Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.

Sunday, 2 April 2023

CHẾ ĐỘ VIỆT CỘNG KHÔNG CÒN CHỖ NÀO, CÁN BỘ NÀO, NHÂN VIÊN NÀO KHÔNG LỪA ĐẢO HAY KHÔNG BUÔN LẬU... ĐỂ LÀM GIÀU TỪ TAY KHÔNG./-Mt68
_____________
Hàn Quốc triệt phá đường dây buôn lậu điện thoại di động về Việt Nam.

Click image for larger version

Name:	80c843a23cefd5b18cfe.jpg
Views:	0
Size:	14.1 KB
ID:	2200506  
Theo Yonhap News, cảnh sát tàu điện ngầm Seoul vừa bắt giam 15 người trong vụ buôn lậu điện thoại di động tuồn về Việt Nam.Ngày 2/4, các quan chức Sở Cảnh sát tàu điện ngầm Seoul cho biết, 15 người, trong đó có một người Việt Nam nhập cư bất hợp pháp, đã bị bắt vì ăn cắp điện thoại di động và buôn lậu vào Việt Nam.

Công dân Việt Nam, hiện đang bị tạm giam chờ điều tra của các công tố viên, bị nghi ngờ mua điện thoại di động bị đánh cắp với giá chỉ 200.000 won (khoảng 3,6 triệu đồng) và thu lợi nhuận khoảng 18 triệu won (khoảng hơn 323 triệu đồng) bằng cách buôn lậu điện thoại vào Việt Nam từ tháng 7/2021 đến tháng 3 năm nay, theo Sở Cảnh sát tàu điện ngầm Seoul.Cảnh sát cũng đã bắt giữ 8 người khác về tội ăn cắp và bán điện thoại cho công dân Việt Nam, và chuyển đến cơ quan công tố.

Để đặt lại các thiết bị bị đánh cắp nhằm bán chúng, cảnh sát cho biết các nghi phạm đã gửi tin nhắn văn bản cho chủ sở hữu của điện thoại, nói rằng họ đã tìm thấy điện thoại bị mất và cung cấp liên kết đến bản đồ vị trí hiện tại của điện thoại, đồng thời yêu cầu họ nhập vào thông tin đăng nhập của họ để xem bản đồ.

Ngay khi có được thông tin, những chiếc điện thoại bị cài lại, sau đó được nhập lậu vào Việt Nam thông qua các thương nhân bán lẻ và đại lý xuất khẩu. Hầu hết điện thoại bị đánh cắp đã được điều tra nguồn gốc là từ những hành khách say rượu trên tàu điện ngầm.

 TT THIỆU XIN ĐEM THEO NHỮNG NGƯỜI NẦY KHÔNG PHẢI VÌ CÔNG LAO VỚI ĐẤT NƯỚC MÀ VÌ ĐÃ ĐI THEO ÔNG LÂU NĂM - NHƯNG HÀNG TRIỆU NGƯỜI KHÁC CHIẾN ĐẤU DƯỚI CỜ VNCH MÀ KHÔNG GẦN GŨI TT THÌ SAO ??? ĐÚNG LÀ NHỨT TƯỚNG CÒN SỐNG MẶC KỆ VẠN CỐT KHÔ. Thà là các ông ấy tự trốn đi còn hơn can thiệp như vầy thì phe đảng trắng ba trợn quá!!!!!!!./-Mt68



 Mt68: CHÚNG TÔI TIN CHÚT CHUYỆN BÊN LỀ LỊCH SỬ NẦY LÀ HOÀN TOÀN THẬT- Một chút sư thật khác; Cụ Hương có người con trai trưởng tên là Trần Văn Dõi (Tên VC là Lưu Vĩnh Châu), ra Bắc nhận tiếp liệu đạn dược cho Việt Minh trước 1954 và khi ký kết hiệp định Genève thì ở lại Bắc luôn, tới mãi sau 75 mới vô sài gòn. 

Đây là 1 trong hàng hàng, lớp lớp công chức, quân nhân VNCH, chức to, chức nhỏ đều có, khắp cơ quan, khắp quân đội, khắp hang cùng, ngỏ hẹp ... đều có thân nhân bên kia.

 Cho nên than ôi binh lính VNCH hàng triệu mà không quyết liệt giết nhau như Việt Cộng ... Do đó 30-4-75 không ngờ là bởi thế đấy !!!!!!!!./-Mt68

________________


Xin kể dưới đây một chi tiết "ngoại sử" mà tôi vẫn còn nhớ.rõ.. Hồi ở trại tù Long Thanh.(1976, trước khi bị chuyển ra Bắc) Nguyễn Văn Thành (ĐS 11, biệt danh "Thành De Gaule", Tổng Thư Ký Phủ Phó Tổng Thống, chúng tôi thân nhau qua nhóm ĐS 10 quê Vĩnh Long của Thành).  Thành cho biết tối hôm cụ Hương gặp Tổng Thống Thiêu ở Dinh Độc Lập về, Thành vẫn còn đó đợi cụ.. Cụ Hương vừa buồn vừa bực bội..  Đại ý cụ cho Thành biết như sau: Sau khi thuyết phục TT THiệu không được, Đại Sứ Martin  đã nhờ Đại Sứ Anh quốc thuyết phục ông Thiệu từ chức, và trao quyền hành Tổng Thống cho cụ Hương, và cụ không còn cách nào hơn là phải nhận.  Vừa lúc đó GS ĐTV, Đổng Lý Văn Phòng Phủ PTT gọi vào, cụ Hương nói chuyện mấy phút,, rồi đặt mạnh điện thọai xuống nói một cách bực bội và tục tĩu: "Giờ này mà hỏi có cần viết hiệu triệu. hiệu triệu. Hiệu triệu cái c... c..." Cụ Hương và Thành thì đã mất.từ lâu. RIP.  Không rõ GS ĐTV có còn sống hay chăng.

Lê Văn Bỉnh

ĐS 10

Saturday, 1 April 2023

 Vượt Biên

Nguyễn Trần Diệu Hương


Tác giả, hiện cư trú và làm việc tại vùng San Jose, kể chuyện một mình vượt biển giữa thập niên 80’ và trở thành cô giáo cho những thiếu niên không thân nhân tại trại tị nạn.


Ngày 30 tháng Tư 1975, Saigon sụp đổ. Những gia đình đang ở trong các cư xá sĩ quan, cư xá công chức bị đuổi ra khỏi nhà. Cùng chung số phận, gia đình chúng tôi bị đuổi khỏi mái nhà thân yêu trong cư xá, nơi chúng tôi có một thời nhỏ dại êm ả. Mẹ đưa chúng tôi về căn nhà riêng Ba Mẹ đã xây nên bằng công sức của Ba Mẹ, nhưng nhà này cũng bị tịch thu. Sau hai lần mất nhà, chúng tôi lớn lên như câu ca dao "Còn cha gót đỏ như son, mất cha lăn lóc như lon sữa bò." Ba chúng tôi còn sống, nhưng đang bị đầy ải trong trại cải tạo ở núi rừng âm u đầy chướng khí của miền Bắc. Những ngày u ám đó in hằn vào đầu óc của chúng tôi, khiến chúng tôi trưởng thành sớm hơn tuổi của mình, vì chỉ được xã hội cho nếm mùi cay đắng.


Đầu thập niên tám mươi, trước những bế tắc không lối thoát, Mẹ thu xếp gởi anh chị em chúng tôi, từng đứa, vượt đại dương để đến một vùng đất tự do, ở đó không có khủng bố tinh thần, ở đó không có trại cải tạo giam giữ những người hoàn toàn lương thiện, và ở đó chúng tôi sẽ được học hành thành người. Cũng như rất nhiều người vợ lính khác, Mẹ đảm đang, xuôi ngược nuôi chúng tôi, nuôi Ba trong các trại tù cải tạo từ Bắc vào Nam. Tất cả những điều đó đẩy chúng tôi đến đường cùng, không còn lựa chọn nào khác hơn là phải đưa chính mạng sống của mình đánh cuộc với định mệnh, với đại dương. 


Còn nhớ thời đó, người dân miền Nam Việt Nam vẫn truyền miệng một câu ngạn ngữ của thời đại "Một là con nuôi mẹ, hai là mẹ nuôi con, ba là con nuôi cá." Cứ thế một hai ba Mẹ lo cho con một mình vượt biển. Khả năng vượt thoát chỉ là một phần ba. Ròng rã gần mười lăm năm dài, từ cuối năm 1975 đến đầu năm 1990, hàng trăm ngàn thuyền nhân (hay theo như cách gọi của UNHCR United Nations High Commissions for Refugees, Cao Uỷ Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc là "Boat People") đã đến được bờ bến tự do. Cùng lúc, hàng trăm ngàn thuyền nhân khác gởi thân vào lòng đại dương.

Chưa qua khỏi tuổi thơ, nước mất, nhà tan, chúng tôi, không có thời mới lớn, tự động bước vào tuổi trưởng thành trước những khó khăn của Mẹ, vượt quá nỗi khổ của bà Tú Xương ở thế kỷ mười chín, vừa nuôi chồng trong tù cải tạo, vừa nuôi một bầy con dại còn ở Tiểu học hoặc ở những năm đầu Trung học. Từng đứa một, khi có điều kiện, Mẹ gởi chúng tôi ra đi.


