Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.

Saturday, 23 October 2021

 Đc Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II 

và S Sp Đ ca Chế Đ Cng Sn Đông Âu




Peggy Noonan

(The Wall Street Journal)

Lê Quang Trình dịch 


Bài viết sau đây mang tựa đề "We Want God," do tác giả Peggy Noonan viết trên Opinion Journal, The Wall Street Journal, ngày 7 tháng 4 năm 2005.  Bản văn bằng Anh ngữ được phổ biến ở www.opinionjournal.com. 



“Lịch sử thường ghi rằng Đệ nhị thế chiến kết thúc vào năm 1945.  Điều đó có thể đúng ở nhiều nơi trên thế giới và ở Âu châu, nhưng không phải ở Ba Lan.  Lịch sử cũng ghi rằng các chế độ Cộng sản sụp đổ ở Nga và ở Đông âu vào năm 1989.  Điều đó không đúng ở Ba Lan.  Thực ra, Đệ nhị thế chiến và chế độ Cộng sản kết thúc ở Ba Lan vào cùng một thời gian.  Đó là vào năm 1979, khi Giáo Hoàng Gioan Phao-lô trở lại quê hương.”  

Ông Jerzy Turowicz



T

rong những ngày vừa qua, báo chí và các đài truyền thông đã nói nhiều đến vai trò của Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II trong việc giải thể chế độ Cộng sản ở Nga và ở Đông âu vào cuối thập niên 1980... Nhưng có lẽ còn rất nhiều điều liên quan đến biến cố lịch sử này mà hôm nay người ta chưa thể biết hết, kể cả những vận động ngoại giao của Tòa thánh Vatican và những trao đổi giữa các nhà lãnh đạo thế giới vào thời gian ấy như Ronald Reagan, Margaret Thatcher, Michail Gorbachev và nhà lãnh tụ lao động Lech Walesa của Ba Lan...


Nhưng có một điều mà tôi (tác giả - ghi chú của người dịch) và nhiều người khác đã nhìn thấy, không phải vào cuối thập niên 1980, nhưng ngay từ những ngày đầu sau khi Karol Wojtyla mới lên làm Giáo Hoàng.  Người ta có thể nói ngay từ những ngày đầu của Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, chế độ Cộng sản ở Ba Lan, ở Đông âu, và cả khối Cộng sản Âu châu đã bắt đầu lung lay kể từ chuyến viếng thăm Ba Lan của Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II vào tháng 6 năm 1979.


Vào tháng 6 năm 1979, Gioan Phao-lô II mới lên làm Giáo Hoàng được 8 tháng.  Từ  những ngày đầu sau khi được chọn làm Đấng kế vị Thánh Phê-rô, Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô đã bày tỏ ý muốn được trở về quê hương của mình ở Ba Lan, với tư cách là vị Giáo Hoàng.  Và từ đó những trao đổi đã được thực hiện giữa Tòa thánh Vatican và chính quyền Cộng sản Ba Lan để vận động cho việc Đức Giáo Hoàng trở lại Ba Lan.


Chính quyền Cộng sản Ba Lan đã đứng trước một vấn đề nan giải.  Việc tân Giáo Hoàng Gioan Phao-lô muốn trở về quê hương là một việc đương nhiên và ai nấy đều chờ đợi.  Nhưng trong trường hợp này, Gioan Phao-lô có thể là một sức mạnh làm lung lay chế độ của chính quyền Ba Lan, vì nay uy tín của một Giáo hoàng là một điều nguy hiểm cho chế độ. Nhưng chính quyền Ba Lan không thể  từ chối.  


Nếu vì một lý do gì mà chính quyền Ba Lan từ chối không cho Giáo Hoàng Gioan Phao-lô trở về Ba Lan, điều đó sẽ làm cho nhiều người thất vọng và nhất là sẽ làm cho thế giới và các nước Đông âu nghĩ rằng Ba Lan lo sợ trước một sức mạnh thiêng liêng.  Vả lại, dầu có là Giáo Hoàng đi nữa, Gioan Phao-lô đâu có mạnh hơn cả khối Cộng sản Nga và Đông âu?  Nhưng đàng khác, nếu Gioan Phao-lô công khai trở về như một kẻ chiến thắng, có thể người dân Ba Lan sẽ long trọng đón tiếp và biết đâu họ sẽ chờ đợi Ngài như một vị cứu tinh dân tộc?  Nếu một cuộc nổi dậy xảy ra ở Ba Lan, việc đầu tiên là Nga Sô sẽ có lý do chính đáng để đưa quân đội và chiến xa vào xâm chiếm Ba Lan một lần nữa.  Lúc đó mọi sự sẽ quá trễ...


