vượt lộ ở Cây số 13?
Việt Cộng muốn vượt qua lộ, phải có giao liên. Vậy trước hết, phải quét cho sạch giao liên, Việt Cộng sẽ gặp khó khăn. Vậy là các cơ quan an ninh có trách nhiệm họp bàn, lật hồ sơ nghiên cứu: Hồi chánh viên, Cựu can phạm, gia đình có thân nhân thoát ly ở trên đoạn Cây Số 13, ai bị hồ nghi là “vớt” về, điều tra, khai thác. Nhất là trong chiến dịch F-6, sau khi ký hiệp định Ba-Lê 1973, “vớt” không ít người vì chỉ cần có một bản tin là đủ, không cần phải có đủ ba bản tin như thường lệ.
Vậy mà Việt Cộng cứ qua sông. Bên nầy sông, phía lộ, không nhà nào treo đèn, ra dấu hiệu có hay không có Quốc Gia phục kích thì bên kia kinh, Việt Cộng đâu dám qua. Vậy mà nó vẫn qua. Lạ nhỉ?! Thế rồi một đêm Việt Cộng vượt qua ngay nhà anh Hiển, tài xế của tôi. Vậy là tài xế nầy Việt Cộng nằm vùng, hoặc gia đình nó làm giao liên cho Việt Cộng. Xem đi xét lại, không thể, không thể có chuyện đó. Không phải vì nó là tài xế của tôi mà tôi bênh nhưng các bên có trách nhiệm cũng suy nghĩ như tôi. Chỉ có thể có một kết luận: Tụi nó liều mình vượt qua Cây Số 13.
            Một bữa lính tôi đi phục kích. Thay vì phục ngay Cây số 13 thì trung đội trưởng cho dịch lên phía trên một chút. Ấy là đã đi phục kích mà còn sợ đụng địch. Tránh xa một chút để “Quân ta rút lui hoàn toàn vô sự”. Nhằm bữa đó, Việt Cộng cũng vượt lộ dịch lên phía trên một chút, tránh ngay Cây Số 13 để khỏi đụng với Quốc Gia. Ấy là “Thiên bất dung gian”, hai bên “Tao Ngộ Chiến”. Nửa khuya, một anh lính tôi đang nằm trên võng, mơ mơ màng màng, bỗng có một bóng đen đầu đội nón cối tới sát bên, cúi xuống hỏi: “Sao đồng chí…” Chưa dứt câu thì lính tôi nổ súng vì anh ta đã mở khóa an toàn sẵn và đang kẹp súng bên hông. Tên Việt Cộng ngã xuống và rồi súng hai bên nổ như bắp rang. Việt Cộng vừa bắn hoảng vừa chạy qua lộ. Lính tôi thì rải đạn như mưa, bất phân trúng trật, miễn sao thời gian qua cho lẹ rồi rút quân về. Tên Việt Cộng bị giết, ngã xuống tại chỗ, để lại cây AK báng xếp. Súng bị quân ta tịch thu. Trung đội trưởng yêu cầu tôi đề nghị thượng cấp ban khen cho anh lính lấy được súng. Thấy câu chuyện có vẻ khôi hài, tôi bèn nói:“Chuyện nầy như chó ngáp phải ruồi, phải chi gan lì mới hay! Không lý tôi ghi trong phiếu trình rằng anh ta “chiến đấu anh dũng, kiên cường dũng mãnh” nên lập được chiến công.” Tuy nói vậy, tôi cũng nói với ban nhân viên lập phiếu đề nghị khen thưởng cho anh ta.
            Trước khi tướng Nam làm tư lệnh quân khu, việc ngăn chận quân Việt Cộng qua lộ 13 chỉ thực hiện tà tà. Nghĩa Quân, Địa Phương Quân, Cảnh Sát, Võ Trang Tuyên Truyền thỉnh thoảng phục kích kiếm công tác. Hễ lực lượng Việt Cộng ít hơn, ngang bằng, “ăn” được thì nổ súng. Hễ tụi nó đông quá, cấp tiểu đoàn hay hơn thì nằm im, chém vè, v.v… Tôi cũng có lần “nằm im” chịu trận như vậy.
Trong các lực lượng phục kích ở đây, trung đội Võ Trang Tuyên Truyền của Ty Chiêu Hồi hoạt động tương đối có kết quả vì phần đông họ là “dân chiêu hồi” nên rất rành rẽ phương hướng, cách thức di chuyển, hoạt động của Việt Cộng. Do kinh nghiệm đó, họ có những chiến thuật, cách phục kích rất hữu hiệu. Tuy nhiên, so với lực lượng Thám Sát Tỉnh (Prou), họ còn thua.
Một hôm tôi gặp Ba Hà ở Dàm Rầy, ông ta đang ngồi uống caphê, chờ ai đó… Ba Hà là đại úy đồng hóa, chỉ huy Thám Sát Tỉnh. Thám Sát Tỉnh là một lực lượng ăn lương Mỹ, được Mỹ trang bị vũ khí và khí cụ quân sự khá hiện đại, nhưng thuộc hệ thống Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát tỉnh.