Đến phiên tôi, Mẹ chỉ đưa được tôi ra bến xe liên tỉnh để đi Vũng Tàu. Cả hai mẹ con đều đội nón lá rộng vành để che những giọt nước mắt lã chã rơi không ngừng. Mẹ khóc nhiều hơn những lần đưa các anh em trai của tôi ra đi, vì tôi là con gái duy nhất trong nhà, thân gái dậm trường. Ngồi trên xe đò từ Saigon về Vũng Tàu, trong một góc xe đò, tôi úp nón lên mặt, để che đôi mắt sưng đỏ vì khóc của mình.


Gần một tuần lênh đênh trên đại dương, chỉ có trời và nước, xanh thẫm ban ngày, đen kịt ban đêm, không có cả một cánh chim, tôi nhớ Ba, nhớ Mẹ quay quắt, nhưng vẫn hài lòng với chọn lựa của mình. Hai ngày đầu, như mọi người trong lòng thuyền, tôi bị say sóng, nôn ra cả mật xanh, mật vàng. Đó là lần đầu tiên trong đời, tôi hiểu thế nào là "mửa mật". Vậy mà chỉ hai ngày sau, quen dần với cảm giác bập bềnh của con thuyền nhỏ trước lực đẩy của nước ở đại dương, tôi tỉnh táo lại hoàn toàn với đầy đủ sinh lực của "tuổi mười bảy bẻ gãy sừng trâu" mặc dù đã hai ngày không ăn uống. Khi thuyền ra hải phận quốc tế, chúng tôi được lên khoang thuyền hít thở không khí trong lành đầy vị mặn của đại dương, hình như có thoang thoảng mùi vị của tự do.

May mắn hơn những người tỵ nạn khác, chúng tôi đi bình yên, không gặp một thuyền nào khác. Trời êm biển lặng vào tháng sáu đầu mùa hè đưa chúng tôi đến thẳng đất liền của Mã Lai sau năm ngày sáu đêm lênh đênh trên biến.


Lên tới đất liền, cùng với chú lái tàu, tôi phải vận dụng vốn liếng tiếng Anh hạn chế đã tích lũy trong những tháng năm chuẩn bị vượt biên để giải thích cho nhân viên Cảnh sát Mã Lai biết chúng tôi là ai, tại sao chúng tôi đặt chân đến đây. Đó chỉ là lần đầu, một khởi đầu kéo dài mãi cho đến bây giờ, phải giải thích tương tự cho rất nhiều người khác nhau thuộc nhiều chủng tộc hiểu tại sao chúng tôi phải bỏ quê hương ra đi để sống đời lưu vong.

Những giờ phút đầu tiên trên đất liền, chúng tôi lại bị "say đất". Quen với trạng thái bồng bềnh, trôi nổi trên mặt nước; khi trở lại mặt đất bằng phẳng, mỗi lần đặt bước chân xuống, tôi có cảm giác mặt đất chao đảo như còn trên mặt sóng nhấp nhô. Sau hai ngày bận rộn với đủ thứ giấy tờ khai báo với cảnh sát địa phương Mã Lai, chúng tôi được đưa ra trại Pulau Bidong, trại tỵ nạn chính thức của Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp quốc đặt trên lãnh thổ Malaysia để thành một người tỵ nạn chính thức có số căn cước thuyền nhân, chờ được phỏng vấn định cư ở một nước thứ ba. Lần này, hành trình từ đất liền ra đảo Pulau Bidong vững chắc hơn trên một thuyền khá lớn của UNHCR, có tên là "Blue Dart", khoảng cách lại ngắn, nên chúng tôi không bị say sóng.

Trại tỵ nạn Pulau Bidong đã dược xây dựng tương đối đầy đủ khi chúng tôi đến đảo vào giữa thập niên 80, có đủ trường Tiểu học, Trung học cho trẻ em, trường huấn nghệ (Vocational School) cho người lớn, có thư viện, có cả Chùa, Nhà thờ trên "đồi tôn giáo", có Bệnh viện với cái tên khá ngộ nghĩnh và dễ nhớ là "Sick Bay". Chúng tôi được đón tiếp với những thùng mì ăn liền vĩ đại hãy còn bốc khói, giống hệt như những thùng mì Liên Hiệp Quốc phân phàt cho nạn nhân của thiên tai Tsunami ở South Asia cuối năm 2004.


Lần đầu tiên ăn đồ cứu trợ, sống bằng lòng nhân đạo của người khác, một thân một mình ở trại tỵ nạn của một đất nước khác, nước mắt tôi lăn dài, nghĩ đến Ba vẫn đang mỏi mòn trong ngục tù cải tạo ở núi rừng âm u đầy chướng khí của miền Bắc vẫn thiếu ăn, thiếu mặc; nghĩ đến Mẹ đang vò võ một mình ở nhà, chắc là vẫn đang cầu nguyện cho bầy con đã tứ tán mỗi đứa một quốc gia, một phương trời khác nhau, ở tuổi chưa đến hai mươi.

Tưởng là mình đã rất can đảm khi dám chấp nhận cảnh "thân gái dặm trường", không ngờ, ở trại tỵ nạn Pulau Bidong, đến khu vực Cô nhi (Minor Refugees Residential Section), dành cho các em dưới mười sáu tuổi đến trại tỵ nạn một mình, tôi thấy em nhỏ nhất chỉ mới sáu tuổi.


Ở đó, có Hanh, chỉ mới mười một tuổi, thông minh, đầy cương nghị, có Bố đang bị "học tập cải tạo" - như Ba tôi - được Mẹ gởi đi vượt biển một mình trên một thuyền bị hải tặc, mọi người đói lả gần ba ngày trước khi đến được trại tỵ nạn. Ở trại tỵ nạn, cậu bé tuy mới mười một tuổi nhưng có sự khôn ngoan và nét chửng chạc cúa một người ngoài hai mươi học hành chăm chỉ, hết học Anh Văn lại quay qua học Toán, quanh quẩn cả ngày ở trường Trung học trên đảo Pulau Bidong.

Ở đó, có Huyên, một em gái mới mười ba tuổi, cả gia đình mất tích trên biển khi thuyền bị lật. Như một phép màu, Huyên bám được một thùng plastic rỗng, trôi nổi bồng bềnh giữa đại dương gần nửa ngày, trước khi được một tàu tỵ nạn khác đi ngang vớt lên. Người ta đã thấy cô bé Việt Nam nhỏ bé mắt nhắm nghiền, gần như hôn mê bất tĩnh. thân xác mỏng manh như chiếc lá khô, hai tay vẫn còn bám chặt cái thùng nhựa rỗng bồng bềnh trên đại dương.


Ở đó, có Việt, rất thâm trầm, dù mới mười lăm tuổi, nhà cửa bị tịch thu, Ba bị giam ở khám Chí Hòa vì "tội nhà giàu", Mẹ gởi em ra đi với nhà hàng xóm để thoát khỏi tương lai đen tối của giai cấp "tư sản mại bản".


Còn biết bao các em khác nữa. Mười một tháng sau đó ở Pulau Bidong, với vốn liếng Anh ngữ từ những năm ở trường Trung học, và những sách vở của thư viện trên đảo, tôi đã có cơ hội giúp cho UNHCR và cả các phái đoàn Mỹ, Canada, Úc trong việc thông dịch mỗi khi họ đến phỏng vấn thuyền nhân.


Mãi đến bây giờ, tôi vẫn còn cảm giác xót xa khi nhớ lại những lần thông dịch cho những ngưồi đàn bà, con gái Việt Nam bị làm nhục bởi hải tặc trên đường vượt biển, em nhỏ nhất chỉ mới mười hai tuổi. Hồi đó, Cao ủy trưởng Alan ở Pulau Bidong chỉ định tôi chuyên làm công việc thông dịch đàn bà con gái trong các cuộc phỏng vấn các thuyền vượt biển bị hài tặc. Đó là một công việc rất tế nhị và đầy xót xa. Đến một độ nào đó, nỗi đau vượt quá sức chịu đựng, người ta mất cảm giác. Nhiều người nữ thuyền nhân, mặt còn đầy nỗi kinh hoàng nhưng kể lại từng chi tiết ô nhục mà chính mình phải gánh chịu với giọng đều đều, thản nhiên, lạnh lùng như nói chuyện trời mưa, trời nắng, trong khi chính tôi và cô May, Cao ủy của UNHCR đã giọt ngắn giọt dài. Mỗi lần dịch hay viết xong một hồ sơ tàu tỵ nạn bị cướp, tay áo tôi ướt đẫm vì nước mắt. Tôi vẫn tự hỏi thủ phạm trực tiếp cho nỗi đau này là hải tặc Thái Lan, thủ phạm gián tiếp thực sự là ai?


Đó là khoảng thời gian rất bận rộn với công việc thông dịch ban ngày giúp cho nhân viên Cao ủy Tỵ nạn. Ban đêm, tôi còn dạy thiện nguyện cho các em , chỉ nhỏ hơn tôi vài tuổi, ở trường Trung học trên trại Tỵ nạn. Trường chỉ dạy hai môn Anh văn và Toán. Sách học là những quyển sách đơn giản tương đương trình độ của bộ "English for Today" quyển I đến quyển III. Trước ngày ra đi, tôi chỉ mới học xong quyển IV ở Việt Nam , nhưng nhờ làm việc, tiếp xúc nhiều với các nhân viên UNHCR, và bằng long thương yêu các em chân thành như em ruột của chính mình, tôi mang hết kiến thức và hiểu biết của mình truyền lại cho các em, mặc dù tôi chưa hề được qua một trường lớp nào về Sư phạm. Chúng tôi, những người dạy thiện nguyện ở trường Trung hoc, vẫn đùa với nhau là mình đã theo một "trường phái sư phạm mới", lối dạy "mèo nhỏ tha chuột lớn".