Nhưng sau cùng thì chính quyền Cộng sản Ba Lan đã đồng ý cho Giáo Hoàng Gioan Phao-lô trở lại Ba Lan, theo một chương trình đã được chấp thuận trước.  Mấy tháng trước các chỉ thị được đưa ra nhằm mục đích làm giảm bớt uy tín của vị Giáo Hoàng và giảm bớt những hào hứng của dân chúng trước cuộc thăm viếng.  Như thế chính quyền Ba Lan cũng không bị mất uy tín trước dư luận thế giới.


Chính quyền Cộng sản Ba Lan sau cùng đã chính thức mời Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô về Ba Lan, và đinh ninh rằng một người lãnh đạo khôn ngoan như Hồng y Karol Wojtyla, nay là Giáo Hoàng của Giáo Hội La mã, sẽ không để cho bất cứ một chuyện đáng tiếc nào xảy ra, và chắc chắn sẽ không là nguyên nhân cho bất cứ một cuộc cách mạng nào.  Dầu là Giáo Hoàng, ông sẽ cảm thấy mang ơn chế độ Cộng sản Ba Lan vì đã chính thức mời ông trở về quê hương trong niềm vui chiến thắng.  Ông sẽ hiểu rằng ông sẽ không làm gì có thể làm phật lòng chế độ.  Sau đó họ đã tuyên bố là Giáo Hoàng Gioan Phao-lô sẽ trở về Ba Lan, "như một cuộc hành hương thiêng liêng."


Tòa thánh Vatican đã nhanh chóng nhận lời mời của chính quyền Ba Lan.  Và Đức Giáo Hoàng đã chuẩn bị và đã trở về Ba Lan... Có người cho rằng kể từ hôm ấy biên giới của Ba Lan và biên giới của các nước Đông âu, kể cả Nga sô, đã bắt đầu biến chuyển.


Hai tháng trước khi Giáo Hoàng đến Ba Lan, nhiều chỉ thị được đưa ra cho các cán bộ Cộng sản để thông báo cho dân chúng.  Trong các trường học, người ta cho trẻ em biết là "Giáo Hoàng không phải là một người dễ thương" và là một kẻ thù của chế độ.  "Vì ông có khả năng vận dụng ngôn ngữ khéo léo và biết dùng những xảo thuật như bắt tay mọi người, hôn trẻ con..., ông có thể thu hút được nhiều người, nhất là những người trong ngành báo chí, ông sẽ còn là một nguy hiểm của chế độ..." Do đó, "mọi phương tiện có thể được vận dụng để ngăn cản sự hâm mộ của dân chúng" đối với Giáo Hoàng.  Ngoài ra, chính quyền cũng đưa ra những hướng dẫn cho các cơ quan truyền thông như các đài phát thanh, truyền hình, và báo chí để giảm bớt những phổ biến về chương trình thăm viếng của vị Giáo Hoàng này, như các cuộc phỏng vấn, các sinh hoạt, thăm viếng v.v...


Vào ngày 2 tháng 6 năm 1979 Giáo Hoàng Gioan Phao-lô đã đến Ba Lan.  Những gì xảy ra sau đó sẽ không bao giờ phai mờ trong trí nhớ của những người đã chứng kiến...


“Con người không thể để Chúa Ki-tô ra ngoài cuộc đời mình trong bất cứ giai đoạn nào của lịch sử, ở bất cứ vĩ tuyền hoặc kinh tuyến nào...”              