Kể về kinh nghiệm chống Cộng thì Ba Hà khó đứng sau thiên hạ. Thời tổng thống Ngô Đình Diệm, ông ta là xã trưởng xã Đức Phương (Vàm Rầy), quê hương ông chủ Ry và chị Tư Nết. Từ đó, ông ta đi dần lên, chỉ huy đơn vị Thám Sát Tỉnh, đồng hóa “loon” đại úy nhưng không bao giờ ông ta đeo “loon” hay mặc quân phục. Thám Sát Tỉnh là lực lượng hầu hết là Việt Cộng hồi chánh, còn trẻ, gan dạ, kinh nghiệm như binh lính bên Trung Đội Võ Trang Tuyên Truyền nhưng đánh giặc chì hơn, ngon hơn.
Biết nhau từ những lần họp hành, gặp Ba Hà, tôi hỏi:
– “Anh tính lang thang vô đây mần tụi nó hay sao?”
Ba Hà cười:
– “Chỗ nầy không ngon. Tui cho lính tui vô tuốt trỏng.”
Vừa nói, Ba Hà vừa đưa tay chỉ về hướng đông bắc, hướng Tà Keo.
Ba Hà cho lính vào Tà Keo thật. Không cần đông, chỉ năm bảy lính. Họ giả trang Việt Cộng, mặc bà ba, mũ tai bèo, mang hồng ngoại tuyến, mìn claymore, v.v… Nhờ hồng ngoại tuyến, họ thấy và tránh xa những điểm gác của Việt Cộng, rồi lẻn vào tận bên trong.
Cả đám nón cối, nón tai bèo đang mắc võng nằm ngủ (Dưới đất toàn là nước và sình). Thám Sát Tỉnh gài mìn claymore, gài giờ nổ, rồi rút ra xa ngồi chờ. Thế rồi bên trong mìn nổ ì xèo, bọn Việt Cộng canh gác phía ngoài thấy bên trong bị tấn công cũng chém vè, chạy luôn. Ngày hôm sau, Thám Sát tỉnh ngồi chờ dân đi làm đồng về báo cáo cho hay: Áo quần, mũ nón, balô bay tung lên ngọn tràm, võng không kịp tháo, máu me tùm lùm. Việt Cộng phải rút ngược về kinh Kháng Chiến, chờ ở đó vì Tà Keo, điểm tập trung đã bị động ổ. Có lẽ trận nầy, Ba Dũng (Nguyễn Tấn Dũng) cũng hoảng hồn, chạy trối chết.
Sau nầy tôi còn gặp Ba Hà một lần nữa, tại Đức Phương. Ba Hà và tôi đọc bản đồ, chấm toạ độ chỗ Việt Cộng đang dừng quân trong rừng tràm để cho đơn vị Thám Sát vào quấy rối hoặc báo cho Biệt Khu 42 Chiến Thuật cho pháo chụp.
Ba mươi tháng Tư /75 Ba Hà kéo vô rừng, thế chỗ Việt Cộng, không chịu đầu hàng theo lệnh Dương Văn Minh. Ông ta cùng lính tráng, hợp với lực lượng của trung tá Thảo Hà Tiên, quần nhau với Việt Cộng mấy trận nữa. Có người nói với tôi khi bọn Khmer Đỏ tấn công nhà máy Ximăng Hà Tiên, có mặt Ba Hà trong lực lượng chúng. Điều nầy không chắc lắm, nhưng kể từ khi Cộng Sản Việt Nam tấn công qua Phnom Pênh năm 1979 thì ở Kiên Giang không ai còn nghe tin tức gì về Ba Hà và cả trung tá Thảo nữa.
Trở lại chuyện Cây Số 13, khi không còn hạ tầng cơ sở, không còn giao liên, Việt Cộng liều mạng vượt qua lộ. Bấy giờ bọn chúng không di chuyển ít người, dễ bị Quốc Gia phục kích. Hễ mỗi lần vượt lộ là chúng vượt hàng trăm, ít thì vài ba trăm, nhiều thì năm bảy trăm. Nhìn dấu ghe in trên mặt lộ khi chúng kéo ghe qua lộ có thể đoán lực lượng địch hôm qua di chuyển qua đây là bao nhiêu bởi vì vùng nầy là vùng nước và sình, Việt Cộng phải di chuyển bằng ghe. Tụi nó cũng khôn, trước khi vượt lộ, chúng trải một tấm nylon lớn từ bên nầy qua bên kia mặt lộ. Qua xong, cuốn tấm nylon đem cất, không để dấu vết làm sao biết chúng đông ít. Dễ thôi, không nhìn trên mặt lộ thì nhìn hai bên bờ lộ, chúng cũng để  lại dấu tích vậy. Không phải Việt Cộng để dấu ghe lại một chỗ mà nhiều chỗ, trên một đoạn đường dài. Cứ nhìn dấu một chỗ mà đoán bao nhiêu ghe, mỗi ghe khoảng năm bảy tên. Cứ thế mà nhân lên.