Có lần, giải nghiã cho các em một từ mới, "dignity" - có nghĩa là phẩm giá - tôi không biết làm thế nào để giảng cho các em hiểu, đành viết lên bằng câu thí dụ "We lost everything, but never lose our dignity". Viết đến đó, tự dưng nước mắt tôi lăn dài, các em ở tuổi mười bốn, mười lăm lúc đó cũng khóc theo. Những giọt nước mắt đó vẫn còn đọng trong tâm khảm tôi cho đến bây giờ, cùng có niềm tin ở một thế hệ trẻ lưu vong có đầy đủ đầu óc và trái tim Chắc chắn, các em học sinh lúc đó, trên bước đường tha hương sau này, sẽ nhớ và hiểu nghiã chữ "dignity" hơn ai hết, và các em sẽ sống xứng đáng với lòng kỳ vọng của thân sinh các em, khi Ba Mẹ các em đã phải đứt ruột gởi con ra biển một mình.

Mỗi tuần hai lần, tàu "Blue Dart" của UNHCR cho nước ngọt, mì gói, gạo và thực phẩm tươi gồm gà và rau cải, đôi khi còn có dưa hấu hay thơm, vào cho thuyền nhân. Hầu hết chúng tôi đến trại tỵ nạn chỉ với một bộ quần áo dính trên người. Chúng tôi được phát áo quần từ một kho áo quần "second hand", tương tự như áo quần cũ bán trong Goods Will ở Mỹ. Áo quần thường rộng thùng thình, quá khổ, nhưng chúng tôi tự sửa lại đúng với kích thước của mình. Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp quốc đã rất là chu toàn trong việc bảo vệ và chăm lo cho những người tỵ nạn chính trị, Đến lúc được chuyển qua trại chuyển tiếp Bataan ở Philippines để được hướng dẫn về đời sống văn minh của Mỹ trước khi chính thức đến Mỹ như một người tỵ nạn, chúng tôi được huấn luyện chương trình buổi sáng, buổi chiều làm "Teacher Aid" cho các giảng viên người Phi. Ở đó, đời sống đầy đủ hơn, và lạc quan hơn vì chúng tôi biết chắc chắn ngày mình được định cư ở Mỹ. Và cũng ở đó, tôi có thì giờ tự học nhiều hơn cho chính mình, chuẩn bị một thời kỳ gian nan khác, một khởi đầu từ con số không ở quê hương thứ hai. Một vài lần được về chơi ở Manila (thủ đô của Philippines) , những chuyến du lịch đặc biệt bằng xe bus dành riêng cho các "Teacher Aid", chúng tôi vẫn ngậm ngùi thương cho sự lạc hậu của đất nước mình ngay cả khi so sánh với các nước Á châu khác như Philippines.

"Nỗi buồn nhược tiểu" đó càng tăng cao khi trên đường bay qua Mỹ, tôi được dừng chân hai ngày ở Tokyo - Nhật, thủ đô của nước Á châu giàu mạnh nhất sau khi nếm bài học xương máu với hai cột khói trắng hình nấm khổng lồ ở Hiroshima và Nagasaki cuối thế chiến thứ hai. Tokyo văn minh sáng rực ánh đèn ban đêm tương phản với Saigon lạc hậu tranh tối, tranh sáng, Nước mắt tôi lại chảy xuống cho sự thụt lùi của quê hương đã bị bỏ lại sau lưng.


Tôi đến Mỹ một tuần trước lễ Giáng sinh, cùng một thuyền nhân Việt Nam khác, hoàn thành nhiệm vụ cuối cùng được giao từ UNHCR, giúp đoàn người tỵ nạn gồm 85 người kể cả một vài người Lào và Cambodia cũng trốn chạy khỏi quê hương như chúng tôi. Giữa những hành khách Mỹ tự tin, cao to, với nhiều hành lý cồng kềnh về nước đoàn tụ với gia đình nhân dịp Giáng sinh và Tết dương lịch, rất dễ nhận ra những người tỵ nạn nhỏ bé, mảnh mai mắt mở to vui mừng lẫn ngơ ngác, chỉ có hai bàn tay trắng với những túi xách của UNHCR và IOM (International Organization for Migration), chỉ có giấy tờ nhập cư vào Mỹ và giấy tờ tùy thân .

Được chuẩn bị đầy đủ với gần 6 tháng học về "American Culture Orientation" ở trại chuyển tiếp Bataan, Philippines, với trình độ Anh văn tương đối sau một năm tiếp xúc và làm thông dịch viên cho nhân viên Cao ủy Tỵ nạn LHQ, tôi không đến nỗi bị lâm vào cảnh "mán về thành", nhưng thật sự đời sống ở Mỹ khác xa với đời sống ở quê nhà như mặt trời với mặt trăng, như ngày với đêm.

Hình ảnh của Ba với mái tóc bạc trắng ở tuổi năm mươi trong lao tù cải tạo, hình ảnh Mẹ với đôi mắt buồn trong những ngày chuẩn bị gởi chúng tôi ra đi là nguồn nghị lực không bao giờ cạn, tiếp sức cho chúng tôi trong thời gian chân ướt chân ráo ở quê hương thứ hai.


Từ nhiều trại tỵ nạn ở nhiều nước khác nhau: Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines, anh chị em chúng tôi đến Mỹ trong nhiều thời gian khác nhau, được trùng phùng, như trăm sông đổ về biển, và mang sức sống của tuổi hai mươi lao vào đất nước của tự do và cơ hội. Một người bạn cũ của Ba, qua Mỹ từ năm 1975, đang làm ở tổ chức thiện nguyện USCC, giúp tôi có được trợ cấp một lần là 650 dollars dành cho người tỵ nạn mới đến, bác viết cho tôi một reference letter và từ đó " I'm on my own way". Bác cũng giới thiệu cho tôi đến tìm việc làm ở một vài nơi. Trời thương, "thánh nhân đãi kẻ khù khờ", tôi được nhận vào làm full time ở một công ty lớn chỉ hai tuần sau ngày đến Mỹ. Lúc đó là đầu tháng giêng, giữa mùa Đông ở Mỹ, trời lạnh buốt, buổi sáng tôi thức dậy từ sáu giờ ba mươi, trời còn tối, ra đứng chỗ xe bus ở đầu đường, trời lạnh cóng, dưới 40 độ Fahrenheit, tôi phải mặc ba bốn lớp áo, nhưng áo quần cũ chị em chúng tôi đã mua từ Good Will để vừa với túi tiền của mấy chị em lưu lạc quê người, chỉ có hai bàn tay trắng, với lòng tin của Ba Mẹ đặt ở mỗi chúng tôi. Một tuần sau, chịu không nổi cái lạnh gần đông đá , từ 32 đến 39 độ Fahrenheit của mùa đông thứ nhất ở Mỹ, tôi dùng cái paycheck đầu tiên của mình thuê người dạy lái xe và dốc hết tiền trợ cấp một lần cho người mới đến mua một cái Toyota Celica đã mười bốn tuổi, để đi học và đi làm. Đời sống lúc đó, còn nhỏ, là một hình tam giác với ba đỉnh là nhà, trường học và sở làm không hề có giải trí, không có cả thời gian để buồn và nhớ nhà. Đến Mỹ muộn màng, sau gần mười năm miền Nam sụp đổ, biết thân phận mình là "trâu chậm", chúng tôi lao đầu vào học, không dám để phí thêm một giờ phút nào. Mùa hè, học phí cao hơn, tôi chỉ ghi danh theo học một lớp, và làm part time cho một trạm bán xăng ở gần nhà Nghĩa là lúc đó, tôi đi làm full time, đi học full time quanh năm. Nhiều lúc quá mệt mỏi, tôi lại tự nâng đỡ tinh thần mình bằng câu nói cửa miệng của người Mỹ "No pain, no gain", và nhớ đến kỳ vọng của Ba Mẹ đã đặt ra cho chúng tôi. Buồn nhất là những lần bất chợt nghe được những câu hát rất đúng với tâm trạng của mình: "Ai trở về xứ Việt, nhắn giùm tôi người ấy ở trong tù .....", nghĩ đến Ba, nước mắt tôi vẫn lăn dài, và tự bảo lòng mình phải cố gắng học giỏi hơn để Ba Mẹ vui hơn, đủ nghị lực sống trong đời sống bị khủng bố tinh thần thường xuyên ở quê nhà.

Có lần được phát biểu cảm tưởng với thời gian ba phút trong một lần nhận học bổng, tưởng là sẽ cảm ơn đủ tất cả mọi người và hứa với "scholarship foundation" sẽ cố gắng nhiều hơn, nhưng tôi chỉ nói được gần hai phút: - Xin cảm ơn tất cả thầy cô đã có công dạy dỗ tôi, xin cảm ơn Hội đồng trao tặng học bổng cho tôi. Xin tri ân đất nước Hoa Kỳ đã cưu mang và cung cấp một đời sống tự do, no đủ cho tất cả những người tỵ nan, lưu vong. Vinh dự hôm nay xin được dành riêng cho tất cả những người đã nằm xuống cho chúng tôi có được ngày hôm nay, và xin đặc biệt danh riêng cho Ba tôi, người vẫn còn đang bị đày ải trong lao tù Cộng sản vì đã ở trong một quân đội bảo vệ tự do, xin được dành riêng cho Mẹ tôi, người đã rất chu toàn trong việc nuôi dậy con cái một mình.