(GH Gioan Phao-lô II)


Gioan Phao-lô đã đến, và ngay trên bãi đất ở phi trường gần Warsaw đã quỳ xuống hôn đất.  Và người ta nhận thấy một điều: Khác với sự yên lặng trong nhiều năm qua, các nhà thờ ở Ba Lan đã đổ chuông liên hồi như chào đón một vị cứu tinh dân tộc trở về...


Đức Giáo Hoàng di chuyển bằng đoàn xe có hộ tống từ phi trường vào thành phố Warsaw.

Chính quyền đã lo sợ sẽ có hàng ngàn người, hay hàng chục ngàn người, đứng sắp hàng hai bên vệ đường từ phi trường trở đi, dọc theo xa lộ và trong các đường phố, để chào đón vị Giáo Hoàng người Ba Lan... Thật ra, hôm đó đã có hơn một triệu người có mặt!


Tại Công trường Victory trong khu Warsaw cũ, Đức Giáo Hoàng đã dâng Thánh lễ.  Từ cửa sổ các cao ốc chung quanh, các đảng viên Cộng sản chăm chú theo dõi.  Theo ông George Weigel  - người đã viết cuốn tiểu sử đầy đủ nhất của Giáo Hoàng Gioan Phao-lô -  thì trong Thánh lễ hôm đó, Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô đã giảng một bài hay nhất trong suốt cuộc đời của mình.

Ngài nói: "Tại sao Thiên Chúa đã đưa một người Ba Lan  lên địa vị Giáo Hoàng?  Có lẽ vì Người nhìn thấy dân tộc Ba Lan đã trải qua quá nhiều đau khổ trong nhiều thế kỷ nay và cho đến nay, vào những ngày trong thế kỷ 20, Ba Lan vẫn là miền đất của những người có trách nhiệm làm chứng nhân cho Thiên Chúa."  Đức Giáo Hoàng nói tiếp: "Dân tộc Ba Lan đã được chọn lựa trong vai trò cao cả của mình để làm chứng nhân cho Thập giá của Đức Ki-tô và về sự Phục sinh của Ngài."  Đức Giáo Hoàng ngừng lại, rồi hướng về những người tham dự, Ngài lớn tiếng kêu gọi: "Hỡi người Ba Lan, anh chị em có muốn nhận lãnh vai trò lịch sử của mình không?"

Đám đông đồng thanh đáp lại: "We want God."  

Lời đáp trả vang dội một góc trời trong Công trường Victory. "We want God!"  Lời đáp trả tưng bừng phát ra từ miệng những người dân lâu nay vẫn sống trong lo sợ dưới chế độ độc tài vô thần.

Hôm đó là ngày áp lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống.  Cũng vào thời gian này gần hai ngàn năm trước ở Giê-ru-sa-lem, các tông đồ lo sợ sau cái chết của Thầy mình đã gặp nhau và trong căn phòng đóng kín, Chúa Thánh Linh đã đến ban cho sức mạnh và niềm tin.  Ngày hôm nay Gioan Phao-lô đã làm sống lại cái bầu khí của hai ngàn năm trước.  Ngài nói: Công trình tạo dựng cao cả nhất của Thiên Chúa là gì? Và Ngài đáp: Là con người.  Và ai đã cứu rỗi con người? Chúa Ki-tô, Đấng Cứu Thế.  Và Ngài liền tuyên bố: Con người không thể để Chúa Ki-tô ra ngoài cuộc đời mình trong bất cứ giai đoạn nào của lịch sử, ở bất cứ vĩ tuyền hoặc kinh tuyến nào... Việc từ chối Chúa Ki-tô trong cuộc sống và trong lịch sử là một hành động đi ngược lại bản chất con người!  Nếu không có Chúa Ki-tô, làm sao ai hiểu được lịch sử của dân tộc Ba Lan?  Ngay cả những người ngày nay không chấp nhận Chúa Ki-tô vẫn còn sống trong ảnh hưởng của Người trong suốt lịch sử.

Gioan Phao-lô nói tiếp: Chúa Ki-tô không những là quá khứ của Ba Lan, Người còn là tương lai của cả dân tộc chúng ta!

Và đám đông lại đồng thanh đáp trả: "We want God!"