Khi đơn vị Cộng Sản Bắc Việt tới Tà Keo và chuẩn bị vượt lộ, chúng phải theo sự hướng dẫn của du kích, hạ tầng cơ sở xã Mỹ Lâm, dĩ nhiên trong số có Ba Dũng. Khi tới bờ kinh Cái Sắn, phía bên kia, du kích chia làm hai toán, mỗi toán khoảng ba bốn tên. Chúng cởi quần bà ba, nhúng ướt làm phao để bơi qua kinh, rộng khoảng 30 mét. Một toán bơi lên phía trên làm nút chặn phía trên, toán thứ hai ở phía dưới. Nếu thấy êm, chúng ra dấu hiệu cho “đại quân” vượt qua lộ ào ào, phải nhanh chớ không thì nguy hiểm.
“Quân ta” phục kích, thấy Việt Cộng đông quá thì nằm im. Nhưng chờ khi chúng qua xong thì gọi máy báo về chi khu Kiên Tân. Chi Khu đoán chừng Việt Cộng đang di chuyển ngang qua đâu thì cho pháo chụp. Không ít lần chụp trúng ngay đầu chúng. Một lần hoảng quá, Việt Cộng chạy tán loạn, một toán chạy vào trốn ở nhà thờ Kinh 7, thuộc xã  Thạnh Đông, gần xã Giục Tượng. Buổi sáng sớm, trời chưa rạng, giáo dân đi nhà thờ, đang cầu kinh thì Việt Cộng vô chiếm nhà thờ. Bọn chúng không bắt ai hết, chỉ kiếm… cơm ăn. Thế rồi quân ta kéo tới, bao vây phía ngoài lộ LTL 8A, để hở phía Thạnh Tây cho Việt Cộng rút lui. Vây kín quá, “ngựa tới đường cùng, đá ngược”, hao quân! Đồng thời cho pháo binh bắn cầm chừng, khủng bố tinh thần chúng. Linh mục kinh 7, ông nầy còn trẻ lắm, từ nhà thờ kinh 7 lội ra, than phiền rằng nhà thờ bị pháo, “hư hết!” Hư hết là nói thêm vào để nhà thờ đừng bị pháo chứ hai cây súng 105 ly đặt ở kinh 8 đã được lệnh chỉ pháo vòng ngoài nhà thờ,  phía ruộng mà thôi.
Tôi nói với ông linh mục trẻ: “Ông tỉnh trưởng đang ở ngoài lộ. Cha ra khiếu nại với ông đi! Ty Xã Hội sẽ “bồi thường chiến tranh” cho.”
Hồi đó, Mỹ có cho Ty Xã Hội quỹ “bồi thường chiến tranh”, ngon lành lắm. Hễ nhà nào bị pháo kích hư hại, không cần biết bên ta hay bên địch bắn, Ty Xã Hội sẽ bồi thường 40 ngàn và 20 tấm “tôn” lạnh, loại của Úc. Nhà dân còn thế, huống chi nhà thờ, chắc sẽ bù cao hơn. Ông linh mục chỉ có lời, không có lỗ.
Cũng vì việc “bồi thường chiến tranh” kiểu nầy mà ghế trưởng ty Xã hội bị người ta tranh nhau dữ và vài ba ông trưởng ty bị mất chức. Ở Hòn Chông (Chùa Hang) thuộc xã Bình Trị, chẳng hạn. Ty Xã Hội và xã trưởng Bình Trị (Hòn Chông) Nguyễn Vĩnh Xương phát tiền bồi thường chiến tranh cho dân. Thay vì 40 ngàn thì người dân chỉ nhận có 35 ngàn, trừ 5 ngàn để phái đoàn “ăn trưa và giải khát.” Dĩ nhiên người dân ký nhận 40 ngàn và cũng OK vì tiền nầy coi như tiền trên trời rớt xuống. Thay vì 20 tấm “tôn” lạnh thì dân chỉ nhận 16, hoặc 17 tấm vì “tôn chưa về kịp”, để “dịp sau” phát tiếp. “Dịp sau” cũng tương tự chuyện “Mai Ăn Khỏi Trả Tiền” trong sách 100 bài tập đọc lớp Nhì lớp Nhất hồi học ở Tiểu Học.
Dĩ nhiên, hôm đó, nửa khuya, Việt Cộng rút đi. Thế mà cũng chưa xong. Vài tháng sau, họp “lượng giá ấp” ở tỉnh. Ấp Kinh 7 thuộc xã Thạnh Đông, quận Kiên Tân đang từ loại A (không có Việt Cộng, không có chiến trận), bỗng tụt xuống loại D, hạng bét, xã Thạnh Đông bị mất điểm.