Một phút còn lại, tôi không nói được vì cử tọa trước mặt đã mờ đi sau màn nước mắt, mùi vị đắng cay sau năm 75 ở quê nhà vẫn kéo về với đầy nỗi xót xa, ngay cả trong giờ phút ngọt ngào nhất. Một thầy giáo người Mỹ gốc Ba Lan đã tỵ nạn Cộng sản từ cuối thập niên 60, dạy tôi từ năm đầu Đại học, hiểu rất rõ tâm trạng của một người tỵ nạn, đã lên diễn đàn giúp tôi hoàn tất lời phát biểu. Lần đó, tôi được đặc cách đề cử trực tiếp cho học bổng niên khoá kế tiếp, mà không phải qua những thủ tục bình thường. Món tiền tuy không lớn, cũng đủ để trang trải chi phí sách vở, học phí, ăn ở cho một năm học, là một yểm trợ vật chất lớn lao cho tôi trong ba năm đầu chân ướt chân ráo ở quê người. Có những điều hằn sâu trong ký ức, lúc nào cũng tưởng như mới vừa xẩy ra, như chuyện say sóng đến độ "mửa mật" của những ngày lênh đênh trên đại dương vẫn ám ảnh tôi không nguôi. Cho nên, có lần được chọn là "Employee of the year" được tặng vé cho một chuyến đi cruise trên biển một tuần cho hai người, nhớ lại cảm giác đắng nghét ở miệng, cảm giác mất thăng bằng của những ngày mới đặt chân lên đất liền, tôi đã nhường lại phần thưởng đó cho "the runner up" trước con mắt ngạc nhiên của mọi người làm cùng chỗ. Đó không phải là điều duy nhất người bản xứ không hiểu những người tỵ nạn, những người Mỹ gốc Việt lưu vong. Họ cũng không hiểu tại sao rất nhiều người Việt Nam nhỏ bé ốm yếu vẫn đội mưa đội gió hàng giờ giương cao những tấm biểu ngữ "Human Right for VietNam", "Freedom for VietNam" ở một góc đường nào đó trong đời sống lạnh lùng, đầy tất bật của đất nước Hoa kỳ. 


Sau khi đã ổn định, - đã có một "career" đàng hoàng thay cho cái "job" để kiếm sống - có thời tôi đi dạy thiện nguyện cho một trường Việt ngữ ở điạ phương, học sinh là các em teenagers. Dù cùng tuổi nhưng học trò của tôi bây giờ vô tư, ngây thơ, khác xa các em trong trại tỵ nạn chững chạc, trưởng thành trước tuổi. Ở trường Việt ngữ, ngoài bài giảng từ sách của trường, thì giờ còn dư, chúng tôi giảng trích đoạn từ tác phẩm "Mùa hè đỏ lửa" của nhà văn Phan Nhật Nam, từ bài thơ bất khuất "Nếu ai hỏi" của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện để các em hiểu rõ hơn giá trị của tự do, và biết yêu thương cha mẹ hơn, biết ơn cha mẹ các em đã hy sinh rất nhiều để các em có được ngày hôm nay.


Đời sống ở Mỹ vốn tất bật, nhưng một phút bình lặng nào đó của tâm hồn, dù đang bị kẹt xe trên một xa lộ xe cộ tất tả ngược xuôi hay đang ở trong một cuộc họp ở sở, đầu óc tôi vẫn lang thang về với quê nhà, và buồn thay, bao giờ cũng vậy, mùi vị đắng nghét như đang bị "mửa mật", mùi vị chua cay của một thời vẫn hiện về, rõ ràng, mồn một như chuyện hôm qua.


Và có một lần "chuyện hôm qua" càng rõ nét hơn. Đến thăm Massachusetts Institute of Technology (MIT) nổi tiếng về chuyên ngành Toán và Kỹ thuật, đang ngồi chờ người bạn ở cafeteria của trường, bỗng một sinh viên người Á châu đi qua, đi lại trước mặt tôi nhiều lần. Sau cùng, anh ta dừng lại, lịch sự hỏi bằng tiếng Mỹ: - Xin lỗi, chị có phải là cô Thuyên ở trường Trung học Pulau Bidong năm 1988 không?

Tôi trả lời bằng tiếng Việt:

- Đúng rồi, em có thể nhắc cho tôi nhớ em là ai không?

Người thanh niên vui mừng, rồi bằng một thứ tiếng Việt rõ ràng và lễ độ, anh ta trả lời:

- Em là Hanh đây chị, em học cùng lớp với Huyên và Việt ở Pulau Bidong. Chị nhớ em không?


Hanh vẫn nhận ra tôi sau mười lăm năm không gặp, nhưng tôi thì không thể nhìn ra được anh thanh niên cao lớn chững chạc trước mặt mình là cậu bé đen nhẻm, chững chạc, chăm học ở trại tỵ nạn năm xưa, Hanh lúc đó đang ở năm cuối của chương trình Tiến sĩ Toán, như ước mong ngày nào em đã trình bày trong một giờ thực tập nói tiếng Anh ở lớp học nhỏ xíu, mái lợp tôn thô sơ giữa đảo Pulau Bidong. Hanh kể cho tôi nghe về chuyện em đến Mỹ một mình ở tuổi mười hai, cùng với một nhóm ngườI Việt Nam tỵ nạn đặt chân đến Mỹ ở phi trường San Francisco, Hanh đổi máy bay về Massachusetts. Đi một mình, dưới mười lăm tuổi, nên Hanh được một cô Stewardess đích thân dắt lên máy bay trước.

Ra đón cậu bé tỵ nạn Việt Nam ở phi trường Logan Boston - là đại diện của một tổ chức thiện nguyện và cha mẹ nuôi của Hanh. Đó là một gia đình ngươi Mỹ gốc Tiệp Khắc, qua Mỹ tỵ nạn từ thập niên 60s. Dù chưa bao giờ có ý định xin con nuôi, nhưng thấy Hanh là một cậu bé mới mười một tuổi vượt biển một mình, không có thân nhân, nên họ muốn đưa Hanh về nuôi. Cả hai ông bà đều dạy Trung học. Ông dạy Toán, bà dạy Home Economics (tương tự như môn Nữ công gia chánh ở Việt Nam). Người con duy nhất đi học xa, ông bà vẫn làm việc thiện nguyện ở một Nhà thờ Tin lành vào cuối tuần. Khi thấy tên Hanh, một em nhỏ tỵ nạn Việt Nam mới mười một tuổi, không có thân nhân ở Mỹ, được nhà thờ tìm người bảo trợ, họ xin nhận Hanh làm con nuôi. Vẻ chín chắn cùng sự khôn ngoan trước tuổi của Hanh đã chinh phục được lòng thương yêu của bố mẹ nuôi người Mỹ từ lúc đầu. Vì cả hai ông bà đều là nhà giáo, Hanh lại có căn bản về cả tiếng Anh lẫn học lực, lại chăm chỉ học hành nền em được vào thẳng lớp bảy như các học sinh bản xứ mà không gặp trở ngại nào.


Lên Trung học, Hanh tốt nghiệp thủ khoa Trung học. Với sự hướng dẫn quý báu của cha mẹ nuôi, với thành tích học tập xuất sắc trong bốn năm Trung học, cậu bé Hanh tỵ nạn năm xưa nhận được học bỗng toàn phần của MIT, trong niềm hãnh diện của cha mẹ nuôi ở Mỹ lẫn cha mẹ ruột ở Việt Nam. Giữa thập niên 90s của thế kỷ hai mươi, ba mẹ sinh thành cùng hai em của Hanh được qua Mỹ theo chương trình nhân đạo HO. Vậy là Hanh có đến hai ông bố, hai bà mẹ, và hai gia đình cùng ở tiểu bang Massachusetts, trong hai thành phố kế cận nhau. Không muốn làm mất lòng gia đình nào, và để được tập trung học tập, Hanh vào nội trú trong MIT. Mổi thứ bảy về với cha mẹ ruột, ăn món ăn Việt Nam do mẹ nấu, nghe ba kể về những đọa đày ông phải gánh chịu trong các trại "cải tạo". Và mỗi chủ nhật, về lại căn phòng thân thuộc mà cha mẹ nuôi đã dành cho Hanh từ ngày cậu bé Việt Nam, da còn đậm màu nắng gió của trại tỵ nạn, chân ướt, chân ráo đến Mỹ. Căn phòng dù không còn được dùng thường xuyên, nhưng trong closet vẫn còn treo hai bộ áo quần kỷ niệm của Hanh, một bộ Hanh mặc khi mới đến Mỹ được người bảo trợ ra đón, và bộ kia là bộ áo quần đầu tiên Hanh được bố mẹ nuôi mua cho. Ở một góc bàn học, vẫn còn cái lọ thủy tinh có cắm hai lá cờ nhỏ, một sọc trắng đỏ với năm mươi ngôi sao của Mỹ, một màu vàng với ba sọc đỏ của Việt Nam. Trên tường vẫn còn hình Hanh năm mười tám tuổi, chững chạc trong áo mũ và dây choàng thủ khoa (valedictorian) ngày tốt nghiệp Trung học.