Các cán bộ Cộng sản có mặt trong các khách sạn chung quanh Công trường Victory hôm đó đều đã chứng kiến cái quang cảnh và những lời đối đáp vang dội giữa Giáo Hoàng Gioan Phao-lô và đám đông người Ba Lan.  Có lẽ vào lúc này thì họ nhận ra rằng chính quyền Cộng sản Ba Lan đã nhầm lẫn khi chấp nhận đối đầu với Gioan Phao-lô.  Dường như những lời nói trong bài giảng của Gioan Phao-lô ngày hôm ấy có sức mạnh làm rung chuyển cả những cao ốc chung quanh Công trường Victory.

Giáo Hoàng Gioan Phao-lô đã không thách thức chính quyền Ba Lan.  Ngài cũng đã không kêu gọi người Công giáo Ba Lan đứng lên chống lại chính quyền Cộng sản vô thần Ba Lan.  Người chỉ nhắc đến những sự kiện hiển nhiên.  Ông George Weigel đã ghi lại như sau:  "Hôm nay Ba Lan không phải là một nước Cộng sản.  Ba Lan là một quốc gia Công giáo do một chính quyền Cộng sản cai trị."


Ngày hôm sau, ngày 3 tháng 6 năm 1979, Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô đã có mặt trước Nhà thờ Chính tòa ở Gniez, một thành phố nhỏ có dân số độ 50,000.  Hôm đó Ngài cũng đã dâng Thánh lễ cho dân chúng.  Và một lần nữa Ngài đã nói những điều thật lạ lùng.

Ngài đã không đề cập đến những gì mà các chính quyền lưu tâm.  Ngài cũng không đề cập đến những gì mà phong trào đòi tự do ở Ba Lan đang mong muốn.  Ngài cũng không nói đến những khó khăn mà Nghiệp đoàn Solidarity đang đương đầu và đang tranh đấu. Ngài chỉ nói đến những gì Thiên Chúa muốn.

Ngài nói: 

"Chẳng phải điều mà Thiên Chúa muốn, điều mà Chúa Thánh Linh đòi hỏi là một Giáo hoàng, người Ba Lan, gốc Slaviô, phải mang ra ánh sáng một Âu châu đầy niềm tin Ki-tô giáo sao?  Phải, đó là điều Chúa Ki-tô mong muốn.  Và Chúa Thánh Linh đòi hỏi điều đó phải được lập đi lập lại trên khắp mọi nẻo đường.  Hôm nay một người đồng hương đã đến với anh chị em, như để cùng cất cao tiếng nói của mình giữa cả Âu châu, giữa cả thế giới..."


Điều mà Giáo Hoàng Gioan Phao-lô nói ra hôm đó thật lạ lùng.  Ngài đã nói với dân Ba Lan: Hãy xem những gì chúng ta thấy chung quanh chúng ta bằng một nhãn quan khác.  Hãy đặt chúng ta vào một hoàn cảnh khác.  Đừng cho rằng Âu châu sẽ bị phân hóa mãi.  Sự hiệp nhất vẫn nằm đâu đây, và người Cộng sản sẽ không lấy mất được.

Chung quy, Ngài chỉ nhắc đến một điều hiển nhiên:  Chúng ta là Ki-tô hữu, chúng ta có mặt ở đây, cùng hiệp nhất trong một niềm tin, bất chấp những gì người Cộng sản nói, và bất chấp những người đã vẽ lại bản đồ của chúng ta.


Thật là kỳ diệu.  Nhiều người cho rằng phải chăng Giáo Hoàng Gioan Phao-lô lúc ấy đã nhìn thấy những biến chuyển của Âu châu bắt đầu thành hình trong bóng tối.

Và ngày hôm đó, trước Nhà thờ Chính tòa ở Gniez, các đảng viên cán bộ Cộng sản không còn ngăn chận được tiếng vỗ tay và lòng hân hoan của người dân Ba Lan.  Họ đã sớm nhận ra sẽ không còn đủ chỗ trong các nhà giam cho số người đang quay lưng lại với chế độ.