Tuesday, 4 October 2016

TÀI LIỆU VỀ ĐẤT ĐỊA KIÊN GIANG TRƯỚC 1975./-TCL





Chuyện Dinh Điền Cái Sắn cũng là chuyện dài “Nhân Dân Tự Vệ”, dài dòng lắm. Tuy vậy, trước khi vào Cái Sắn, xin mời độc giả đi lòng vòng, trước hết là qua xã Tân Hội, rồi sau về xã Mông Thọ, nói chuyện cờ bạc trong Nam.
            Dân Miền Nam mê cờ bạc “hết ý”. Cách chi cũng đánh, chẳng ngán cò bót, quận tỉnh, lính làng, lính lệ…
            Ở xã Tân Hội, cờ bạc là “truyền thống” của xã, đánh bài từ ông xã trưởng cho tới đứa con gái nhỏ mười một, mười hai tuổi, con nhà nghèo tay làm hàm nhai.
            Buổi sáng, ông Bảy Quẹo (Nguyễn Văn Quẹo), Xã Trưởng xã Tân Hội, thức dậy không sớm cũng không muộn. Sau khi đánh răng, súc miệng xong, ông bỏ cái mộc (Gọi là mộc nhưng con dấu xã trưởng làm bằng đồng. Gọi mộc là theo thói quen vì hồi xưa nó được làm bằng mộc) vào túi áo pijama, ra quán caphê làm một cốc “xây chừng” (Càphê đen nhỏ – tiếng Tàu) hay “xây nại” (càphê sữa nhỏ). (“Tài chừng”, “tài nại” (tài là vừa, không lớn không nhỏ. Vùng nầy người Tàu đông, thường nói pha tiếng Việt với tiếng Tàu, hia là anh (thay vì huynh, chế là chị, thay vì tỉ).
Đàn ông vùng nầy, thường mặc áo bà ba, quần xà-lỏn. Khá giả thì mặc Pijama, có hai túi trên. Túi ngoài thì để một ít tiền. Túi trong (phải mở hột nút ở ngực mới lấy ra được) là một túi bạc lớn, hàng chục ngàn.
Uống caphê xong, ông Bảy Quẹo đi dọc theo con đường xã (Con đường nầy chạy dọc theo kinh Núi Sập). Xã Tân Hội có bốn ấp nằm dọc con lộ nhỏ nầy. Cứ cách khoảng vài trăm thước thì có một sòng “bầu cua cá cọp” nằm bên đường. Chủ sòng là người trong ấp, đàn ông, đàn bà, con gái, v.v… có ít đất ruộng.
Khách chơi bài gồm đủ hạng, phần đông là đàn bà con nít. Người có máu mê thì ngồi mãi không về, người ít máu mê hơn thì ngồi một lúc rồi về làm việc nhà. Thậm chí có cả những chị, tay bồng con, tay đánh bài. Con nhỏ có khóc thì phát vào đít nó một cái bẹp mắng: “Mẹ mày lên! Tao đang thua.” (Có thể là tao đang “hên” – hên tức là hưng – phát âm theo Nam Bộ). Bất cứ sòng nào, Bảy Quẹo cũng xệ vào một chút, đánh vài chục, năm chục, vài trăm, tùy theo sòng ăn thua lớn nhỏ. Xong một vòng các ấp, Bảy Quẹo về tới trụ sở xã tọa lạc ở khoảng giữa bốn ấp. Lúc ấy cũng đã trưa.
Trụ sở xã cũng chẳng có ai. Phó xã, Thư ký, Hội đồng xã, đều ở nhà, chỉ có một mình Bảy Quẹo tới xã mà thôi. Nếu ai có việc gì tới xã mà không gặp xã trưởng, ra đường hỏi thăm coi ông ở hướng nào, hướng trên (Phía Long Xuyên) hay hướng dưới (Phía Tà Keo) thì tìm tới. Chìa cái giấy ra nói “năm điều ba chuyện” với xã trưởng chơi trong khi Bảy Quẹo đặt tờ giấy lên bắp đùi ký tên rồi đóng dấu, chẳng đọc tới tờ giấy nội dung nói gì. Người đưa giấy đã nói nội dung cho ông ta nghe rồi, cứ thế ông ta ký tên, không thắc mắc!
Nếu cứ để cho xã đánh giặc thả dàn, không cấm, không bắt thì dân xã sẽ bầu ông Bảy Quẹo làm “Xã Trưởng muôn năm”, còn hơn cả “Hồ chủ tịch muôn năm” hay “Ngô tổng thống muôn năm”. Thật đấy, người dân địa phương chưa từng thấy “Hồ chủ tịch” hay “Ngô tổng thống”. Họ thấy xã trưởng Bảy Quẹo mỗi ngày. Ông ta vui vẻ, ai cần gì ông giúp nấy thì “muôn năm” ai chi cho xa. Bầu ông ta làm xã trưởng muôn năm là điều người ta thấy rất khỏe. Có lẽ chưa có một chính quyền nào trên thế giới “khỏe” như cái chính quyền nầy!