Một chi tiết rất cảm động trong câu chuyện của cậu bé tỵ nạn ở Pulau Bidong năm xưa là hồi mới đến Mỹ, mỗi lần được cho kẹo chocolate, Hanh chỉ ăn một phần nhỏ và để dành hầu hết kẹo để gởi về Việt Nam cho hai em và cho các bạn. Điều "bí mật" đó bị phát hiện khi hai ông bà Mỹ thấy cậu con nuôi ăn uống rất chừng mực từ tốn nhưng luôn luôn xin được mua thêm chocolate. Kẹo "để dành" thường được Hanh gói cẩn thận trong những túi nylon dán kín để trong một góc tủ áo quần. Halloween đầu tiên ở Mỹ, đi học về, làm xong bài vở, trời vừa sụp tối, Hanh xin phép ba mẹ nuôi cho đi xin kẹo. Cậu bé miệt mài đi bộ một mình trong thời tiết se lạnh đầu mùa thu ở miền Đông Bắc trên bốn năm con đường, gõ cửa từng nhà xin kẹo. Kêt quả rất khả quan, sáng hôm sau Hanh gởi được một thủng kẹo mười hai lbs (khoảng 5kg) về Việt Nam mà cước phí còn cao hơn cả tiền mua kẹo. Có nguồn gốc là người Tiệp Khắc, một thời đã phải sống dưới chế độ Cộng sản, bố mẹ nuôi của Hanh hiểu ngay mọi chuyện. Và ông bà càng quý Hanh, cậu bé Việt Nam tuổi còn nhỏ nhưng tấm lòng đã rất lớn.

Đến phiên tôi, tôi cũng kể cho Hanh nghe giòng đời đã đẩy đưa tôi từ trại tỵ nạn năm xưa đến California như thế nảo. Có nằm mơ, tôi cũng không tưởng tượng nổi mình gặp lại được cậu học trò đen nhẻm vì vị mặn của gió biển ở Mã Lai, có đôi mắt sáng nhưng lúc nào cũng buồn ở trường Trung học trên đảo Bidong ngày nào. Ước gì tôi cũng gặp được Huyên và Việt, cũng như đã hội ngộ rất bất ngờ với Hanh ở một góc trường MIT ở miền Đông Bắc nước Mỹ. Nhưng dù chưa hay không có dịp tái ngộ với Huyên và Việt, tôi vẫn tin hai em đã rất thành công như Hanh, chứng minh mình có thể làm được nhiều điều, chẳng hạn như chuyện học hành, mà có một thời ở trong nước , sau tháng 4/75, nhà cầm quyền không cho phép mình làm.

Tất cả chúng tôi dều giống nhau ở chỗ phải xa nhà, bỏ đất nước ra đi một mình, dù lúc nào trong tâm tưởng của chúng tôi cũng có một vị trí trang trọng cho quê hương chôn nhau cắt rốn đã phải bỏ lại sau lưng. Chúng tôi đã phải mang cả sinh mạng của mình ra đánh cuộc với định mệnh, với đại dương; một cái giá không một khoản tiền nào, dù lớn đến đâu có thể mua được. Những được mất với cuộc đời hãy còn ở trước mặt, nhưng chắc chắn chúng tôi sẽ cố gắng không ngừng để xứng đáng với cái giá mình phải đánh đổi.

Chia tay Hanh hôm đó, tôi mang theo câu nói của Hanh với khuôn mặt rất nghiêm trang, già trước tuổi, và vẫn với đôi mắt buồn xa vắng như lần đầu tiên tôi gặp em ở trường Trung học trên đảo tỵ nạn:

- Điều em vui nhất là đã đền đáp được phần nào ơn nghĩa sinh thành của cha mẹ ruột và ân tình cưu mang của bố mẹ nuôi. Em vẫn cố gắng hết mình, cố gắng đến hết cuộc đời để luôn làm cho cả Ba Mẹ lẫn Mommy, Daddy của em vui Điều duy nhất không chắc em có làm được hay không, là "gánh sơn hà" mà đôi lúc Ba em và các bác, các chú cùng thời vẫn nửa đùa nửa thật là đã trao lại cho thế hệ của mình.

Hanh dừng một chút rồi hỏi một câu mà đến bây giờ tôi vẫn chưa biết cách trả lời:

- Gánh sơn hà nặng lắm một mình em hay cả hai chị em mình không thể nào gánh nổi! Chị ơi, làm thế nào để cả thế hệ của mình đủ sức gánh nổi sơn hà hả chị?

Câu hỏi đó cứ quanh quẩn trong tôi và chắc là phải còn lâu, lâu lắm, tôi mới biết được câu trả lời chính xác Nhưng tôi tin là chỉ cần một phần mười của một thế hệ Việt Nam (cả ở hải ngọai lẫn trong nước) biết đoàn kết, có nhiệt tâm gánh vác non sông với chí khí của Trần Quốc Toản, với lòng yêu nước của Nguyễn Thái Học và với đầu óc của Lê Quý Đôn thì gánh sơn hà sẽ nhẹ nhàng như cái cặp đi học rất thân thuộc của một thời đèn sách.


@Nguyễn Trần Diệu Hương


(Viết cho Lan Hương, Tiến, Tuấn và những thuyền nhân "đi biển" một mình).


RẤT ƯỚC MƠ NHỮNG AI CÒN HIỂU ĐƯỢC TÂM SỰ THÊ LƯƠNG MUÔN ĐỜI NẦY SẼ KHÔNG LỘI NGƯỢC HIỀN LƯƠNG QUA BỜ BẮC ẢO VỌNG./-Mt68

________________________


Miếng Thịt Mỡ, truyện ngắn

"Thằng bé thiếu dinh dưỡng, lớn không nổi. Mỗi khi thấy con cán bộ, cùng tuổi đó, hai má phinh phính, chân tay mũm mĩm, cô nghĩ đến con mình mà đau lòng"

"Hai người đàn bà, trong cảnh túng quẫn, càng phải nương nhau mà sống. Cả hai đều cùng yêu thương một người trong tù, không biết sống chết lúc nào".

"Cô là vợ sỹ quan 'ngụy' nên thường bị chửi mắng và phạt rất nặng, phần khác cô là gái một con trông mòn con mắt nên đôi khi họ rất tử tế cho lại hàng, không phải nộp phạt nhưng đề nghị phải đi ăn tối hay đi coi hát với một người nào đó trong bọn họ. Bị mắng chửi, bị phạt nặng cô nhẫn nhục chịu đựng, nhưng khi thấy họ tử tế, vui vẻ cho lại hàng là cô yên lặng bỏ hàng ra về. Cô thấy họ như những con rắn độc nhưng miệng lưỡi lúc nào cũng nhân nghĩa".

Bà Tư không rõ mấy giờ rồi, nhưng ngoài đường đã vắng tiếng xe cộ, tiếng người nói. Bà nhắm mắt cố dỗ giấc ngủ nhưng bao nhiêu ý nghĩ cứ lẩn quẩn trong đầu. Lúc nãy, khi phụ với Lan, con dâu bà, sửa soạn các thức thăm nuôi, bà không thấy chiếc nhẫn cưới trên ngón tay của nó nữa. Tại sao con dâu bà lại cất chiếc nhẫn đi? Nếu nó phải lòng thằng con trai nào, nó có thể giấu chiếc nhẫn để không ai biết là nó là gái có chồng, nhưng về nhà ắt phải nhớ mà đeo vào. Đằng nầy nó vẫn giữ ngón tay trống trơn! Có phải nó muốn công khai tuyên bố sẽ đi lấy chồng khác? Điều bà lo sợ đã xảy ra? Bà hiểu và rất thông cảm con dâu. Năm năm rồi, thằng con trai bà đang ở trong trại cải tạo, không biết ngày nào được thả ra. Bà đã thấy cảnh người hàng xóm đi thăm nuôi con về, khóc từ ngoài đường vào nhà. Đem đồ tiếp tế, thăm nuôi lên trại cải tạo chờ từ sáng đến chiều tối, cán bộ trại ra bảo một cách thản nhiên "Con bà bị bvì nh chết rồi, về đi, hôm nào chính quyền địa phương sẽ có giấy báo sau". Cảnh đó cứ ám ảnh bà mãi. Mỗi lần con dâu đi thăm nuôi về, bà cứ thấp thỏm, sợ nó vừa đi vừa khóc như người hàng xóm thì không biết bà đau khổ đến chừng nào.

Con trai bà là sĩ quan quân đội Cộng Hòa, bà nói lắm nó mới chịu làm đám cưới với một cô bạn học trước đây. Cưới xong, qua mấy ngày phép, nó lại ra đơn vị, hành quân liên miên. Họa hoằn lắm mới về thăm nhà. Khi thấy con dâu mang cái bụng lúp lúp, bà chưa kịp mừng thì Miền Nam rơi vào tay cộng sản, con trai bà đi tù. Chồng bà, trước bảy lăm (1975) là thầy giáo về hưu, khi cộng sản vào thì tiền hưu trí không còn nữa. Sau đó chồng bà bịnh, không tiền thuốc men, đành chịu chết. Con dâu bà làm thư ký hãng buôn. Hãng bị tịch thu, chủ bị đưa lên kinh tế mới với hai bàn tay trắng, thế là cô thất nghiệp. Mấy tháng sau, thằng cháu nội chào đời. Niềm vui có được thằng cháu kháu khỉnh không lấp được nỗi buồn chồng chết, con ở tù, nhà không còn một xu. Tất cả bất trắc đổ ụp xuống gia đình bà cùng một lúc, khiến bà điếng người, trí óc đặc cứng lại, không biết xoay xở ra sao. Thế rồi, cũng giống như bao người Miền Nam khác, bà và con dâu phải tìm mọi cách để có miếng ăn. Bà sắm một cái rổ lớn đựng linh tinh bánh, kẹo, khoai, chuối...dẫn thằng cháu nội mới chập chững, ra ngồi trước cổng trường tiểu học trên đường Chi Lăng, Gia Định bán cho học trò. Lời lãi chẳng bao nhiêu, hôm nào ế hàng thì đem khoai, chuối về ăn trừ bữa. Con dâu bà, thấy thiên hạ buôn bán chợ trời, bèn đem áo quần cũ của mình ra chợ Bà Chiểu ngồi ở vệ đường. Ít lâu sau thành người mua bán đồ cũ. Bất cứ đồ gia dụng gì người ta đem bán, cô đều mua rồi bán lại.