Nhưng người ta phải chứng kiến những gì xảy ra ở Vận động trường Blonie ở gần Krakow mới thấy cái giai đoạn chuyển mình của cả Ba Lan, hay đúng hơn của cả Âu châu.  Những người quan sát lịch sử ngày nay khi nhìn lại không khỏi thấy giật mình vì thấy tình hình thế giới lúc ấy như được mở ra, và việc suy sụp của cả khối Cộng sản Nga, Cộng sản Đông âu như chỉ còn là chuyện đương nhiên.



“Kể từ hôm đó, tất cả những gì mà chính quyền Cộng sản Ba Lan tự gán cho mình đã bắt đầu sụp đổ.  Người dân Ba Lan tự bảo nhau: đã đến lúc tàn rồi...”


Vào ngày 10 tháng 6 năm 1979 thì Đức Gioan Phao-lô đã trở lại Ba Lan được một tuần.  Hôm đó trời trong  sáng thật đẹp.  Đức Giáo Hoàng sẽ một lần nữa dâng Thánh lễ ngoài trời cho dân chúng.  Chính quyền Cộng sản Ba Lan đã nhận thấy cần dè dặt nên đã ra lệnh cho các cơ quan truyền thông đừng phổ biến chương trình thăm viếng của Đức Giáo Hoàng trong mấy ngày này.  Tuy nhiên người dân Ba Lan đã chú ý và chờ đợi, và người ta kêu gọi nhau.


Các cán bộ Cộng sản được lệnh ngăn chận dân chúng Ba Lan bằng các phương tiện truyền thông, vì theo kinh nghiệm, trong Thánh lễ tuần trước ở Warsaw số người tham dự đã vượt quá sự ước đoán của các viên chức chính quyền.  Nhưng họ hy vọng lần này dân chúng Ba Lan đã quá quen thuộc với hình ảnh của Gioan Phao-lô và đã nghe hết những gì họ muốn nghe, nên có lẽ sẽ không có nhiều người đến.  Mọi việc sẽ được ổn định và không ai phải lo lắng gì nữa.

Thế nhưng mọi việc đã xảy đến ở Vận động trường Blonie…


Từ sáng sớm dân chúng Ba Lan đã lần lượt kéo đến.  Cho đến lúc Thánh lễ bắt đầu, người ta cho rằng chưa bao giờ trong lịch sử Ba Lan mà có một cuộc hội ngộ vĩ đại như thế.  Vào khoảng từ hai đến ba triệu người, có người còn cho là hơn thế nữa, đã đến tham dự Thánh lễ của Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô tại Vận động trường Blonie.

Và cũng chính tại nơi đây, trước khi kết thúc cuộc thăm viếng quê hương, Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô đã đích danh lên án chế độ Cộng sản và cho rằng chính chế độ Cộng sản đã và đang tiêu diệt những truyền thống Ki-tô giáo đã có từ ngàn năm của dân tộc Ba Lan.  Ngài đã nói như sau:


"Con người có thể quay lưng lại với Thiên Chúa và đường lối của Người và bỏ Người ra khỏi lịch sử của mình được không?  Dĩ nhiên, điều đó có thể được.  Con người vẫn có tự do.  Con người có thể từ chối Thiên Chúa.  Nhưng câu hỏi được đặt ra là: Con người có nên quay lưng lại với Thiên Chúa không?  Nhân danh ai? Với mục đích gì?  Con người sẽ biện luận ra sao, bằng lý trí hay bằng con tim, để đưa mình và những người thân yêu và tổ quốc của mình đi ngược lại với Thiên Chúa, Đấng đã hiện diện trong lòng dân tộc Ba Lan cả ngàn năm nay?  Người là Đấng đã mang lại bản chất 

cho chúng ta trong suốt thời gian qua...

"Hôm nay như một Giám mục đặt tay trong nghi thức ban phép Thêm sức, tôi cũng đặt tay trên tất cả anh chị em, những người có mặt ở đây, những người đồng hương của tôi. Và nhân danh Chúa Ki-tô, tôi nói với anh chị em: Hãy nhận lấy Chúa Thánh thần!

"Và như Thánh Phao-lô xưa, tôi kêu gọi anh chị em: Đừng dập tắt ngọn lửa Chúa Thánh thần!