            Bảy Quẹo không ăn tiền dân, thậm chí cả tiền “Phát Triển Cộng Đồng” là tiền chính phủ cấp cho để thực hiện những công tác nhỏ như đắp đường, đắp đập, đào kinh, v.v… Bảy Quẹo không bị mang tiếng. Giữa nhà thầu và ông Phó Quận Lê-Văn Gieo muốn làm sao thì làm, Bảy Quẹo không quan tâm bởi vì Bảy Quẹo có một nguồn lợi lớn hơn nhiều lắm. Năm ba chục ngàn ăn cắp từ các công trình trên để chia nhau, Bảy Quẹo không liên quan tới. Suốt mấy năm làm xã trưởng, Bảy Quẹo không bị điều tra hay mang tiếng về tham nhũng.
Nguồn lợi lớn của Bảy Quẹo tôi nói ở trên là gì?


Làm ruộng.
Phía tây xã Tân Hội của Bảy Quẹo là đồng Huệ Đức (Quận Huệ Đức – Long Xuyên). “Đồng Chó Ngáp” so ra cũng chẳng nhằm nhò gì với đồng Huệ Đức. Đồng nầy bị hoang hóa trong chiến tranh. Cũng có nhiều khu vực chưa khai thác. Ai đủ sức thì cứ cày lên mà trồng lúa. Nông dân có máu mặt ở thị xã Rạch Giá cùng dân xã Tân Hội hè nhau làm ruộng ở đây. Ít thì cũng vài trăm mẫu, nhiều thì cả ngàn mẫu. Người nghèo chẳng thèm làm ruộng bởi vì đi làm công cho chủ ruộng cũng đủ ăn chơi bốn mùa.
Tôi nhớ trong “Tìm Hiểu Đất Hậu Giang”, Sơn Nam có kể chuyện một anh chàng ở Rạch Giá trồng một mùa dưa hấu đủ ăn chơi cờ bạc suốt một năm. Ở đây cũng vậy. Làm vài trăm mẫu, dư sức chơi đùa cờ bạc cả năm. Thấy món lợi lớn, tỉnh trưởng Kiên Giang hồi cuối thập niên 60 đầu thập niên 70, chỉ “hùn miệng” với chủ ruộng, cũng có tiền tiêu. Tới mùa cày, xe máy cày ở xã hoặc từ Long Xuyên về đây cày ì-xèo suốt mùa. Ông thượng sĩ Nguyễn Văn Sâm, Trưởng Cuộc Cảnh Sát xã Tân Hội hồi ấy, nói với tôi: “Tôi chỉ cần cung cấp dầu cặn cho máy cày, cũng dư tiền tiêu, khỏi ăn tiền tụi quân dịt quân gà.” (1)
Máy cày chạy suốt ngày đêm, 24 trên 24. Tài xế lái máy cày thay nhau cầm lái mới chịu nỗi. Xe máy cày chạy một ngày một đêm hết một “phuy” dầu di-e-zel. Ông ta chỉ cần ưu tiên cung cấp dầu cho vài chục xe máy cày là có tiền tiêu.”
Tôi hỏi: “Bên đó cở mấy chục xe máy cày?” Ông ta cười: “Vài trăm.”
Dầu cặn nầy mua đâu ra?
Ở cây xăng kế Chợ Kiên Tân.
Bà chủ cây xăng ngay tại chợ Kiên Tân đưa cho tôi xem tấm “cạc” to bằng nửa trang giấy tập học trò. Trên góc trái ghi như sau, bằng chữ in:
Linh Mục Antôn Nguyễn Bá Lộc
Chánh xứ Kinh 1 Hà Nội.
Hiệu Trưởng trường Trung Học Kinh 1 Hà Nội.
Phần còn lại, Linh mục L. viết tay:
“Thưa quý vị. Tôi có chở một số xăng cho nhà chung. Xin quí vị giúp đỡ.”
Ký tên và không đề ngày.
Tấm “cạc” xếp đôi. Chỗ đường xếp gần rách. Điều đó chứng tỏ bà chủ cây xăng xử dụng nó rất nhiều lần để đi đường. Đường bà ta đi là từ đâu đến đâu? Xin thưa: Chở bằng xà-lan, từ kho xăng dầu của Bộ Chỉ Huy 4 Tiếp Vận Quân Khu 4 về tới cây xăng của bà ấy ở kế chợ Kiên Tân. Từ đó, qua Tân Hội xăng dầu phải chở bằng ghe, trẹt.
Đó là việc của nhiều người, trong đó có thượng sĩ Sâm như tôi nói ở trên. Không ai dám bắt những xà lan chở hàng trăm “phuy” xăng dầu như thế nầy.
Phần nhiều xăng thì cho máy đuôi tôm và dầu cho máy cày. Bắt là đụng đến“Le Roi et trois seigneurs” ở Cần Thơ, là đụng đến bà cô của “Chị Tư Nết” nhà bên kia kinh Cái Sắn, ngang chợ Kiên Tân, là đụng đến “Cha Lộc”, người mà Nguyễn Tấn Đời, ông Thiệu ông Kỳ khi ra ứng cử đều đáp trực thăng đến thăm ông và chụp hình kỷ niệm.