Mấy năm nay, trong những dịp thăm nuôi, thỉnh thoảng bà được con dâu đưa hai bà cháu cùng lên thăm người ở tù. Thấy con trai gầy ốm quá, sợ nó chết nên bà cứ nắm lấy tay thằng con, tưởng như lần cuối gặp mặt. Bà biết con dâu cho bà cùng đi là một hy sinh rất lớn. Tiền xe cộ, ăn uống dọc đường khiến cho số vốn teo lại và gánh nặng gia đình càng nặng thêm. Bên sui gia cũng không hơn gì, có mấy người đàn ông đều đi tù cả nên chẳng ai giúp nhau được. Dù sao bà cũng cám ơn sui gia đã cho bà một cô dâu rất hiếu thảo, thương mẹ chồng, thương chồng, thương con. Có những bữa ăn, con dâu chỉ ăn qua loa, nhường phần cho bà, cho cháu bà. Nó bảo đã ăn ngoài chợ no rồi, nhưng bà biết rõ tính tằn tiện của con dâu, nó chẳng bao giờ ăn quà rong. Có lần bà bắt gặp, khi rửa chén, nó lén vét những hạt cơm còn sót trong nồi cho vào miệng. Bà quay đi, làm như không thấy nhưng nước mắt bà ứa ra.

Đêm nào bà cũng lầm thầm cầu Trời khấn Phật, kêu réo vong linh chồng bà phò hộ cho con trai bà không chết trong tù, được thả về với gia đình. Dù sao trong nhà có đàn ông cũng là rường cột, đỡ đần biết bao khó khăn. Lúc đó con dâu bà không còn vừa vất vả vừa nhớ chồng đến héo hon. Và bà cũng biết, dù có thương nhớ chồng đến bao nhiêu thì với thời gian cũng phai nhạt dần trong khi cuộc sống ngày càng khó khăn. Nó không thể đi mãi trên con đường gian khổ hầu như vô tận đó được. Thế nên nó có bỏ đi cũng là chuyện thường tình. Điều lo lắng cho bà là không hiểu, khi đi lấy chồng khác, nó có dẫn theo thằng cháu nội của bà không? Rủi thằng con bà chết trong tù thì coi như chẳng còn ai hương khói, cúng kiến ông bà, cha mẹ. Mồ mả sẽ bị bỏ phế, vong linh tổ tiên, cả vợ chồng bà nữa sẽ thành những hồn ma đói khát, vất vưởng, không nơi nương tựa.

Bà Tư thở dài, nhìn lên mái nhà tôn, bà không biết, khi con dâu bỏ đi, bà bán nhà nầy được bao nhiêu tiền, thăm nuôi thằng con được bao nhiêu lần? Không biết sức bà còn đi nổi không? Đường đi thăm nuôi, phải đi bộ nửa ngày trong rừng mới đến trại tù.

Nhưng bán nhà rồi sẽ ở đâu? Hay là bán rẻ, chỉ xin để chiếc giường nhỏ ở chái nhà cho hai bà cháu? Bà Tư nhắm mắt, ước ao đây là cơn ác mộng để rồi bà sẽ tỉnh lại, sẽ sống lại những ngày tháng hạnh phúc bên chồng, bên con, nhưng phần khác bà biết chắc là cơn ác mộng sẽ còn bi đát hơn nữa.

Bà lắng nghe những tiếng động dưới bếp. Con dâu bà đang nấu nướng, chuẩn bị vật thực, sáng mai đi thăm nuôi chồng. Lúc nãy, bà phụ nó xắt thịt, xắt sả, lặt rau...Nó bảo bà lên nghỉ ngơi. Thấy vẻ mặt buồn buồn, nhất là thấy ngón tay đeo nhẫn trống trơn, bà bỏ đi nằm. Bà không đủ can đảm chờ nghe nó bảo rằng sẽ đi lấy chồng khác.

Bỗng nhiên bà thấy con dâu trở thành đối thủ của bà. Bà phải làm cách nào để giữ đứa cháu nội? Bà khóc lóc, năn nỉ? Hay bà làm bộ dữ dằn cho nó sợ? Điều chắc chắn là bà không thể chửi mắng nó được. Bà thương nó như con ruột. Giá như nó là con ruột, bà có khuyên nó ráng chịu đựng chờ chồng hay là để nó tự quyết định lấy? Chiều nay, thấy con dâu không xách bọc áo quần cũ về như mọi khi, bà đoán nó đã bán đổ, bán tháo tất cả để sáng mai đi thăm chồng lần cuối rồi nó đi thẳng với thằng chồng mới. Bỗng nhiên bà sợ đến nghẹt thở khi nghĩ đến cảnh con dâu bà tuyên bố với chồng nó là lần cuối thăm nuôi, nó sẽ đi lấy chồng khác. Rồi con bà sẽ phản ứng ra sao? Trong tù ăn uống thiếu thốn, lao động khổ sai mà tinh thần suy sụp thì cái chết sẽ đến chắc chắn. Bà thở dài, tự biết mình hoàn toàn bất lực, đành buông tay chờ tai họa ập đến.

Mùi xào nấu thơm phức khiến bà nghĩ đến kỳ thăm nuôi kế tiếp bà phải tự lo lấy. Bà phải nấu nướng những gì, mua sắm món gì để đem lên cho con trên trại cải tạo? Suy nghĩ miên man, bà thiếp dần. Trong giấc ngủ, bà mơ thấy chỉ có mình bà xách giỏ thăm nuôi nặng trịch, lếch thếch lội bộ, qua đèo, vượt suối...rồi bà lại thấy cán bộ trại ra bảo con bà chết rồi, thế là bà lại lếch thếch quay về vừa đi vừa khóc...

Sau khi cơm chín, cô Lan xới ra một cái thau nhỏ cho mau nguội, để sau đó, cô sẽ gói chặt bằng lá chuối thành cơm vắt. Cô cũng gói một gói nhỏ để ăn dọc đường. Cô đổ những miếng thịt ba chỉ mà mẹ chồng cô vừa xắt lúc nãy vào chảo. Cô đảo cho mỡ tan ra. Tiếng mỡ nổ lách tách nho nhỏ. Cô xếp những gói đậu, đường, gạo...những lon, lọ vào hai giỏ cói lớn. Cô cũng không quên bỏ vào giỏ một gói kẹo nhỏ, những viên kẹo xanh trong giấy kiếng để nhắc chồng nhớ những kỷ niệm đẹp khi còn đi học. Ngày đó cả hai cùng học chung một lớp, trường Lê Văn Duyệt, cô thường chờ giờ ra chơi, lén để những viên kẹo xanh, chua chua vào hộc bàn cho người yêu. Cô cũng không quên nhét vào xách tay của mình tấm khăn trải bàn bằng vải ny lông để đi dọc đường sẽ dùng che mưa nếu trời mưa, hoặc trễ chuyến xe, sẽ thành tấm đắp khi cùng với những người thăm nuôi khác ngủ bờ, ngủ buội...Cô đảo tiếp chảo thịt mỡ cho chín hẳn mới đổ sả bằm, đường, ớt bột và hai gói mắm ruốc vào. Cô chợt thấy một miếng mỡ lớn, cỡ ngón tay cái lẫn vào đấy, có lẽ mẹ chồng cô quên cắt nhỏ miếng mỡ nầy. Cô tưởng tượng khi chồng cô bắt gặp miếng mỡ lớn nầy sẽ ngạc nhiên lắm. Miếng mỡ ướp mắm ruốc, vừa thơm vừa cay cay, chồng cô cắn ngập vào đấy cho mỡ tươm ra trên lưỡi. Cô Lan mỉm cười, nước miếng cô ứa ra vì thèm. Cô mút đầu đũa, chép miệng "Mắm ruốc ngon thật!" Cô nuốt ực nước miếng. Lòng cô vui vì nghĩ đến chồng, khi ăn món ruốc sả nầy sẽ thấy ngon và sẽ nhớ đến cô, thương yêu cô nhiều hơn.