"Anh chị em hãy sống can đảm bằng sức mạnh của Đức tin!  Hãy can đảm trong Đức tin!  Anh chị em hãy trung thành!  Hôm nay anh chị em cần đến sức mạnh này hơn bất cứ giai đoạn nào trong lịch sử của chúng ta...

"Anh chị em phải can đảm trong Đức ái, vì Đức ái mạnh hơn cả sự chết... Khi chúng ta có sức mạnh của Chúa Thánh thần, chúng ta sẽ có đầy Đức tin... Anh chị em đừng sợ... Tôi kêu gọi anh chị em:  Đừng bao giờ mất lòng tin, đừng để bị đánh bại, đừng thất vọng.  Hãy tin tưởng nơi Người là Đấng đã che chở bao thế hệ ông bà chúng ta.  Đừng bao giờ tách rời Người và đừng bao giờ đánh mất sự tự do thiêng liêng của mình..."



Kể từ hôm đó, Ba Lan đã bắt đầu thay đổi.  Kể từ hôm đó hàng triệu người Ba Lan từ Vận động trường Blonie ra về đã bắt đầu trở thành những con người khác.  Họ không còn thấy mình như những nạn nhân của lịch sử.  Họ thấy mình trở nên những nhân chứng của Chúa Ki-tô.


Và tối hôm đó hàng triệu người Ba Lan từ Vận động trường Blonie trở về đã nhìn thấy một điều mà họ chưa nhìn thấy trước đây.  Các đài truyền hình do chính quyền kiểm soát đã cố tình che dấu những hình ảnh sống động ở Vận động trường Blonie.  Trong một vài giây đồng hồ, họ chỉ chiếu rất vội vàng hình ảnh của Giáo Hoàng Gioan Phao-lô, còn hình ảnh của mấy triệu người quy tụ ở đó không hề được chiếu trên màn ảnh TV.  Và người Ba Lan đã nhận ra: chỉ là một sự xảo trá!  Chỉ là một trò đánh lừa dư luận dân chúng, khác hẳn với sự thực mà chính mắt họ đã nhìn thấy.  Các hệ thồng truyền thanh và truyền hình do chính quyền kiểm soát không hề cho biết về hiện tượng lạ lùng do sự có mặt của Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô trong những ngày vừa qua.  Họ không đề cập đến con số mấy triệu người tham dự và lý do tại sao họ đã đến để nghe Gioan Phao-lô.


Người dân Ba Lan đã nhìn thấy sự khác biệt giữa những gì xảy ra và những gì chính quyền Cộng sản muốn cho họ biết.  Điều này hẳn đã làm cho người dân Ba Lan xác định được một điều: Tất cả chỉ là những trò bịp bợm, và chính quyền cũng chỉ là bịp bợm.

Kể từ hôm đó, tất cả những gì mà chính quyền Cộng sản Ba Lan tự gán cho mình đã bắt đầu sụp đổ.  Người dân Ba Lan tự bảo nhau: đã đến lúc tàn rồi...


Tất cả những gì xảy ra đã được đúc kết một cách đầy đủ ý nghĩa qua câu nói của ông Jerzy Turowicz, một người Ba Lan trí thức trong ngành báo chí sau này là một viên chức quan trọng trong chính phủ hậu Cộng sản Ba Lan.  Ông Turowicz đã kể lại biến cố ở Vận động trường Blonie và nói với ông Raymond Flynn thời gian ông này làm Đại sứ Hoa kỳ tại Tòa thánh Vatican: 


"Lịch sử thường ghi rằng Đệ nhị thế chiến kết thúc vào năm 1945.  Điều đó có thể đúng ở nhiều nơi trên thế giới và ở Âu châu, nhưng không phải ở Ba Lan. Lịch sử cũng ghi rằng các chế độ Cộng sản sụp đổ ở Nga và ở Đông âu vào năm 1989.  Điều đó không đúng ở Ba Lan.  Thực ra, Đệ nhị thế chiến và chế độ Cộng sản kết thúc ở Ba Lan vào cùng một thời gian.  Đó là vào năm 1979, khi Giáo Hoàng Gioan Phao-lô trở lại quê hương."  


No comments:

Post a Comment