Ai ba đầu sáu tay, ai đội nón sắt, mặc áo giáp, muốn vô thì cứ vô cho biết mùi đời. Trong số những người liên hệ đến vụ xăng dầu nầy, tôi nghĩ thượng sĩ Sâm là người lương thiện nhất. Ông ta chỉ có cái tội: Chủ ruộng mua dầu của ông vì nể tình ông ta là trưởng cuộc cảnh sát ở xã đó.
Ngoài nguồn lợi làm ruộng, dân Tân Hội cũng như Bảy Quẹo có một nguồn lợi khác cũng khá lớn: Làm cá. Có hai đánh bắt cá: Đặt lợp, giăng câu, cất vó… và đặt chà. Dọc theo kinh Núi Sập (Từ Núi Sập Long Xuyên ra biển, chảy dọc xã Tân Hội), người tặt hàng chục đống chà. Chà là những cành cây chất thành đống bên bờ kinh để cá làm chỗ ngủ, nghỉ, núp nắng… Muốn đặt chà, người ta phải làm nền, tức là chỗ đáy kinh nền chà phải san phẳng, rồi để chà lên. Tới mùa cá, nhất là khi nước bắt đầu rút, cá từ trên Miên đổ về, chủ nhà vây lưới vớt chà, bắt cá. Vùng Tân Hội là vùng nước lợ (chỗ nước ngọt đụng với nước mặn từ vịnh Rạch Giá lấn vào), cá từ trên Miên theo sông Hậu về, từ nước ngọt đụng nước mặn nên dội ngược lại, tập trung ở đây rất nhiều, nguồn lợi rất lớn. Đây là loại cá đồng: lóc, rô… còn lươn thì thường bắt ở trong ruộng. Lươn ở đây có con to bằng cổ tay người lớn.
Có lần tôi hỏi Bảy Quẹo: Giá mỗi đống chà là bao nhiêu? Bảy Quẹo trả lời: “Hai chục ngàn.” Theo thời giá, hai chục ngàn là bằng lương một sĩ quan đông con.
Mấy ông chủ ruộng nầy “chịu chơi” lắm. Nghe tôi về Cái Sắn, được hơn tuần, Bảy Quẹo tới thăm, trước mặt mọi người, rút đưa cho tôi hai chục ngàn, nói là “Để ông uống càphê chơi”. Tôi đùa: “Uống caphê gì nhiều dzậy ông? Uống sao hết!” Ông ta cười, tính bỏ đi. Tôi hỏi: “Có cần tui giúp đỡ chi không?” Ông ta trả lời ngay: “Không!”
Ông ta có nhờ đấy. Tới mùa gặt, trưởng ban hành quân nói với tôi: “Đang mùa gặt, mấy ông chủ ruộng xin mình đừng hành quân bên Tân Hội!”
“Sao vậy?” Tôi hỏi.
Trưởng ban hành quân trả lời: “Tụi nó sợ, bỏ trốn hết, ai gặt lúa cho mấy ổng. Gặt không kịp, lúa rụng hết, mấy chã lỗ to.” Té ra bọn thợ gặt phần đông là bọn trốn “quân dịt quân gà”.
Tám Dè (Vè – Huỳnh Văn Vè), chủ ruộng ở Tân Hội, nhà ở thị xã Rạch Giá, thường hay kéo rê về Kiên Tân và Tân Hội chơi. Nhà ông ta ở Tân Hội là cái nhà tôn nhỏ, còn nhà ông ta ở Rạch Giá là nhà lầu ba tầng. Bên cạnh cái nhà tôn ở Tân Hội, có cái nhà tôn lớn. Đó là nhà chứa máy cày của ông. Ở Tân Hội, khoảng vài chục chủ ruộng có máy cày như ông Tám Vè, chưa kể nhiều người như Võ Văn Minh tự Út Giàu có cả xe GMC để chở lúa. Xe nầy chỉ chạy trong ruộng, không cần bảng số công chánh.
Một hôm tôi gặp nạn!
Một phái đoàn gần chục người đến thanh tra tôi, lại gợi ý ăn nem chả Kiên Tân nổi tiếng ngon, nhất là tiệm nem chả Kinh B. Thanh tra xong, – cũng chỉ thanh tra chiếu lệ -, tôi mời ra tiệm Tầm Hương Quán là tiệm nổi tiếng ngon ở chợ Kiên Tân. Đãi phái đoàn ăn mà bụng tôi đánh lô tô. Bữa tiệc cũng phải từ 15 đến 20 ngàn, gần nửa lương tháng của tôi. Kiếm đâu ra? Tôi là dân đánh giặc dưới ruộng, ở nhà quê, có gì mà phải sợ ai? Nhưng lâu lâu người ta đường xa về, “yêu cầu” bữa cơm, không lý từ chối, không lý cho ăn cơm muối, bèn bấm bụng chịu trận.