Khi thấy ruốc hơi quánh lại, cô trút chảo ruốc vào một thau nhỏ, chờ cho nguội mới bỏ vào bao ni lông, nhét vào lon guigoz (một loại lon nhôm, cỡ một lít, đựng sữa bột, hiệu Guigoz, khi dùng hết sữa, lon được giữ lại đựng nước, thức ăn rất tiện lợi. Tù cải tạo thường dùng loại lon nầy). Miếng mỡ lớn lại xuất hiện, lăn vào góc thau. Cô gắp bỏ lại vào chảo cùng với ít mắm ruốc và bắc chảo lên bếp. Cô định dùng miếng mỡ rán thêm chút nước mỡ. Cô múc mấy vá cơm bỏ vào chảo và đảo lên. Những hạt cơm trắng dính mắm thành màu nâu. Cô thêm chút nước mắm, đập vài tép tỏi, bỏ vào. Một lát, cô nhắc xuống chia đều chỗ cơm chiên vào hai chén nhỏ. Sáng mai hai bà cháu sẽ có món điểm tâm đặc biệt. Phần cô là những hạt cơm còn sót lại trong chảo, ước chừng vài muỗng. Miếng thịt mỡ nằm lẫn vào cơm chiên nhưng cô nhận ra ngay, cô gắp bỏ vào lon guigoz đựng mắm ruốc của chồng, nhưng không hiểu sao, cô gắp bỏ vào chén cơm cho con. Sáng mai cô dậy sớm đi thăm nuôi, thằng bé thức giấc không thấy mẹ sẽ khóc, bà nội nó sẽ cho nó ăn cơm chiên với miếng mỡ nầy, nó mừng lắm, sẽ hết khóc. Từ ngày cha nó đi tù, nó chưa hề được ăn miếng ngon nào, chỉ những dịp thăm nuôi, cô mới dành lại cho con chút thức ăn. Cô để miếng mỡ trên chén cơm, bà nội nó sẽ hiểu là phần của cháu bà. Thằng bé thiếu dinh dưỡng, lớn không nổi. Mỗi khi thấy con cán bộ, cùng tuổi đó, hai má phinh phính, chân tay mũm mĩm, cô nghĩ đến con mình mà đau lòng. Miếng ăn hàng ngày không đủ, lấy đâu mà bổ dưỡng. Cô không hiểu chút mỡ nầy có chất bổ gì, nhưng có còn hơn không.

Cô nhớ lại lúc mang bầu thằng bé, mẹ chồng cô mừng lắm, cứ ép ăn món nầy, món nọ. Bà còn bổ thuốc Bắc về, lụm cụm sắc lên, dỗ dành cô như với người bịnh. Vì thương bà, cô nhắm mắt uống bừa thứ nước vừa thơm vừa đắng vừa khó nuốt. Cô biết, sự săn sóc đó là vì cháu nội nhưng cũng có thương cô. Lúc nào bà cũng dịu dàng với cô. Cô thương mẹ chồng như mẹ ruột. Hai người đàn bà, trong cảnh túng quẫn, càng phải nương nhau mà sống. Cả hai đều cùng yêu thương một người trong tù, không biết sống chết lúc nào. Sau bảy lăm (75), cha chồng chết, chồng đi tù, mẹ chồng cô trở nên ít nói. Càng ngày bà càng gầy yếu, lưng còng xuống. Bà chóng già vì buồn phiền và thiếu ăn. Cũng may bà chưa ngã bịnh. Cô bỗng lo lắng, rủi mẹ chồng cô bịnh hoạn thì tiền đâu lo thuốc men, chạy chữa? Chẳng may có mệnh hệ nào thì sao? Ý nghĩ đó khiến cô vừa sợ vừa tội nghiệp cho bà. Thế nên cô bèn gắp miếng mỡ từ chén thằng con bỏ qua chén cơm mẹ chồng. Cô mỉm cười nghĩ ra một ý hay là cô vùi miếng mỡ trong cơm, mẹ chồng cô sẽ không thấy. Cô xúc cơm còn lại trong chảo cho vào chén thằng con, như thế, sáng mai bà thấy chén nào nhiều cơm sẽ lấy ra cho thằng bé ăn. Bà sẽ ăn sau, sẽ gặp miếng mỡ. Cô vét mấy hạt cơm còn lại trong chảo cho vào miệng. Cơm chiên mắm ruốc ngon thật! Chỉ được hơn muỗng cơm, cô nhai thật chậm để thưởng thức được lâu món ăn đặc biệt nầy. Xong, cô uống nước, thấy lửng dạ, cô súc miệng, rửa tay, chuẩn bị đi ngủ, sáng mai còn phải dậy sớm. Khi lau tay, cô cảm thấy bàn tay mình có gì bất thường mới nhớ ra chiếc nhẫn cưới không có trên ngón tay! Cô đứng lặng người. Cô buồn quá, nước mắt ứa ra. Vật kỷ niệm của vợ chồng cô không còn nữa! Trưa nay, lúc ngồi bán áo quần cũ trên lề đường, bên hông chợ Bà Chiểu, phía Lăng Ông, cô ngồi nghĩ đến ngày mai đi thăm nuôi chồng, sẽ gặp chồng, nhìn chồng cho đỡ nhớ. Bán xong mớ hàng nầy cô sẽ mua những gì để tiếp tế cho chồng? Cô sẽ gửi một gói kẹo để nhắc chồng nhớ lại những ngày còn đi học, yêu nhau, đẹp đẽ, hạnh phúc. Đang mơ mộng, cô bỗng nghe lao xao và tiếng kêu "Công an!". Mọi người ôm hàng hóa tuông chạy, cô cũng vội túm bốn góc của tấm ny lông lót trưng bày quần áo cũ của mình, định chạy vào cổng bên hông của Lăng Ông, nhưng không kịp, khắp nơi đã đầy công an với dân phòng. Thế là họ giật lấy những hàng hóa, thịt thà, rau cỏ, gà vịt... của những người buôn bán lề đường, vất tất cả vào xe, chở đi. Vì quá bất ngờ, những nạn nhân chỉ biết đứng ngớ ra, thất thần. Quãng đường nầy cấm tụ tập buôn bán. Mỗi khi có lễ lớn như Quốc Khánh, ngày thành lập đảng, sinh nhật bác Hồ...là công an với dân phòng đi dọn dẹp lòng lề đường "cho đường phố được mỹ quan". Thường thì nghe báo động một số nhanh chân thoát được. Không ngờ hôm nay công an lại mặc thường phục, họ chia nhau mỗi công an đứng gần một người ngồi bán, thế nên khi xe công an sắc phục xuất hiện người bán vừa đứng lên là hàng hóa đã bị công an thường phục đứng bên cạnh giữ chặt, không chạy được, đành bị tịch thu. Muốn nhận lại hàng phải lên phường công an nộp phạt. Tiền phạt rất nặng. Công an rất khôn, ngày thường họ không đuổi, vì đuổi, chẳng ai đến đó buôn bán thì ngày lễ lấy đâu ra tiền phạt. Cô Lan không muốn đi chuộc những áo quần cũ đó. Cô là vợ sỹ quan 'ngụy' nên thường bị chửi mắng và phạt rất nặng, phần khác cô là gái một con trông mòn con mắt nên đôi khi họ rất tử tế cho lại hàng, không phải nộp phạt nhưng đề nghị phải đi ăn tối hay đi coi hát với một người nào đó trong bọn họ. Bị mắng chửi, bị phạt nặng cô nhẫn nhục chịu đựng, nhưng khi thấy họ tử tế, vui vẻ cho lại hàng là cô yên lặng bỏ hàng ra về. Cô thấy họ như những con rắn độc nhưng miệng lưỡi lúc nào cũng nhân nghĩa. Như trường hợp của cô. Mất vốn hoài. Họ tịch thu hàng, lấy tiền của cô mà vẫn cứ hăm dọa là sẽ đưa cô vào trại cải tạo để thành công dân tốt xã hội chủ nghĩa. Mà cô có làm gì phạm pháp đâu?

Sáng nay cô đã dốc hết vốn liếng ra mua được một số áo quần còn tốt của một người túng tiền, đến trưa cô bị tịch thu tất cả. Thế nên cô đành bán chiếc nhẫn cưới để mua thực phẩm thăm nuôi chồng. Tính cô không biết nói dối, cô suy nghĩ mãi không biết giải thích cách nào để chồng không nghi ngờ lòng chung thủy của cô, mà nói thật thì chồng sẽ lo lắng cho gia đình. Cô cũng không thấy trong nhà còn gì có thể đem bán làm vốn để sinh sống. Trong những ngày sắp tới đây, chắc gì trong nhà còn gạo để ăn nói gì đến thăm nuôi. Có thể cô không thăm nuôi chồng nữa. Nghĩ thế cô càng sợ hãi, chồng cô đã gầy rạc, hai má tóp lại, hốc mắt sâu xuống, hai bàn tay trơ xương, nếu không có thăm nuôi chắc gì sống nổi! Nghĩ đến đấy cô vội lấy đôi đũa moi miếng mỡ trong chén cơm của mẹ chồng bỏ vào lon ruốc sả của chồng. Cô thì thầm như nói với chồng "Thêm chút mỡ nầy cũng đỡ, anh cố gắng chịu đựng, em sẽ tìm mọi cách lên thăm anh, nhưng chỉ thăm thôi chứ em không còn tiền để mua thực phẩm nuôi anh". Cô như an ủi chồng "Em sẽ đem con lên cho anh thăm". Rồi cô thấy háo hức, vui mừng khi nghĩ đến giây phút gặp mặt chồng. Cô nhớ lại những lời chồng dặn "Em đừng đem quà cáp cho tốn tiền. Anh chỉ cần được gặp em, gặp con là anh đủ tinh thần chịu đựng rồi. Nhất là khi thấy con chóng lớn là anh vui". Cô biết chồng cô cố giấu nỗi buồn khi thấy con xanh xao, ốm yếu... Vậy là cô lại gắp miếng thịt mỡ trong lon ra, bỏ vào chén của con. Con khỏe mạnh, chồng cô sẽ vui, sẽ cố gắng chịu đựng gian khổ.

Miếng thịt mỡ chỉ bằng ngón tay cái, như một sinh vật, cứ nhảy từ lon ra chén rồi từ chén nhảy vô lon.

Cô buông đũa, chạy vào giường, ôm lấy con, và cô khóc nức nở. Giòng nước mắt yêu thương chồng con, lo lắng không biết bao giờ chồng về hay sẽ chết trong tù?! Cô cũng khóc vì buồn cho hoàn cảnh mình, chân yếu tay mềm, không đủ sức nuôi mẹ chồng, nuôi chồng, nuôi con...

Bà Tư vẫn còn thao thức. Tuy nhắm mắt nhưng nghe những tiếng động, bà biết con dâu đang làm gì. Tiếng soong, chảo là cô đang nấu nướng, tiếng lon guizgo va chạm nhau là cô đang sắp xếp đồ thăm nuôi vào giỏ xách. Đến khi nghe tiếng cô khóc thì bà mừng vì yên trí rằng con dâu bà, có thể ngày mai, sau khi thăm nuôi, nó đi luôn theo chồng mới nhưng sẽ không dẫn con theo. Vì không dẫn con đi nên nó mới khóc lóc, lưu luyến với con như thế. Bà ngồi dậy, đi xuống bếp vừa nói.

- Con ngủ đi, lấy sức mai đi sớm, để mẹ dọn dẹp.
- Cám ơn mẹ. Sáng mai con cho cháu cùng đi thăm ba nó.
Bà lại đâm lo, kiểu nầy nó dám dẫn cháu bà đi luôn, bà hỏi dò.
- Con có đem áo quần của nó theo không?
Con dâu bà ngạc nhiên.
- Dạ không, đi về một ngày. Mọi khi đâu có cần đem áo quần theo?
Bà mừng rỡ.
- Cám ơn con!
Cô càng ngạc nhiên hơn, không hiểu sao mẹ chồng cô lại nói tiếng cám ơn đó?

Phạm Thành Châu

 NẾU Mt68 KHÔNG NHẦM THÌ VIỆT BÁO SAN JOSE LÀ CỦA NHÃ CA VÀ TRẦN DẠ TỪ - VÀ CŨNG NẾU LÃO MÓC CÓ CHÂN TRONG VIỆT BÁO SAO LẠI HÀI TỘI NHÃ CA -TRẦN DẠ TỪ ??? 

(*Lão Móc hài tội Nhã Ca- Trần Dạ Từ không sai - Nhã Ca - Trần Dạ Từ đứng chung DS với VCNV Vĩnh Hảo (Houston), Nhóm Nghệ sĩ  trá hình VCNV Hải ngoại, bênh vực Tuệ Sĩ trước đây.)

Hài tội Nhã Ca- Trần Dạ Từ sao lại làm việc, nhận thù lao của 2 đưa nầy chứ??? Như vậy có chân chính, có phản chủ không Lão Móc, Nguyễn Văn Nghiêm, Nguyễn Thiếu Nhẫn ???????!!!!./-Mt68

____________________


THƯ PHÚC ĐÁP BÁC SĨ TRẦN VĂN TÍCH - ĐỨC QUỐC


Kính thưa bác sĩ Trần Văn Tích,

Tôi rất ngạc nhiên sau khi tôi phổ biến trên diễn đàn điện tử toàn cầu bài viết “Những văn nghệ sĩ sống bằng đau khổ và xác chết của đồng loại" viết về những văn nghệ sĩ vô ơn với hai chế độ Việt Nam Cộng Hòa như các ông Vương Hồng Sểnh, Trần Tuấn Khải... ở trong nước, như nhà văn Nhật Tiến, Nhã Ca ở hải ngoại. Ngay lập tức tôi nhận được điện thư của bác sĩ, có nội dung như sau:

“Thưa ông Lão Móc

Cách đây ít lâu tôi có trực tiếp trình bày với ông nhận xét của tôi là bỗng dưng thấy ông chịu khó viết bài đưa lên mạng rồi chăm chỉ gửi bài cho bà con đọc. Hôm nay tôi cũng nhận được bài của ông nhưng tuy cố gắng đọc cẩn thận từ đầu đến cuối mà tôi vẫn không hiểu ý chính của ông. Ý chính đó được nêu từ đầu đề bài viết và từ những dòng đầu tiên của bài viết. Tại sao ông ngưng đăng những bài viết của bình luận gia thời sự Vũ Linh? Phải chăng tác giả những bản văn chính luận bênh vực hết mình cựu Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump từng “sống bằng đau khổ và xác chết của đồng loại"?, như đầu đề bài viết nêu ra?

Nếu ông có dư thì giờ thì xin ông giải thích cho qua dăm ba chữ, vạn nhất nếu ông còn phải để thì giờ viết những bài mới thì xin ông coi như không có điện thư này.

Trân trọng kính chào và kính chúc sức khỏe dồi dào.

Trần Văn Tích"


Kính thưa bác sĩ,

Bài viết “Những văn nghệ sĩ sống bằng đau khổ và xác chết của đồng loại" được viết trước đại dịch Covid Vũ Hán. Tôi cho phổ biến lại bài viết vì bà nhà văn Trần Mộng Tú vừa phổ biến trên diễn đàn điện tử toàn cầu bài viết ca tụng bà nhà văn Nhã Ca. Theo bài viết của bà nhà văn Trần Mộng Tú thì ông bà nhà văn, nhà thơ Trần Dạ Từ, Nhã Ca đã từ giã Hoa Kỳ về dưỡng già ở Thụy Điển. Bà nhà văn Trần Mộng Tú là người mà ông Nick Út, phóng viên nhiếp ảnh chiến trường nổi tiếng với bức ảnh “Em bé Napalm", luôn đèo sau xe gắn máy khi đi làm... phóng sự chiến trường lúc miền Nam chưa bị Việt Cộng cưỡng chiếm. Mở đầu bài viết “Những văn nghệ sĩ sống bằng đau khổ và xác chết của đồng loại", tôi có viết phần “Dẫn nhập" như sau:

“Mới đây có thân hữu gửi điện thư hỏi tôi vì sao tờ Việt Báo ngưng đăng tải những bài viết của bình luận gia thời sự Vũ Linh, áp lực từ đâu?

Bài viết sau đây coi như câu trả lời cho vị thân hữu.”


Tôi trả lời vị thân hữu lý do vì sao tờ Việt Báo ngưng đăng tải những bài viết của bình luận gia thời sự Vũ Linh. Bác sĩ lại hỏi tôi: “Tại sao ông ngưng đăng những bài viết của bình luận gia thời sự Vũ Linh?” Biết trả lời sao bây giờ?

*

“Trăm năm còn có gì đâu

Chẳng qua một nấm cổ khâu xanh rì"

Hình như cách đây mấy trăm năm Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã than vãn như thế. Tôi lạc quan hơn tác giả Cung Oán Ngâm Khúc. Và nhất là trước bức điện thư rất lịch sự của bác sĩ, tôi xin kể hầu bác sĩ một chuyện trích trong quyển “Chuyện cấm đàn bà" của nhà văn Đặng Trần Huân. Chuyện kể rằng: “Có anh nhím đực một hôm uống rượu thèm tình bèn đi tìm nàng nhím cái. Anh chị nhím gặp nhau ngay lúc cúp điện. Chuyện xong xuôi thì điện bỗng sáng trở lại. Anh nhím đực nhìn lại thì phát giác ra mình vừa làm tình với cái bàn chải,

Anh nhím đực nhún vai:

-Ai mà chả có lúc nhầm".

Kính chúc bác sĩ sức khỏe dồi dào.

Kính thư


LÃO MÓC

 XIN CHÂN THÀNH CÁO LỖI CHUNG CÙNG BÀ CON TỴ NẠN KHẮP NƠI V/V ĐĂNG TẢI "VIDEO VÔ CÙNG MẤT DẠY, MỌI RỢ CỦA MỘT CÔNG AN NGHIỆP VỤ TRONG NƯỚC"- 

Mt68 POST LÊN ĐỂ CHỨNG MINH "SỰ THẬT" SAU GẦN 50 NĂM CẦM QUYỀN VIỆT CỘNG ĐÃ ĐẠT ĐỈNH CAO THÚ VẬT BẰNG NGÔN NGỮ RẤT PHỔ THÔNG NGÀY NAY- ĐÃ TRỞ THÀNH NGÔN NGỮ BÌNH THƯỜNG, RẤT TIÊU CHUẨN CỦA CẢ NƯỚC, RẤT CĂN BẢN CỦA VIỆT CỘNG NÓI CHUNG.

NẾU CÓ AI CHỊU NỔI NHỮNG NGÔN TỪ "THÚ VẬT" NẦY XIN CỨ SỚM DỌN NHÀ VỀ NƯỚC SỐNG ĐỂ CHUNG HƯỞNG NHỮNG VINH QUANG DÃ MAN, MỌI RỢ ĐỈNH CAO CỦA VIỆT CỘNG.- 

TÊN THÁI QUỐC THỌ NẦY LÀ CÔNG AN TRÁ HÌNH ĐỠ ĐẦU CHO TÊN CHÓ  SĂN VC NẰM VÙNG HÒANG DUY HÙNG BẤY LÂU NAY./-Mt68