Sau khi tôi tiễn phái đoàn đi rồi, trở lại quán hỏi bà chủ bao nhiêu để kiếm tiền trả thì bà chủ nói: “Ông khỏi no (lo – Bà ta người Bắc, còn nói ngọng), có người chả dzồi đấy!” Tôi chưa kịp hỏi ai thì thấy bà ta nhìn ra sân cười. Tôi nhìn theo hướng đó thì thấy ông Tư Dè (Vè) nhìn tôi cười. Lúc nãy, khi tôi vừa đi ra thì ông ta vào trả tiền ngay cho tôi. Ông ta chờ phía ngoài tiệm đã lâu.
Người Bắc và người Nam ở Cái Sắn khác nhau. Hôm tôi nhận sự vụ lệnh về Cái Sắn, anh bạn cùng khóa, gốc Kinh 5, đang cư trú gần Nhà Thờ Hầm ở Saigon, nói với tôi, nói thiệt tình, không phải để hù: “Mày về Cái Sắn phải cẩn thận, dân trong kinh ra bán 10 đồng cá, cất 9 đồng mua vàng, năm chục xu ăn bún riêu, năm chục xu mua tờ giấy trắng chờ viết đơn thưa!” Tôi chỉ cười, tôi không tính tới việc “Cơm cha, áo mẹ, công thầy” để đi kiếm ăn bẩn nên tôi không ngại gì. Việc thưa kiện ở Cái Sắn, cũng có nhiều điều khá vui, tôi sẽ kể sau.


Trong việc cờ bạc, dân xã Tân Hội khá thông minh. Vì chiến dịch, cơ quan công quyền ở đây ra sức dẹp cờ bạc. Các sòng bầu cua cá cọp, lớn cũng như nhỏ, bị dẹp hết. Đó là trò đánh chơi, không quan trọng. Những sòng me của dân “cờ bạc gạo”, cờ bạc chuyên nghiệp, mới là vấn đề. Những sòng bài nầy bị theo dõi rất gắt và không ít người bị đưa ra tòa. Không đánh được trên đất, dân cờ bạc đánh trên ghe. Chiếc ghe thả trôi trên kinh, ai biết đó là ghe đánh bạc mà bắt. Nhưng rồi cũng nhờ dân chúng – Có cái gì mà dấu được dân chúng – lực lượng an ninh giả dân đánh cá, kề sát ghe đánh bạc, tóm gọn. Bấy giờ họ nghĩ ra cách khác: Đám ma, đám cưới, đám giỗ, nhà trước thì trang hoàng, bắt loa, ca nhạc ầm ĩ, v.v…. như mọi người, phía sau là sòng bài. Không lý người ta đang có đám cưới, đám ma và xông vào bắt cờ bạc! Dân không theo thì chính quyền cũng thua.
Ông Út Giàu tôi nói ở trên, có cô con gái đẹp, lại đi học may trên Saigon về, ăn mặc đúng mốt, nhiều người dòm ngó. Cô ta đang mở lớp dạy may tại nhà.
Anh trung đội trưởng nghĩa quân ở xã, có vợ rồi, ngấp nghé nhưng không được người đẹp để mắt tới, bèn quậy chơi. Ngày nào anh ta cũng tới bắt Út Giàu tổ chức nhậu. Phiền quá! Bỏ việc làm ăn, Út Giàu cự nự. Anh ta bèn báo cáo về quận Út Giàu tiếp tế cho Việt Cộng.
Thực ra, người nào có ruộng trong đồng xa mà không có quan hệ với Việt Cộng. Không đóng thuế – thuế máy cày, thuế nông nghiệp – làm sao “tụi nó” cho làm ăn?! Ở miền Đông Nam Bộ cũng vậy. Vô rừng lấy gỗ, ai cũng phải có quan hệ với Việt Cộng trong rừng. Đó là nói dân chúng bình thường, còn những người làm gỗ cho Đức Cha, bà Cố Vấn thời Đệ Nhứt Cộng Hòa thì sao, tôi không rõ, nói ra mà không có sở cứ dễ bị chụp mũ là bôi lọ.
Trở lại chuyện Út Giàu, ông ta có quan hệ gì với Việt Cộng cũng là đương nhiên, miễn là ông ta có báo cáo với chính quyền Quốc Gia những gì Việt Cộng bắt ông ta làm. Chính quyền Quốc Gia không bảo vệ được dân, khiến Việt Cộng có bắt họ làm gì thì đó chính là lỗi của chính quyền, không phải là cái “tội” của người dân. Tuy nhiên, ở hạ tầng cơ sở, mấy ai biết điều đó.
Thế rồi Út Giàu bị bắt. Tới cơ quan, ông ta chìa ra một cái giấy chứng nhận rằng ông ta là đảng viên Việt Nam Hưng Quốc Đảng của ông Hoàng Cơ Bình. Cô con gái lanh trí, biết cha mình ở vùng xôi đậu nên khi còn ở Saigon đã chạy cho cha cái bùa hộ mạng, lỡ khi chính quyền Quốc Gia có với tay tới cha mình thì cũng đỡ kẹt.
Ở Tân Hội, ngoài việc đánh bài, còn có việc “đánh giặc giả” khá buồn cười. Xã Tân Hội có 4 ấp, ấp cuối cùng phía nam là ấp Phú Hội, giáp ranh với ấp Tà Keo thuộc xã Mỹ Lâm quận Kiên Thành. Tà Keo là nơi Việt Cộng tập kết như tôi nói trong bài trước. Từ xứ Miên qua, quân Cộng Sản, thường là quân Cộng Sản Bắc Việt tập kết ở Tà Keo chờ vượt LTL 8A ở Cây Số 15. Có khi đánh nhau các nơi xong, Việt Cộng cũng rút về đây như tôi có kể trong bài “Chị Sứ – Hòn Đất”. Người chết, bị thương cũng kéo (Cột giây mà kéo trên sình) về đây. Ai chết thì chôn, ai bị thương thì đưa về bệnh viện ở mật khu Trà Tiên. Trước kia thì đưa về núi Mo-So gần nhà máy Ximăng Hà Tiên. Súng ống của người chết, bị thương vất bỏ lung tung, có khi không chuyển kịp, cất dấu bừa bãi, không kỹ. Dân làm ruộng, làm đồng tìm thấy đem về bán cho Quốc Gia, giá rẻ lắm, chỉ có vài trăm, có khi cho không. Để làm gì? Nghĩa Quân, Cảnh Sát, Cán bộ Xã Ấp, Nhân Dân Tự Vệ, v,v… thỉnh thoảng, để lập công, xin lệnh trên đi phục kích, tấn công vào mật khu, v.v…
Gần tới Tà Keo, họ nổ súng, làm như đụng trận thiệt, rồi báo cáo đụng địch, giết được mấy tên, bị thương mấy tên, địch kéo đi mất tích, tịch thu được một, hai vũ khí địch, – tức là mấy cây súng mua của dân nói trên. Thượng cấp đánh điện khen, cấp bằng khen. Đó chính là “Đánh trận giả”. Mấy ông lớn ở xa, kín cổng cao tường, đi đâu cũng tiền hô hậu ủng, biết gì! Hồi tôi mới về, qua công tác ở xã Tân Hội, bị mấy chả xỏ mũi một lần, một lần thôi, đủ rồi! Sau đó, tôi cảnh cáo thuộc cấp, đừng bày trò với tôi. Tôi không chịu đâu!
Bây giờ xin kể qua chuyện “Đánh giặc thuê”. Khoảng gần cuối năm 1974, xã Tân Hội bị Cộng Sản chiếm mất sau khi chúng đã chiếm Đặc Khu Hòn Sóc. Lính được điều tới, chuẩn bị chiếm lại xã. Cấp chỉ huy hỏi Bảy Quẹo: “Chiếm lại xã xong, ông chi cho lính tôi bao nhiêu!” Bảy Quẹo lắc đầu! Ông ta không đủ tiền chi. Bảy Quẹo khóc! Vả lại cũng chưa thấy bao giờ có cái chuyện chi tiền lạ lùng như vậy, đành chịu mất nhà, mất ruộng, mất xã cho tới 30 tháng Tư, không biết ông Bảy Quẹo lưu lạc về đâu!
Tôi đem chuyện nầy kể với một người là bậc đành anh, cùng quê, đang làm việc ở Cần Thơ, ông Đại tá Lê Cảnh Vệ. Ông ta kêu trời: “Thua Việt Cộng là chắc! Thua Việt Cộng là chắc.” Biết là chắc nên 30 tháng Tư, ông ta cùng gia đình lên tàu “dọt” khỏi Cần Thơ trước khi ông Dương Văn Minh đầu hàng. Còn tôi, người trong cuộc, lại chẳng biết mô tê gì để đến nỗi phải đóng tiền đi tù cải tạo. Có phải như vậy là tôi ngu?!
Nghĩ lại, miền Tây có nhiều cái thật lạ! Đi xa rồi cũng khó quên!
hoànglonghải
(1) Sở dĩ thượng sĩ Sâm nói câu đó vì khi tôi đề cử ông qua Tân Hội để thay trung sĩ Nguyễn Văn Hoàng, tôi có dặn: “Tránh làm những việc như ông Hoàng, dù tôi có muốn bao che cũng không được, nhất là những gì liên hệ tới Việt Cộng.” Khi làm trưởng cuộc ở Tân Hội, ông Hoàng bắt tên Quang, trốn quân dịch. Ông ta lột của tên nầy cái đồng hồ đeo tay hiệu Movado – hồi ấy rất có giá – rồi thả y ra. Ức tình, tên Quang trốn vô bưng theo Việt Cộng, sau khi làm đơn tố cáo với chính quyền. Vì lý do đó mà ông Hoàng bị mất chức.

hoànglonghải - Hương Tràm Trà Tiên